Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP điều KIỆN có HIỆU lực của DI CHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.21 KB, 85 trang )

Điều kiện có hiệu lực của di chúc

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Niên khóa: 2010- 2011
Đề tài:

Giáo viên hướng dẫn
PHẠM VĂN KHUÊ

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Sinh viên thực hiện
LƯƠNG THỊ DIỆU ANH
MSSV:5075243
Lớp : Tư pháp 3- K33

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1 Khái quát chung về quyền thừa kế.....................................................................6
1.1.1 Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế....................................................6


1.1.1.1 Thừa kế.............................................................................................6
1.1.1.2 Quyền thừa kế...................................................................................6
1.1.1.3 Mối quan hệ giữa quyền thừa kế với quyền sở hữu..........................7
1.1.2 Khái niệm về quyền sử dụng đất và thừa kế quyền sử dụng đất................8
1.1.2.1 Khái niệm quyền sử dụng đất...........................................................8
1.1.2.2 Khái niệm về thừa kế quyền sử dụng đất........................................10
1.2 Các nguyên tắc của quyền thừa kế...................................................................11
1.2.1 Các nguyên tắc chung của quyền thừa kế................................................11
1.2.1.1 Nguyên tắc bảo hộ quyền thừa kế của cá nhân..............................11
1.2.1.2 Nguyên tắc bình đẳng về quyền thừa kế.........................................12
1.2.2 Nguyên tắc riêng của chế định thừa kế quyền sử dụng đất......................13
1.3 Thời điểm mở thừa kế và địa điểm mở thừa kế...............................................14
1.3.1 Thời điểm mở thừa kế.............................................................................14
1.3.2 Địa điểm mở thừa kế...............................................................................15
1.4 Khái quát về di sản thừa kế..............................................................................16
1.4.1 Khái niệm về di sản thừa kế...................................................................16
1.4.2 Hình thức tồn tại của di sản thừa kế........................................................18
1.4.3 Thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế..........................20
1.5 Thời hiệu khởi kiện về thừa kế.......................................................................21
1.6 Lược sử và sự phát triển của chế định thừa kế quyền sử dụng đất trong pháp
luật Việt Nam........................................................................................................23

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
1.6.1 Giai đoạn từ 1945 đến trước năm 1990...................................................23
1.6.2 Giai đoạn từ năm 1990 đến khi có Bộ luật dân sự năm 1995 (có hiệu lực

1/7/1996)...............................................................................................................25
1.6.3 Giai đoạn từ sau khi có Bộ luật dân sự năm 1995 đến nay......................27
CHƯƠNG 2. THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1 Điều kiện được quyền để thừa kế quyền sử dụng đất......................................29
2.1.1 Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp...................................29
2.1.2 Đất không có tranh chấp.........................................................................31
2.1.3 Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.................31
2.1.4 Trong thời hạn sử dụng đất.....................................................................31
2.2 Người để lại di sản thừa kế..............................................................................33
2.2.1 Cá nhân để thừa kế quyền sử dụng đất....................................................34
2.2.1.1 Quyền để thừa kế của cá nhân được nhà nước giao đất..................35
2.2.1.2 Quyền để thừa kế của cá nhân được nhà nước cho thuê.................36
2.2.1.3 Quyền để thừa kế của cá nhân nhận chuyển quyền sử dụng đất.....37
2.2.2 Thành viên hộ gia đình để thừa kế quyền sử dụng đất...........................38
2.3 Người được quyền hưởng thừa kế..................................................................39
2.4 Thời hiệu khởi kiện về thừa kế quyền sử dụng đất..........................................41
2.5 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất...................41
2.5.1 Các trường hợp tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân...................................................................................43
2.5.2 Tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban
nhân dân................................................................................................................43
2.6 Trình tự, thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất.......................................44
2.6.1 Nơi nộp hồ sơ đăng ký thừa kế................................................................44
2.6.3 Các bước thực hiện................................................................................44
2.6.2 Hồ sơ đăng ký thừa kế............................................................................44

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh



Điều kiện có hiệu lực của di chúc
CHƯƠNG 3.THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ

THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
3.1 Sự tiến bộ của quy định pháp luật hiện hành về chế định thừa kế quyền sử
dụng đất
..............................................................................................................................46
3.2 Một số bất cập trong quy định pháp luật hiện hành liên quan đến chế định thừa
kế quyền sử dụng đất và giải pháp khắc phục........................................................47
3.2.1 Điều kiện được để thừa kế quyền sử dụng đất.........................................47
3.2.2 Ưu tiên chia hiện vật cho thành viên còn lại của hộ gia đình đối với
trường hợp người để thừa kế quyền sử dụng đất là thành viên của hộ gia đình....49
3.2.3 Chế độ pháp lý của di sản thừa kế là quyền sử dụng đất khi hết thời hiệu
khởi kiện...............................................................................................................50
3.2.4 Các vấn đề liên quan đến thời hiệu khởi kiện về thừa kế........................54
3.2.4.1 Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là quá ngắn.........................54
3.2.4.2 Các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
(tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 02/2004).......................................56
3.2.4.3 Quy định việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP là thiếu cơ sở khoa học............................58
3.2.5 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất...........60
3.2.5.1 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án theo lãnh thổ..........60
3.2.5.2 Phân biệt thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng
đất giữa Ủy ban nhân dân với Tòa án nhân dân.....................................................62
KẾT LUẬN..........................................................................................................65

