Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP các BIỆN PHÁP bảo vệ QUYỀN tác GIẢ và QUYỀN LIÊN QUAN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
-  -

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2007 - 2011
Đề tài:
CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ
VÀ QUYỀN LIÊN QUAN THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn:
Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
Bộ môn Tư pháp

Sinh viên thực hiện:
Lê Văn Thẩm
MSSV: 5075145
Lớp: Luật Tư pháp 2 – K33

Cần Thơ, 11/2010

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS


Bộ luật dân sự

Công ty TNHH

Công ty Trách nhiệm hữu hạn

NXB

Nhà xuất bản

SHTT

Sở hữu trí tuệ

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN
QUAN.................................................................................................................9
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền tác giả và quyền liên quan..9

1.1.1. Trên thế giới……………………………………………………………..9
1.1.1.1. Quyền tác giả, quyền liên quan từ những thập niên giữa thế kỷ trở về
trước.………………………………………………………………………...9
1.1.1.2. Quyền tác giả, quyền liên quan trên thế giới từ nửa sau thế kỷ 19 đến
nay…………………………………………………………………………...1
0
1.1.2. Tại Việt Nam
……………………………………………………...
12
1.1.2.1. Giai đoạn từ trước năm
2005.……………………………………….12
1.1.2.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
..…………………………………...15
1.2. Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả ..............................16
1.2.1.Quyền tác giả
……………………………………………………..16
1.2.1.1. Chủ thể của quyền tác giả ……………………………………….17
1.2.1.2. Khách thể của quyền tác giả …………………………………….19
1.2.1.3. Quyền nhân thân ………………………………………………….19
1.2.1.4. Quyền tài sản ..…………………………………………………….20
1.2.2. Quyền liên quan đến quyền tác giả (quyền kề cận) ………………...21
1.2.2.1. Khái niệm …………………………………………………..…….21
1.2.2.2. Chủ thể của quyền liên quan ..…………………………………….21
1.2.2.3. Khách thể của quyền liên quan
………………………………………….21
1.3. Hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và ngoại lệ...........22
1.3.1. Hành vi xâm phạm
……………………………………………...22
1.3.1.1. Hành vi xâm phạm quyền tác giả
………………………………….23



1.3.1.2. Hành vi xâm phạm các quyền liên quan
………………………….24
1.3.2. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không bị coi là xâm phạm
…………………………………………………………………………...24
1.4. Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ...............................................24
1.4.1. Tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ….25
1.4.2. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật
Viêt Nam ……………………………………………………………………25
1.4.2.1. Trước khi có luật SHTT 2005
………………………………………….25
1.4.2.2. Từ khi có Luật SHTT 2005 26
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ
QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN ..............................................28
2.1. Quyền tự bảo vệ........................................................................................28
2.1.1. Khái niệm quyền tự bảo vệ
………………………………………28
2.1.2. Ưu và nhược điểm ……………………………………………………..29
2.1.3. Quyền tự bảo vệ đối với chủ thể quyền tác giả và quyền liên quan ….30
2.1.3.1. Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm
quyền tác giả và quyền liên quan
………………………………………………….30
2.1.3.2. Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành
vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại 32
2.1.3.3. Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm
theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp luật có
liên quan
33
2.1.3.4. Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của mình
34
2.2. Áp dụng biện pháp xử lý xâm phạm để bảo vệ ......................................34
2.2.1. Biện pháp dân sự 34
2.2.2. Biện pháp xử lý hành chính
36
2.2.3. Biện pháp hình sự 38
2.3. Tự bảo vệ thông qua việc thành lập tổ chức quản lý tập thể..................39
2.3.1. Khái niệm quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan 39
2.3.2. Ưu điểm của tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan 40


2.3.3. Sự cần thiết phải có tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên
quan.
42
2.3.3.1. Trong lĩnh vực in và xuất bản sách 43
2.3.3.2. Trong lĩnh vực nhiếp ảnh 44
2.3.3.3. Trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật
44
2.3.3.4. Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh băng đĩa
45
2.3.3.5. Trong lĩnh vực phần mềm máy tính 46
2.3.4. Các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan 47
2.3.4.1. Trung tâm bảo vệ Quyền tác giả Âm nhạc Việt Nam
2.3.4.2. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Việt Nam 51
2.3.4.3. Trung tâm Quyền tác giả Văn học Việt Nam
53
2.3.4.4. Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam56

48


CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN
QUAN.
MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ................................58
3.1.Thực trạng bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan hiện nay................58
3.1.1. Trong lĩnh vực tác phẩm nhiếp ảnh…………………………………….59
3.1.2. Trong lĩnh vực phần mềm máy tính……………………………………60
3.1.3. Trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật…………………………………...62
3.1.4. Trong lĩnh vực xuất bản sách…………………………………………..63
3.1.5. Trong lĩnh vực kinh doanh băng đĩa…………………………………...64
3.2. Nguyên nhân .............................................................................................65
3.2.1. Đời sống kinh tế người dân khó khăn, thu nhập thấp………………….65
3.2.2. Hành vi sao chép lậu, in lậu luôn tạo ra siêu lợi nhuận………………..67
3.2.3. Quyền tác giả, quyền liên quan bị bỏ quên trong thời gian dài………..68
3.2.4. Sự phát triển mạnh mẽ của internet……………………………………71
3.3. Hoàn thiện về bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan và một số đề xuất71
3.3.1. Nên ban hành Luật bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan…………….71
3.3.2. Thành lập thêm một số tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả
…………715
3.3.3. Nâng cao ý thức, kiến thức pháp luật của cá nhân, tổ chức về quyền tác
giả và quyền liên
quan……………………………………………..…………777
3.3.4. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, xử lý vi phạm…………………………...78


3.3.5. Giao lưu tiếp thu kiến thức về bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan với
các nước trên thế giới
80…………………………………………………….70
3.3.6. Bảo vệ quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học, luận văn
tốt nghiệp

