Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

LUẬN văn sư PHẠM vật lý THIẾT kế bài GIẢNG BẰNG PHẦN mềm POWERPOINT CHƯƠNG từ TRƯỜNG SÁCH GIÁO KHOA vật lý 11 NÂNG CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.53 MB, 83 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƢ PHẠM
BỘ MÔN SƢ PHẠM VẬT LÝ
-------------

Tên đề tài:

THIẾT KẾ BÀI GIẢNG
BẰNG PHẦN MỀM POWERPOINT CHƢƠNG TỪ TRƢỜNG
SÁCH GIÁO KHOA VẬT LÝ 11 NÂNG CAO

Luận văn Tốt nghiệp đại học
Ngành: SƢ PHẠM VẬT LÝ-TIN HỌC

Giáo viên hƣớng dẫn:
ThS. Dƣơng Quốc Chánh Tín

Cần Thơ, 2013

Sinh viên thực hiện:
Phạm Hoàng Thơ
MSSV: 1090287
Lớp: SP Vật lý – Tin học K35


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy: Dương Quốc Chánh Tín đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể Thầy, Cô trong Bộ môn Vật lý thuộc khoa Sư phạm
trường Đại học Cần Thơ đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ em nghiên cứu, học tập và hoàn thành
luận văn.


Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Trung tâm Học Liệu và Thư Vi ện Khoa Sư
Phạm cùng các thầy cô trong trung tâm và Thư Vi ện Khoa đã tạo điều kiện thuận lợi và tận
tình hướng dẫn em tìm kiếm tài liệu trong suốt quá trình nghiên cứu và thực nghiệm đề tài.
Em xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ em hoàn thành
luận văn này.
Trân trọng kính chào.
Cần Thơ, tháng 05 năm 2013
SVTH

Phạm Hoàng Thơ


MỤC LỤC
Phần 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
Trang
1. Lý do chọn đề tài

1

1.1 Xuất phát từ sự bùng nổ CNTT

1

1.2 Xuất phát từ ưu thế của phương tiện trực quan nói chung và phần mềm dạy
học nói riêng trong quá trình dạy

1

1.3. Xuất phát từ những ưu điểm của phần mềm PowerPoint


1

1.4. Mục đích nghiên cứu

3

1.5. Phạm vi nghiên cứu

3

2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu đề tài

3

2.1. Tình hình nghiên cứu ứng dụng CNTT trong GD ở một số nước trên thế giới

3

2.2. Tình hình nghiên cứu ứng dụng CNTT trong dạy học ở Việt Nam

4

3. Các phương pháp và phương tiện thực hiện đề tài

5

4. Các giai đoạn thực hiện đề tài

6


5. Làm rõ một số khái niệm được sử dụng trong đề tài

6

Phần 2
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
Chƣơng I: Các vấn đề nghiên cứu lý thuyết

8

1.1 Cơ sở tâm lý học

8

1.1.1 Hoạt động tâm lý

8

1.1.2 Nhận thức cảm tính

9

1.1.3 Nhận thức lý tính

10

1.1.4 Vai trò của thí nghiệm trong dạy học

10


1.1.4.1 Vai trò của thí nghiệm theo quan điểm nhận thức

10

1.1.4.2 Vai trò của thí nghiệm theo quan điểm lí luận dạy học

11

1.1.5 Phân loại thí nghiệm

12

1.1.5.1 Thí nghiệm biểu diễn

12


1.1.5.2 Thí nghiệm HS

13

1.1.6 Vai trò của phương tiện trực quan trong dạy học

13

1.1.6.1 Khái niệm

13


1.1.6.2 Chức năng của phương tiện trực quan

13

1.1.6.3 Các loại phương tiện trực quan

15

1.2 Cơ sở lý luận dạy học

15

1.2.1 Quá trình dạy học

15

1.2.1.1 Sơ lược các thành tố của quá trình dạy học

15

1.2.1.2 Mối liên hệ nghịch giữa hoạt động dạy và hoạt động học

17

1.2.2 Máy vi tính được nhìn dưới góc độ sư phạm

18

1.2.2.1 Máy vi tính – Phương tiện trực quan hiện đại trong QTDH


18

1.2.2.2 Các xu hướng sử dụng MVT ở Trường Phổ thông

19

1.2.2.3 Sử dụng máy tính như công cụ dạy học

20

1.2.3 Hiện trạng ứng dụng PowerPoint trong dạy học

21

1.2.4 Tính sư phạm của một bài giảng Powerpoint

23

1.2.4.1 Các ưu, nhược điểm của việc sử dụng bài giảng bằng PowerPoint

23

1.2.4.2 Những điểm mạnh, điểm yếu của giáo viên khi thiết kế bài giảng bằng
PowerPoint

24

1.3 Khai thác phần mềm PowerPoint để thiết kế chương trình dạy học

25


1.3.1 Một số kĩ thuật cơ bản khai thác phần mềm PowerPoint

25

1.3.1.1 Khởi động PowerPoint

25

1.3.1.2 Chọn trang PowerPoint để soạn thảo bài giảng

27

1.3.1.3 Chọn màu nền cho Template

28

1.3.1.4 Nhập văn bản cho trang soạn thảo

28

1.3.1.5 Hiệu chỉnh văn bản

28

1.3.2 Thiết lập hiệu ứng

29

1.3.2.1 Mở cửa sổ custom animation


29

1.3.2.2 Thiết lập thứ tự hiệu ứng

29

1.3.2.3 Thiết lập thời gian bắt đầu thực hiện

30

1.3.2.4 Việc sử dụng chèn âm thanh, hình ảnh

30

1.3.3 Ưu việt của phần mềm PowerPoint

30

Chƣơng II: Ứng dụng PowerPoint cho bài giảng cụ thể

32


2.1 Trình bày hệ thống nội dung bài giảng

32

2.2 Sử dụng các tính năng của PowerPoint để minh họa nội dung


33

2.2.1 Các hình tĩnh

33

2.2.2 Các đoạn phim

33

2.2.3 Các mô hình chuyển động

34

2.2.3.1 Nguyên tắc quán triệt mục tiêu dạy học

31

2.2.3.2 Nguyên tắc mô hình phù hợp với nội dung dạy học

36

2.2.3.3 Nguyên tắc đảm bảo tính sư phạm

36

2.2.3.4 Nguyên tắc đảm bảo tính trực quan

36


2.2.3.5 Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả

37

Chƣơng III: Giới thiệu một số bài giảng về từ trƣờng sách giáo khoa vật lý 11
nâng cao đƣợc thiết kế bằng phần mềm PowerPoint

38

Phần 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Sản phẩm đạt được của đề tài