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê


Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc

LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào vấn đề thừa kế cũng có một vị
trí quan trọng trong các chế định pháp luật. Vì khi con người tạo ra tài sản thì họ
muốn để lại những tài sản đó cho thế hệ sau của mình hay cho những người mà họ
yêu thương. Chính điều đó đã tạo nên động lực thúc đẩy con người lao động và
sản xuất để tạo nên của cải vật chất. Chính vì vậy nên thừa kế trở thành nhu cầu
không thể thiếu đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội.
Thừa kế được xem là một quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến
pháp.
Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Trong
giai đoạn hiện nay khi số lượng tài sản và giá trị tài sản của cá nhân càng trở nên
phong phú và đa dạng thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều tranh chấp
hơn. Pháp lệnh thừa kế năm 1990 quy định những vấn đề về thừa kế và BLDS
1995 cũng có những quy định điều chỉnh vấn đề về thừa kế. Trong quá trình thực
thi pháp luật còn phát hiện nhiều bất cập nên BLDS 2005 đã sửa đổi và bổ sung
những quy định mới để hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật về thừa kế.
Thừa kế là việc một người để lại tài sản của mình cho người được hưởng thừa kế
sau khi người đó chết. Thừa kế bao gồm: Thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo
di chúc. Thừa kế theo di chúc là việc một người muốn định đoạt tài sản của mình
sau khi chết bằng cách lập di chúc và tài sản của người đó sẽ được phân chia theo
di chúc. Trong trường hợp người chết không để lại di chúc thì di sản của họ sẽ
được chia thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên cũng có những trường hợp một người
lập di chúc để định đoạt tài sản nhưng di chúc của họ không có giá trị pháp lý vì
không tuân thủ theo quy định của pháp luật về điều kiện về hình thức của di chúc

và nội dung di chúc, tạo nên những tranh chấp, mâu thuẫn trong việc phân chia di
sản thừa kế. Hơn nữa di chúc phản ánh ý chí của người lập di chúc đối với tài sản
của họ, nhưng khi di chúc không có hiệu lực thì tài sản đó được phân chia theo
pháp luật, lúc đó ý chí của người lập di chúc không được thực hiện. Chính vì thế

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
nên người viết đã chọn đề tài “ Điều kiện có hiệu lực của di chúc” để nghiên cứu
và làm rõ những quy định của pháp luật đối với vấn đề thừa kế nói chung và thừa
kế theo di chúc nói riêng, Trong phạm vi đề tài luận văn, người viết chỉ đề cập đến
vấn đề thừa kế theo di chúc và điều kiện để di chúc có hiệu lực. Trong thực tiễn thì
các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc còn có những cách
hiểu khác nhau, dẫn đến việc thực thi pháp luật gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc
nghiên cứu nhằm làm rõ những quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc và
điều kiện có hiệu lực của di chúc là điều cần thiết.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nội dung luận văn không nghiên cứu toàn diện những quy định của pháp
luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng mà chỉ tập trung làm rõ
điều kiện có hiệu lực của di chúc. Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra những quy định
phù hợp với quan hệ thừa kế theo di chúc và điều kiện có hiệu lực của di chúc
trong BLDS 1995, những điểm tiến bộ mà BLDS 2005 kế thừa và phát triển. Qua
nghiên cứu đề tài, người viết muốn phân tích lý luận về vấn đề thừa kế theo di
chúc và thực tiễn áp dụng pháp luật về thừa kế, từ đó rút ra những vấn đề còn tồn
tại, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện có hiệu lực của
di chúc. Tuy nhiên với kiến thức của một sinh viên thì đề tài nghiên cứu còn có
nhiều hạn chế và cần sự đóng góp ý kiến của thầy cô cũng như những bạn quan

tâm đến đề tài này để đề tài hoàn thiện hơn.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Qua việc phân tích nội dung của luật và các văn bản pháp luật có liên quan
đến vấn đề thừa kế theo di chúc và điều kiện có hiệu lực của di chúc từ đó
làm rõ hơn vấn đề lý luận của điều kiện có hiệu lực của di chúc.
 Cập nhật những thông tin liên quan đến vấn đề thừa kế theo di chúc, tranh
chấp thừa kế theo di chúc thông qua các kênh thông tin như báo chí, tạp chí
pháp lý, tạp chí khoa học, wesite v.v…

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
 Một số vụ án giải quyết tranh chấp trong thực tiễn đời sống về điều kiện có
hiệu lực của di chúc cũng được sử dụng chọn lọc để đề tài nghiên cứu toàn
diện và sâu sắc hơn.
4. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Bố cục đề tài luận văn gồm có ba phần : Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết
luận. Trong đó phần nội dung gồm ba chương.
Chương 1: Một số lý luận chung về di chúc và thừa kế theo di chúc
Chương 2: Các điều kiện có hiệu lực của di chúc
Chương 3: Thực trạng trong việc giải quyết tranh chấp về tính hợp pháp của di
chúc và kiến nghị để hoàn thiện quy định pháp luật vế tính hợp pháp của di chúc.
Chương 1: Một số lý luận chung về di chúc và thừa kế di chúc
1.1 Khái niệm về quyền thừa kế
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm móng và xuất hiện
ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người.Việc thừa kế nhằm di chuyển tài
sản của người chết cho những người còn sống dựa trên quan hệ huyết thống và tuỳ

theo những phong tục tập quán riêng mà có những quy định khác nhau về vấn đề
thừa kế.
Một người khi sở hữu tài sản thì theo tâm lý chung họ sẽ muốn tạo tích luỹ
thêm nhiều tài sản hơn nữa. Giả sử nhà nước quy định cá nhân phải giao trả các tài
sản lại cho nhà nước sau khi chết, lúc đó cá nhân sẽ cảm thấy không có lợi ích gì,
lúc đó họ sẽ lười đầu tư, lười tạo ra tài sản và bảo quản tài sản, nhưng lại tiêu dùng
tài sản một cách tham lam. Như vậy xã hội sẽ không phát triển bởi con người
không có động lực để tạo ra tài sản và giữ gìn tài sản do chính mình tạo ra. Vì thế
mới thấy được sự cần thiết và quan trọng của việc công nhận quyền sở hữu và
quyền thừa kế, lúc đó mới kích thích cá nhân tạo ra tài sản bởi niềm tin rằng tài
sản do chính họ tạo ra khi còn sống, sau khi chết tài sản đó sẽ được kế tục bởi
chính những người yêu thương của họ. Chính vì vậy, quyền thừa kế là một chế
định pháp lý cần thiết cho việc gia tăng và bảo toàn của cải trong xã hội, tạo sự
phát triển cho xã hội.