……………………………………………………………………811
KẾT LUẬN……………………………………………………………………..84
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
 Lý do chọn đề tài
Quyền tác giả, quyền liên quan không còn là điều mới tại Việt Nam, ngay
từ bản Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận những quyền cơ bản của công dân liên
quan đến quyền tác giả như quyền tự do xuất bản. Và năm 1986, lần đầu tiên
quyền tác giả ở Việt Nam được quy định trong Nghị định 142/HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng.
Nhiều năm qua, do ảnh hưởng của thói quen trong thời gian quá dài không
quan tâm đến chuyện bản quyền nên “vấn nạn” xâm phạm quyền tác giả, quyền
liên quan ngày càng trở nên trầm trọng hơn, làm đau đầu cho giới văn - nghệ sĩ.
Họ là những người phải đầu tư công sức, thời gian, tiền của cho tác phẩm của
mình nhưng trái lại chẳng thu hồi được bao nhiêu, trong khi người không bỏ ra
thì lại thu rất nhiều lợi nhuận và làm cho danh dự, uy tín các tác giả, chủ sở hữu
quyền bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đó là một sự bất công.
Không chỉ thế, hiện nay do sự phát triển một cách nhanh chóng, vượt bậc
của khoa học kỹ thuật hiện đại, đã cho ra đời nhiều phương tiện, công cụ, máy
móc hỗ trợ thêm cho việc xâm phạm, hành vi xâm phạm thì càng lúc càng tinh vi
và có tổ chức. Đặc biệt với sự gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, đã
đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức, bảo vệ tốt quyền tác giả, quyền liên quan
Việt Nam mới có thể phát triển tốt kinh tế trong nước và xứng tầm với các nước
bạn về sở hữu trí tuệ. Nhưng làm sao có thể bảo vệ các quyền đó một cách tốt
nhất và hiệu quả nhất, khi tình trạng hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền tác giả,
quyền liên quan còn hạn chế, quy định rải rác, thiếu tính hệ thống và tính thống
nhất thể hiện điển hình trong các quy định về thực thi quyền tác giả. Đó là vấn đề
cần được cải thiện đối với pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của nhà nước

ta về quyền tác giả cũng như quyền liên quan.
Với những vấn đề đặt ra, người viết mong rằng những vấn đề đó sẽ được
nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan, để từ đó thấy rỏ cái cần được phát
huy cũng như hạn chế của pháp luật hiện hành, đồng thời mong muốn góp phần
tham gia vào việc tìm hiểu nhằm từng bước hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ
của nước nhà nói chung, quyền tác giả, quyền liên quan nói rêng. Trong giới hạn
của luận văn và vì thời gian nghiên cứu có hạn nên người viết xin đề cập một
phần trong lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đó là “Các biện pháp bảo vệ
quyền tác giả, quyền liên quan theo pháp luật Việt nam”, để từ đó người viết có
thể tập trung nghiên cứu một cách có hiệu quả nhất”.


 Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu về các vấn đề lý luận của quyền tác giả, quyền liên quan, các
quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp bảo vệ quyền đó. Phân tích sự
cần thiết của việc bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan, đặc biệt là quyền tự
bảo vệ đối với các chủ thể quyền, đồng thời tìm hiểu thực tiễn bảo vệ các quyền
đó hiện nay, cũng như nguyên nhân của hành vi xâm phạm đó. Và cuối cùng là
việc đề xuất trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan. Đây là những mục
tiêu mà người viết cần nghiên cứu trong đề tài.
 Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài, người viết tìm hiểu quy định của pháp luật về
các biện pháp bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan. Nhưng do giới hạn về thời
gian nghiên cứu nên người viết chỉ tập trung nghiên cứu về quyền tự bảo vệ đối
với các chủ thể quyền đó.
 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở quy định của pháp luật, người viết đã liệt kê những quy định
pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan theo pháp luật hiện hành cũng như
các văn bản luật đã bị sửa đổi, bổ sung. Thực hiện theo phương pháp phân tích
các quy định hiện hành, kết hợp với thực tiễn thi hành đối chiếu với luật viết,

tham khảo tài liệu chuyên ngành và tài liệu có liên quan đến vấn đề trên sách,
báo, tạp chí, web…, từ đó đưa ra những nhận định về thực trạng cũng như hướng
hoàn thiện về bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan ở nước ta.
 Bố cục đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung về quyền tác giả và quyền liên quan.
Chương 2. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền tác giả và quyền
liên quan.
Chương 3. Thực tiễn bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan. Một số vướng mắc
và hướng hoàn thiện.


CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền tác giả và quyền liên
quan
1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Quyền tác giả, quyền liên quan từ những thập niên giữa thế
kỷ 19 trở về trước
Ở thời kỳ Cổ đại và thời kỳ Trung cổ chưa có khái niệm quyền tác giả hay
quyền liên quan, người ta chỉ biết đến quyền cho một tác phẩm trí tuệ, các quy
định luật pháp chỉ có cho những vật mang tác phẩm trí tuệ, đặc biệt là về sở hữu
(ví dụ như là không được phép trộm cắp một quyển sách). Nhưng ở hai thời kỳ
này đã có những dấu hiệu tiền đề cho việc hình thành và phát triển của quyền tác
giả và quyền liên quan, chẳng hạn như việc không được phép trộm cắp một
quyển sách thì lại được phép chép lại từ quyển sách đó, điều này cũng tương tự
như việc cho phép photocopy một bản sao phục vụ cho việc nghiên cứu học tập
theo quy định của pháp luật hiện hành. Hay việc nhiều nghệ sĩ, nhiều tác giả cùng
làm việc trong một đề tài là một trường hợp bình thường, việc các nhạc sĩ khác
lấy hay thay đổi các bài hát và tác phẩm âm nhạc, trường hợp này cũng giống

như “đồng tác giả 1”, theo quy định của pháp luật.
Khoảng năm 1440 khi công nghệ in ra đời, việc in ấn bắt đầu thuận lợi
hơn, những người làm ra tác phẩm vui mừng vì tác phẩm của họ không những
được in, xuất bản một cách dễ dàng mà nhà in hay nhà xuất bản còn trả cho một
số tiền cho bản viết tay. Tuy nhiên, quyền tác giả của họ chưa có nên việc in đầu
tiên bị các nhà in khác in lại. Việc này làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc kinh
doanh của nhà in đầu (vì họ đã tốn chi phí nhiều hơn so với người in lại). Điều đó
đặt ra yêu cầu quyền của người in đầu tiên phải được bảo vệ, vì thế các nhà in đã
xin các quyền lợi đặc biệt từ phía chính quyền, cấm in lại một tác phẩm ít nhất là
trong một thời gian nhất định.
Khi bắt đầu thời kỳ Phục hưng, cá nhân con người và các quyền thuộc về
cá nhân trở nên quan trọng hơn, chẳng hạn “đặc quyền tác giả” cũng được ban
phát để thưởng cho những người sáng tạo ra tác phẩm của họ, giữa thế kỷ 16 các
đặc quyền lãnh thổ được đưa ra, cấm in lại trong một vùng nhất định trong một
1

Theo khoản 1, Điều 736 BLDS: trong trường hợp có hai người hoặc nhiều người cùng sáng tạo ra tác
phẩm thì những người đó là các đồng tác giả.


