Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN CÁCH HỌC TRUYỀN THỐNG VÀ SƠ ĐỒ TƯ DUY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.51 KB, 27 trang )

TIỂU LUẬN
Lý do chọn đề tài
Bước vào ngưỡng cửa đại học là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của mỗi con người. Đó
cũng là lúc chúng ta phải tự thay đổi chính mình để trở thành những bạn trẻ tự tin và năng động
để thích nghi với môi trường mới – môi trường đại học đầy gian nan và thử thách. Trong những
sự đổi thay ấy, cần có sự thay đổi về phương pháp học tập bởi đó là yếu tố chính quyết định
kết quả học tập của mỗi sinh viên. Phương pháp học chính là “chìa khóa” của sự thành công.
Cũng vì tầm quan trọng của “chiếc chìa khóa vô hình” ấy mà nhiều công trình nghiên cứu về
phương pháp học đã ra đời để mang lại cho học sinh, sinh viên những phương pháp học hiệu
quả.
Trong một thế giới bùng nổ thông tin như hiện nay, việc học tập chăm chỉ vẫn chưa phải là giải
pháp tối ưu, bởi khi có nhiều sự lựa chọn thì vấn đề không chỉ là học cái gì mà còn là học như
thế nào và sử dụng công việc gì. Các phương pháp luận học tập đã đem lại thành công cho
chúng ta trong quá khứ đang gặp nhiều thách thức. Thông tin đa chiều và thực tế yêu cầu
chúng ta không chỉ có kiến thức mà còn có khả năng tạo ra giá trị gia tăng từ kiến thức. Nếu ví
thông tin như các yếu tố đầu vào, còn kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc là yếu tố đầu ra thì
“hộp đen” hay “bộ vi xử lý” chính là bộ não của chúng ta. Thực tế, chúng ta có thể dành nhiều
thời gian để học cách sử dụng tốt một chiếc máy tính, nhưng lại ít quan tâm đến cơ chế hoạt
động, xử lý thông tin, phân tích, tổng hợp, sáng tạo… của cỗ máy kỳ diệu là bộ não.
Bản đồ tư duy là một hệ thống có tính cách mạng trong việc lập kế hoạch và ghi chú nhanh
những công việc cần làm đã giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Bản đồ tư duy là một hệ thống kiến thức được tóm tắt ngắn gọn bằng những “nhánh cây”,
những ký hiệu và những hình ảnh sinh động nhằm mô tả phần kiến thức mà ta muốn biểu thị.
Vì đặc điểm ngắn gọn mà người học có thể ghi nhớ kiến thức một cách nhanh chóng, và những
tri thức cũng được sắp xếp vào não bộ một cách hết sức khoa học. Bên cạnh những đặc tính
ưu việt trên, Bản đồ tư duy với sự phong phú về hình ảnh và màu sắc đã kích thích trí tưởng
tượng và niềm say mê, hứng thú của người học, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận
của bộ não.
Ngành Khoa học quản lý là một ngành yêu cầu tính tổ chức, sắp xếp và điều hành công
việc cao. Tuy nhiên, việc học tập của sinh viên lớp Khoa học quản lý K8, trường Đại học
Khoa học từ trước tới nay chủ yếu học tập, ghi chép những thông tin, bài giảng bằng chữ, ký


tự, đường thẳng, con số. Với cách học tập này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não
– não trái, mà chưa hề sử dụng kỹ năng nào bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin
về nhịp điệu, màu sắc, không gian và sự mơ mộng. Hay nói cách khác, chúng ta vẫn thường
đang chỉ sử dụng 50% khả năng bộ não của chúng ta khi ghi nhận thông tin. Những bài giảng
nhiều chữ và khó ghi nhớ, không tạo hứng thú và thu hút sinh viên. Việc học tập, ôn luyện mỗi
kỳ thi trở lên vô cùng vất vả, áp lực bài vở lớn.
Nhằm hướng đến một phương phương pháp học tập chủ động, tích cực. Không chỉ giúp sinh
viên khám phá các kiến thức mới mà còn giúp hệ thống được những kiến thức đó. Từ đó, giúp
sinh viên lớp KHQL K8 có được phương pháp học tập tích cực, tăng tính độc lập, chủ động,
sáng tạo và phát triển tư duy. Tôi đã chọn đề tài “Thực trạng phương pháp học tập truyền
thống và giải pháp ứng dụng bản đồ tư duy để đổi mới phương pháp học tập của sinh
viên lớp KHQL K8, trường Đại học Khoa học” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan nghiên cứu
Trên thế giới hiện nay đang diễn ra những chuyển biến trong lĩnh vực giáo dục. Xu hướng giáo
dục đang phát triển với mục tiêu: đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, phát huy tính
tích cực, chủ động cũng như khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học.
Trong xu hướng đó, Giáo dục Việt Nam cũng đã và đang có nhiều thay đổi mau lẹ, mạnh mẽ để
hòa nhập với nền giáo dục hiện đại trên thế giới, đặc biệt là vấn đề đổi mới phương pháp dạy
và học trong nhà trường.


