Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP một số vấn đề PHÁP lý về QUYỀN THOẢ THUẬN CHỌN LUẬT áp DỤNG TRONG hợp ĐỒNG MUA bán HÀNG hóa QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 81 trang )

Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 35: 2009- 2012
ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN THOẢ
THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:
Trần Thu Trang
MSSV: 5095481

Ths. Diệp Ngọc Dũng
Bộ môn: Luật Thương Mại

Cần Thơ, 11/2012

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

1

SVTH: Trần Thu Trang




Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ VÀ QUYỀN THỎA THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ............................................... 4
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ . 4
1.1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế......................................... 4
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.................................... 9
1.1.3 Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.......................................12
1.1.4 Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .....................13
1.1.4.1 Điều ước quốc tế ............................................................................13
1.1.4.2 Pháp luật quốc gia .........................................................................14
1.1.4.3 Tập quán thương mại .....................................................................15
1.1.4.4 Án lệ ...............................................................................................17
1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN THỎA THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ...................................17
1.2.1 Quyền chọn luật của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế…17
1.2.2 Nội dung quyền ....................................................................................... 20
1.2.2.1 Phạm vi chọn luật áp dụng .............................................................20
1.2.2.2 Thời điểm lựa chọn luật áp dụng ....................................................20
1.2.2.3 Việc chọn đồng thời nhiều hệ thống pháp luật trong một hợp đồng
..................................................................................................................21
1.2.3 Cơ sở pháp lý xác định tính hợp pháp của thỏa thuận chọn luật ................22

GVHD: Diệp Ngọc Dũng


2

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
1.2.4 Ý nghĩa của quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong sự phát triển của
thời đại ...................................................................................................................24
CHƯƠNG 2: QUYỀN THỎA THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ ........................................................................26
2.1 NHỮNG GHI NHẬN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN THỎA
THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ ..............................................................................................................26
2.1.1 Bộ luật dân sự năm 2005 ..........................................................................27
2.1.2 Luật Thương mại năm 2005 .....................................................................30
2.1.3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 .......................................................31
2.2 SỰ GHI NHẬN CỦA MỘT SỐ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN THỎA
THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ TRONG TƯƠNG QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT VIỆT NAM ..33
2.2.1 Phạm vi quyền chọn luật ..........................................................................34
2.2.2 Việc lựa chọn luật áp dụng không phải luật quốc gia ................................37
2.2.3 Hình thức thể hiện điều khoản chọn luật của các bên trong hợp đồng .......40
2.2.4 Hạn chế quyền chọn luật trong một số hợp đồng nhất định .......................42
2.2.5 Hạn chế sự áp dụng pháp luật được lựa chọn bởi các bên .........................44
CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN THỎA THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ..............................48
3.1 NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN BẢN PHÁP LUẬT .................................................49
3.1.1 Về phạm vi điều chỉnh ..............................................................................49

3.1.2 Việc chọn nhiều hệ thống pháp luật áp dụng cho hợp đồng ......................50
3.1.3 Về hình thức ghi nhận thỏa thuận chọn luật ..............................................52
3.1.4 Về thời điểm chọn luật áp dụng và thay đổi thỏa thuận chọn luật .............53

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

3

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
3.1.5 Vấn đề chọn luật thực chất .......................................................................56
3.1.6 Việc chọn và áp dụng pháp luật nước ngoài và điều ước quốc tế ..............58
3.1.7 Về quan hệ giữa hợp đồng và pháp luật được lựa chọn .............................61
3.2 NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỰC TẾ XÉT XỬ .........................................................62
3.2.1 Mối quan hệ giữa cơ quan tài phán và thỏa thuận chọn luật của các bên
trong hợp đồng .......................................................................................................62
3.2.2 Thực tế áp dụng quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong xét xử ............65
KẾT LUẬN ...........................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

4

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đến nay,
các quan hệ thương mại quốc tế giữa thương nhân trong nước và ngoài nước được
thiết lập ngày càng nhiều và tỷ lệ thuận với nó là số lượng hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, do bản chất của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế liên quan đến hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau, và
hợp đồng này có khả năng được điều chỉnh bởi tất cả các hệ thống pháp luật có liên
quan nên việc xác định luật nào sẽ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế là một trong những vấn đề mà các chủ thể kinh doanh rất quan
tâm.
Là một trong số nhiều nguyên tắc xác định luật áp dụng trong hợp đồng
thương mại quốc tế nói chung, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng, tự do
chọn luật áp dụng được xem như là một quyền của các bên giao kết hợp đồng được
ghi nhận trong quy định pháp luật của nhiều quốc gia và nhiều điều ước quốc tế.
Với mong muốn thực hiện “mở cửa” nền kinh tế, việc ghi nhận quyền chọn luật
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là điều không thể thiếu được trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Những ghi nhận này phần nào đáp ứng được những đòi
hỏi khách quan, tạo đà phiển triển cho quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế, tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho các chủ thể trong và ngoài nước tăng cường giao lưu mua
bán hàng hóa, là cơ sở thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trong nội tại
những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề chọn luật áp dụng trong hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế vẫn còn tồn tại những quy định bất cập, nhiều thiếu
sót, chưa phù hợp với tình hình pháp luật chung của thế giới và đòi hỏi của các nhà
kinh doanh quốc tế, tạo tâm lý lo ngại khi tham gia giao kết các quan hệ mua bán
hàng hóa quốc tế của các chủ thể kinh doanh trong và ngoài nước, kìm hãm sự phát
triển của nền kinh tế nước nhà nói chung, sự phát triển của hoạt động thương mại
quốc tế nói riêng.
Chính vì vậy, để góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế ngoại
thương cũng như đưa hệ thống pháp luật Việt Nam tiến gần hơn đến các chuẩn mực

pháp lý chung của quốc tế, việc hệ thống lại các quy định của pháp luật Việt Nam,