73

2. Đánh giá tiết học có ứng dụng CNTT

75

3. Hướng phát triển tiếp theo của đề tài

76

4. Kết luận và kiến nghị

76


Phần 1
MỞ ĐẦU

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1 Xuất phát từ sự bùng nổ CNTT
Hiện nay, sự bùng nổ của công nghệ thông tin (CNTT) nói riêng và khoa học công
nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời
sống xã hội. Trong bối cảnh đó, để ngành giáo dục đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chúng ta cần cải cách phương pháp dạy
học (PPDH) theo hướng vận dụng CNTT và các trang thiết bị dạy học hiện đại phát huy
mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành để nâng cao chất lượng dạy học. Máy vi tính
(MVT) được sử dụng rộng rãi trong nhà trường với tư cách là phương tiện dạy học với
nhiều loại phần mềm được thiết kế dưới các quan điểm khác nhau. Hình thức sử dụng
MVT vào dạy học rất đa dạng, đang được ứng dụng phổ biến ở các nước có nền công
nghệ dạy học tiên tiến và nó được coi là một trong những PPDH tích cực.
1.2 Xuất phát từ ƣu thế của phƣơng tiện trực quan nói chung và phần mềm
dạy học nói riêng trong quá trình dạy .
Quá trình dạy học thực chất là một hệ thống thông báo giữa thầy và trò,
trong đó điều quan trọng là sự truyền thông tin, lĩnh hội và xử lí thông tin. Sự
truyền thông tin được diễn ra trên các kênh: kênh thị giác, kênh thính giác và kênh
khứu giác, trong đó kênh thị giác là kênh có khả năng truyền thông tin lớn nhất
điều đó cho thấy việc sử dụng các phương pháp trực quan trong dạy học sẽ tạo điều
kiện cho học sinh hình thành khái niệm nhanh hơn, ghi nhớ tốt hơn, học tập chất
lượng hiệu quả hơn. Phương pháp trực quan luôn gắn liền với việc sử dụng các
phương tiện trực quan như: máy chiếu, mô hình, tranh vẽ . ngoài các phương tiện
vật chất hoá thì phần mềm dạy học đã và đang thể hiện ưu thế của mình.
Phần mềm dạy học là một phương tiện trực quan hữu hiệu có tác dụng
kích thích tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học, giúp người dạy học
thực hiện tốt việc phân hoá, cá thể hoá trong dạy học. Đây cũng là một trong
những lí do mà Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta đã đề ra kế hoạch thực hiện
„„Năm học 2008

- 2009 là năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT ”.


1.3. Xuất phát từ những ƣu điểm của phần mềm PowerPoint

1


PowerPoint là phần mềm có sẵn trong Microsoft Office 97/2000/XP/2003.
Với những tiện ích kì diệu và dễ sử dụng của nó mà trong thời gian gần đây phần
mềm này đã thu hút rất nhiều giáo viên nghiên cứu và sử dụng trong dạy học ở các
trường phổ thông nước ta.
PowerPoint có nhiều tính năng ưu việt như: Tạo một trình diễn bằng mẫu
thiết kế, khả năng định dạng văn bản, các chức năng lập dàn bài và tổ chức trình
diễn. Khả năng trình diễn của PowerPoint rất linh hoạt. Với số lượng lớn các
hiệu ứng PowerPoint cho phép trình bày bài giảng một cách khoa học, rõ ràng,
hình ảnh sinh động có sự kết hợp hài hoà và sắp xếp các đề mục logic. Nhờ sử
dụng PowerPoint mà việc dạy và học trở nên hấp dẫn hơn, học sinh dễ tiếp thu
bài giảng hơn.
Phần mềm PowerPoint rất hữu ích trong thiết kế các trình diễn phục vụ dạy
học nhưng hiệu quả sử dụng nó thực sự vẫn chưa cao. Các hiệu ứng sẵn có của
phần mềm PowerPoint vẫn chưa được khai thác triệt để và có hiệu quả trong
thiết kế các trình diễn.
Trong trường Đại học Cần Thơ nói riêng hay các trường đại học trong cả nước nói
chung việc sử dụng PowerPoint không những trong dạy học mà trong các hội nghị, hội
thảo đang rất phổ biến.Với những tiện ích kì diệu và dễ sử dụng của PowerPoint mà trong
thời gian gần đây phần mềm này đã thu hút rất nhiều giáo viên nghiên cứu và sử dụng
trong dạy học ở các trường đại học cũng như trường phổ thông nước ta. Vật Lí là môn
khoa học thực nghiệm đặc biệt là nội dung phần từ trường, đây là phần kiến thức khó và
trừu tượng. Để học sinh có thể hiểu dễ dàng hơn, nhanh hơn, sâu sắc hơn thì việc thiết kế
và sử dụng các mô hình động bằng phương tiện máy tính đã trở nên hết sức cần thiết.
Điện học là môn khoa học xuất hiện lâu đời song chỉ mang lại sự thú vị đối với

những người đam mê nó. Ngày nay, Điện học được biết đến như một ngành khoa học đa
ngành, hiện đại nhất có nhiều ứng dụng trong đời sống và cũng là ngành khoa học phục vụ
nhiều cho công cuộc cải tạo tự nhiên trong tương lai của loài người. Tuy nhiên, để thật sự
hiểu biết về Điện học thì người học cần biết được ít nhiều về lịch sử phát minh cũng như
phát triển của ngành khoa học này.
Xuất phát từ những lí do trên mà em giáo khoa vật lý 11 nâng cao”. Nội dung em
chọn là thiết kế bài giảng PowerPoint cho phần Từ trường:từ trường, phương và chiều của
lực từ tác dụng lên dòng điện, cảm ứng từ-định luật Am-pe, từ trường của một số dòng
2


điện đơn giản, tương tác giữa hai dòng điện song song-định nghĩa đơn vị ampe, lực Loren-xơ, khung dây có dòng điện đặt trong từ trường, sự từ hóa các chất-sắt từ, từ trường
trái đất.
1.4 Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận chung về việc Thiết kế bài giảng bằng phần mềm Powerpoint
chương từ trường sách giáo khoa vật lý 11 nâng cao .
- Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy học theo hướng tích cực nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập học phần Điện học ở trường Đại học.
1.5 Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn em chỉ nghiên cứu và thực hiện đề tài ở phần “Từ Trường” ở
sách giáo khoa vật lý 11 nâng cao, mặc dù để đủ tri thức em phải đọc lại toàn bộ sách giáo
khoa vật lý 11 nâng cao. Để phục vụ cho đề tài em phải khai thác nhiều tài liệu có liên
quan, chú trọng vào lĩnh vực khai thác kiến thức phần “Từ Trường” trên mạng Internet,
đĩa CD-ROM, DVD và các sách phổ biến khoa học. Em có ý định soạn 9 bài giảng về Từ
trường.
Về kỹ thuật máy tính, em sẽ nghiên cứu tình hình của việc sử dụng máy tính trong
giảng dạy ở các trường, chủ yếu là ở Đại học Cần Thơ. Các kỹ thuật sử dụng ở đây chủ
yếu là khai thác tất cả các tính năng của phần mềm PowerPoint kết hợp sử dụng các phần
mềm hổ trợ như Photoshop, Flash,…


2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.1 Tình hình nghiên cứu ứng dụng CNTT trong GD ở một số nƣớc trên thế giới
Trên thế giới việc ứng dụng CNTT vào dạy học đã được quan tâm từ lâu, nhất là
các nước tư bản phát triển. Từ những năm 1984, 1985 tổ chức NSCU (National Sofware –
Cordination Unit) được thành lập, cung cấp chương trình giáo dục máy tính cho các
trường trung học. Các môn học đã có phần mềm dạy học bao gồm: Nông nghiệp, Nghệ
thuật, Thương mại, Giáo dục kinh tế, tiếng Anh, Địa lí, Sức khoẻ, Lịch sử, Kinh tế gia
đình, Nghệ thuật công nghiệp, Toán, Âm nhạc, Tôn giáo, Khoa học tự nhiên, Khoa học xã
hội, Giáo dục đặc biệt .
Ở Ấn Độ tổ chức NCERT (National Council of Education Resarch and Training) ở
New Dehli đã thực hiện đề án CLASS (Computer Literacy and Studies in School). Đề án
xem xét việc sử dụng máy tính trợ giúp việc dạy học trong lớp, đồng thời quan tâm đến