thời gian nhất định, như thế quyền tác giả bắt đầu được định hình và xem trọng.
Tuy nhiên, điều này chưa mang lại cho tác giả một lợi ích kinh tế nào.
Đến thế kỷ 18, lý thuyết về các quyền giống như sở hữu cho lao động trí
óc mới ra đời. Dưới ảnh hưởng của nó, nhiều quốc gia mới thật sự quan tâm đến
quyền tác giả. Họ xem đây như một dạng sở hữu “phi vật chất”. Ví dụ, Statue of
Anne một đạo luật của nước Anh năm 1710 đã công nhận độc quyền sao chép
của tác giả, Propriété littéraire et artistique (Sở hữu văn học và nghệ thuật), được
đưa ra trong hai bộ luật vào năm 1791 và 1793 tại Pháp, vào năm 1837 tại nước
Phổ. Cũng vào năm 1837 việc bảo vệ quyền tác giả được bắt đầu.
1.1.1.2. Quyền tác giả, quyền liên quan trên thế giới từ nửa sau thế kỷ

19 đến nay
Từ nửa sau thế kỷ 19, quyền tác giả, quyền liên quan được quy định trên
thế giới ở nhiều Hiệp định, và cho đến nay quy định về quyền tác giả, quyền liên
quan từng bước càng thêm hoàn thiện.
Hiệp định về quyền tác giả đầu tiên là Công ước Berne 1886 về bảo hộ
các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Công ước Berne được thông qua ngày 9 tháng
1886, hoàn thiện tại Paris năm 1896, chỉnh lý tại Berlin năm 1908, hoàn thiện tại
Berne năm 1914, chỉnh lý tại Rome năm 1928, tại Bỉ năm 1948, tại Stockholm
năm 1967, tại Paris năm 1971, và bổ sung năm 1979 ở Liên hiệp Berne 2.
Từng là một tổ chức mà khởi đầu là của nhiều nước Châu Âu, Công ước Berne
quy định việc bảo hộ phải được mở rộng đến tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực
văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kể hình thức thể hiện của nó là gì. Việt Nam
nộp đơn tham gia Công ước vào ngày 26 tháng 7 năm 2004, và ba tháng sau đó,
Công ước Berne chính thức có hiệu lực tại Việt Nam. Hiệp định có liên quan đến
Công ước Berne là Thỏa ước Trips, hai Hiệp định phụ thuộc vào nhau, cụ thể
Điều 9.1 Thỏa ước Trips bắt buộc các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế
giới “tuân thủ từ Điều 1 đến Điều 21 Công ước Berne năm 1971 và Phụ lục kèm
theo”, ngược lại nguyên tắc đối xử quốc gia theo Công ước Berne được thông
qua bởi Điều 3 Thỏa ước Trips. Ngoài ra các quy định về quyền tác giả của Thỏa
ước TRIPS mở rộng đến nhiều quy định cơ bản của Công ước Berne. Ví dụ Điều
10.1 quy định rằng “các chương trình máy tính, cho dù là nguồn hay là hệ thống
mã số, sẽ được bảo hộ như các tác phẩm văn học theo Công ước Berne năm
1971”.

2

Gs Michael Blakeney, Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary, Đại học London - “tài liệu giảng
dạy về sở hữu trí tuệ”, trang 30



Tiếp theo Công ước Berne là Công ước toàn cầu về quyền tác giả 1952,
được chỉnh lý tại Paris năm 1971.
Được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, tổ chức Unesco mới thành lập đã triệu tập hàng loạt
các cuộc họp trù bị giữa những năm 1947 và 1951, tại đó các dự thảo của Công
ước toàn cầu về quyền tác giả (UCC) đã được xem xét. Trong Hội nghị Ngoại
giao được tổ chức tại Geneva từ ngày 18 tháng 8 đến ngày 6/9/1952, các dự thảo
của Công ước toàn cầu về quyền tác giả được thông qua. Không như Công ước
Berne, Công ước toàn cầu về quyền tác giả không chứa đựng danh mục chi tiết
các tác phẩm được bảo hộ. Tuy không có một liên minh nào được thành lập theo
Công ước toàn cầu về quyền tác giả, nhưng đã thành lập một Ủy ban liên chính
phủ để nghiên cứu việc thực thi Công ước và chuẩn bị cho sự chỉnh lý định kỳ
đối với Công ước này.
Đến năm 1961, Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm và các tổ chức phát sóng ra đời (hay còn gọi là Công ước Rome).
Công ước Rome có hiệu lực từ 26/10/1961. Lần đầu tiên, Công ước này mở rộng
việc bảo hộ quyền tác giả từ tác giả của tác phẩm cho đến những người sáng tạo
và chủ sở hữu của các trình diễn dưới dạng vật chất đặc thù của sở hữu trí tuệ,
như các băng ghi âm, cacsett hoặc đĩa DVD. Việt Nam gia nhập và Công ước
Rome có hiệu lực ngày 1 tháng 3 năm 2007.
Sự ra đời của Công ước Rome chưa đủ hiệu lực để bảo hộ đối với bản ghi
âm và chưa phù hợp với một số đặc thù về hệ thống pháp luật của một số quốc
gia, nên nhiều quốc gia không thể gia nhập Công ước này được. Điều này đặt ra
nhu cầu cần có một Công ước điều chỉnh phù hợp với tình hình mới. Ngày 29
tháng 10 năm 1971, Công ước bảo hộ bản ghi âm chống lại hành vi sao chép, gọi
tắt là Công ước Geneva được thông qua tại Geneva. Việt Nam gia nhập Công
ước này vào ngày 6 tháng 7 năm 2005.
Nhằm bổ sung cho việc bảo hộ mà quy định Công ước Rome, cũng như
Công ước Geneva một cách có hiệu quả, ngày 21/5/1974, Brussels - Công ước về
phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (hay Công ước Vệ
tinh) đã được thông qua tại Bỉ. Việt Nam gia nhập và Công ước có hiệu lực chính

thức ngày 12 tháng 1 năm 2006. Quyền tác giả, quyền liên quan không chỉ được
phát triển dừng lại ở đó, tại Hội nghị Ngoại giao Wipo về các vấn đề quyền tác
giả và quyền kề cận tại Geneva ngày 20/12/1996 Hiệp định Wipo về quyền tác
giả và Hiệp định Wipo về trình diễn và các bản ghi âm đã được thông qua.
Những năm gần đây, trong các cuộc thảo luận về việc quyền tác giả “phải
phản ứng như thế nào trước các phát triển kỹ thuật hiện tại đều tương tự như