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

5

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
qua đó xác định những quy định còn tỏ ra bất cập, chưa phù hợp hay những vấn đề
còn bị bỏ ngỏ về quyền chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải pháp thực tế nhằm
nâng cao hiệu quả quyền chọn luật là một điều cần thiết. Đó là lý do mà người viết
chọn đề tài “MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN THỎA THUẬN CHỌN
LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sẽ hệ thống lại một cách rõ ràng, cụ thể các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về quyền chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế của các bên trong hợp đồng. Hơn nữa, người viết sẽ so sánh, đối chiếu với
một số quy định khác có liên quan của pháp luật quốc tế nhằm nhìn nhận một cách
khách quan, toàn diện hơn về những quy định của pháp luật Việt Nam trong vấn đề
này. Qua đó, chỉ ra những mặt còn hạn chế và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện hơn
những quy định của pháp luật hiện hành về quyền chọn luật áp dụng trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Để giải quyết những vấn đề được đặt ra, người viết sẽ sử
dụng kết hợp một số phương pháp như: phương pháp phân tích luật viết, liệt kê,
diễn dịch, quy nạp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp phân tích, tổng
hợp…
3. Phạm vi nghiên cứu

Các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được tự do thỏa thuận
chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa họ là một nguyên tắc chung của luật
hợp đồng và được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Do đó, ngoài việc tập trung
nghiên cứu những quy định của pháp luật trong nước, người viết còn mở rộng phạm
vi tìm hiểu các điều ước quốc tế điển hình làm cơ sở cho việc nghiên cứu của mình.
4. Bố cục luận văn
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, luận văn được kết cấu gồm ba chương:
- Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và
quyền chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

6

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
Trong chương này, chủ yếu người viết tập trung phân tích, làm sáng tỏ vấn
đề như thế nào là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, quyền thỏa thuận chọn luật
áp dụng trong loại hợp đồng này là gì và những vấn đề liên quan đến hai vấn đề
trên.
- Chương 2: Quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc.
Những quy định của pháp luật Việt Nam và của một số điều ước quốc tế điển
hình về quyền chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ được
người viết tập trung trình bày trong chương này.
- Chương 3: Những vấn đề tồn tại trong quy định của pháp luật Việt Nam về
quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Ở chương này, người viết sẽ phân tích những bất cập còn tồn tại trong quy

định của pháp luật Việt Nam về quyền chọn luật phát sinh từ thực tiễn áp dụng. Qua
đó, đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện những quy định này.
Mặc dù đã làm việc với thái độ hết sức nghiêm túc nhưng do những hạn chế
về kiến thức, kinh nghiệm thực tiển và quỹ thời gian nghiên cứu hạn hẹp, mặt khác
đây là lần đầu tiên người viết nghiên cứu một đề tài mang tính khoa học về pháp lý
nên luận văn khó tránh khỏi có những sai sót, nhiều nội dung chỉ mang tính chất lý
thuyết suông... Người viết rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ quý thầy cô giáo
cũng như bạn đọc để luận văn được hoàn thiện hơn.
Người viết xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Diệp Ngọc Dũng đã tận tình
hướng dẫn để người viết có thể nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

7

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
VÀ QUYỀN THỎA THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC
TẾ
1.1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trong xu thế phát triển chung của toàn cầu, các hoạt động thương mại quốc
tế đang từng ngày từng giờ góp phần tích cực làm thay đổi diện mạo của các quốc
gia, của các khu vực và trên toàn thế giới. Các quốc gia đều mong muốn và cố gắng

thực hiện chính sách “mở cửa” nền kinh tế và như vậy, hầu hết các lĩnh vực kinh tế
đều tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại, mở rộng quan hệ ngoại giao. Do đó,
sự phát triển của buôn bán hàng hóa quốc tề là một điều tất yếu. Hoạt động mua bán
hàng hoá nói chung và hoạt động mua bán quốc tế nói riêng là một lĩnh vực vô cùng
phức tạp đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý nhất định thể hiện dưới một hình thức nhất
định, đó là hợp đồng. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là dạng hợp đồng được
các chủ thể của quan hệ thương mại quốc tế sử dụng phổ biến và thường xuyên nhất
trong các hoạt động thương mại của mình.1
Cũng như tất cả các loại hợp đồng khác, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
phải tuân theo các quy định của pháp luật để các điều khoản thỏa thuận của các bên
chủ thể trong hợp đồng được pháp luật bảo vệ. Về nguyên tắc, một hợp đồng nói
chung chỉ có thể được coi là hợp pháp khi nó đảm bảo các nguyên tắc chung đó là:
chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực chủ thể; các bên tham gia hợp đồng là
hoàn toàn tự nguyện; hình thức hợp đồng phải phù hợp với qui định của pháp luật;
mục đích của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang những đặc điểm cơ bản của một
hợp đồng mua bán tài sản, với đặc trưng là sự thỏa thuận giữa các bên. Theo đó,
1

Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Trường đại học luật Hà Nội năm 2008, tr. 206

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

8

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
“bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu cho bên mua và nhận

thanh toán; còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”.2 Trên
cơ sở quy định này có thể thấy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của họ
trong việc mua bán hàng hóa.
Về nguyên tắc, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có nội dung tương tự
như hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước. Điểm khác biệt cơ bản của 2 loại hợp
đồng này chính là sự xuất hiện của yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế. Vì vậy, việc xác định “tính quốc tế” trong hợp đồng mua bán hàng hóa
có yếu tố nước ngoài là điều cần thiết. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận
mà còn có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý. Bởi vì nếu là hợp đồng nội địa sẽ
hoàn toàn do pháp luật trong nước điều chỉnh, còn nếu là hợp đồng quốc tế thì sẽ
liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật khác nhau và khi đó vấn đề lựa chọn pháp
luật áp dụng sẽ đặt ra như là một yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên, tính quốc tế trong
hợp đồng mua bán hàng hóa đã được pháp luật trong nước và các điều ước quốc tế
quy định khác nhau.
Đối với Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được biết đến trong
nhiều văn bản với các tên gọi khác nhau như hợp đồng mua bán ngoại thương (được
ghi nhận trong Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK ngày 31/07/1991 của Bộ
Thương nghiệp - nay là Bộ Công Thương), hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài (ghi nhận trong Luật Thương mại Việt Nam năm 1997), hợp đồng
xuất, nhập khẩu hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa (Luật Thương mại Việt
Nam năm 2005).
Trước thời điểm ban hành Luật Thương mại năm 1997, khái niệm “hợp đồng
mua bán ngoại thương” được ghi nhận trong Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK
về hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương do Bộ Thương nghiệp
(nay là Bộ Công Thương) ban hành ngày 31/07/1991: “hợp đồng mua bán ngoại
thương là hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế” với ba tính chất sau: thứ nhất,
chủ thể của hợp đồng là những pháp nhân có quốc tịch khác nhau; thứ hai, hàng hóa
là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển từ nước này sang nước khác; thứ ba,
2