3


vai trò của máy tính như là một công cụ ưu việt đánh dấu sự thay đổi có ý nghĩa về
phương pháp luận dạy học.
Năm 1985 các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Srilanka, Thái lan,
Malaysia tổ chức các hội thảo về phần mềm dạy học tại Malaysia đã đưa ra tiêu chuẩn
đánh giá phần mềm gồm 3 yếu tố: Đặt vấn đề, trình bày bài giảng và kỹ thuật lập trình. Ở
Nhật Bản, máy tính được dùng làm công cụ để giáo viên trình bày kiến thức, rèn luyện kỹ
năng, tiếp thu bài mới và giải quyết các vấn đề đặt ra trong tiết học. Nhật Bản khẳng định
việc sử dụng máy tính trong dạy học, đặc biệt ở phổ thông, đã có tác dụng kích thích sự
hứng thú học tập của học sinh. Hiện nay các nước trong khu vực như: Singapore, Thái
Lan việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong giảng dạy cũng đã trở nên rất phổ biến.
2.2 Tình hình nghiên cứu ứng dụng CNTT trong dạy học ở Việt Nam
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, nước ta đã bắt đầu sử dụng máy tính điện tử. Hội
đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ đã ra Nghị quyết số: 173- HĐBT (1975) và số: 245HĐBT (1976) về tăng cường ứng dụng toán học và máy tính điện tử trong cả nước. Viện
Công nghệ thông tin được thành lập và có những đề án nghiên cứu ứng dụng CNTT, đưa

tin học vào nhà trường. Đặc biệt trong khoảng 10 năm trở lại đây đã có nhiều tác giả
nghiên cứu về việc ứng dụng tin học trong dạy học các môn học ở trường phổ thông.
Chẳng hạn như:
-

Năm 2002, các tác giả Phạm Xuân Quế, Phạm Kim Chung đã thử nghiệm xây

dựng trang Web dạy học chương “Dao động cơ học” ở chương trình Vật lí lớp 12 THPT
theo hướng phát triển hứng thú, tích cực, tự lực tham gia giải quyết vấn đề trong học tập
của học sinh.
-

Năm 2005, tác giả Hoàng Trọng Phú đã ứng dụng phần mềm Working model để

thiết kế các thí nghiệm mô phỏng trong dạy Vật lí. Theo tác giả thì những hiện tượng vật
lí như được thu nhỏ lại trước màn hình giúp HS có thể theo dõi, quan sát hiện tượng ở
nhiều góc độ khác nhau.
- Lê Công Triêm đã giới thiệu một số Website điển hình dùng cho việc khai thác tư
liệu hỗ trợ cho việc thiết kế bài giảng điện tử trong dạy học Vật lí.
Vấn đề ứng dụng CNTT trong GD& ĐT được Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng,
coi yêu cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật hiện đại là điều hết
sức cần thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ GD& ĐT đã
thể hiện rõ điều này (Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Chỉ thị số 29 của Bộ GD& ĐT
4


(30/7/2001/CT)). Đặc biệt, chiến lược phát triển GD& ĐT 2001 - 2010 của Bộ GD& ĐT
đã yêu cầu ngành GD& ĐT phải từng bước phát triển dựa trên CNTT, vì: “CNTT và đa
phương tiện sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong quản lí hệ thống GD& ĐT, trong chuyển
tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy

và học”.
Tại trường Đại học Cần Thơ, việc sử dụng PowerPoint để báo cáo trong hội nghị là
yêu cầu bắt buộc đối với mỗi cán bộ. Cũng có nhiều giáo viên ở Khoa Sư phạm dạy môn
học của mình với sự hổ trợ của máy tính. Ngay từ năm 1997 đề tài nghiên cứu cấp bộ do
PGS.TS Lê Phước Lộc chủ trì “Nghiên cứu việc sử dụng máy tính vào dạy và học ở các
trường phổ thông (Mã số: B92-10-14)” đã được bảo vệ thành công cho thấy tập thể tác giả
(các cán bộ giảng dạy của Khoa Sư phạm) đã là những người đi tiên phong trong lĩnh vực
áp dụng tin học vào dạy học. Từ đó cho đến nay lượng cán bộ giảng dạy của khoa tiếp cận
và sử dụng máy tính trong dạy học càng nhiều mà phổ biến là sử dụng PowerPoint. Không
những thế sinh viên của khoa còn được khuyến khích sử dụng máy tính để dạy học. Thực
tế, trong nhiều năm qua đã có rất nhiều sinh viên thực hiện một số bài giảng ở phổ thông
bằng máy tính trong các đợt đi thực tập sư phạm.
Nhìn chung cơ sở vật chất thiết bị dạy học trong các trường học ở Việt Nam còn
thiếu, không đồng bộ. Đội ngũ giáo viên chưa xem việc sử dụng máy tính, cũng như các
phương tiện dạy học hiện đại khác trong quá trình giảng dạy là một nhu cầu thiết yếu. Mặt
khác để soạn thảo một giáo án điện tử không chỉ đòi hỏi những kỹ năng sử dụng máy tính
nhất định mà còn đầu tư về thời gian của giáo viên. Hiện nay đa số các trường đều được
trang bị các phòng máy tính và phương tiện hiện đại khác. Vì vậy em hy vọng đề tài này
sẽ có ích cho thời gian tới.

3. CÁC PHƢƠNG PHÁP VÀ PHƢƠNG TIỆN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
-

Các phương pháp nghiên cứu:
+ Nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu Điện học và các vấn đề liên quan đến Từ

Trường; Nghiên cứu thêm về lý thuyết tin học; Nghiên cứu LLDH,…
+ Nghiên cứu các địa chỉ Internet có liên quan đến nội dung đề tài để học tập cách
trình bày hình ảnh kết hợp với nội dung sao cho kích thích sự hứng thú học tập của người
học.

- Thực hành trên máy tính: Thiết lập 9 bài giảng trên trang PowerPoint có kết hợp các
kỹ thuật khai thác phần mềm ứng dụng như đã đề cập ở trên.
5


-

Các phương tiện nghiên cứu:
+ Máy tính (Personal Computer)
+ Máy chiếu: Video Projecter
+ Các loại tài liệu: Sách Điện học, tạp chí, băng, đĩa CD-ROM, DVD,…

4. CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Với thời gian thực hiện gần một năm học (từ tháng 09 năm 2012 đến tháng 05 năm
2013), đề tài này được thực hiện theo các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Sưu tầm tài liệu, nghiên cứu cơ sở lý thuyết về lý luận dạy học, các
phương pháp dạy học hiện đại, nghiên cứu các lọai tài liệu về Điện học,….
- Giai đoạn 2: Khảo sát thực tế việc sử dụng phần mềm PowerPoint vào giảng dạy
ở các trường Phổ thông, thử nghiệm soạn và giảng dạy Vật lý ở trường THPT Nguyễn
Việt Hồng bằng phần mềm PowerPoint.
- Giai đoạn 3: Tiến hành thực hiện đề tài, soạn các bài Từ trường SGK 11 NC.
-

Giai đoạn 4: Phân tích và viết luận văn.

5. LÀM RÕ MỘT SỐ KHÁI NIỆM ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
1) Máy tính (MT): Là máy tính điện tử (MTĐT) hay là máy vi tính (MVT) đôi khi
còn gọi là PC (Personal Computer).
2) Chƣơng trình (Program): Trong đề tài tuy không sử dụng cho mục đích lập trình
đối tượng nhưng sản phẩm của công việc được gọi chung là chương trình, tạo ra để ra lệnh

cho máy tính thực hiện.
3) Phần mềm( Software): Là các chương trình cài đặt trên hệ thống MVT để điều
khiển, khai thác phần cứng.
Trong đề tài này, phần mềm là các chương trình đơn giản được tạo ra nhằm hai
mục đích:
-

Cung cấp các công cụ để người giáo viên có thể sử dụng chúng trong quá trình

trình diễn bài trên lớp.
-

Cung cấp các chương trình nguồn (PowerPoint) để các giáo viên có thể sử dụng

trực tiếp, có thế thay đổi theo ý mình hoặc tham khảo trong quá trình thực hiện soạn thảo
giáo án điện tử.
4) Hổ trợ (trợ giúp): Trước hết hổ trợ là sự “giúp đỡ”, cụ thể trong đề tài này là sự trợ
giúp của máy tính đối với việc dạy và học. Song trong đề tài này, em không dùng từ “giúp
đỡ” bởi lẽ nó có một số sự khác biệt như sau:
6