nhau trên toàn thế giới”. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tham gia ký kết
Điều ước quốc tế và có những quy định tương tự nhau về quyền tác giả, quyền
liên quan. Trong số đó cũng có một vài quốc gia có quy định khác về quyền tác
giả, quyền liên quan. Đây có thể coi là lợi thế không công bằng vì những quốc
gia có quy định khác đó, họ chỉ có một phạm vi tự do hạn hẹp trong việc định
hình cho quyền tác giả, không được các đối tác thương mại thế giới chấp nhận
mà không có phản ứng chống lại. Trong khi đó, Mỹ là quốc gia có phạm vi tự do
rộng lớn nhất và định sẵn chiều hướng chung của quyền tác giả, đi đến việc bảo
vệ quyền tác giả một cách nghiêm ngặt hơn.
Ở Châu Âu, Liên minh châu Âu đã đưa ra nhiều chỉ thị để thống nhất
quyền tác giả trong toàn Liên minh châu Âu. Ví dụ, Chỉ thị phần mềm
(91/259/EWG) ra đời vào năm 1991 quy định các chương trình máy tính được
bảo vệ như là các tác phẩm văn học theo ý nghĩa về quyền tác giả, hoặc Chỉ thị
về hòa hợp thời gian bảo vệ quyền tác giả và một số quyền bảo vệ có liên quan
(còn gọi là Chỉ thị về thời gian bảo vệ) được thông qua vào năm 1993.
Với Chỉ thị quyền tác giả của Liên minh châu Âu (Chỉ thị 2001/29/EG) các quy
định luật pháp châu Âu về quyền tác giả được nâng lên cùng với thời đại số và
các định ước quốc tế được thực hiện thông qua các hiệp định của Tổ chức Sở hữu
trí tuệ thế giới (WIPO). Một số quốc gia cũng hưởng ứng tích cực theo Chỉ thị,
cụ thể bắt đầu từ ngày 13 tháng 9 năm 2003 một quyền tác giả được sửa đổi có
hiệu lực tại Đức, tại Áo việc thực hiện EUCD đã có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7
năm 2003. Trong thời gian gần đây, IP-Enforcement Directive của Liên minh

châu Âu là bước kế tiếp trong hướng đi đến thắt chặt hơn nữa các luật lệ về
quyền tác giả. Việc hoàn toàn hủy bỏ quyền được phép có bản sao dùng cho mục
đích cá nhân đang được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) yêu cầu và
sau đó là việc truy tìm cứng rắn hơn các vi phạm về quyền tác giả 3.
1.1.2. Tại Việt Nam
1.1.2.1. Giai đoạn từ trước năm 2005
Trong bối cảnh nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành các đạo luật về
quyền tác giả từ vài chục năm nay hoặc lâu hơn nữa, cùng với sự phát triển
không ngừng của khoa học, công nghệ, mua bán hàng hóa quốc tế, giao lưu văn
hóa giữa các nước ngày càng mở rộng, các đạo luật về quyền tác giả của nhiều
nước vẫn tiếp tục được bổ sung, trong đó có Việt Nam.

3

Http://vi.wikipedia.org/wiki/Quy%E1%BB%81n_t%C3%A1c_gi%E1%BA%A3


Ở Việt Nam, lĩnh vực pháp luật về quyền tác giả được xây dựng trong
những tám mươi. Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật, trong đó có
quy định việc bảo hộ quyền tác giả như Hiến pháp 1992, Luật báo chí, Luật xuất
bản, Bộ luật hình sự… Tuy vậy, trên thực tế việc bảo hộ quyền tác giả được điều
chỉnh chủ yếu trong Nghị định số 142/HĐBT ngày 14/11/1986 quy định về
quyền tác giả. Qua một số năm thực hiện, Nghị định số 142/HĐBT đã tạo tiền đề
pháp lý nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả,
là căn cứ để cơ quan bảo hộ quyền tác giả (nay là Cục Bản quyền tác giả) thực
hiện việc đăng ký quyền tác giả và giải quyết các tranh chấp về tác giả. Tuy
nhiên, trong việc áp dụng thực hiện Nghị định đã bộc lộ một số hạn chế cả về nội
dung lẫn hình thức, hạn chế về nội dung như một số đối tượng của quyền tác giả
chưa được quy định bảo hộ như: chương trình phần mềm máy tính; thời hạn bảo
hộ quyền tác giả còn quá ngắn (30 năm sau khi tác giả chết), chưa có quy định về

bảo hộ các quyền liên quan (quyền của người biễu diễn, của tổ chức sản xuất
băng, đĩa ghi âm, ghi hình và của tổ chức phát thanh, truyền hình). Hạn chế về
hình thức như Nghị định 142/HĐBT là văn bản dưới luật nên bị hạn chế về hiệu
lực thi hành, Nghị định này chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong lĩnh vực
bảo hộ quyền tác giả ở nước ta trong thời kỳ đầu của công cuộc chuyển đổi nền
kinh tế. Đối với nước ngoài, Nghị định 142/HĐBT chưa được coi văn bản có giá
trị pháp lý cao để Nhà nước ta tham gia các hiệp định song phương hoặc đa
phương về quyền tác giả.
Để khắc phục các khiếm khuyết trên của Nghị định số 142/HĐBT, ngày
12/12/1994, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh bảo hộ quyền
tác giả. Với bố cục 7 chương và 47 điều, Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả đã quy
định tương đối đầy đủ và cụ thể những vấn đề về bảo hộ quyền tác giả. So với
Nghị định 142/HĐBT, Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả quy định đầy đủ hơn về
các đối tượng được bảo hộ, bao gồm cả phần mềm máy tính; quy định cụ thể các
quyền của tác giả. Về thời hạn bảo hộ, Pháp lệnh đã tăng thời hạn bảo hộ đối với
quyền tác giả trong suốt cuộc đời của tác giả và 50 năm tiếp theo sau năm tác giả
chết. Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định cụ thể về mốc tính thời hạn bảo hộ đối
với tác phẩm đồng tác giả, tác phẩm di cảo; quy định về các quyền và nghĩa vụ
của người biểu diễn, của tổ chức sản xuất băng, đĩa ghi âm, ghi hình và của tổ
chức phát thanh, truyền hình.
Với sự ra đời của Bộ luật năm 1995, quyền tác giả lần đầu tiên được quy
định tập trung từ Điều 745 đến Điều 779, Chương một Phần thứ sáu trong Bộ
luật dân sự 1995, những quy định này đã kế thừa các quy định còn hợp pháp của


Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả 1994, bên cạnh đó Bộ luật dân sự 1995 đã bổ
sung một số quy định mới so với Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả 4. Sau khi Bộ
luật dân sự 1995 ra đời, theo đó hàng loạt luật, văn bản dưới luật cũng như các
hiệp ước song phương có liên quan đến quyền tác giả và quyền liên quan được ký
kết ban hành, cụ thể một số văn bản:

- Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ hướng dẫn thi hành
một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự;
- Nghị định số 60/CP ngày 06/06/1997 của Chính phủ hướng dẫn thi hành
các quy định của Bộ luật dân sự có yếu tố nước ngoài;
- Công văn số 97/KHXX ngày 21/8/1997 của Tòa án nhân dân tối cao xác
định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp;
- Vào năm 1997, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký và
Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ký kết Hiệp định về thiết lập quan hệ quyền
tác giả;
- Thông tư số 166/1998/TT-BTC ngày 19/12/1998 của Bộ Tài chính
hướng dẫn chế độ thu lệ phí đăng ký quyền tác giả;
- Nghị định số 72/2000/NĐ-CP ngày 05/12/2000 của Chính phủ về công
bố, phổ biến tác phẩm ra nước ngoài;
- Hiệp định thương mại giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Hỳ năm 2000;
- Thông tư số 27/2001/TT-BVHTT ngày 10/5/2001 của Bộ Văn hóa –
Thông tin hướng dẫn thực hiện Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996; Nghị định
số 60/CP ngày 06/6/1997 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số quy định về
quyền tác giả trong Bộ luật dân sự;
- Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT
ngày 05/12/2001 giữa Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Bộ văn hóa – Thông tin hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự
trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại Tòa án nhân
dân tối cao;
- Nghị định số 61/2002/ NĐ-CP ngày 11/6/2002 của Chính phủ về chế độ
nhuận bút;

4


Nhóm tác giả Luật gia: Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Huy Ngát, Nguyễn Bích Ngọc - Bình
luận về quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam - nhà xuất bản Tư pháp, trang 8; 9


- Thông tư liên tịch số 34/2003/TTLT-BVHTT-BXD ngày 24/01/2003 của
Bộ Văn hóa – Thông tin và Bộ xây dựng hướng dẫn về quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc;
- Quyết định số 17/2004/QĐ-BVHTT ngày 05/5/2004 của Bộ văn hóa –
Thông tin ban hành quy chế sao chép tác phẩm tạo hình.
1.1.2.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
Năm 2005 là năm hệ thống pháp luật của nước ta có nhiều chuyển biến
đáng kể, ngày 1 tháng 1 năm 2005 Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực, các quy
định giải quyết các vụ việc dân sự như: “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản,
tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ 5” cũng được Bộ luật
điều chỉnh, giải quyết. Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Bộ luật dân sự đã được Quốc
hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 7. Quyền tác giả, quyền liên quan trong sở
hữu trí tuệ được quy định từ Điều 736 đến Điều 749 Chương 34 Phần thứ sáu của
Bộ luật.
Đến ngày 29 tháng 11 năm 2005 Luật sở hữu trí tuệ được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2006. Luật sở hữu trí tuệ gồm 222 điều
18 chương 6 phần, trong đó quyền tác giả, quyền liên quan và các vấn đề liên
quan đến hai quyền đó được quy định ở Phần hai với 6 chương và 45 điều. Ngoài
ra, quyền tác giả và quyền liên quan cũng được quy định, hướng dẫn ở Nghị định
số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006. Nghị định đã quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành một số điều luật của Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về
quyền tác giả và quyền liên quan.
Luật sở hữu trí tuệ 2005 ra đời, được xem là một bước tiến quan trọng
trong ngành lập pháp nước ta, góp phần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn
bảo hộ và các thủ tục bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách kịp thời,
hiệu quả, công bằng, ít phiền hà và hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí

tuệ ở Việt Nam, cũng như hướng đến việc gia nhập WTO trong một tương lai
gần. Bên cạnh đó, nó đã đánh dấu bước phát triển mới, thể hiện quyết tâm của
Đảng và Nhà nước trong việc thúc đẩy hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại
Việt Nam và hội nhập quốc tế. Đây là một bước tiến dài trong việc bảo đảm thực
thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Có thể nói, với việc thông qua một đạo luật
thống nhất về sở hữu trí tuệ, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam
đã xích lại gần hơn với thế giới. Tuy nhiên, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ vẫn còn diễn ra đối với hầu hết các đối tượng được bảo hộ, trong đó có quyền

5

Khoản 2; 4 Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004


tác giả và quyền liên quan. Nguyên nhân của tình trạng này là nhận thức, hiểu
biết trong công chúng, người có quyền và nghĩa vụ còn hạn chế, ý thức chấp
hành pháp luật chưa cao. Ngoài ra, bản thân Luật sở hữu trí tuệ còn một số tồn
tại, bộc lộ nhiều hạn chế.
Trước tình hình đó, ngày 19 tháng 6 năm 2009 tại kỳ họp thứ 5 khóa XII
của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sở
hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và có hiệu lực ngày 1 tháng 1
năm 2010. Việc sửa đổi bổ sung này tạo thêm sự phù hợp của Luật sở hữu trí tuệ
đối với các chuẩn mực quốc tế, các cam kết của Việt Nam khi tham gia Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) và hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Tiếp theo Luật sở hữu trí tuệ được sửa đổi bổ sung là
Nghị định 47/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ quy định
xử phạt hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan.
Tóm lại, pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan không còn mới ở
Việt Nam nhưng do ảnh hưởng của thói quen trong thời gian quá dài không quan
tâm đến chuyện bản quyền nên việc thực thi các quy định của pháp luật trong

lĩnh vực này vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Ngày nay, Nhà nước ta đã có nhiều cố
gắn khắ phục khó khăn. Tuy kết quả đạt được còn hạn chế, chưa tương xứng với
yêu cầu phát triển và hội nhập, song có thể thấy pháp luật về tác giả của Việt
Nam đã có những bước phát triển nhất định. Trong thời gian tới, việc hoàn chỉnh
hệ thống pháp luật và gia nhập Điều ước quốc tế về quyền tác giả, tăng cường sự
hiểu biết và thực thi pháp luật trong lĩnh vực này là yêu cầu bức thiết nhằm
khuyến khích nội lực sáng tạo và đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế 6.
1.2. Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả
1.2.1. Quyền tác giả
Quyền tác giả hay tác quyền (tiếng Anh gọi là copyright) là độc quyền của
một tác giả cho tác phẩm của người này.
Theo nghĩa khách quan, đây là một chế định pháp luật dân sự, được quy
định trong Bộ luật dân sự và trong các văn bản pháp luật có liên quan, là một
trong ba bộ phận cấu thành của quyền sở hữu trí tuệ (quyền tác giả và quyền liên
quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng). Theo nghĩa chủ
quan, quyền tác giả là quyền của người làm ra tác phẩm hoặc quyền của người có
được tác phẩm một cách hợp pháp và tác phẩm đó được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận và bảo hộ.
6