Điều 428 Bộ luật dân sự 2005

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

9

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên ký
kết hợp đồng.
Đến thời kì ra đời Luật Thương mại Việt Nam năm 1997, lần đầu tiên khái
niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được thể hiện chính thức trong một văn
bản luật. Tuy nhiên, Luật Thương mại năm 1997 của Việt Nam không sử dụng thuật
ngữ “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ” mà chỉ sử dụng thuật ngữ “Hợp đồng
mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài”. Dưới góc độ pháp lý hai thuật
ngữ “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” và “Hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài” có cùng một bản chất, đó là có sự tham gia của thương
nhân nước ngoài hay nói cách khác hợp đồng có yếu tố quốc tế. Tại đây, Luật
Thương mại năm 1997 không chỉ rõ như thế nào là một hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế mà quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là
hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với
một bên là thương nhân nước ngoài”.3 Theo quy định này, rõ ràng luật Việt Nam
xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên dấu hiệu
quốc tịch của thương nhân. Cách hiểu này đã được hiểu và áp dụng rộng rãi trong
thực tiễn hoạt động ngoại thương của Việt Nam trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên, trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế, việc xác định tính quốc tế của hợp đồng thương mại quốc tế dựa trên dấu

hiệu quốc tịch của thương nhân gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp và trong một số
trường hợp là không thể được, bởi vì: thứ nhất, pháp luật của nhiều quốc gia khác
nhau xác định quốc tịch của pháp nhân không giống nhau; thứ hai, nếu xác định tính
quốc tế của hợp đồng dựa trên dấu hiệu quốc tịch trong một số trường hợp sẽ gặp
khó khăn trong việc xác định luật áp dụng.
Hiện nay, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chủ yếu được điều chỉnh bởi
Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, không
có điều luật nào trong Luật Thương mại năm 2005 xác định cụ thể, trực tiếp về khái
niệm và phạm vi nội hàm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tại khoản 1
Điều 27 Luật Thương mại 2005 quy định: “Mua bán hàng hoá quốc tế được thực
hiện dưới các hình thức: xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái
3

Điều 80 Luật Thương mại Việt Nam 1997

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

10

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
nhập và chuyển khẩu. Như vậy, khoản 1 Điều 27 Luật Thương mại 2005 đã nêu ra
định nghĩa bằng cách liệt kê các hình thức cụ thể của việc mua bán hàng hóa quốc
tế, bao gồm 5 hình thức: xuất khẩu; nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái
nhập; chuyển khẩu. Sau khi liệt kê như vậy, Luật Thương mại 2005 đã xác định rõ
thế nào là xuất khẩu; nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập và chuyển
khẩu tại các điều 28, 29 và 30 tiếp đó.
Từ đó có thể suy luận rằng, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp

luật Việt Nam là văn bản thỏa thuận của các cá nhân, tổ chức trong việc xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa. Hai hay
nhiều bên tham gia giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế có thể là cá nhân, tổ chức
Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài; có nơi cư trú hoặc trụ sở ở Việt Nam
hoặc nước ngoài. Cũng với các khái niệm nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất,
tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu có thể thấy Luật Thương mại 2005 lấy tiêu
chí hàng hóa phải là động sản, hàng hóa có thể được vận chuyển qua biên giới Việt
Nam hoặc qua biên giới của một nước (một lãnh thổ); hoặc di chuyển qua khu chế
xuất, khu vực hải quan riêng… để xác định một quan hệ mua bán hàng hóa là mua
bán hàng hóa quốc tế, mà không phụ thuộc vào nơi cư trú, trụ sở hay quốc tịch của
các chủ thể tham gia quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế.
Khác với quy định của pháp luật Việt Nam, văn bản của nhiều nước cũng
như các văn bản pháp lý của quốc tế điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không dựa trên quốc
tịch của pháp nhân mà dựa trên các dấu hiệu khác.
Lần đầu tiên tiêu chí trụ sở thương mại được sử dụng để xác định hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế được quy định trong điều 1 Công ước La Haye năm 1964
về mua bán hàng hóa quốc tế. Khoản 1 điều 1 Công ước La Haye 1964 quy định,
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải thỏa mãn hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ
của các quốc gia khác nhau;
Thứ hai, phải thỏa mãn ít nhất một trong ba yếu tố sau đây: a, Hàng hóa
được chuyên chở hoặc phải được chuyên chở từ lãnh thổ của quốc gia này đến lãnh

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

11

SVTH: Trần Thu Trang



Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
thổ của quốc gia khác; b, Khi mà những hành vi thể hiện sự chào hàng và chấp nhận
chào hàng được thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau; c, Khi việc giao
hàng phải được thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia khác không phải là nơi thực
hiện những hành vi chào hàng và chấp nhận chào hàng.
Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (United
Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods – gọi tắt là
CISG) không đưa ra định nghĩa nào về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhưng
Điều 1 quy định: “Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau”.
Như vậy, theo quy định tại Điều 1 của CISG thì yếu tố quốc tế của hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế được xác định bởi một yếu tố duy nhất là trụ sở thương
mại của các bên phải đặt tại các quốc gia khác nhau hay gọi cách khác là dựa vào
tiêu chí lãnh thổ, mà không phụ thuộc vào địa điểm ký kết hợp đồng và cũng không
xét đến việc hàng hoá có được dịch chuyển qua biên giới hay không. So với việc
xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo tiêu chí quốc
tịch của pháp nhân thì việc xác định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên
yếu tố lãnh thổ cho phép xác định tính quốc tế của hợp đồng trở nên đơn giản hơn.
Tuy nhiên theo tiêu chí này sẽ gặp khó khăn trong trường hợp khi các bên có nhiều
trụ sở thương mại. Để giải quyết vấn đề này, Điều 10 CISG quy định, trong trường
hợp nếu một trong các bên có nhiều trụ sở thương mại thì cần phải chú ý đến trụ sở
thương mại liên quan mật thiết với hợp đồng và với việc thực hiện nó xuất phát từ
những hoàn cảnh mà các bên đã biết trước và đã có dự liệu trước khi hay trong thời
điểm ký kết hợp đồng, còn nếu các bên không có trụ sở thương mại thì cần phải xác
định địa điểm thường trú của họ.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đang ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong các giao dịch thương mại quốc tế, đặc biệt là mua bán hàng hóa có yếu tố
nước ngoài. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam lại chưa có một khái niệm cụ thể, rõ
ràng nào về vấn đề này. Bởi thế, để tương thích với tinh thần của CISG nói riêng và

pháp luật thương mại thế giới nói chung, người viết xin được đưa ra một kiến nghị
về khái niệm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như sau: “Hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế là sự thoả thuận ý chí giữa các thương nhân có trụ sở thương mại