-

Khi người ta không làm được cái gì đó thì cần giúp đỡ. Song việc gì đó người ta đã

làm được, cần làm cho tốt hơn, chất lượng hơn lúc đó cần một sự “hổ trợ”.
-

Có sự tương tác giữa phương tiện “hổ trợ” và người được “hổ trợ”. Người được


“hổ trợ” không ỉ lại vào công cụ , cần suy nghĩ song song với sự hổ trợ đó để lĩnh hội
cũng như đôi khi cần tác động ngược lại để có phương tiện tốt.
5) Mô phỏng (Simulation): đó là sự bắt chước, làm theo (ở đây đề cập đến biễu diễn
trên màn hình máy tính) một sự vật, sự việc có trong tự nhiên hoặc do con người tạo ra,
trong đó lưu lại những thuộc tính bản chất của sự vật, sự việc ấy nhằm mục đích đơn giản
hóa để dễ hiểu hoặc làm nổi bật những thuộc tính riêng để khai thác, tận dụng những ưu
điểm của các thuộc tính ấy.
6) Hình tĩnh: Là loại hình được sao chép lại tại một trạng thái vận động của sự vật.
Khi thực hiện trình chiếu chỉ làm cho người học quan sát được rõ ràng hơn, chi tiết hơn.
7) Hình động (hoặc Video clip) :Được sao chép hay copy lại toàn bộ trạng thái vận
động của một sự vật hiện tượng nào đó mà không làm mất đi các đặc tính của chuyển
động.
8) Quá trình dạy học: Quá trình dạy học là sự phối hợp thống nhất của hoạt động chỉ
đạo của thầy với họat động lĩnh hội tự giác, tích cực, tự lực sáng tạo của trò, nhằm làm
cho thầy đạt được mục đích dạy học.
9) Giáo án điện tử:Tạm hiểu theo nghĩa đơn giản đó là giáo án được soạn bằng MVT
trên các trang PowerPoint để thực hiện giảng dạy của giáo viên.
10) Internet: Là hệ thống mạng máy tính được liên kết với nhau trên phạm vi toàn
thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch vụ truyền thông dữ liệu như đăng nhập từ xa,
truyền các tập tin, thư tín điện tử và các nhóm thông tin.
Thông tin lưu trữ trên Internet ở dạng siêu văn bản, sử dụng đồng thời nhiều
phương tiện truyền thông tin như văn bản, đồ họa, âm thanh cùng với sự gây ấn tượng
bằng tương tác, MVT thì kết hợp với hệ thống đa phương tiện, làm việc với các siêu văn
bản hoàn toàn đáp ứng được khả năng nghe-nhìn-điều khiển. Khả năng này tạo mối tương
tác hai chiều giữa học sinh với chương trình ở mức độ cao hơn. Thể hiện sự phản ứng linh
hoạt với các sự kiện xảy ra trên màn hình máy tính.

7



Phần 2
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
Chƣơng I
CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT
1.1 Cơ sở tâm lý học
1.1.1 Hoạt động tâm lý
Trong các hoạt động tâm lý diễn ra trong suốt quá trình nhận thức của con người.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động này là phản ánh hiện thực khách quan và nó phải có
hướng đích. Quá trình nhận thức được chia ra làm hai giai đoạn, thể hiện những mức độ
phản ánh khác nhau về lượng cũng như về chất: quá trình nhận thức cảm tính và quá trình
nhận thức lí tính, hai quá trình này sẽ cho chủ thể những sản phẩm khác nhau về hiện thực
khách quan, thể hiện ở các dấu hiệu của đối tượng. Nhận thức cảm tính chủ yếu cho chủ
thể những hình ảnh chính xác về sự việc, sự vật với những dấu hiệu bên ngoài còn nhận
thức lí tính cho chủ thể biết cái bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng. Hai quá trình
nhận thức này có mối quan hệ biện chứng: không có nhận thức cảm tính thì đối tượng sẽ
không phản ánh đầy đủ về hình thức bên ngoài và do đó chủ thể sẽ không tìm thấy được
rõ ràng các đặc tính bản chất bên trong, đôi khi đi vào duy ý chí ( phát biểu tính chất bên
trong của đối tượng theo chủ quan của chủ thể ); nếu không có nhận thức lí tính thì chủ
thể sẽ nhận thức sự vật, hiện tượng một cách rời rạc, không bản chất.
1.1.2 Nhận thức cảm tính
Khi nói đến vấn đề này ta không thể không chú ý đến hoạt động cảm giác và tri
giác của con người. Hai yếu tố cấu thành ấy, yếu tố nào cũng quan trọng. Cảm giác phản
ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật và hiện tượng đang trực tiếp tác động vào
các giác quan của ta. Nhưng những tác động ấy đôi khi làm chủ thể chưa thật sự ý thức
vấn đề học tập mà nó thể hiện ra là chủ thể lơ là, không tập trung và do đó kết quả nhận
thức chưa có gì là đảm bảo. Chúng ta nói đến hoạt động tri giác. Hoạt động này thể hiện
sự lưu tâm thật sự của chủ thể vào đối tượng, quan sát có ý thức, quan sát có tập trung và
quan sát toàn diện, không bỏ qua chi tiết nhỏ nào ở đối tượng. Hai hoạt động này phải kết
hợp với nhau và chúng có vai trò:

-

Giúp con người định hướng hành vi, hoạt động trong cuộc sống và có thể thích ứng

sự thay đổi của môi trường.
8


-

Nó là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động của vỏ não giúp cho

con người có cuộc sống tinh thần bình thường. Các công trình nghiên cứu cho thấy những
người “đói cảm giác” thì các chức năng tâm lý sẽ bị rối loạn.
-

Nó là nguồn cung những nguyên vật liệu cho những quá trình tâm lý cao hơn. Hay

nói cách khác là nó là viên gạch đầu tiên để xây dựng nên tòa lâu đài của nhận thức.
Như vậy trong dạy học, đây quả là một bước nhận thức cơ bản nhằm làm cho học
sinh bị thu hút bởi những vấn đề trong bài giảng của mình. Sau cảm giác các vấn đề học
tập, học sinh phải tri giác, liên tưởng nó tới các vấn đề khác nhau hưng có dấu hiệu bề
ngoài giống nhau để có thể tạm thời đưa ra một số kết luận về hình thức bên ngoài của
(một hoặc nhiều) sự vật, hiện tượng chuẩn bị nghiên cứu chúng sâu hơn về bản chất bằng
các hoạt động tư duy (nhận thức lí tính).
1.1.3 Nhận thức lý tính
Để các kết quả của tri giác trở thành có ý nghĩa, chủ thể phải suy ngẫm bằng các
hoạt động phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, so sánh, khái quát hóa,...v.v..mà ta gọi đó
là các hoạt động tư duy để tiến tới các quá trình qui nạp hoặc diễn dịch để phản ánh cái
bản chất bên trong của sự vật hiện tượng. Đây là quá trình hình thành một lí thuyết nào đó.