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật, xuất hiện đồng thời với quan hệ
sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Mặt khác quan
hệ sở hữu là quan hệ giữa người với người về việc chiếm hữu của cải vật chất
trong xã hội, trong quá trình sản xuất lưu thông phân phối của cải vật chất. Sự
chiếm hữu vật chất này thể hiện giữa người này với người khác, giữa tập đoàn
người này với tập đoàn người khác, đó là tiền đề đầu tiên làm xuất hiện quan hệ
thừa kế. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, dù chỉ là một nền sản xuất đơn giản
với lao động thô sơ, chủ yếu là hái lượm và săn bắt. Tuy vậy nền sản xuất giản đơn
đó cũng nằm trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Do vậy sở hữu là một

yếu tố khách quan xuất hiện nay từ khi có xã hội loài người và cùng với thừa kế
phát triển cùng với xã hội loài người. Chính vì thế nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
hợp pháp và quyền thừa kế của công dân
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà
nước bảo hộ và Điều 58 Hiến pháp 1992 đã khẳng định điều đó
Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở,
tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc
trong các tổ chức kinh tế khác.
Điều 631 BLDS 2005 quy định về quyền thừa kế của cá nhân
“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản
của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo
pháp luật”
Điều 1 Pháp lệnh thừa kế 1990 quy định về quyền thừa kế của công dân
“Công dân có quyền lập di chúc đề định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản
của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo
pháp luật.”
Thừa kế đều có nghĩa là tiếp nối, tiếp tục. Do đó thừa kế thường được hiểu
là việc người sống thừa hưởng tài sản của người đã qua đời. Việc thừa kế chỉ được
thực hiện khi người để lại tài sản chết. Thừa kế là một quan hệ pháp luật dân sự,
trong đó chủ thể của quan hệ thừa kế bao gồm người để lại di sản và người thừa

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
kế. Người có tài sản đề lại tài sản khi chết gọi là người để lại di sản. Người được
hưởng tài sản của người chết để lại gọi là người thừa kế. Người để lại di sản chỉ có
thể là cá nhân mà không bao giờ là pháp nhân, cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức,

nhưng người thừa kế có thể là cá nhân, hoặc cơ quan Nhà nước hoặc bất kỳ một
chủ thể nào khác nhưng cá nhân hoặc pháp nhân đó phải còn sống và tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế. Thừa kế là quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ thể có
những quyền và nghĩa vụ nhất định. Người có tài sản trước khi chết có quyền định
đoạt tài sản của mình cho người khác nhưng người có quyền nhận di sản có thể
nhận hoặc từ chối việc nhận di sản. Việc dịch chuyển cho người khác những tài
sản của người đã chết được thực hiện căn cứ vào nội dung di chúc do người chết
để lại hay căn cứ theo quy định của pháp luật trong trường hợp không có di chúc
hoặc di chúc vô hiệu.
Căn cứ vào ý chí cuối cùng của người quá cố định đoạt tải sản của mình
trước khi chết thông qua di chúc được lập khi người đó còn sống. Việc thừa kế này
gọi là thừa kế theo di chúc. Cá nhân có quyền lập di chúc để lại tài sản của mình
cho bất kỳ ai kể cả các cơ quan, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế.
Căn cứ theo pháp luật trong trường hợp người quá cố không lập di chúc
hoặc có lập di chúc nhưng người thừa kế theo di chúc từ chối nhận di sản hay di
chúc bị coi là không có giá trị pháp lý thì việc dịch chuyển tài sản căn cứ theo quy
định của pháp luật. Trong trường hợp người để lại di sản chỉ lập di chúc về một số
tài sản, hoặc một phần tài sản này được chuyển cho người thừa kế căn cứ theo di
chúc thì số tài sản còn lại được chuyển cho người thừa kế theo quy định của pháp
luật.
Đối tượng của thừa kế là các quyền tài sản và các tài sản thuộc quyền sở
hữu của người chết để lại. Tuy nhiên một số quyền tài sản gắn liền với nhân thân
của người đã chết thì không thể chuyển giao được cho người thừa kế. Ví dụ: tiền
cấp dưỡng, hưởng trợ cấp mất sức. Ngoài những quyền nói trên thì quyền về tài
sản của người chết để lại như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp cũng được

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh



Điều kiện có hiệu lực của di chúc
quyền chuyển giao cho người thừa kế và được nhà nước bảo hộ theo quy định
pháp luật.
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà
nước bảo hộ. Điều 58 Hiến pháp 1992 đã khẳng định điều đó và Bộ luật dân sự
cũng đưa ra những nguyên tắc chung về thừa kế.
Pháp luật bảo đảm quyền định đoạt tài sản của cá nhân sau khi cá nhân đó
chết thông qua việc lập di chúc, nếu không lập di chúc thì tài sản của họ sẽ được
chia theo pháp luật. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo thừa kế theo pháp luật
cũng sẽ được pháp luật bảo đảm việc hưởng di sản từ người chết. Nhà nước công
nhận quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, vì thế nên mọi tài sản hợp pháp
của cá nhân sẽ trở thành di sản thừa kế khi người đó chết.
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế. Nguyên tắc này cũng được
Điều 52 Hiến pháp 1992 ghi nhận “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”.
Đó cũng là sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự khi xác
lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
Điều 632 . Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân
“Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và
quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Mọi cá nhân không phân biệt nam nữ, tuổi tác, thành phần tôn giáo, địa vị
xã hội đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác và có quyền hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Vợ chồng đều được thừa kế tài sản của nhau,
phụ nữ và nam giới đều được hưởng thừa kế ngang nhau theo quy định của pháp
luật. Con trong giá thú, con ngoài giá thú, con ruột, con nuôi đều có quyền như
nhau trong thừa kế. Nguyên tắc bình đẳng về quyền thừa kế là điều tiến bộ trong
pháp luật Việt Nam hiện hành.
Nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt tài sản bằng di chúc của người có tài
sản. Cá nhân có quyền tự do lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho bất kỳ
ai. Khi người chết để lại di chúc hợp pháp thì việc thừa kế sẽ được tiến hành theo

di chúc, vì di chúc là ý nguyện của người đã chết trong việc phân định tài sản của