Tại Nghi quyết của hội nghị TW lần thứ 2 BCH TW Đảng khóa VIII (2- 1996) có đoạn: “Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học” .
Cũng tại Khoản 2, Điều 5, Luật giáo dục 2005 cũng đã khẳng định: “Phương pháp giáo dục phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người
học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” .
Hiện nay, học tập theo Bản đồ tư duy là một phương pháp học được khuyến khích áp dụng
rộng rãi, nhất là đối với sinh viên. Trong xu thế hội nhập của đất nước, vai trò của phương pháp
học này càng trở nên quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả học tập của người học

nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Phương pháp học tập này đã được nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề cập tới
trong các công trình nghiên cứu của mình và đã đem lại những đóng góp to lớn với những
thành tựu đáng kể, giúp sinh viên tìm thấy niềm đam mê, hứng thú và chủ động hơn trong quá
trình học tập, tích lũy kiến thức, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Nhưng nó vẫn còn
mang tính chung chung hoặc chỉ có thể áp dụng cho những đối tượng cụ thể, với những môn
học riêng lẻ.
Trường Đại học Khoa học mới bắt đầu tuyển sinh đào tạo trình độ đại học từ năm 2002. Hiện
chưa có một nghiên cứu nào cụ thể đề cập tới phương pháp học tập theo Bản đồ tư duy cho
sinh viên, nên đây là một hướng tiếp cận mới. Nếu đưa ra những giải pháp thích hợp trong việc
áp dụng hình thức học tập này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên Khoa học
quản lý K8 nói riêng, Đại học Khoa học nói chung.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài hướng đến việc làm rõ thực trạng phương pháp học tập truyền thống và đề ra giải pháp
ứng dụng bản đồ tư duy để đổi mới phương pháp học tập của sinh viên lớp KHQL K8, trường
Đại học Khoa học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Xây dựng cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài (sẽ giải quyết ở chương 1):
+ Cơ sở lý luận (gồm: Khái niệm phương pháp học tập, phương pháp học truyền thống, và đổi
mới phương pháp học tập. Bản đồ tư duy: khái niệm, lịch sử, tác dụng và cách thiết lập).
+ Cơ sở thực tiễn (gồm: Tổng quan chung về trường Đại học Khoa học. Tổng quan về bộ môn
Khoa học quản lý- Khoa Văn – Xã hội. Tổng quan về lớp KHQL K8).
– Làm rõ thực trạng phương pháp học tập truyền thống của sinh viên lớp KHQL K8 (sẽ được
giải quyết ở chương 2):
+ Phương pháp học tập truyền thống của bản thân sinh viên lớp KHQL K8 (gồm: phương pháp
lập kế hoạch học tập, phương pháp ghi chép bài, phương pháp thuyết trình, phương pháp đọc
tài liệu, phương pháp tự học, phương pháp học nhóm, phương pháp làm đề cương ôn tập).
+ Những hạn chế và nguyên nhân của phương pháp học tập truyền thống (gồm: Những hạn
chế còn tồn tại của phương pháp học tập truyền thống. Nguyên nhân của những hạn chế đó).

– Đề xuất giải pháp pháp ứng dụng bản đồ tư duy để đổi mới phương pháp học tập của sinh
viên lớp KHQL K8, trường Đại học Khoa học (sẽ được làm rõ ở chương 3):
+ Những giải pháp ứng dụng bản đồ tư duy để đổi mới phương pháp học tập của sinh viên lớp
KHQL K8 (gồm: Đổi mới phương pháp lập kế hoạch học tập. Đổi mới phương pháp ghi chép
bài. Đổi mới phương pháp thuyết trình. Đổi mới phương pháp đọc tài liệu. Đổi mới phương pháp
tự học. Đổi mới phương pháp học nhóm. Đổi mới phương pháp làm đề cương ôn tập).
+ Những khuyến nghị (gồm: Những khuyến nghị liên quan đến sinh viên. Những khuyến nghị
liên quan đến tập thể lớp. Những khuyến nghị liên quan đến giảng viên. Những khuyến nghị
liên quan đến nhà trường).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