Trong quá trình này, tư duy ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng và nó phải thể hiện các
kết quả bằng ngôn ngữ (viết hoặc nói).
Xu thế đổi mới giáo dục hiện nay là đào tạo nên những con người thông minh, sáng
tạo, đứng trước một vấn đề phải biết soi xét, áp dụng vào hoàn cảnh thực tế. Đây là mức
độ nhận thức cao hơn về chất so với cảm giác, tri giác. Tư duy trừu tượng, khái quát đến
mấy cũng phải dựa vào các tài liệu trực quan mà cảm giác và tri giác đưa lại. Hơn nữa
muốn tư duy trước hết phải tri giác được hoàn cảnh có vấn đề, tri giác được các sự kiện.
Kết quả của tư duy phải được kiểm tra trong thực tiễn và lại thông qua các quá trình nhận
thức cảm tính để đánh giá…
Như vậy để phát huy được hết các đặc điểm tâm lý nói trên đối với người học,
trong các hoạt động này đòi hỏi người học phải vận động tích cực, bắt tay vào nhiệm vụ
học tập như tri giác, tư duy, tưởng tượng cao độ…Trong điều kiện giảng dạy, học sinh
thoải mái đón nhận nhiệm vụ học tập, tích cực hợp tác, thì không có gì khó khăn, nhưng
vào các trường hợp ngược lại, hoặc lượng thông tin quá nhiều, thời gian thực hiện quá lâu
thì lại mang ý nghĩa ngược lại. Trong tâm lý của con người, ai cũng muốn mình hoàn
thiện, muốn tìm đến cái mới và hữu ích hơn. Vì thế để giảng dạy có hiệu quả, phải cần
9


thay đổi phương pháp, phương tiện dạy học. Do đó mà dạy học bằng MVT có thể kết hợp
được các ưu điểm của các họat động tâm lý nói trên.
Nói như vậy để ta khẳng định lại nhận thức luận mà Lê – nin đã viết: “Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thức hiện thực khách quan”.
Cũng chính từ quan điểm nhận thức ấy mà trong dạy học cần các phương tiện trực quan
như mô hình, biểu bảng, hình ảnh, thí nghiệm,…Và trong thời đại ngày nay, chúng ta có
thêm nhiều công cụ hiện đại để trực quan hóa bài học. Chiếc máy tính đã giúp cho quá
trình nhận thức cảm tính (các hình ảnh động và cố định, các biểu bảng,…) được tích cực
hóa. Tuy nhiên với những kỹ xảo của các chương trình hiện nay, chiếc máy tính làm cho
con người nhanh chóng đạt được kết quả của nhận thức lí tính (biễu diễn, mổ xẻ và mô

phỏng sự vật, hình tượng hóa sự việc,…). Việc dùng PowerPoint để dạy học cũng với mục
đích trên, nếu chỉ xét về mặt tâm lý.
1.1.4 Vai trò của thí nghiệm trong dạy học
1.1.4.1 Vai trò của thí nghiệm theo quan điểm nhận thức
a) Thí nghiệm là phương tiện thu nhận tri thức
Thí nghiệm là một phương tiện quan trọng của hoạt động nhận thức của con người,
thông qua thí nghiệm con người sẽ thu nhận được những tri thức khoa học cần thiết nhằm
nâng cao năng lực của bản thân để có thể tác động và cải tạo thực tiển.Trong dạy học thí
nghiệm là phương tiện của hoạt động nhận thức của HS, nó giúp người học tìm kiếm và
thu nhận kiến thúc khoa học cần thiết.
b)Thí nghiệm là phương tiện kiểm tra tính đúng đắn của những tri thức đã thu nhận
Trong khoa học, phương pháp thực nghiệm được coi là “hòn đã thử vàng” của mọi
tri thức chân chính. Bởi vậy, thí nghiệm có chức năng kiểm tra trong việc kiểm tra tính
đúng đắn của tri thức đã thu nhận.
c)Thí nghiệm là phương tiện để vận dụng tri thức vào thực tiễn
Trong quá trình vận dụng kiến thức vào thực tiễn, vào việc thiết kế và chế tạo các
thiết bị kĩ thuật, người ta gặp phải những khó khăn nhất định do tính khái quát và trừu
tượng của các tri thức cần vận dụng, cũng như tính phức tạp của các thiết bị cần chế tạo.
Trong trường hợp đó thí nghiệm sử dụng với tư cách là thử nghiệm cho việc vận dụng tri
thức vào thực tiễn.
d) Thí nghiệm là một bộ phận của nghiên cứu nhận thức
10


Thí nghiệm luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong phương pháp nhận thức
khoa học, chẳng hạn: đối với phương pháp thực nghiệm, thí nghiệm luôn có mặt ở nhiều
khâu khác nhau: làm xuất hiện các vấn đề nghiên cứu, kiểm tra tính đúng đắn của giả
thuyết. Trong phương pháp mô hình, thí nghiệm giúp ta thu thập thông tin về đối tượng
gốc làm cơ sở cho việc xây dựng mô hình. Ngoài ra đối với mô hình vật chất, điều bắt
buộc là người ta tiến hành các thí nghiệm thực sự với nó.Cuối cùng, nhờ những kết quả

của thí nghiệm được tiến hành trên vật gốc tạo cơ sở để đối chiếu với kêt quả thu được từ
mô hình, qua đó có thể kiểm tra tính đúng đắn của mô hình được xây dựng và chỉ ra giới
hạn áp dụng của nó.
1.1.4.2 Vai trò của thí nghiệm theo quan điểm lí luận dạy học
a) Thí nghiệm có thể sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của tiến trình dạy
học
Thí nghiệm có thể sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của tiến trình dạy
học: đề xuất vấn đề nghiêm cứu, giải quyết vấn đề (hình thành kiến thức, kĩ năng mới….),
củng cố kiến thức và kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng, kĩ xảo học HS.
b) Thí nghiệm góp phần vào việc phát triển toàn diện HS.
Việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện
những phẩm chất và kĩ năng của học sinh, đưa đến sự phất triển toàn diện cho người
học.Trước hết thí nghiệm là phương tiện nhằm nâng cao kiến thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ
xảo cho HS.
c) Thí nghiệm là phương tiện góp phần quan trọng vào việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp
cho HS
Qua thí nghiệm HS có nhiều cơ hội trong rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành, góp
phần thiết thực vào việc giáo dục tổng hợp cho HS. Thí nghiệm còn là điều kiện để học
sinh rèn luyện phẩm chất của người lao động mới ,như:đức tính cẩn thận, kiên trì, …..
d) Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập của HS
Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú, là yếu tố kích thích tính tò mò
ham hiểu biêt học tập của HS, nhờ đó làm cho các em tích cực và sáng tạo hơn trong quá
trình nhận thức.
e) Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức hoạt động của HS
Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức làm việc độc lập hoặc là tập thể,
qua đó góp phần bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức của HS. Qua thí nghiệm học sinh phải
11


làm việc tự lực hoặc là phối hợp tập thể, nhờ đó có thể phát huy vai trò cá nhân hoặc là

tính cộng đồng trách nhiệm trong công việc của các em.
f) Thí nghiệm vật lý làm đơn giản hóa các hiện tiện và quá trình vật lý
Thí nghiệm vật lí góp phần đơn giản hóa các hiện tượng, tạo trực quan sinh động
nhằm hổ trợ tư duy trừu tượng của HS, giúp cho học sinh tư duy trên những đối tượng cụ
thể, những hiện tượng và quá trình đang diễn ra trước mắt họ. Các hiện tượng xảy ra trong
tự nhiên vô cùng phức tạp, có mối quan hệ chằng chịt lấy nhau , do đó không thể cùng
một lúc phân biệt những tính chất đặc trưng của từng hiện tượng riêng lẻ, cũng như không
cùng lúc phân biệt được ảnh hưởng của tính chất này lên tính chất khác.
Ngoài ra, thí nghiệm vật lí hiểu theo nghĩa rộng là một trong những PPDH dạy
học vật lí ở trường phổ thông đó là cách thức hoạt động của thầy và trò, giúp cho trò
chiếm lĩnh kiieens thức kĩ năng thực hành….
Cuối cùng, thí nghiệm giúp học sinh củng cố niềm tin khoa học nhằm hình thành
thế giới quan duy vật biện chứng cho HS.
1.1.5 Phân loại thí nghiệm Vật lí
Dựa vào hoạt động của GV và học sinh người ta có thể phân thí nghiệm vật lí thành
các loại sau đây:
- Thí nghiệm biểu diễn
- Thí nghiệm HS
1.1.5.1 Thí nghiệm biểu diễn
a) Phân loại thí nghiệm biểu diễn
- Thí nghiệm mở đầu: là những thí nghiệm dùng để đặt vấn đề định hướng bài học. Thí
nghiệm mở đầu phải hết sức ngắn gọn và cho kết quả ngay.
- Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng mới: được tiên hành trong nghiên cứu bài mới. Thí
nghiệm nghiên cứu hiện tượng mới có thể là thí nghiệm khảo sát hay là thí nghiệm kiểm
chứng.
- Thí nghiệm củng cố: là những this nghiệm dùng để củng cố bài học. Cũng giống với thí
nghiệm mở đầu thí nghiệm củng cố cũng phải ngắn gọn và cho kết quả ngay.
b) Các yêu cầu của thí nghiệm biểu diễn
- Thí nghiệm biểu diễn phải gắng liền hữu cơ với bài giảng.
-Thí nghiệm biểu diễn phải ngắn gọn hợp lí.