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
mình. Tuy nhiên, việc định đoạt tài sản của người lập di chúc cũng bị hạn chế
trong những trường hợp nhất định được quy định tại Điểu 669 BLDS
“Ðiều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng
phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di
sản theo quy định tại Ðiều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di
sản theo quy định tại khoản 1 Ðiều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”
Người lập di chúc có quyền tự do định đoạt tài sản của mình bằng cách lập
di chúc để lại tài sản cho bất kỳ ai. Tuy nhiên, luật cũng quy định trường hợp
ngoại lệ đó là trường hợp con chưa thành niên, con đã thành niên mà không có khả
năng lao động, cha, mẹ, vợ, chồng sẽ được hưởng một suất bằng hai phần ba suất
thừa kế theo pháp luật nếu người lập di chúc không để lại di sản hoặc để lại di sản
ít hơn cho những đối tượng trên. Quy định trên hạn chế phần nào quyền của người
lập di chúc nhưng bảo vệ được lợi ích chính đáng của những người chưa thành
niên hoặc người không có khả năng lao động.
Củng cố, giữ vững tình thương yêu và đoàn kết nội bộ trong gia đình
nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc chung trong quan hệ dân sự. Việc xác lập,
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng

và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp và các giá trị đạo đức của
người Việt Nam. Tinh thần đoàn kết, tương trợ giữa những người trong gia đình
cần được giữ vững kể cả khi một người trong gia đình chết và vấn đề thừa kế được
đặt ra.Với mục đích trên nên pháp luật Việt Nam ngoài việc bảo vệ quyền và lợi
ích của người thừa kế và người được thừa kế pháp luật nước ta còn hướng đến các
giá trị đạo đức trong thừa kế và phân chia tài sản thừa kế. Nguyên tắc này có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật dựa trên

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
quan hệ hôn nhân, huyết thống, trong việc bảo vệ quyền lợi của người chưa thành
niên, người đã thành niên nhưng không đủ khả năng lao động.
Vì vậy, pháp luật Việt Nam ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể
trong quan hệ thừa kế, pháp luật nước ta còn hướng đến các nguyên tắc đạo đức
khác trong thừa kế nhằm xây dựng tình đoàn kết giữa các cá nhân trong gia đình.
1.2 Di chúc và đặc điểm của di chúc
1.2.1 Khái niệm di chúc
Thừa kế là sự chuyển dịch sở hữu bằng hai phương thức. Một là sự định
đoạt theo ý chí cuối cùng của người để lại thừa kế theo di chúc, hai là thừa kế theo
pháp luật. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn, người viết chỉ nghiên cứu
khía cạnh thừa kế theo di chúc. Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản
của người đã chết cho những người còn sống khác theo quyết định của người đã
chết.
Điều 646 BLDS 2005 định nghĩa: “Di chúc là sự thể hiện ý chí cá nhân
nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Di chúc là sự bày tỏ ý chí của một người định đoạt tài sản của mình, toàn

bộ tài sản hoặc một phần tài sản của người đó sẽ chuyển cho ai sau khi người đó
chết. Sự bày tỏ này được thể hiện bằng giấy tờ hoặc bằng lời nói miệng, như là lời
trăn trối, dặn dò trước khi chết. Hành vi bày tỏ ý chí này bằng giấy tờ hoặc bằng
lời nói miệng gọi là lập di chúc.Việc chuyển giao tài sản của người chết cho người
còn sống khác sau khi người đó chết căn cứ theo di chúc do người đó lập ra khi
còn sống gọi là thừa kế theo di chúc. Người được hưởng toàn bộ di sản hoặc một
phần di sản thừa kế theo di chúc được gọi là người thừa kế theo di chúc.
1.2.2 Đặc điểm của di chúc:
Di chúc được hình thành bởi sự bày tỏ ý chí của người lập di chúc chứ
không phải sự gặp gỡ hay thỏa thuận của nhiều ý chí tại một điểm như trong hợp
đồng dân sự. Vì vậy di chúc là một hành vi pháp lý đơn phương, chỉ có sự thể
hiện của một bên là người lập di chúc. Người lập di chúc có quyền chỉ định một
hoặc nhiều người trong di chúc và cho họ hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản của

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
mình. Nếu trong di chúc có nhiều người, mỗi người được hưởng bao nhiêu phụ
thuộc vào ý chí của người có tài sản. Vì thế người có tài sản có quyền chuyển giao
một phần hay toàn bộ tài sản của mình cho một hay nhiều người mà không cần
biết đến ý chí của người thụ hưởng.
Sau khi người lập di chúc chết, người được chỉ định là người thừa kế theo
di chúc sẽ bày tỏ ý chí của mình nhận hay không nhận tài sản của người lập di
chúc để lại. Đây là hành vi pháp lý đơn phương của người thừa kế nhận di sản
theo di chúc.
Không có sự ràng buộc gì giữa người lập di chúc và người được chỉ định là
người thừa kế theo di chúc trong thời gian người lập di chúc còn sống. Vì vậy

trước khi người lập di chúc chết, người thụ hưởng di sản không có quyền đối với
di sản của người lập di chúc, di chúc chỉ thừa nhận cho họ một quyền nào đó đối
với di sản thừa kế sau này. Người thừa kế không thể đảm bảo quyền lợi gắn với tư
cách người được thừa kế bởi vì di chúc có thể được sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ
bỏ. Khoản 1 Điều 662 BLDSVN 2005 quy định: “ Người lập di chúc có thể sửa
đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào”. Di chúc là một hành vi
pháp lý đơn phương của chủ sở hữu, thể hiện ý chí của người để lại di sản lúc còn
sống về việc định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Di chúc chỉ có hiệu lực thi
hành sau khi người lập di chúc chết. Vì vậy, khi còn sống người lập di chúc không
bị ràng buộc bởi di chúc đã lập và có quyền sửa đổi bổ sung, thay thế di chúc đã
lập bằng một di chúc khác lập ra sau đó hoặc có quyền huỷ bỏ di chúc đã lập bất
cứ lúc nào.
1.2.2.1 Di chúc có hiệu lực
Điều 652 BLDSVN 2005 quy định về di chúc hợp pháp
“1.Di chúc được coi là hợp pháp phải đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối,
đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không được trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật.