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

12

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
đặt ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là Bên bán có nghĩa vụ giao
hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho một bên khác gọi là Bên mua và nhận
thanh toán; và Bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho Bên bán, nhận hàng và quyền
sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”.
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là loại văn bản giao dịch chủ yếu, quan
trọng và phổ biến nhất trong hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu. Vì là một loại
hợp đồng mang tính “quốc tế” nên hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có những
khác biệt nhất định so với hợp đồng mua bán thông thường và có một số đặc điểm
cơ bản sau:
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế là các chủ thể hoạt của hoạt động kinh doanh quốc tế, có
thể là các thể nhân hay cũng có thể là pháp nhân. Tính quốc tế của các chủ thể của
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được xác định căn cứ vào dấu hiệu quốc tịch,
nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở thương mại trong từng trường hợp. Trên thực tế thì
pháp luật thương mại quốc tế không có sự điều chỉnh đặc biệt nào đối với chủ thể
của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bởi chủ thể của quan hệ hợp đồng này có
được quyền ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay không là phụ thuộc vào

pháp luật quốc gia áp dụng đối với các chủ thể đó.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa được
coi là hợp pháp khi chủ thể của hợp đồng là hợp pháp, tức là có năng lực pháp luật
và người ký kết có năng lực hành vi và thẩm quyền ký kết hợp đồng.4 Việc giải
quyết xung đột pháp luật về năng lực chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế không được quy định chuyên biệt trong Luật Thương mại 2005. Do đó, về
nguyên tắc sẽ áp dụng các hệ thuộc như đối với năng lực chủ thể của hợp đồng
trong Tư pháp quốc tế nói chung (tức là sử dụng các Điều 761, 762 và 765 Bộ luật
dân sự 2005) với hệ thuộc luật chủ đạo được sử dụng cho cá nhân là luật quốc tịch,
cho pháp nhân là luật nơi thành lập pháp nhân.

4

Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005, tr.
11

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

13

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
Hình thức của hợp đồng: Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế cũng được quy định khác nhau trong pháp luật của các quốc gia và điều ước quốc
tế. Trong đó có những hệ thống pháp luật đòi hỏi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế chỉ hợp pháp khi được lập thành văn bản, nhưng cũng có hệ thống không có bất
kỳ một yêu cầu nào về hình thức hợp đồng. Bên cạnh đó lại có những nước đòi hỏi
một cách chặt chẽ về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo pháp

luật các nước này, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được phê chuẩn hay
công chứng,... mới được coi là hợp pháp về hình thức. Ví dụ, ở Pháp hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế phải được công chứng tại Pháp.5
Pháp luật Việt Nam quy định hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý
tương đương.6 Trong đó, hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện
báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp
luật7.
Theo Điều 11 của CISG thì không yêu cầu các bên phải ký, xác nhận bằng
văn bản hoặc phải tuân thủ bất kỳ yêu cầu nào về mặt hình thức của hợp đồng mua
bán. Điều đó có nghĩa, không có quy định bắt buộc về mặt hình thức của hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế. Các bên có thể dùng bất kỳ phương tiện nào, kể cả lời
khai nhân chứng, để chứng minh về sự tồn tại của hợp đồng. Tuy vậy, tại Điều 12
Công ước quy định: “bất kỳ quy định nào của Điều 11, Điều 29 hoặc phần thứ hai
công ước này cho phép hợp đồng mua bán, việc thay đổi hoặc đình chỉ hợp đồng
theo sự thoả thuận của các bên hoặc đơn chào hàng và chấp nhận chào hàng hoặc
bất kỳ sự thể hiện ý chí nào của các bên được lập và không phải dưới hình thức viết
mà bất kỳ hình thức nào sẽ không được áp dụng khi dù chỉ một trong số các bên có
trụ sở thương mại đặt ở nước là thành viên của công ước mà nước đó tuyên bố bảo
lưu theo Điều 96 công ước này”, tức là “nếu nước thành viên mà trong pháp luật

5

Tham luận Hội thảo Luật Tư pháp quốc tế của Giáo sư Bernard Audit, trường Đại học Paris II Nhà pháp luật Pháp – Việt tháng 11/1995, tr. 30
6
Điều 24 Luật Thương mại năm 2005
7
Khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại 2005

GVHD: Diệp Ngọc Dũng


14

Bản dịch

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
nước đó đòi hỏi hợp đồng phải được ký kết hoặc phê chuẩn dưới hình thức văn bản
thì điều quy định này của pháp luật nước thành viên đó phải được tôn trọng”.8
Đối tượng của hợp đồng: Về nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế cũng cũng giống với đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
thông thường vì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế về bản chất cũng là một loại
hợp đồng mua bán, đó là hàng hóa. Dưới góc độ kinh tế, hàng hóa được phân thành
tài sản hữu hình và tài sản vô hình; dưới góc độ pháp luật, hàng hóa được phân
thành động sản và bất động sản. Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại Việt Nam 2005
quy định hàng hóa bao gồm tất cả các động sản, kể cả động sản hình thành trong
tương lai và các vật gắn liền với đất đai.
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải thỏa
mãn các quy định về quy chế hàng hóa được phép trao đổi, mua bán theo pháp luật
của nước bên mua và bên bán. Nhìn chung, phần lớn các loại hàng hóa đều được
phép tự do đem ra trao đổi, mua bán ngoại trừ một số loại hàng hóa nhất định mà
thông thường, theo cách quy định trong pháp luật các nước, đó là các nhóm hàng bị
cấm xuất khẩu, nhập khẩu, các nhóm hàng bị hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu được
quản lý theo hạn nghạch (quota) hoặc phải đáp ứng các yêu cầu về kĩ thuật, về điều
kiện chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm,…9 CISG chỉ loại trừ đối với việc mua
bán chứng khoán, giấy bảo đảm chứng từ và tiền lưu thông, điện năng, phương tiện
vận tải đường thủy, đường hàng không…10 Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
có một số hàng hóa không được phép trở thành đối tượng của hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế.11
Bên cạnh những đặc điểm trên, hợp đồng mua bàn hàng hóa quốc tế còn có
đặc điểm: đồng tiền thanh toán toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một bên
hoặc cả hai bên ký kết hợp đồng; cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là Tòa án,
cũng có thể là Trọng tài thương mại, tùy thuộc vào ý chí lựa chọn của các bên.