– Phương pháp học tập truyền thống của sinh viên lớp KHQL K8, trường ĐHKH, Đại học Thái
Nguyên
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi đối tượng:
– Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp ứng dụng bản đồ tư duy để nâng cao hiệu
quả học tập trong sinh viên lớp Khoa học quản lý K8, Đại học Khoa học.
Phạm vi không gian: Lớp KHQL K8, trường ĐHKH, Đại học Thái Nguyên.
Phạm vi thời gian:

Thời gian khảo sát số liệu: 2010- 2012

Thời gian thực hiện đề tài: 3/2012- 3/2013
5. Vấn đề nghiên cứu
– Vấn đề nghiên cứu 1: Thực trạng về phương pháp học tập truyền thống của sinh viên lớp
KHQL K8, trường Đại học Khoa học hiện nay như thế nào?
– Vấn đề nghiên cứu 2: Giải pháp nào giúp ứng dụng bản đồ tư duy để đổi mới phương pháp
học tập của sinh viên lớp KHQL K8, trường Đại học Khoa học?

6. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu 1: Hiện nay, sinh viên lớp KHQL K8 đang sử dụng rất nhiều các phương
pháp học tập truyền thống, nhưng trong phạm vi đề tài này, những phương pháp truyền thống
mà chúng tôi quan tâm bao gồm:
– Phương pháp lập kế hoạch học tập
– Phương pháp ghi chép bài
– Phương pháp thuyết trình
– Phương pháp đọc tài liệu
– Phương pháp tự học
– Phương pháp học nhóm
– Phương pháp làm đề cương ôn tập
Giả thuyết nghiên cứu 2: Để đổi mới phương pháp học tập của sinh viên lớp KHQL K8 tác giả
đề xuất giải pháp ứng dụng bản đồ tư duy trong:
– Đổi mới phương pháp lập kế hoạch học tập
– Đổi mới phương pháp ghi chép bài
– Đổi mới phương pháp thuyết trình
– Đổi mới phương pháp đọc tài liệu
– Đổi mới phương pháp tự học
– Đổi mới phương pháp học nhóm
– Đổi mới phương pháp làm đề cương ôn tập
7. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã áp dụng những phương
pháp cụ thể sau:
a. Phương pháp quan sát:
Phương pháp quan sát cho phép thu thập kết quả từ việc ghi chép, hoặc những phương tiện
công nghệ cao như: máy ghi âm, quay phim…Nhằm quan sát thực tế phương pháp học tập
truyền thống của sinh viên lớp KHQL K8, trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên.
b. Phương pháp thu thập phân tích tài liệu:
– Tài liệu viết: Dựa vào vở ghi, đề cương ôn tập của sinh viên.
– Tài liệu thống kê: Dựa vào những số liệu, bảng thống kê về kết quả học tập của sinh viên lớp
KHQL K8, trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên.

c. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Đối tượng phỏng vấn: Sinh viên lớp KHQL K8, giáo viên liên quan đến lớp KHQL K8
trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên.
d. Phương pháp dùng bảng hỏi:
– Đối tượng: Sinh viên lớp KHQL K8, trường Đại học Khoa học
Dự kiến phát 137 phiếu bảng hỏi


=> Mục đích nhằm thăm dò ý kiến, thái độ của sinh viên lớp KHQL K8 về phương pháp học tập
kiểu truyền thống, khảo sát về nhu cầu ứng dụng bản đồ tư duy vào việc học tập của sinh viên
lớp KHQL K8 và đánh giá những mặt mạnh của việc ứng dụng bản đồ tư duy.
8. Ý nghĩa của đề tài
a. Ý nghĩa về mặt lí luận
– Hoàn thành đề tài cho đóng góp về mặt lí luận: làm phong phú thêm cơ sở lý thuyết của việc
ứng dụng bản đồ tư duy trong học tập.
b. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
– Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu đề tài có thể đưa ra những nhận định đánh giá về
phương pháp học tập truyền thống của sinh viên lớp KHQL K8, đề xuất giải pháp ứng dụng bản
đồ tư duy để đổi mới phương pháp học tập của sinh viên lớp KHQL K8, trường Đại học Khoa
học.
– Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm về phương pháp học tập
bằng bản đồ tư duy.
9. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung báo cáo
chia làm 3 chương:
+ Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài của đề tài
+ Chương 2: Thực trạng phương pháp học tập truyền thống của sinh viên lớp KHQL K8,
trường Đại hoc Khoa học
+ Chương 3: Những giải pháp và khuyến nghị nhằm ứng dụng bản đồ tư duy để đổi mới
phương pháp học tập của sinh viên lớp KHQL K8, trường Đại hoc Khoa học