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được
lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3.Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của Công chứng hoặc chứng

thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực chỉ được coi là hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những
người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm
ngày, kể từ ngày người người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc
phải được công chứng, chứng thực.
Để di chúc được xem là hợp pháp và có giá trị pháp lý thì di chúc phải có
những điều kiện như sau
Người lập di chúc phải ở trạng thái minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc.
Điều kiện minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc là điều kiện đầu tiên và có ý nghĩa
rất quan trọng để di chúc có giá trị pháp lý hay không, nhằm bảo đảm tính chính
xác theo ý chí của người lập di chúc. Tự nguyện là yếu tố quan trọng trong việc
lập di chúc bởi đó là sự thống nhất ý chí và thể hiện ý chí của họ. Lập di chúc là
hành vi của chủ sở hữu định đoạt tài sản của mình nên chủ sở hữu phải nhận thức
được và làm chủ được hành vi đó khi thực hiện quyền định đoạt tài sản của chủ sở
hữu. Người lập di chúc phải hoàn toàn tự nguyện trong việc lập di chúc, không bị
chi phối về tinh thần, tâm lý hoặc thể chất bởi thủ đoạn hay hành vi lừa dối, đe doạ
hay cưỡng ép của người khác mà phải lập di chúc. Người lập di chúc có thể bị lừa
dối bằng những thủ đoạn như làm tài liệu giả để người lập di chúc tin rằng một
người trong diện thừa kế đã chết hoặc mất tích nên không lập di chúc cho người
đó, mà chỉ để lại di sản cho người cố tình làm tài liệu giả đó, hoặc người viết hộ di
chúc cố tình viết vào di chúc những điều không đúng với ý nguyện của người lập
di chúc. Hành vi cưỡng ép, đe doạ bằng cách đánh đập, hành hạ, giam giữ hay doạ

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh



Điều kiện có hiệu lực của di chúc
làm việc mất danh dự, nhân phẩm của người lập di chúc. Di chúc được lập trong
hoàn cảnh bị lừa dối, đe doạ hoặc bị cưỡng ép đều bị coi là bất hợp pháp, di chúc
vô hiệu.
Di chúc có hiệu lực ngoài việc người lập di chúc tự nguyện, không bị
cưỡng ép khi lập di chúc, thêm vào đó nội dung di chúc cũng không được trái
pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Di chúc là một giao dịch dân sự, do đó phải
tuân theo điều kiện để một giao dịch dân sự có hiệu lực thì “mục đích và nội dung
của giao dịch không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Nội dung di chúc là toàn
bộ quyết định của người để lại di sản trong việc định đoạt tài sản thuộc quyền sở
hữu của mình. Trong trường hợp người lập di chúc lập di chúc định đoạt tài sản
thuộc quyền sở hữu của người khác hoặc chỉ định người thừa kế theo di chúc với
điều kiện người đó phải gây thương tích cho người khác hoặc có hành vi gây thiệt
hại về tinh thần, vật chất hay nội dung di chúc vi phạm các quy định pháp luật thì
di chúc đó vô hiệu. Tóm lại về nội dung di chúc thì không được trái pháp luật và
đạo đức xã hội. Để một di chúc có hiệu lực thì không những thoả điều kiện về nội
dung di chúc mà pháp luật còn quy định về hình thức của di chúc, hình thức của di
chúc không được trái quy định của pháp luật.
Trường hợp của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì
luật quy định di chúc của họ phải được lập thành văn bản và phải có sự đồng ý
của cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý trong việc lập di chúc, nếu người này có
tài sản riêng. Sự đồng ý của cha mẹ phải được thể hiện cụ thể trong di chúc bằng
văn bản ở dòng chữ ghi rõ sự đồng ý việc lập di chúc này và có chữ ký của cha,
mẹ hoặc người giám hộ. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười
tám tuổi phải được thể hiện dưới hình thức văn bản, vì vậy người từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi không thể lập di chúc miệng. Nói cách khác, di chúc miệng của họ
thì không có giá trị pháp lý.
Riêng đối với di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người
không biết chữ thì di chúc của họ phải được lập thành văn bản, phải có người làm

chứng và công chứng hoặc chứng thực trong di chúc. Di chúc do người viết hộ

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
phải phản ánh đúng, đầy đủ ý chí của người lập di chúc và phải được đọc lại cho
người lập di chúc nghe hoặc đưa cho người lập di chúc xem lại, sau đó người lập
di chúc sẽ ký hoặc điểm chỉ vào di chúc trước mặt của những người làm chứng.
Trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết thì có thể nhờ người khác
viết và phải có ít nhất hai người làm chứng cho việc lập di chúc. Những người làm
chứng cùng ký vào di chúc, xác nhận việc lập di chúc bằng văn bản và xác nhận
chữ ký của người lập di chúc.
Những quy định trên nhằm bảo vệ quyền lợi của những người bị hạn chế về
thể chất hoặc người không biết chữ nhưng minh mẫn, sáng suốt và hoàn toàn tự
nguyện trong việc lập di chúc.
1.2.2.2 Di chúc có hiệu lực một phần và di chúc vô hiệu
Để di chúc có hiệu lực thì di chúc đó phải thoả điều kiện mà pháp luật quy
định, nếu không thoả tất cả điều kiện trên thì di chúc đó sẽ trở nên vô hiệu hoặc
chỉ có hiệu lực một phần. Trong một số trường hợp di chúc được lập hợp pháp
nhưng không có hiệu lực pháp luật Điều 667 BLDS 2005 quy định về hiệu lực
pháp luật của di chúc.
Điều 667. Hiệu lực pháp luật của di chúc
1. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các
trường hợp sau đây :
a). Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc;

b). Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm
mở thừa kế
Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức
được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế, thì
chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực
pháp luật.