8

Điều 96 CISG
Giáo trình Luật thương mại quốc tế, trường đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân năm 2006, tr. 209
10
Điều 2 CISG
11
Ở Việt Nam, danh mục hàng hóa cấm xuất – nhập khẩu được quy định theo giấy phép của Bộ thương mại,
thuộc diện quản lý chuyên nghành: Xem phụ lục số 01, 02 và 03 đính kèm Nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày
23/01/2006
9

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

15

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
1.1.3 Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Ngày nay, sự phát triển của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế đã và đang
ngày càng khẳng định tầm quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố
nước ngoài. Với những vai trò nhất định, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trở

thành một công cụ không thể thiếu trong giao dịch thương mại quốc tế.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các bên: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là kết quả của sự tự
do thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp đồng. Ý chí của các bên chủ thể trong
hợp đồng được thể hiện thông qua nội dung mà các bên đã cùng nhau xây dựng nên.
Trong đó quyền và nghĩa vụ của họ đối với nhau được xác định. Tuy nhiên, những
quyền và nghĩa vụ này chỉ có thể được bảo đảm khi nó được thể hiện trong hợp
đồng giữa các bên. Nói cách khác, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là công cụ
để các bên bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và làm cơ sở để cơ quan tài phán
giải quyết khi có tranh chấp.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giúp các cơ quan chức năng của
Nhà nước trong việc kiểm soát hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu: Trên cơ
sở những hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết, các cơ quan chức năng của Nhà
nước kiểm soát được hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thông qua các hoạt
động kiểm tra các hợp đồng, các giao dịch của chủ thể trong thương mại quốc tế,
các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước có thể nắm bắt kịp thời các hoạt động
kinh doanh, đồng thời điều chỉnh các hoạt động này bằng cách ban hành chính sách
và pháp luật phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế quốc dân.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế góp phần phát triển giao thương
quốc tế: Khi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trở thành công cụ để các bên
tham gia giao dịch thương mại quốc tế bảo vệ mình thì nó giữ vai trò chủ đạo trong
giao dịch thương mại quốc tế. Có thể thấy thương mại là khâu gắn kết giữa sản xuất
với tiêu dùng. Do đó, vai trò của nó là hết sức quan trọng trong nền kinh tế của một
quốc gia. Vì vậy, khi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được coi là công cụ đảm
bảo quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể thì nó tạo ra môi trường thuận lợi cho

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

16


SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
việc mở rộng, phát triển quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, tạo điều kiện thuận
lợi phát triển thương mại quốc tế.
1.1.4 Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là loại hợp đồng đặc biệt, nó không chỉ
được điều chỉnh bằng pháp luật quốc gia mà còn được điều chỉnh bởi các nguồn luật
sau:
1.1.4.1 Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là một loại nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng có yếu
tố nước ngoài nói chung. Đó là tên gọi chung của nhiều văn bản có tính pháp lý
khác nhau điều chỉnh hợp đồng và các vấn đề khác có liên quan, bao gồm Công
ước, Hiệp định, Nghị định thư, Hiệp ước, … Hiện nay trên thế giới có nhiều điều
ước quốc tế khác nhau điều chỉnh nhiều loại hợp đồng có yếu tố nước ngoài khác
nhau, trong đó, đối với hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài được tập
trung điều chỉnh bởi Công ước của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế ký tại Viên (Áo) năm 1980. Việc áp dụng các điều ước quốc tế làm cơ sở
pháp lý điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài mang đến
nhiều thuận lợi cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng: nhanh chóng, thuận tiện,
giải quyết được các bất đồng, mâu thuẫn khi các hệ thống pháp luật quy định khác
nhau về cùng một vấn đề… Ngoài ra, việc tăng cường ký kết hay tham gia các điều
ước quốc tế còn góp phần thúc đẩy quá trình thống nhất hóa các quy định mang tính
nguyên tắc điều chỉnh quan hệ hợp đồng, làm cơ sở cho các quốc gia soạn thảo và
ban hành các quy định tương ứng trong hệ thống pháp luật của quốc gia mình. Điều
này sẽ góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia vào quá trình
hội nhập của các quốc gia, quan hệ thương mại quốc tế sẽ có nhiều điều kiện thuận
lợi để phát triển.
Khi đề cập đến điều ước quốc tế trong quá trình điều chỉnh quan hệ hợp

đồng, một vấn đề nữa cũng cần phải giải quyết triệt để là trong trường hợp nào điều
ước quốc tế sẽ được áp dụng bởi vì điều ước quốc tế không phải là pháp luật quốc
gia và không phải tất cả các điều ước quốc tế đều được tất cả các nước trên thế giới

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

17

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
tham gia ký kết hoặc gia nhập. Theo nguyên tắc chung, điều ước quốc tế được áp
dụng điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi:
- Các điều ước quốc tế mà quốc gia nơi các chủ thể của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế cư trú hoặc có quốc tịch là thành viên là nguồn đương nhiên điều
chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có giá trị pháp lý cao nhất.
Các bên trong hợp đồng có thể mặc nhiên áp dụng các điều ước này mà không cần
bất cứ sự thỏa thuận lựa chọn nào.
- Đối với các điều ước quốc tế mà quốc gia nơi các chủ thể của hợp đồng
mang quốc tịch hoặc có nơi cư trú chưa là thành viên thì các quy định của các điều
ước này vẫn có thể được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
nếu các bên trong hợp đồng thỏa thuận lựa chọn để điều chỉnh hợp đồng, vì nguyên
tắc tự do thỏa thuận chọn luật áp dụng là một trong những nguyên tắc cơ bản của
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, việc chọn điều ước
quốc tế phải đáp ứng các điều kiện chọn luật. Bên cạnh đó, việc áp dụng điều ước
quốc tế phải không được trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc gia.
1.1.4.2 Pháp luật quốc gia
Khi không có điều ước quốc tế, hoặc có nhưng điều ước quốc tế không có đề
cập hoặc đề cập không đầy đủ về quyền và nhĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua

bán hàng hóa quốc tế, các chủ thể của hợp đồng có thể dựa vào pháp luật của một
quốc gia nào đó để giải quyết các vấn đề phát sinh. Luật pháp quốc gia là một trong
số những nguồn luật cơ bản điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế. Pháp
luật quốc gia được áp dụng là nguồn luật điều chỉnh cho hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế khi:
- Thứ nhất, khi các bên quy định về luật áp dụng ngay từ giai đoạn đàm phán,
ký kết hợp đồng, bằng cách chỉ rõ trong hợp đồng rằng luật của một nước nào đó sẽ
được áp dụng cho hợp đồng. Thỏa thuận chọn luật áp dụng của các bên trong
trường hợp này thường được ghi nhận thành một điều khoản trong hợp đồng gọi là
điều khoản chọn luật.

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

18

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
- Thứ hai là khi các bên thoả thuận lựa chọn luật quốc gia là luật áp dụng cho
hợp đồng sau khi ký kết hợp đồng, thậm chí khi tranh chấp phát sinh. Cách này
được các bên áp dụng khi trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mà các bên đã
ký trước đó không có điều khoản về luật áp dụng.
Các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể lựa chọn luật của
nước người bán, luật của nước người mua hay luật của một nước thứ ba bất kỳ nào
đó để điều chỉnh hợp đồng. Tuy nhiên, thông thường, để đảm bảo việc hiểu và áp
dụng hiệu quả pháp luật được lựa chọn, các bên thường chọn pháp luật của nước mà
mình am hiểu và có mối quan hệ gần gũi, gắn bó với quan hệ hợp đồng để điều
chỉnh hợp đồng mà họ tham gia ký kết.
Ngoài ra, luật quốc gia cũng được áp dụng khi có quy phạm xung đột dẫn

chiếu đến. Trong trường hợp này, cho dù các bên trong hợp đồng không có thỏa
thuận về chọn luật áp dụng nhưng trong các nguồn luật liên quan có quy phạm xung
đột dẫn chiếu một hệ thống pháp luật của một quốc gia nào đó thì pháp luật của
quốc gia này sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
1.1.4.3 Tập quán thương mại
Trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước
ngoài, tập quán thương mại quốc tế thường được sử dụng với tư cách là cơ sở pháp
lý của hợp đồng.
Tập quán thực chất là thói quen được hình thành trong hoạt động thương mại
và hàng hải. Do chúng được lặp đi lặp lại nhiều lần và được thừa nhận như một
nguyên tắc mặc nhiên phải tuân thủ. Một thói quen chỉ được coi là tập quán khi đáp
ứng các tiêu chuẩn: là thói quen duy nhất được áp dụng tại một khu vực nhất định,
được hình thành và tôn trọng trong cùng khu vực; thói quen đó được áp dụng phổ
biến nhiều lần, lặp đi lặp lại thường xuyên và được công nhận một cách rộng rãi;
thói quen đó chứa đựng một nội dung cụ thể về một vấn đề cụ thể có tính hướng
dẫn. Khi áp dụng nó để giải quyết một số quan hệ cụ thể không có sự giải thích
khác nhau, trái ngược nhau.

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

19

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
Theo nguyên tắc, bản thân của tập quán thương mại quốc tế không có hiệu
lực pháp lý như quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật quốc gia, nó chỉ có hiệu
lực áp dụng khi:
- Được các chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thỏa thuận chấp

nhận trở thành nguồn luật điều chỉnh đối với hợp đồng giữa các bên.
- Khi các điều ước về mua bán hàng hóa quốc tế có quy phạm quy định áp
dụng các tập quán quốc tế, thì các tập quán quốc tế sẽ được đương nhiên áp dụng để
điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa các chủ thể của hợp
đồng nếu như các chủ thể ấy mang quốc tịch hoặc có nơi cư trú tại các nước là
thành viên của các điều ước quốc tế đó.
- Nếu pháp luật trong nước về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho phép
áp dụng tập quán quốc tế thì tập quán quốc tế cũng có thể được áp dụng để điều
chỉnh hợp đồng.
- Đặc biệt, trong trường hợp các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế không có thỏa thuận cụ thể, rõ ràng nào về việc áp dụng các tập quán quốc tế, các
điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia có liên quan cũng không có bất kỳ quy định
nào về việc này thì tập quán quốc tế vẫn có thể được áp dụng để điều chỉnh hợp
đồng, nếu như cơ quan xét xử có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng các bên tham gia hợp
đồng đã mặc nhiên áp dụng tập quán quốc tế trong quan hệ hợp đồng giữa họ.
Trong thực tiễn thương mại quốc tế, có rất nhiều tập quán liên quan đến mua
bán quốc tế. Tuy nhiên, tập quán được áp dụng phổ biến và rộng rãi, trở thành một
quy tắc thông dụng trong buôn bán quốc tế là Các điều kiện giao dịch thương mại
quốc tế (INCOTERMS) được Phòng Thương mại quốc tế (ICC) tập hợp và ban
hành từ năm 1936, và được sửa đổi cuối cùng vào năm 2010 nhằm giải thích
thống nhất các điều kiện thương mại, thông qua đó tạo điều kiện cho các giao dịch
thương mại quốc tế diễn ra thuận lợi, trôi chảy. Theo nguyên tắc chung, Incorterms
chỉ được áp dụng khi các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố
nước ngoài trực tiếp thỏa thuận việc áp dụng Incorterms trong hợp đồng.