-Thí nghiệm biểu diễn phải đủ sức thuyết phục.
12


-Thí nghiệm biểu diễn phải đảm bảo cả lớp quan sát được.
-Thí nghiệm biểu diễn phải đảm bảo an toàn.
c) Kĩ thuật biểu diễn thí nghiệm
-Sắp xếp dụng cụ: Các dụng cụ thí nghiệm phải bố trí và sắp xếp sao cho lôi cuốn sự chú
ý của HS và đảm bảo cả lớp quan sát được.
- Dùng vật chỉ thị: Để tăng cường tính trực quan của thí nghiệm ta có thể dùng các vật chỉ
thị: dùng màu pha vào nước, dùng khói trong thí nghiệm truyền thẳng ánh sáng…..
- Dùng các phương tiện hỗ trợ: máy chiếu, gương phẳng, Video Camera…
1.1.5.2 Thí nghiệm HS
- Thí nghiệm HS: Thí nghiệm trực diện, thí nghiệm thực hành vật lý và thí nghiệm vật lý ở
nhà.
- Trong thí nghiệm học sinh cần chú ý phân nhóm: phải đảm bảo đồng đều chất lượng để
học có thể tương trợ, giúp đở nhau trong quá trình học tập.
1.1.6 Vai trò của phƣơng tiện trực quan trong dạy học
1.1.6.1 Khái niệm
Phương tiện dạy học là các phương tiện được sử dụng trong QTDH, bao gồm các
đồ dùng dạy học, các trang thiết bị kỹ thuật dùng trong dạy học, các thiết bị hỗ trợ và các
điều kiện cơ sở vật chất khác.
Phương tiện trực quan bao gồm mọi thiết bị và kĩ thuật từ đơn giản đến phức tạp
được dùng trong QTDH để hổ trợ cho quá trình dạy và học của GV và HS. Phương tiện
trực quan tác động trực tiếp đến giác quan của người học, qua đó những thông tin được
học sinh tiếp thu và xử lí.
Theo Lotsklinbo: “PTDH là tất cả những phương tiện vật chất cần thiết giúp GV
hay HS tổ chức tiến hành hợp lý, có hiệu quả quá trình giáo dục và giáo dưỡng ở các cấp
học, ở các lĩnh vực, các môn học để có thể thực hiện những yêu cầu của chương trình
giảng dạy. PTTQ bao gồm mọi thiết kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp được dùng trong

QTDH, để làm dễ dàng cho sự truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo”.
1.1.6.2 Chức năng của phƣơng tiện trực quan
a) Chức năng của phương tiện trực quan theo quan điểm lí luận nhận thức
PTTQ góp phần hỗ trợ cho quá trình nhận thức của HS, định hướng hoạt động
nhận thức của HS trong QTDH và kích thích hứng thú hoạt động nhận thức của HS.

13


Ngoài ra PTTQ còn góp phần phát triển năng lực làm việc độc lập sáng tạo của HS,
qua đó góp phần rèn luyện phẩm chất người lao động mới.
PTTQ là nguồn chứa đựng thông tin tri thức hết sức phong phú và sinh động, giúp
HS lĩnh hội tri thức đầy đủ và chính xác, đồng thời giúp củng cố, khắc sâu, mở rộng, nâng
cao và hoàn thiện tri thức. Qua đó rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy tìm tòi
sáng tạo, năng lực quan sát, phân tích tổng hợp, tình hình phát triển động cơ học tập tích
cực, làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học. Từ đó có khả năng vận dụng những
tri thức đã học vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống.
b) Chức năng của phương tiện trực quan theo quan điểm lí luận dạy học
Trực quan trong dạy- học là một nguyên tắc lý luận dạy- học ra đời sớm nhất. Từ
cổ xưa, người ta đã sử dụng nó trong quá trình truyền đạt những kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ
xảo, ở những chỗ mà lời giảng không đủ để đảm bảo cho trẻ em hiểu thấu được đối tượng.
J.A.Cômenxki (1592 - 1679) nhà giáo dục nổi tiếng Slovakia được xem là
người đầu tiên nêu ra luận đề cơ bản về giảng dạy trực quan. Theo ông, không hề có gì hết
trong trí não nếu như trước đây không có gì trong cảm giác. Vì vậy, dạy- học không thể
bắt đầu từ sự vật mà phải từ sự quan sát trực tiếp của chúng. Trực quan được xem là một
phương tiện phản ánh khách quan, trung thực vào đối tượng và các quá trình của thế giới
hiện thực, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với việc phát triển tư duy trừu tượng của HS.
PTTQ là một công cụ trợ giúp đắc lực cho GV trong quá trình tổ chức hoạt động
dạy học ở tất cả các khâu của QTDH. Nó không thể thiếu trong việc vận dụng phối hợp
các PPDH cụ thể, giúp GV trình bày bài giảng một cách tinh giảm nhưng đầy đủ, sâu sắc

và sinh động, điều khiển quá trình nhận thức của HS một cách hiệu quả, sánh tạo.
PTTQ là những phương tiện chứa đựng và chuyển tải thông tin nhằm đáp ứng nhu
cầu nhận thức, phát triển, giáo dục của quá trình sư phạm. Tuy nhiên, PTTQ có giá trị dạy
học cao hay thấp hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ sư phạm trong quá trình nghiên cứu
xây dựng và sử dụng của người GV. Nếu trong giờ học, PTTQ được sử dụng không hợp
lý sẽ dẫn đến những hậu quả xấu về mặt sư phạm và kinh tế. Chúng có thể phá vỡ cấu trúc
bài giảng, phân tán sự chú ý của HS, lãng phí thời gian và tiền của. Vì vậy, một trong
những vấn đề quan trọng hàng đầu là việc nghiên cứu xây dựng và sử dụng các PTTQ
phải gắn liền với việc hướng dẫn sử dụng có hiệu quả cho đội ngũ GV. Đây cũng chính là
một vấn đề còn ít được quan tâm đầy đủ, và là một khâu yếu nhất trong nhà trường phổ
thông hiện nay.
14


Trong lí luận dạy học, quá trình dạy học là một quá trình truyền thông tin bao gồm
sự lựa chọn sắp xếp và truyền đạt thông tin trong một môi trường sư phạm thích hợp tối
ưu cho người học. Trong bất kỳ tình huống dạy- học cũng có một thông điệp để dạy, cũng
có thể là các câu hỏi về nội dung cho người học, và các phản hồi từ người học, kể cả sự
kiểm soát quá trình này về sự nhận xét đánh giá các câu trả lời hay các thông tin khác.
PTTQ chính là các cầu nối truyền thông tin từ GV tới HS và ngược lại. Mỗi môn học đều
cần có các PTTQ phù hợp, đặc biệt là trong thế kỷ 21 với sự bùng nổ của thông tin thì
PTTQ lại càng có vai trò quan trọng hơn.
1.1.6.3 Các loại phƣơng tiện trực quan
a)Các phương tiện trực quan truyền thống
-Các vật thật trong đời sống và kĩ thuật.
-Các thiết bị thí nghiệm dùng làm thí nghiệm hoặc thí nghiệm HS.
-Các mô hình vật chất như: mô hình máy biến thế, mô hình động cơ điện, …..
-Bảng.
-Tranh ảnh, biểu bảng và các bảng vẽ sẵn.
-Các tài liệu in: SGK, sách bài tập,……..

b) Các tổ hợp các phương tiện trực quan, phương tiện đa năng trong dạy học
- Tổ hợp máy tính và máy chiếu đa chức năng (Projector).
- Tổ hợp máy Scanner, máy vi tính và máy chiếu đa chức năng.
- Tổ hợp máy camera, máy chiếu đa chức năng hoặc là video và tivi.