Nhóm tác giả Luật gia: Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Huy Ngát, Nguyễn Bích Ngọc - Bình
luận về quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam - nhà xuất bản Tư pháp, trang 11


Pháp luật hiện hành đã ghi nhận quyền tác giả được ở mục 1, Chương 34 Phần
thứ sáu Bộ luật dân sự 2005 và được khái niệm cụ thể ở Khoản 2, Điều 4 Luật Sở
hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi bổ sung 2009, đó là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Bên cạnh việc bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa, thí dụ
như các bài viết về khoa học, văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp,

phim và các chương trình truyền thanh… gọi chung là tác phẩm. Đồng thời,
quyền tác giả còn được dùng để bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế
của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm của họ. Hiểu một cách đơn giản,
quyền tác giả cho phép tác giả và chủ sở hữu tác phẩm (gọi chung là chủ thể
quyền tác giả) được độc quyền khai thác tác phẩm, chống lại việc sao chép bất
hợp pháp7. Thí dụ, tác giả một tác phẩm văn học được làm chủ thành quả lao
động trí tuệ của mình, được độc quyền công bố hay xuất bản bài văn của anh ta.
Việc sao chép, phổ biến nội dung tác phẩm mà không có sự đồng ý của tác giả là
xâm phạm quyền tác giả.
Quyền tác giả tự động phát sinh từ thời điểm tác phẩm được định hình
dưới một hình thức vật chất nhất định, bất kể tác phẩm đã công bố hay chưa công
bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký. Theo luật SHTT hiện hành, đối với một tác
phẩm quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
1.2.1.1. Chủ thể của quyền tác giả
Quyền tác giả được trao cho hai loại chủ thể: tác giả và chủ sở hữu.
Tác giả
Quy định ở Điều 736 BLDS, tác giả là người sáng tạo tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học (gọi chung là tác phẩm), hay là người sáng tạo ra tác phẩm
phái sinh từ tác phẩm của người khác, bao gồm tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ
này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn,
chú giải, tuyển chọn là tác giả của tác phẩm phái sinh đó. Tuy vậy, BLDS không
quy định rõ như thế nào gọi là sáng tạo. Theo một số tài liệu, sáng tạo trong quan
hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả được coi là việc sử dụng sức lao động và
khả năng suy xét để tạo ra tác phẩm. Như vậy, sáng tạo là việc tạo ra tác phẩm từ
lao động trí óc. Sao chép lại một quyển sách không gọi là sáng tạo8.
Để được xem là một tác giả, khi đó người sáng tạo phải là người trực tiếp
ra một phần hay toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Pháp luật
hiện hành cũng đã quy định những ai sẽ được xem là tác giả của tác phẩm. Theo
7
8


Ts. Lê Nết, trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh – “Quyền sở hữu trí tuệ - tài liệu bài giảng”, trang 35
Ts. Lê Nết, trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh – “Quyền sở hữu trí tuệ - tài liệu bài giảng”, trang 40


đó, cá nhân Việt Nam có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, hay cá nhân nước
ngoài có tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định tại
Việt Nam, có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam hoặc có tác phẩm
được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam
là thành viên thì đương nhiên họ sẽ là tác giả.
Quy định tác giả phải là người trực tiếp sáng tạo nhưng trực tiếp sáng tạo
không có nghĩa tác giả không có quyền kế thừa sáng tạo của người khác. Một
trong số các trường hợp người dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, sưu tầm,
tuyển chọn những tác phẩm khác cũng được coi là tác giả của tác phẩm họ đã kế
thừa đó. Tuy nhiên, những tổ chức, cá nhân làm công việc hỗ trợ, góp ý kiến
hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công
nhận là tác giả 9.
Bên cạnh khái niệm tác giả chúng ta còn có khái niệm đồng tác giả, đó là
những người cùng trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Có hai loại đồng tác giả. Loại
thứ nhất là những người cùng sáng tạo một tác phẩm thống nhất mà phần sáng
tác của mỗi người không thể tách ra để sử dụng riêng. Loại thứ hai là những
người cùng sáng tạo ra một tác phẩm thống nhất mà phần sáng tác của mỗi người
có thể tách ra để sử dụng riêng. Vị trí của các đồng tác giả lúc này sẽ giống nhau
như vị trí của những chủ sở hữu chung theo phần.
Chủ sở hữu quyền tác giả
Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc
toàn bộ các quyền tài sản đối với quyền tác giả10. Trong đại đa số trường hợp, tác
giả sẽ đồng thời là chủ sở quyền tác giả.
Theo quy định tại điều 27 Nghị định 100/2006/NĐ-CP thì chủ sở hữu
quyền tác giả sẽ thuộc về tổ chức, cá nhân Việt Nam hay là tổ chức, cá nhân

nước ngoài có tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức vật chất nhất
định tại Việt Nam, hoặc có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam,
hoặc có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều ước quốc tế về quyền tác
giả mà Việt Nam là thành viên.
Và khi đó những tổ chức cá nhân này nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các
quyền tài sản của các quyền làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước
công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác
phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô
tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho
9

Khoản 2 Điều 8, Nghị định 100/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006
Điều 36 Luật sở hữu trí tuệ

10


thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính thì đương
nhiên tổ chức, cá nhân đó sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả.
Bên cạnh đó, luật cũng phân định ra nhiều loại chủ sở hữu, có thể dễ dàng
nhận biết chủ sở hữu là tác giả; các đồng tác giả; tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ
cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả. Hay chủ sở hữu quyền tác giả là
người thừa kế; người được chuyển giao quyền; hay cũng có thể chủ sở hữu quyền
tác giả sẽ là Nhà nước. Tùy thuộc vào thời gian bảo hộ tác phẩm, tài chính, cơ sở
vật chất, giao nhiệm vụ sáng tác tác phẩm…, mà sẽ tương ứng với từng chủ sở
hữu khác nhau.
1.2.1.2. Khách thể của quyền tác giả
Khách thể của quyền tác giả là tác phẩm - được nói dưới gốc độ là đối
tượng của quyền tác giả. Tác phẩm ở đây bao gồm các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học, được bảo hộ quy định ở Khoản 1, Điều 14 Luật SHTT, được