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
3. Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế
không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn
một phần, thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của
các phần còn lại, thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì bản di chúc sau
cùng mới có hiệu lực pháp luật.
Di chúc có hiệu lực được thi hành vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên di
chúc không có hiệu lực thi hành trong những trường hợp sau:
Người thừa kế theo di chúc phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa
kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước
khi người để lại di sản chết và những người chết cùng một thời điểm không được
thừa kế tài sản của nhau. Như vậy, mặc dù người để lại di sản đã lập di chúc cho
một người được hưởng quyền thừa kế toàn bộ di sản mà cá nhân đó đã chết trước
khi người lập di chúc chết, thai nhi sinh ra nhưng không sống được hoặc chết cùng
thời điểm với người lập di chúc (người lập di chúc và người thừa kế di sản cùng bị

tai nạn giao thông và chết vào một thời điểm) thì di chúc đã lập ra không có giá trị
pháp lý. Phần di sản được chỉ định trong di chúc sẽ được chia theo pháp luật.
Trong trường hợp người thừa kế là cơ quan, tổ chức, mà cơ quan, tổ chức
được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế (cơ quan, tổ
chức đó đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản theo quy định của Luật doanh nghiệp).
Trong trường hợp này thì di chúc sẽ không có hiệu lực và phần di sản theo di chúc
đó sẽ được chia theo pháp luật.
Riêng đối với trường hợp có nhiều người cùng thừa kế theo di chúc mà có
người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, cơ quan hoặc tổ
chức được hưởng thừa kế theo di chúc nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế thì phần di chúc có liên quan đến cá nhân, tổ chức đó sẽ trở nên vô hiệu.
Khác với hai trường hợp trên, di chúc sẽ không có hiệu lực pháp luật nếu di
sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế. Khi còn sống

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
người lập di chúc là chủ sở hữu tài sản sẽ được thừa kế. Do vậy, mặc dù đã lập di
chúc nhưng người lập di chúc vẫn có quyền định đoạt đối với tài sản của mình.
Người lập di chúc khi còn sống không bị ràng buộc bởi di chúc mình lập ra, vì vậy
họ có quyền bán, tặng cho hoặc các hình thức định đoạt đối với tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình. Người lập di chúc không bị ràng buộc bởi di chúc của
mình lập ra, vì vậy nếu vào thời điểm mở thừa kế phần di sản đã được người lập di
chúc định đoạt bằng quyết định của mình không còn vào thời điểm mở thừa kế thì
di chúc đó trở nên vô hiệu. Nếu di sản không do người lập di chúc định đoạt
nhưng bị mất đi, bị tiêu huỷ, thì phần di chúc đối với phần tài sản không còn đó
cũng không có giá trị pháp lý. Nếu di sản đề lại cho người thừa kế theo di chúc

còn lại một phần thì phần di chúc đó vẫn có hiệu lực thi hành.
Nếu di chúc có phần không hợp pháp mà phần không hợp pháp không ảnh
hưởng đến các phần khác trong bản di chúc, thì phần không hợp pháp đó không có
hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp người lập nhiều di chúc lập di chúc đối với một tài sản
thì bản di chúc lập sau cùng sẽ có hiệu lực pháp luật, các di chúc trước đó sẽ vô
hiệu. Di chúc hợp pháp sẽ được phân chia vào thời điểm mở thừa kế, phần tài sản
của người lập di chúc sẽ được chuyển giao cho người thừa kế, phần tài sản đó là di
sản thừa kế.
1.3 Khái niệm di sản
Muốn xác định, giải quyết tranh chấp vế thừa kế thì vấn đề đầu tiên cần xác
định đó là vấn đề về di sản thừa kế. Di sản được hiểu là toàn bộ tài sản do người
đã chết để lại. Theo quy định tại Điều 634 BLDS 2005 quy định
“ Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong
tài sản chung với người khác”
Tài sản riêng của người chết là tài sản do người đó tạo nên bằng thu nhập
hợp pháp (như tiền lương, tiền gửi tiết kiệm, tiền thưởng ); tài sản tặng cho được
thừa kế riêng, giấy tờ có giá như trái phiếu, kỳ phiếu, cổ phiếu, tư liệu sản xuất (tài
liệu, công cụ lao động…), tư liệu sinh hoạt (quần áo,vàng bạc,đá quý…).

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác.
Bên cạnh tài sản riêng thì phần tài sản của người chết trong khối tài sản
chung của người khác cũng được xác định là di sản thừa kế. Trong thực tế có
nhiều trường hợp do nhiều người góp vốn để cùng sản xuất kinh doanh, vì vậy nên

có khối tài sản thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người. Nếu một trong những
đồng sở hữu chết thì di sản thừa kế của người chết là phần tài sản thuộc sở hữu của
người đó đóng góp vào khối tài sản chung phần tài sản này bao gồm phần góp vốn
chung với người khác trong sản xuất, kinh doanh. Ngoài phần quyền trong sở hữu
chung theo phần thì một người có thể là đồng sở hữu chung trong khối tài sản
chung hợp nhất. Theo quy định của luật dân sự thì có hai loại sở hữu chung hợp
nhất: sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung không thể phân
chia. Khác với hình thức sở hữu chung theo phần, tài sản của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Vợ chồng
cùng tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người thì có
quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung
đó. Điều 17 Luật hôn nhân gia đình quy định “Khi một bên chết trước, nếu cần
chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi, phần tài sản của người chết được chia
theo quy định của pháp luật về thừa kế”. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu
chung hợp nhất của vợ, chồng, thì khi vợ hoặc chồng chết trước, 1/2 tài sản chung
của vợ chồng sẽ trở thành di sản thừa kế và được chuyển cho người thừa kế theo di
chúc hoặc theo pháp luật. Tuy nhiên đối với sở hữu chung hợp nhất không thể
phân chia thì khi một người mất đi thì tài sản thuộc quyền sở hữu của những chủ
thể còn lại chứ không thể xác định phần di sản thừa kế của người chết.
Di sản trong BLDS 1995 quy định tại Điều 637 có thêm khoản 2.
“Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo
quy định tại Phần thứ năm của Bộ luật này”.
Quyền sử dụng đất có hạn chế nhất định. Việc khẳng định quyền sử dụng
đất trong phần di sản thừa kế có ý nghĩa xác nhận tính thừa kế của nó. Chính vì
việc khẳng định quyền sử dụng đất được để lại thừa kế quy định trong BLDS