1.2 Cơ sở lý luận dạy học
1.2.1 Quá trình dạy học (QTDH)
Khái niệm này đã được đề cập ở trên. Song để hiểu được điều này một cách cụ thể, người
ta phải biết xem nội dung bên trong nó là gì, nó được xây dựng bởi những yếu tố (thành
tố) cơ bản nào và tìm hiểu ý nghĩa của các thành tố đó.
1.2.1.1 Sơ lược các thành tố của quá trình dạy học
Các thành tố của quá trình dạy học
* Các thành tố phi vật chất:
- Mục tiêu đào tạo: Thành tố này chi phối toàn bộ việc dạy học của chúng ta, hay nói
khác đi nó qui định mức độ cũng như chất lượng cấu thành của các thành tố khác trong
QTDH. Thành tố này luôn được điều chỉnh bởi xã hội, vì vậy các thành tố khác cũng phải
thay đổi cho phù hợp.
15


- Phương pháp dạy và phương pháp học: Thành tố này thể hiện ra bên ngoài ở người
dạy và người học, là con đường, cách thức để QTDH đạt được mục đích dạy học. Thành
tố này cũng vận động khi mục tiêu đào tạo thay đổi.
- Thành tố môi trường xã hội và môi trường giáo dục: Thành tố này bao gồm thể chế
xã hội – quy định mục tiêu đào tạo – môi trường xã hội quanh trường, tập thể học sinh, tập
thể giáo viên - ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu đào tạo. Đây là thành tố quan trọng, ảnh
hưởng mạnh mẽ đến QTDH.
* Các thành tố mang tính vật chất:
- Người dạy: Cùng với mục tiêu đào tạo, thành tố này chỉ đạo trong QTDH.
- Người học: Đây là thành tố vừa bị chỉ đạo bởi các thành tố khác, đặc biệt là người

dạy, vừa là tự chỉ đạo (chủ động) trong QTDH.
- Phương tiện dạy học: Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển rất cao về phương tiện
nghe nhìn và máy móc thông tin. Nếu ngành giáo dục tận dụng được các phương tiện hiện
đại vào dạy học thì có thể nói QTDH trong thời đại mới sẽ thay đổi sâu sắc về hình thức
lẫn chất lượng.
Thế nhưng mục đích của ta là đi tìm bản chất của QTDH. Ở trên ta thấy nổi bật lên
hai thành tố chính yếu mà nếu không có chúng thì sẽ không có quá trình dạy học, đó là
người dạy và người học. Nói rõ hơn, đó là quá trình làm việc của người học và bản chất
của QTDH cũng được thể hiện ra ở mối quan hệ giữa hai thành tố này, đặc biệt là sự vận
động bên trong của quá trình học dưới sự hổ trợ, dẫn dắt của người dạy.
Hoạt động giảng dạy của giáo viên giữ vai trò chủ đạo: Tổ chức, lãnh đạo, điều
khiển quá trình dạy học. Người học trong quá trình học tập, vừa là đối tượng, vừa là khách
thể của hoạt động dạy, vừa là chủ thể của hoạt động nhận thức, chủ thể chiếm lĩnh tri thức,
kỹ năng theo mục đích, nhiệm vụ của quá trình dạy học. Họ không ngừng phát huy tính
cao độ tự giác, tính tích cực, tính sáng tạo, tính độc lập trong học tập dưới sự hướng dẫn,
điều khiển của giáo viên.
Để đảm bảo được sự thống nhất giữa vai trò tổ chức, điều khiển quá trình học tập
của người học, trước hết hoạt động dạy học phải tiến hành hướng về người học, phải phát
huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của họ, tạo điều kiện để họ có thể học bằng hoạt động
của chính mình.

16


1.2.1.2 Mối liên hệ nghịch giữa hoạt động dạy và hoạt động học
Nếu như quan sát sơ đồ dưới đây:

Ta thấy rằng mũi tên chỉ theo hai chiều: Chiều thuận (ngược chiều kim đồng hồ)
chỉ liên hệ thuận tác động từ người dạy (D) đến người học (H) – Quan hệ điều khiển.
Chiều ngược lại chỉ liên hệ nghịch từ người học đến người dạy hoặc đến các đối tượng

của hoạt động học, gọi lại mối liên hệ nghịch ngoài. Riêng mối liên hệ nghịch từ kết quả
đến người học là mối liên hệ nghịch trong, thể hiện sự tự điều chỉnh của bản thân người
học các hoạt động học của mình (gọi là liên hệ nghịch trong).
Các mối liên hệ xuôi là các hoạt động dạy học – các hoạt động chỉ đạo. Sự thể hiện
các mối liên hệ này không hoàn toàn như trước đây. Các hoạt động dạy có thể không xuất
hiện thường xuyên và tường minh. Nghĩa là, không phải lúc nào người dạy cũng đứng trên
bục giảng, trước mặt học sinh. Thầy có thể đứng ngoài lớp học, thậm chí ở nhà nhưng học
sinh phải làm việc theo sự hướng dẫn của thầy.
Thầy đứng trước lớp nhưng không phải lúc nào cũng thuyết giảng mà có thể thầy
hướng dẫn học sinh học tập, thảo luận,…Trong dạy học tích cực, các hoạt động ấy nằm
trong quan hệ chỉ đạo từ thầy đến trò. Các hoạt động chỉ đạo còn bao gồm cả việc hướng
dẫn học sinh lựa chọn nội dung tham khảo ở nhà, chọn bài tập để làm, giới thiệu cho học
sinh phương pháp học sao cho thích hợp với mỗi các nhân.
Trong lý luận dạy học hiện đại, người ta quan tâm nhiều đến các mối quan hệ
nghịch. Bên cạnh việc học SGK học sinh còn phải đi thư viện theo sự giới thiệu của thầy
17


trên lớp. Đặc biệt quan trọng là mối quan hệ nghịch từ học sinh tới thầy. Trong quá trình
học tập, học sinh phản hồi những thăc mắc, mâu thuẫn trong tư duy phát triển QTDH. Sự
“giao lưu” này cùng kết quả kiểm tra, thầy đánh giá được học sinh của mình và cũng từ đó
thầy tự điều chỉnh các hoạt động chỉ đạo của mình cho sát với khả năng của từng lớp, từng
học sinh. Muốn có QTDH tối ưu, thầy phải tự điều chỉnh hoạt động dạy của mình cho
thích hợp, quan tâm nhiều đến phương pháp dạy, dạy như thế nào để đi đôi với hành. Như
vậy việc sử dụng các phương tiện trực quan trong giảng dạy là hết sức cần thiết, như vậy
MVT trở thành phương tiện không thể thiếu trong QTDH.
Theo lý thuyết này thì việc sử dụng MVT để hổ trợ cho dạy học sẽ đáp ứng ở mức
độ cao sự chỉ đạo của thầy cũng như giữ được mối quan hệ xuôi và ngược ở mức độ cao.
Việc thiết kế giáo án dạy học trên máy tính sẽ thể hiện rất rõ sự chỉ đạo của thầy: lúc nào
cần đưa nội dung, lúc nào đưa các hình ảnh mô phỏng, lúc nào để cho học sinh hoạt