hướng dẫn chi tiết ở Nghị định 100/NĐ-CP từ Điều 9 đến Điều 18, điển hình như
tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được
thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; bài giảng, bài phát biểu và bài nói
khác; tác phẩm báo chí; tác phẩm âm nhạc; chương trình máy tính, sưu tập dữ
liệu…. Ngoài ra còn có tác phẩm phái sinh của các tác phẩm quy định trên,
nhưng tác phẩm phái sinh đó chỉ được coi là khách thể của quyền tác giả khi nó
không gây hại đến quyền tác giả.
Nói tóm lại, khách thể của quyền tác giả là tác phẩm mà tác phẩm đó là
sản phẩm sáng tạo thể hiện tính cách riêng của tác giả trong lĩnh vực văn học,
nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào.
1.2.1.3. Quyền nhân thân
Trong bảng Hiến pháp hay trong một số ngành Luật đều có quy định
“quyền bất khả xâm về đời tư an toàn điện tín, thư tín hay quyền tự do nghiên
cứu - sáng tạo…”, như vậy pháp luật đã trao cho cá nhân một quyền nhất định.
Đó là quyền nhân thân.
Đối với Luật SHTT, quyền nhân thân gọi cách khác là “quyền tinh thần”,
là một trong hai bộ phận hợp thành quyền tác giả, bao gồm quyền nhân thân
không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản, đây là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác ngoại trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác11.

11

Đ i ều 24 , BLDS 2005


Luật đã liệt kê một cách khá đầy đủ về quyền nhân thân của tác giả. Theo
đó, đây là một tập hợp các quyền nhằm bảo vệ các lợi ích tinh thần của tác giả,
bao gồm các quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác
phẩm; quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử

dụng; công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; và quyền
bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc
xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy
tín của tác giả.
Đối với tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm, có các tác phẩm
mà mình sáng tạo sẽ có các quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút
danh trên tác phẩm; bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, cho phép hoặc không cho phép
người khác sửa đổi nội dung của tác phẩm. Và với chủ sở hữu tác phẩm không
đồng thời là tác giả thì lại có các quyền tương tự, đó là công bố, phổ biến tác
phẩm, cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm thuộc quyền sở hữu của
mình, trừ trường hợp giữa tác giả và chủ sở hữu có thoả thuận khác12…. Đặc biệt,
chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả không có quyền đặt tên cho tác
phẩm.
1.2.1.4. Quyền tài sản
Quyền tài sản của tác giả là một bộ phận của quyền tác giả, là tập hợp các
quyền nhằm bảo vệ lợi ích được khai thác hoặc tham gia vào quá trình sử dụng,
khai thác các giá trị kinh tế của tác phẩm của tác giả13. Cùng với quyền nhân thân
hợp thành quyền tác giả.
Theo luật Việt Nam, quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng và quyền được
hưởng thù lao giải thưởng. Đó là các quyền làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác
phẩm trước công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc
bản sao tác phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu
tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào
khác; và quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình
máy tính.
Thông thường, đối với tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các
quyền như được hưởng nhuận bút, thù lao khi tác phẩm được sử dụng hoặc được
hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác phẩm dưới các hình
thức như xuất bản, tái bản, truyển lãm, biểu diễn, ghi âm, ghi hình, cho thuê…,
12


Điều 19 Luật SHTT, Điều 22 Nghị định 100/NĐ-CP
Nhóm tác giả Luật gia: Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Huy Ngát, Nguyễn Bích Ngọc Bình luận về quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam - nhà xuất bản Tư pháp, trang 51
13


và quyền được nhận giải thuởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả. Còn tác giả
không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm thì các quyền của họ được hưởng ít hơn,
đa số là quyền được hưởng thù lao, quyền được hưởng nhuận bút.
Và đối với chủ sở hữu không đồng thời là tác giả thì chủ yếu được hưởng
các lợi ích vật chất từ việc sử dụng tác phẩm dưới nhiều hình thức chẳng hạn như
cải biên, phóng tác, cho thuê…14.
Như vậy, cả Luật SHTT 2005, sửa đổi bổ sung 2009 và Bộ Luật dân sư
2005, hay các Nghị định hướng dẫn thi hành đều chưa đưa ra khái niệm thế nào
là quyền tài sản của tác giả mà chỉ liệt kê các quyền tài sản của quyền tác giả.
1.2.2. Quyền liên quan đến quyền tác giả (quyền kề cận)
1.2.2.1. Khái niệm
“Liên quan” – đây là một cụm từ thể hiện sự phụ thuộc và sự tồn tại song
song của một quyền đối với quyền tác giả. Cụm từ này đặt ra phải có một thực
thể tồn tại độc lập thì mới xuất hiện thực thể khác liên quan tới nó. Khoản 3 Điều
4 Luật sở hữu trí tuệ quy định đây là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc
biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang
chương trình được mã hóa”.
Có ba loại quyền liên quan đến quyền tác giả:
 Quyền của nghệ sỹ biểu diễn đối với các trình diễn của họ.
 Quyền của người sản xuất bản ghi âm đối với các bản ghi âm của họ.
 Quyền của tổ chức phát sóng đối với các chương trình phát thanh hoặc
truyền hình của.
1.2.2.2. Chủ thể của quyền liên quan
Chủ thể của quyền liên quan được liệt kê gồm ba nhóm, đó là người biểu

diễn; nhà sản xuất bản ghi âm ghi hình và tổ chức phát sóng. Có thể dễ dàng
nhận thấy các quyền của ba chủ thể này mang tính chất bổ trợ, và cùng tồn tại với
quyền tác giả. Ví dụ, nếu tác giả sáng tạo ra một tác phẩm (bài hát) mà không có
người biểu diễn thì tác phẩm ấy không thể đến được với công chúng, tương tự
một bài hát của ca sỹ cũng không thể nào được mọi người biết đến nếu không có
nhà xuất bản ghi âm ghi hình, hay tổ chức phát sóng.
Do đó, hoạt động của nhà sản xuất bản ghi âm ghi hình, của tổ chức phát
sóng đóng vai trò quan trọng để tác phẩm được phổ biến rộng rãi.
1.2.2.3. Khách thể của quyền liên quan

14

Điều 22 Luật SHTT, Điều 23 Nghị định 100/2006/NĐ-CP


Cũng giống như quyền tác giả, chỉ những đối tượng được pháp luật bảo hộ
thì mới được xem là khách thể của quyền đó, nếu khách thể của quyền tác giả là
tác phẩm thì khách thể của quyền liên liên có khác hơn, đó là những cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình và chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang
chương trình được mã hoá thuộc một trong các trường hợp được bảo hộ theo quy
định tại điều 17 của Luật SHTT hiện hành thì đương nhiên là khách thể của
quyền liên quan. Ví dụ như cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại
Việt Nam hoặc nước ngoài thuộc một trong các cuộc biểu diễn được bảo hộ theo
điều 17 thì đương nhiên cuộc biểu diễn đó là khách thể của quyền liên quan.
1.3. Hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và ngoại lệ
1.3.1. Hành vi xâm phạm
Theo tiến sĩ Lê Nết - trường Đại học Luật TPHCM, xâm phạm là các hành
vi sử dụng tác phẩm hay chương trình biểu diễn nhằm mục đích kinh doanh mà
không có sự đồng ý của chủ thể quyền tác giả, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác. Các hành vi này còn gọi là hành vi ăn cắp bản quyền hay sao chép lậu.