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh



Điều kiện có hiệu lực của di chúc
1995, đã có nhiều ý kiến cho rằng quy định quyền sử dụng đất là di sản thừa kế
vậy các quyền về tài sản khác có được coi là di sản không?. Chính vì vậy mà
BLDS 2005 bỏ khoản 2 Điều 637 BLDS 1995 mà chỉ giữ lại khoản 1. Quyền sử
dụng đất được coi gần như là tài sản sở hữu vì người có quyền sử dụng được
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất vv..1
1.4 Quyền của người lập di chúc
Luật quy định về điều kiện đối với người lập di chúc, bên cạnh đó luật cũng
quy định về quyền lợi của người lập di chúc. Điều 648 BLDS 2005 quy đinh về
quyền của người lập di chúc
Người lập di chúc có các quyền sau đây:
1.Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
2.Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
3.Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4.Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
5.Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình,
họ được quyền chỉ định ai là người hưởng di sản của họ sau khi người đó chết. Họ
có thể chỉ định cá nhân hoặc tổ chức, cơ quan Nhà nước hoặc Nhà nước là người
hưởng di sản. Cá nhân được chỉ định là người hưởng di sản không nhất định phải
là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản mà có thể là một người bất
kỳ theo ý chí của người lập di chúc. Đồng thời người lập di chúc cũng có quyền
truất quyền hưởng di sản của những người thừa kế theo pháp luật mà không cần
nêu lý do. Điều đó có nghĩa là trong di chúc người đó có thể chỉ định bất kỳ ai có
quyền thừa kế di chúc và nêu rõ tên những người không được hưởng di sản thừa
kế theo pháp luật.
Trong di chúc, người lập di chúc có thể chỉ định nhiều người thừa kế khác
nhau. Người lập di chúc có quyền phân chia cho mỗi người thừa kế được hưởng
phần di sản bao nhiêu trong di sản của họ. Nếu người lập di chúc cho một người

1 Bình luận những nội dung mới của Bộ luật dân sự của Ts. Đinh Trung Tụng

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
hưởng toàn bộ di sản của mình thì khi chia di sản cũng cần lưu ý đến trường hợp
người lập di chúc có cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên hay con đã thành
niên mà không có khả năng lao động hay không. Nếu có thì phải dành lại một
phần di sản cho họ bởi họ rơi vào trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc được quy định tại Điều 669 BLDS 2005, và họ có quyền hưởng một
phần bằng 2/3 phần di sản của một người đươc chia theo pháp luật.Nếu chỉ định
nhiều người thừa kế theo di chúc thì người lập di chúc có quyền phân định người
thừa kế được hưởng một phần di sản là bao nhiêu trong tổng số di sản mà họ để lại
và phần tài sản mà họ thừa kế không nhất định phải bằng nhau. Ví dụ: Ông A có
một chiếc ô tô và 200 triệu tiền tiết kiệm. Khi lập di chúc ông A chỉ định cho con
trai cả chiếc ô tô, con gái 120 triệu, con út 50 triệu, còn 30 triệu cho tổ chức từ
thiện. Nếu người lập di chúc không phân định rõ phần quyền của người thừa kế,
thì những người thừa kế có quyền hưởng phần tài sản bằng nhau trong khối di sản
thừa kế.
Dành một phần tài sản trong khối di sản để tặng cho người khác sau khi
người lập di chúc chết. Tài sản tặng cho này được gọi là tài sản di tặng. Bên cạnh
đó, người lập di chúc có thể dành một phần tài sản trong khối di sản dùng vào việc
thờ cúng, di tặng, nếu là di sản thờ cúng thì có quyền chỉ định người quản lý di sản
thờ cúng. Di sản này được gọi là di sản thờ cúng và di sản này chịu sự ủy thác của
tất cả các thành viên trong gia đình.
Giao nghĩa vụ cho người thừa kế theo di chúc. Người lập di chúc có thể
giao cho một người hoặc nhiều người thừa kế thực hiện thay cho mình một số

nghĩa vụ mà người đó chưa thực hiện được. Khi xem xét việc lập di chúc giao
nghĩa vụ cần lưu ý
Chỉ những nghĩa vụ không gắn liền với nhân thân, những nghĩa vụ không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì mới được giao cho
người thừa kế. Ví dụ: Giao cho người thừa kế theo di chúc nghĩa vụ trả một món
nợ mà người lập di chúc đã vay khi còn sống hoặc nghĩa vụ về nuôi dưỡng (nuôi
dưỡng cha mẹ già yếu hoặc con còn nhỏ). Tuy nhiên người thừa kế theo di chúc

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản của người chết để lại mà mình
được hưởng. Ví dụ: Người lập di chúc để lại cho người thừa kế một món nợ thì
món nợ đó phải ít hơn hoặc chỉ có thể bằng chứ không thể lớn hơn giá trị di sản
người thừa kế được hưởng. Nếu trong di chúc, người để lại di sản không phân định
rõ phần nghĩa vụ cho những người thừa kế thì những người này phải chịu phần
nghĩa vụ về tài sản tương ứng với di sản thừa kế mà họ được hưởng. Cơ quan, tổ
chức được hưởng thừa kế cũng phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để
lại.2
Để đảm bảo di chúc không bị thất lạc, nhất là sau khi người lập di chúc
chết, người lập di chúc có thể chỉ định trong di chúc người giữ di chúc đó.Thông
thường sau khi người để lại di sản chết một thời gian, di sản mới được phân chia
cho những người thừa kế. Để giữ gìn tài sản không bị hư hỏng, đề phòng trường
hợp tài sản có thể bị người khác tẩu tán, chiếm đoạt, người lập di chúc có thể chỉ
định trong di chúc người quản lý di sản sau khi người lập di chúc chết. Người giữ
di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản có thể là một người hay
nhiều người tuỳ thuộc vào ý chí của người lập di chúc.