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

20

SVTH: Trần Thu Trang



Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
1.1.4.4 Án lệ
Pháp luật của nhiều nước trên thế giới (thông thường là các nước theo hệ
thống pháp luật Anh – Mỹ) thừa nhận án lệ là nguồn giải thích pháp luật và là
nguồn của pháp luật trong lĩnh vực pháp luật hợp đồng. Theo pháp luật các nước
này, án lệ đựơc hiểu là đường lối áp dụng của toà án về một vấn đề pháp lý đã trở
thành tiền lệ mà các thẩm phán có thể theo đó để xét xử trong các trường hợp tương
tự. Án lệ có hai nhiệm vụ: một là giải thích và áp dụng pháp luật; hai là dự bị các
cải cách pháp luật.12
Ở Việt Nam, ph áp luật Việt Nam nói chung cũng như pháp luật về hợp
đồng nói riêng chưa thừa nhận án lệ như là nguồn của luật. Tuy nhiên, thực tiễn án
lệ đang ngày càng khẳng định vai trò của mình. Do đó, mặc dù không chính thức
thừa nhận án lệ là một nguồn của pháp luật, nhưng hiện nay các nước vốn vẫn
không công nhận án lệ là nguồn chính thức của pháp luật, trong đó có cả Việt Nam,
đã bắt đầu tham khảo án lệ khi giải quyết các tranh chấp hợp đồng quốc tế.
1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN THỎA THUẬN CHỌN LUẬT ÁP
DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.2.1 Quyền chọn luật của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang trong mình tính chất “quốc tế”
nên nó thường không chỉ chịu sự điều chỉnh của một quốc gia mà ít nhất liên quan
đến hai quốc gia, hai hệ thống pháp luật. Về lý luận, nếu một quan hệ xã hội liên
quan đến bao nhiêu quốc gia thì pháp luật của bấy nhiêu quốc gia đều có thể được
áp dụng. Sở dĩ như vậy là vì các quốc gia bình đẳng với nhau, thì đương nhiên pháp
luật của các quốc gia cũng phải bình đẳng với nhau trong việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội liên quan đến quốc gia đó.13 Nếu không có quy phạm thực chất thống nhất
điều chỉnh mối quan hệ phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đòi hỏi cơ
quan có thẩm quyền phải chọn ra một hệ thống pháp luật thích hợp nhất điều chỉnh
quan hệ đó.


12

Nguyễn Mạnh Bách, Luật Dân sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2004, tr. 64
Diệp Ngọc Dũng, Cao Nhất Linh , Tập bài giảng Luật thương mại quốc tế, khoa luật, trường Đại học Cần
Thơ, năm 2002, tr. 14
13

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

21

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
Mặt khác, đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, dù được giao kết
hoàn chỉnh, chi tiết đến đâu thì bản thân nó cũng không thể dự kiến, chứa đựng tất
cả những vấn đề, những tình huống có thể phát sinh trong thực tế. Những tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng là điều mà các bên không ai mong muốn. Mặc dù vậy, đó là
điều không tránh khỏi trong thương mại quốc tế, và khi tranh chấp phát sinh thì việc
xác định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp là điều vô
cùng phức tạp. Do đó, cần phải bổ sung cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
một cơ sở pháp lý cụ thể bằng cách lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng đó. Tuy
nhiên, vì hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế nên luật điều chỉnh hợp đồng này
cũng có thể là luật nước người bán, cũng có khi là luật nước người mua hoặc luật
của bất kỳ một nước thứ ba nào, thậm chí phải chịu sự điều chỉnh của điều ước quốc
tế, tập quán thương mại quốc tế hoặc cả án lệ. Vấn đề đặt ra ở đây là trong số các
nguồn luật trên thì luật nào được lựa chọn để áp dụng cho hợp đồng, luật nào sẽ
được áp dụng khi có tranh chấp xảy ra?

Vào thế kỷ 19, khi mà ý chí của con người được đề cao thì việc các cá nhân,
tổ chức khi xác lập giao dịch có quyền lựa chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa
họ với nhau dần dần được thừa nhận và điều đó trở nên bình thường. Quyền lựa
chọn luật áp dụng của các bên chủ thể bắt đầu được áp dụng ở nhiều nước châu Âu
và châu Mỹ vào nửa cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, không phải trong
mọi loại quan hệ xã hội các cá nhân, tổ chức đều có quyền lựa chọn pháp luật áp
dụng. Những quan hệ xã hội trong nội bộ các quốc gia, chỉ giữa các cá nhân, tổ
chức đó với nhau mà không có yếu tố nước ngoài, thì pháp luật quốc gia không quy
định cho cá nhân, tổ chức có quyền lựa chọn pháp luật của một nước nào đó để áp
dụng. Quyền lựa chọn pháp luật được áp dụng cho các quan hệ có yếu tố nước
ngoài (có tính quốc tế), trong đó có hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Nhưng
không phải trong tất cả các quan hệ có yếu tố nước ngoài các cá nhân, tổ chức đều
có quyền lựa chọn luật áp dụng. Chẳng hạn, trong các quan hệ công như: quan hệ
hành chính, hình sự, tố tụng tòa án… (là những quan hệ mà trong đó có một bên là
cơ quan, người có thẩm quyền để thực hiện quyền lực công và đó cũng là những
quan hệ có liên quan, gắn bó chặt chẽ với trật tự, lợi ích công cộng, với thủ tục,
thẩm quyền của cơ quan công quyền), pháp luật của nhà nước không cho phép cá

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

22

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
nhân, tổ chức lựa chọn pháp luật áp dụng. Trong những trường hợp này, pháp luật
của nước sở tại sẽ đương nhiên được áp dụng.
Quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các bên chủ thể trong hợp đồng bắt
nguồn từ nguyên tắc “tự do ý chí”. Tự do ý chí của các bên được coi như là khả

năng của các bên tự thiết lập nội dung của hợp đồng và những điều kiện có hiệu lực
của nó và tất nhiên là trong khuôn khổ của pháp luật.14 Trong giao kết hợp đồng, tự
do ý chí được xem là nguyên tắc hàng đầu. Do đó, các bên trong hợp đồng không
những chỉ thỏa thuận các vấn đề về xác lập, thực hiện hợp đồng mà còn có thể lựa
chọn hệ thống nào sẽ được áp dụng để áp dụng cho hợp đồng.
Thông thường, việc thỏa thuận việc lựa chọn một hệ thống pháp luật nào sẽ
điều chỉnh hợp đồng được thể hiện thành một điều khoản cụ thể trong hợp đồng và
nó được gọi là “điều khoản chọn luật”. Bằng cách này các bên của hợp đồng đã
minh thị cho biết luật nào sẽ được áp dụng. Phần lớn các hợp đồng quốc tế đều có
điều khoản chọn luật và điều khoản này đến nay đều được Tòa án xem xét khi có
tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải mọi vấn đề phát sinh trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế các bên đều có quyền thỏa thuận chọn luật.
Pháp luật các nước thường chỉ cho phép các bên lựa chọn luật để điều chỉnh quyền
và nghĩa vụ của họ trong hợp đồng mà thôi.
Trong thực tiễn thương mại quốc tế, quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một giải pháp hữu hiệu và được sử dụng phổ
biến để giải quyết xung đột pháp luật trong mối quan hệ hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế. Từ những quy định và sự áp dụng trong thực tiễn về quyền lựa chọn
pháp luật áp dụng, có thể hiểu: “quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế là quyền của các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế được tự do thỏa thuận lựa chọn hệ thống pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà họ tham gia”.