Quyền quan trọng nhất trong các quyền tác giả hay quyền kế cận là quyền
cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm, chương trình biểu diễn của
mình. Nó thể hiện bản chất độc quyền của quyền tác giả và quyền kế cận. Chính
vì vậy mà mọi hành vi sử dụng tác phẩm hay chương trình biểu diễn nhằm mục
đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của chủ thể quyền đều bị coi là xâm
phạm quyền tác giả trừ các trường hợp sử dụng không bị coi là xâm phạm.
Ngày nay, sự phát triển hết sức nhanh chóng của công nghệ thông tin, đặc
biệt là Internet, đã làm cho việc sao chép tác phẩm qua mạng trở nên hết sức dễ
dàng. Không chỉ thế, các công cụ sao chép ngày càng nhiều, tốc độ ngày càng
nhanh và giá thành ngày càng giảm làm vấn đề xâm phạm quyền tác giả ngày
càng trầm trọng.
Xét về khía cạnh nhân thân, những người sao chép, ăn cắp thành quả lao
động sáng tạo của người khác đã xúc phạm đến uy tín của cá nhân và cả của tổ
chức. Xét về khía cạnh kinh tế, hành vi của những người sao chép tác phẩm của
người khác để kinh doanh không phải nộp thuế và trả thù lao công như phí lixăng quảng cáo. Vì vậy họ được lợi bất chính từ thành quả lao động của người
khác15. Các hành vi này xâm hại lợi ích của chủ thể quyền, xâm hại đến những
người trung gian phát hành tác phẩm (nhà xuất bản chẳng hạn), đến những người
tiêu dùng vì mua phải sản phẩm kém chất lượng và nhà nước sẽ bị thất thu thuế.

15

Ts. Lê Nết, trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh – “Quyền sở hữu trí tuệ - tài liệu bài giảng”, trang 46


1.3.1.1. Hành vi xâm phạm quyền tác giả
Một hành vi sử dụng tác phẩm mà không được phép của tác giả xem như
xâm phạm quyền tác giả, cụ thể theo điều 28 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm
2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 thì tổ chức hay cá nhân có các hành vi chiếm
đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; mạo danh tác
giả; công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả hoặc các đồng

tác giả dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác
giả; sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, hay không được phép
của đồng tác giả đó... Tuy nhiên trong số các hợp được xem là xâm phạm quyền
tác giả ở điều luật này, cũng có nhiều trường hợp có ngoại lệ, ví dụ như trường
hợp “sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả,
không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp
luật” thì ngoại lệ của trường hợp này là:
 Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của
cá nhân; sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;
 Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc
minh họa trong tác phẩm của mình, không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng
trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả,
không nhằm mục đích thương mại;
 Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong
các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình
thức nào;
 Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng
dạy;
 Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật
ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác
phẩm đó;
 Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;


Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
Nói tóm lại Luật SHTT đã quy định khá đầy đủ những trường hợp nào
được coi là hành vi xâm phạm, trường hợp nào là không xâm phạm quyền tác
giả. Căn cứ vào đó mà các cơ quan có thẩm quyền cũng như tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả sẽ có những biện pháp nhất định để ngăn chặn sự xâm phạm đó,

đồng thời sẽ có những biện pháp chế tài tương ứng khi phát hiện được hành vi
xâm phạm.


1.3.1.2. Hành vi xâm phạm các quyền liên quan
Không khác nhiều so với hành vi xâm phạm quyền tác giả, khi cá nhân, tổ
chức có những hành vi trái với ý muốn của chủ thể quyền liên quan coi như là
xâm phạm quyền liên quan. Được xem là xâm phạm quyền liên quan, khi đó sẽ là
các hành vi thuộc quy định tại điều 35 Luật SHTT hiện hành, đó là các hành vi
như chiếm đoạt, mạo danh, sữa chữa, thay đổi, xuyên tạc, công bố tác phẩm khi
không được sự đồng ý của chủ thể quyền liên quan, sao chép, trích dẫn không
hợp lý…, nói chung là những hành vi không được sự đồng ý của chủ thể quyền
liên quan và pháp luật cũng không cho phép họ thực hiện.
Ví dụ những nhà in lậu đã mạo để xuất bản giáo dục để xuất bản những cuốn
sách giáo khoa kém chất lượng cho học sinh học, đây là một hành vi xâm phạm
quyền liên quan.
1.3.2. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không bị coi là
xâm phạm
Đối với quyền tác giả, những hành vi sử dụng tác phẩm đã công bố không
bị coi là xâm phạm khi hành vi sử dụng tác phẩm đó thuộc một trong các trường
hợp mà pháp luật đã quy định là không xâm phạm ở khoản 1 điều 25 Luật SHTT
hiện hành, hay đó là trường hợp ngoại lệ của hành vi xâm phạm quyền tác giả ở
Điều 28 (hay mục 1.3.1.1). Luật cũng quy định chặt chẽ đối với các trường ngoại
lệ của hành vi xâm phạm quyền tác giả. Theo đó tổ chức, cá nhân sử dụng tác
phẩm thuộc một trong những trường hợp ngoại lệ đó không được làm ảnh hưởng
đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền
của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, đồng thời phải thông tin về tên tác giả và
nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
Đối với các quyền liên quan, các trường hợp ngoại lệ đó là: tự sao chép
một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học của cá nhân; hay nhằm mục đích

giảng dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng đã được công bố để giảng dạy; trích dẫn hợp lý nhằm mục đích cung
cấp thông tin; và đối với tổ chức phát sóng thì họ có thể tự làm bản sao tạm thời
để phát sóng khi được hưởng quyền phát sóng thì không bị coi là xâm phạm. Các
tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm thuộc một trong các quyền ngoại lệ đó cũng
không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và không gây phương hại đến quyền
của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
1.4. Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan


×