Ngoài ra Điều 662 BLDS 2005 cũng quy định
“1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ
lúc nào
2. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần
bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần
bổ sung mâu thuẫn với nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật..
3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thể di chúc bằng di chúc mới thì di
chúc trước bị huỷ bỏ”.
Người lập di chúc không bị ràng buộc bởi di chúc đã lập của mình nên họ
có quyền bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc đã lập bất cứ lúc nào.Trong trường hợp
người lập di chúc bổ sung di chúc, thì di chúc đã lập và phần bổ sung đều có hiệu
lực như nhau, nếu phần di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn với nhau thì chỉ
2 Giáo trình Luật dân sự - Đại học luật Hà Nội.

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
có phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp người lập di chúc thay
thế di chúc đã lập bằng một di chúc mới thì di chúc mới có hiệu lực và di chúc
trước đó bị huỷ bỏ.
Bộ luật dân sự quy định tương đối rộng về quyền của người lập di chúc,
điều đó thể hiện pháp luật Việt Nam tôn trọng quyền sở hữu hợp pháp tài sản của
cá nhân.
1.5 Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế:
Người thừa kế là người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật phải là người có quan hệ hôn nhân, quan
hệ huyết thống, gia đình hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại tài sản. Đối với thừa

kế theo di chúc thì người thừa kế có thể là cá nhân, Nhà nước hoặc pháp nhân, phụ
thuộc vào ý nguyện của người lập di chúc. Người thừa kế theo di chúc là người có
quyền nhận di sản thừa kế do người chết để lại theo sự định đoạt trong di chúc.
Người thừa kế theo di chúc có thể là người trong hàng thừa kế, ngoài hàng thừa kế
hoặc cơ quan, tổ chức kể cả Nhà nước.
Người thừa kế theo di chúc có quyền nhận hoặc từ chối nhận tài sản. Nếu
nhận di sản, thì phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với
phần di sản mà mình đã nhận. Trong trường hợp người thừa kế là Nhà nước, cơ
quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại như là người thừa kế theo cá nhân. Vì vậy, giữa cá nhân, tổ chức,
cơ quan Nhà nước có quyền và nghĩa vụ như nhau trong việc thừa kế di sản theo
di chúc.
Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu nhận di sản thừa kế thì người thừa kế có
quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Theo quy định tại Điều 645 BLDS
2005 thì người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản.
Điều 642 BLDS 2005. Từ chối nhận di sản
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm
trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


Điều kiện có hiệu lực của di chúc
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản, người từ chối phải báo
cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ
quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở
thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng

kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý
nhận thừa kế.”
Theo nguyên tắc chung mọi cá nhân đều có quyền hưởng di sản thừa kế
theo di chúc hoặc theo pháp luật. Ngoài ra, người được thừa kế có quyền từ chối
nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ
tài sản của mình đối với người khác.
Theo quan điểm phong kiến thì các cá nhân có mối quan hệ thân thuộc gần
gũi của người chết có nghĩa vụ nhận di sản và trả các món nợ của người chết lại.
Theo Điều 316 và 376 của Bộ Dân Luật Bắc Kỳ 1931 thì con cháu của người chết,
vợ hay chồng của người chết bắt buộc phải nhận di sản và bắt buộc phải lấy tài sản
riêng của mình mà trang trải các khoản nợ của người chết, không có hạn định nào,
với quy định như trên thì thừa kế lại trở thành nghĩa vụ chứ không phải quyền.
Điều 10 Sắc Lệnh số 97/SL ngày 22-5-1950 không coi việc nhận di sản
thừa kế là một nghĩa vụ và quy định “Con cháu hoặc vợ chồng của người chết
cũng không bắt buộc phải thừa kế người ấy. Khi nhận thừa kế thì các chủ nợ của
người chết cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để lại”. Nói cách khác, thừa
kế là một quyền dân sự và cá nhân có thể tự mình khước từ quyền thừa kế thể hiện
ở việc từ chối nhận di sản.3
Kế thừa và phát triển Điều 10 Sắc lệnh 97/SL ngày 22-5-1950, Điều 642
BLDS 2005 quy định: “Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản”. Việc khước
từ quyền thừa kế phải rõ ràng. Vì vậy, người thừa kế từ chối nhận di sản phải biểu
lộ công khai ý chí của mình, phải báo cho những người thừa kế khác biết, phải báo
cho người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cho công chứng Nhà nước hoặc
3 “Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt nam” của Ts. Nguyễn Ngọc Điện

Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh



Điều kiện có hiệu lực của di chúc
Uỷ Ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế biết về việc từ
chối nhận di sản.Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản, chứ không
thể nói bằng lời nói miệng. việc từ chối nhận di sản phải được bày tỏ trong thời
hạn 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế. Việc từ chối nhận di sản tuy được coi là quyền
của người thừa kế trong thời hạn do luật định nhưng để bảo vệ người có quyền và
lợi ích liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người thừa kế. Bộ luật
dân sự quy định hạn chế trong việc thừa kế nhận di sản của người thừa kế. Đó là
người thừa kế không được từ chối nhận di sản trong trường hợp việc từ chối đó
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Ví
dụ : Người thừa kế đang có món nợ phải trả, hoặc đang phải bồi thường thiệt hại
cho người khác, người này lại viện cớ không có tài sản để thực hiện nghĩa vụ
nhưng lại từ chối quyền hưởng di sản thừa kế để không chịu trả nợ hoặc bồi
thường thiệt hại.
Chính vì vậy, ngoài quyền từ chối nhận di sản luật còn quy định về việc
hạn chế nhận di sản trong một số trường hợp. Sau sáu tháng kể từ thời điểm mở
thừa kế, người thừa kế không từ chối nhận di sản thì có quyền hưởng di sản đồng
thời thực hiện những nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
Điều 637. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người đã chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp di sản chưa được chia, thì nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.
3. Trong trường hợp di sản đã được chia, thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà
mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, Tổ chức hưởng di sản theo di chúc, thì
cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá
nhân”.


Gvhd: Nguyễn Văn Khuê

Svth: Lương Thị Diệu Anh


×