14

Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005,
tr. 21

GVHD: Diệp Ngọc Dũng


23

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
1.2.2 Nội dung quyền
1.2.2.1 Phạm vi chọn luật áp dụng
Khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các chủ thể của hợp đồng có
thể tự do thỏa thuận với nhau trong việc lựa chọn một hệ thống pháp luật thuộc một
quốc gia bất kỳ nào mà họ muốn (có thể là pháp luật nơi giao kết hợp đồng, nơi
thực hiện hợp đồng hoặc nơi một trong các bên có trụ sở chính...). Pháp luật của đa
số các quốc gia cũng như các điều ước quốc tế thường không hạn chế phạm vi
không gian của việc lựa chọn luật của các bên, dĩ nhiên là phải đáp ứng yêu cầu
không vi phạm những nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước đó, tức là không vi
phạm trật tự công của quốc gia đó, và trừ một số trường hợp ngoại lệ khác. Ví dụ
pháp luật Việt Nam không thừa nhận giá trị pháp lý của các hợp đồng liên quan đến
các loại văn hóa phẩm đồi trụy… Trên thực tế, các bên trong hợp đồng thường lựa
chọn hệ thống pháp luật có mối quan hệ với hợp đồng, hệ thống pháp luật mà các
bên am hiểu và gần gũi với lợi ích của các bên.
Trong trường hợp các bên chủ thể không muốn áp dụng pháp luật quốc gia
thì họ có thể chọn áp dụng pháp luật của nước thứ ba, điều ước quốc tế liên quan
(như CISG), hay thậm chí cũng có thể áp dụng tập quán quốc tế (như INCOTERMS
2010). Một khi chọn luật của nước thứ ba hay các điều ước quốc tế, các bên phải
tìm hiểu kỹ các quy định pháp luật đó, vì trong nhiều trường hợp, nếu không tìm
hiểu kỹ, hậu quả của việc áp dụng pháp luật được lựa chọn không phù hợp với
mong muốn của các bên, hoặc cũng có thể không có giá trị pháp lý vì lý do bảo lưu
trật tự công cộng.
1.2.2.2 Thời điểm lựa chọn luật áp dụng
Trên nguyên tắc, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng tự do ý chí của các bên

trong hợp đồng, việc chọn luật áp dụng vào thời điểm nào do các chủ thể tham gia
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tự do thỏa thuận. Pháp luật các nước thường
không có những quy định mang tính bắt buộc các bên phải đưa ra thỏa thuận chọn
luật vào một thời điểm cụ thể. Các bên hoàn toàn có thể lựa chọn pháp luật áp dụng
trong thời điểm giao kết hợp đồng, hoặc cũng có thể muộn hơn, thậm chí còn có thể
phát sinh trong quá trình tố tụng.

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

24

SVTH: Trần Thu Trang


Một số vấn đề pháp lý về quyền chọn luật…
Theo tinh thần chung của Công ước Rome 1980 các bên có thể tự do lựa
chọn luật áp dụng vào thời điểm giao kết hợp đồng bằng một điều khoản trong hợp
đồng như đã nói ở trên, hoặc cũng có thể sửa đổi điều khoản đó trong hoặc sau quá
trình thực hiện hợp đồng, hoặc cũng có thể thay đổi việc chọn luật áp dụng bằng hệ
thống pháp luật khác so với sự lựa chọn ban đầu.15 Quy định này khẳng định thêm
quyền tự do của các bên trong việc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng. Thiết nghĩ,
khi đã tôn trọng tự do ý chí của các bên và cho phép các bên có quyền thỏa thuận
lựa chọn luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng mà họ tham gia thì việc
không ràng buộc các bên phải đưa ra quyết định lựa chọn luật ở một thời điểm cụ
thể là một điều hợp lý. Điều đó bảo đảm tôn trọng tự do ý chí của các bên một cách
triệt để, đồng thời cũng đảm bảo an toàn cho quyền lợi của các bên.
Thời điểm lựa chọn pháp luật áp dụng tuy không bị quy phạm bắt buộc của
pháp luật các nước điều chỉnh nhưng thời điểm đưa ra sự lựa chọn đó vẫn phải đảm
bảo sự hợp lý trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Theo Công ước Rome
1980, sau khi ký hợp đồng các bên mới chọn luật áp dụng hoặc có sự thay đổi thì

điều khoản luật áp dụng này vẫn có hiệu lực tính từ khi giao kết hợp đồng, trừ khi:
nếu hợp đồng đã có hiệu lực về hình thức thì việc chọn hệ thống pháp luật khác phải
không làm ảnh hưởng tới hiệu lực về hình thức của hợp đồng, việc chọn luật áp
dụng mới không làm ảnh hưởng tới quyền lợi của bên thứ ba.16
1.2.2.3 Việc chọn đồng thời nhiều hệ thống pháp luật trong một hợp đồng
Do tính chất của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường là những hợp
đồng lớn, nội dung rất nhiều, có sự đan xen của nhiều nghĩa vụ nhỏ hoặc là tổng
hợp của nhiều hợp đồng nhỏ khác nhau, điều này làm phát sinh nhu cầu thực tế là
các bên cần thỏa thuận chọn nhiều hệ thống pháp luật và một hệ thống pháp luật chỉ
áp dụng điều chỉnh một phần của hợp đồng. Thậm chí ngay cả khi thỏa thuận chọn
luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng vẫn có trường hợp các bên lựa chọn nhiều luật
áp dụng cho hợp đồng để phòng ngừa tình huống một hệ thống pháp luật không
điều chỉnh hết các vấn đề của hợp đồng. Hoàn cảnh này dẫn đến hiện tượng “nhiều

15
16

Khoản 2 Điều 3 CISG
Khoản 2 Điều 3 CISG

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

25

SVTH: Trần Thu Trang


×