động,…Phản ứng của học sinh trong giờ học (phấn khởi, ngạc nhiên, nhàm chán,…) sẽ
được thể hiện trong khi trình diễn các trang PowerPoint. Sự tự điều chỉnh của giáo viên sẽ
được thể hiện ở việc thầy sửa chữa, cập nhật các trang PowerPoint của mình ngay sau giờ
giảng.
1.2.2 MVT đƣợc nhìn dƣới góc độ sƣ phạm
QTDH là quá trình hoạt động của thầy lẫn trò, đôi khi riêng biệt, đôi khi chung, nó
diễn ra không chỉ ở lớp học mà còn ở nhà, ngoài xã hội. QTDH bao gồm cả việc dạy bài
học mới, ôn tập, kiểm tra, đánh giá.
Với tính cách là một công cụ dạy học bình đẳng với các công cụ truyền thống khác,
MVT có thể sử dụng theo hướng khác nhau với nhiều mục đích khác nhau. Trước hết,
chiếc máy tính như là phương tiện trực quan trong QTDH.
1.2.2.1 MVT – Phương tiện trực quan hiện đại trong QTDH
Trong mỗi nội dung dạy học đòi hỏi phải có những phương pháp và phương tiện
dạy học tương ứng. Ngày nay, mục đích của QTDH là đào tạo nên những con người thông
minh, sáng tạo, phù hợp với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật. Chính vì vậy mà nội
dung dạy học cũng đã được điều chỉnh và phương tiện dạy học cũng đã được cải tiến, hiện
đại hóa. MVT là một phương tiện dạy học hiện đại. Việc sử dụng MVT trong dạy học có
những đặc điểm sau:
-

Tăng tính trực quan, sự hứng thú học tập kích thích sự chú ý của học sinh ở mức độ

cao.
18


-

Giao tiếp người – máy trong quá trình học tập là hoàn toàn chủ động theo sự điều


khiển của giáo viên và học sinh.
-

Tạo cơ hội để chương trình hóa không chỉ nội dung tri thức mà cả những con

đường nắm vững tri thức, điều khiển được QTDH.
-

Giảm thời gian viết, nói của giáo viên trên lớp vì nhiều nội dung đã được chuẩn bị

trên màn hình, kể cả những hình ảnh động. Cụ thể, đối với việc sử dụng phần mềm
PowerPoint trong giảng dạy Điện học, những hình ảnh, những kết quả của lý thuyết được
ghi nhận lại và được trình diễn lại. Đối tượng học tập coi như đã tri giác thực tế và hình
dung được nội dung đó.
-

Dạy học với MVT không bị hạn chế, gò bó theo thời gian biểu, có thể thực hiện

dạy học ở tình huống “không lớp” như phụ đạo riêng cho một số người, giao nhiệm vụ
cho học sinh về nhà tự học trên máy, trong đĩa CD..v..v..
-

MVT cho phép củng cố ngay lập tức và thường xuyên hơn so với dạy học truyền

thống, kế thừa kết quả của hoạt động trước đó.
-

Cá thể hóa hoạt động học tập của học sinh ở mức độ cao. Học sinh có thể được

giao nhiệm vụ học tập với mức độ riêng phù hợp với khả năng, đặc điểm tâm lý và điều

kiện học tập của từng cá nhân.
-

Các mô hình, hiện tượng,…khi quan sát có sự trợ giúp của MVT được thực hiện

một cách nhanh chóng với độ chính xác cao.
-

Các số liệu, hình ảnh, đánh giá và biểu diễn linh hoạt.

-

Với các phần mềm thích hợp, với các thiết bị ngoại vi kèm theo có thể xây dựng

được phần mềm giảng dạy Điện học cho tất cả các đối tượng như chương trình đào tạo từ
xa, qua mạng Internet. Đây là vấn đề mà Đảng và nhà nước ta đang quan tâm. Thông qua
Internet chúng ta có thể lấy được những thông tin mới nhất liên quan đến nội dung dạy
học.
-

Việc sử dụng MVT trong dạy học cũng làm thay đổi nội dung và phương pháp dạy

học của giáo viên. Hình thức tổ chức dạy học cũng từ đó được cải tiến, hoàn thiện theo
hướng linh hoạt phong phú hơn.
1.2.2.2 Các xu hướng sử dụng MVT ở trường Phổ thông
Giáo dục tin học cho học sinh thông qua giảng dạy các môn học khác, sử dụng hình
thức nội, ngoại khóa,…Sự nghiệp giáo dục phải đáp ứng những đòi hỏi của xã hội. Đó là
yêu cầu có tính chất nguyên tắc. Trong thời đại ngày nay MVT trở thành học vấn phổ
19



thông của mọi thành viên trong xã hội. Nếu như sự phát triển mạnh mẽ và ứng dụng rộng
rãi của tin học là một đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học công nghệ của thế
kỷ này thì việc đưa tin học vào nhà trường cũng là một bước ngoặc trọng đại trong sự
nghiệp đào tạo, nó vừa sử dụng công nghệ thông tin cho chính nó, nó cũng vừa đào tạo
cho xã hội những con người ra đời tiếp cận với MVT để làm việc.
Có hai xu hướng để đưa tin học vào trường phổ thông:
-

Đưa tin học vào chương trình giảng dạy, xem tin học như một môn học tương tự

các môn học khác (thực tế đã thực hiện tại hầu hết các trường phổ thông hiện nay).
-

Sử dụng MVT như một công cụ dạy học: công cụ xử lí số liệu trong phòng thí

nghiệm và công cụ trực tiếp phục vụ cho người giáo viên trên lớp.
Dưới đây em chỉ đề cập đến xu hướng thứ hai có liên quan trực tiếp tới đề tài này.
1.2.2.3 Sử dụng máy tính như công cụ dạy học
a. Mô phỏng các nội dung dạy học
Theo hướng này, các môn học chẳng hạn như Vật Lý, Toán, Hóa Học, Sinh Học và
cả các môn kỹ thuật sẽ có rất nhiều lợi thế trong việc tận dụng màn hình của chiếc MVT.
Với các ngôn ngữ lập trình không đến nỗi phức tạp lắm như: Pascal, Visualbasic, htlm và
đặc biệt là các phần mềm sẵn có (Maple, Mathlap, Interactive Physic 2000,…), nếu biết
kết hợp những lợi điểm của MVT cùng với những ưu thế tuyệt đối của người giáo viên về
những ý tưởng cũng như những cái nhìn mang tính sư phạm, chúng ta có thể biểu diễn các
hình ảnh, hiện tượng cũng như các thí nghiệm trên màn hình, giả sử áp dụng cho mô
phỏng Vật Lý:
-


Biễu diễn cái cụ thể nhưng rất trừu tượng (hệ chuyển động tương đối - hệ quy
chiếu).

-

Có thể làm chậm hóa một vấn đề để quan sát (hình ảnh dòng điện chạy trong dây
dẫn).

-

Biễu diễn các hiện tượng của Vật Lý vĩ mô có bản chất mang tính vi mô (biễu diễn
sự truyền dao động của sóng ngang, sóng dọc, sự dính ướt,…).

-

Biễu diễn dao động cơ điều hòa và trực quan hóa sự biến đổi năng lượng trong
khung dao động điện,…

-

Mô phỏng nguyên tắc cấu tạo và hoạt động của các động cơ, mô phỏng các hiện
tượng Vật Lý.

20


×