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm phương pháp học tập, phương pháp học truyền thống, và đổi mới
phương pháp học tập
a, Khái niệm phương pháp học tập
i) Khái niệm phương pháp
Theo từ điển Tiếng Việt: “Phương pháp là cách thức tiến hành để có hiệu quả”.
Theo quan điểm Triết học: “Phương pháp là hình thái chiếm lĩnh hiện thực, sự chiếm lĩnh hiện
thực trong các hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn” .
(Bách khoa toàn thư triết học (Liên Xô),tập III, tr409). Phương pháp chính là cách thức làm việc
của chủ thể, cách thức này tùy thuộc vào nội dung “Phương pháp là sự vận động bên trong của
nội dung”(Hêghen).
Thuật ngữ “Phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (methodos) có nghĩa là con đường để đạt
mục đích. Theo đó, Phương pháp học tập là con đường để đạt mục đích học tập.
Theo Lexicon der Padagogik: “Phương pháp giúp để trình bày có lý lẽ vững vàng một chân lý
đã xác định rồi hoặc để vạch ra một con đường tìm tòi một chân lý mới”.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Phương pháp là các cách thức được sử dụng để tìm
kiếm luận cứ và tổ chức luận cứ để chứng minh luận điểm (luận đề). Phương pháp là cách thức
hành động được chủ thể sử dụng nhằm thực hiện một mục đích nhất định nào đó”.
Như vậy, tóm lại có thể hiểu: “Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện để đạt tới
mục đích nhất định trong nhận thức và trong thực tiễn”.
ii) Khái niệm học tập


Theo GS Nguyễn Ngọc Quang, nghiên cứu dạy học theo quan điểm quá trình: “Học là quá trình
tự điều khiển tối ưu sự chiếm lĩnh khái niệm khoa học, bằng cách đó hình thành cấu trúc tâm lý
mới, phát triển nhân cách toàn diện. Vai trò tự điều khiển của quá trình học thể hiện ở sự tự

giác, tích cực, tự lực và sáng tạo dưới sự điều khiển của thầy, nhằm chiếm lĩnh khái niệm khoa
học. Học có 2 chức năng kép là lĩnh hội và tự điều khiển”.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện khoa học xã hội Việt Nam – Viện ngôn ngữ học: “Học tập là
học và luyện tập để hiểu biết và có kỹ năng”.
Như vậy, ta có thể đi đến một khái niệm chung nhất về học tập là: “Học tập là một loại hình hoạt
động được thực hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động dạy, giúp người học lĩnh hội tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, những phương thức hành vi nhằm phát triển nhân cách toàn diện”.
iii) Phương pháp học tập
Tùy theo quan niệm về mối quan hệ trong quá trình học tập , đã có nhiều định nghĩa khác nhau
về phương pháp học tập. Từ khái niệm “phương pháp” và “học tập” ta có thể định nghĩa về
phương pháp học tập như sau: “ Phương pháp học tập là hệ thống tác động liên tục của giáo
viên và sinh viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của sinh viên để lĩnh hội
vững chắc các thành phần của nội dung giáo dục nhằm đạt được mục tiêu đã định” hay nói một
cách khái quát chung: “Phương pháp học tập là con đường để đạt mục đích học tập”
b, Khái niệm đổi mới , đổi mới phương pháp học tập
i) Khái niệm đổi mới
Theo từ điển Tiếng Việt, năm 2008: “ Đổi mới là thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ
hơn so với trước, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển”. Đổi mới là cải cách cái lỗi thời, cái cũ
thay vào đó là thừa kế cái tốt thay cái mới hợp với thời đại mới. Đó là con đường tiến hóa của
nền văn minh. Đổi mới không bao giờ là đủ cả, nó kéo dài theo chiều dài của lịch sử. Đó là kết
luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về tính biện chứng của quá trình phát triển, về tính phản tương
thích giữa thượng tầng kiến trúc và cơ sở hạ tầng xã hội cũng như sự đấu tranh thường xuyên
giữa chúng để thúc đẩy tiến trình lịch sử đi lên.
Như vậy: “Đổi mới là thay đổi, kế thừa cái cũ và tiếp thu những cái mới một cách linh hoạt, phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay”.
ii) Khái niệm đổi mới phương pháp học tập
Đổi mới phương pháp học tập có thể hiểu là “con đường tốt nhất để đạt chất lượng và hiệu quả
học tập cao”. Đổi mới phương pháp học tập về bản chất là sự đổi mới cách thức tổ chức học
tập theo quan điểm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học.
* Quan điểm về đổi mới phương pháp học tập

Đổi mới giáo dục nói chung, và đổi mới phương pháp học tập nói riêng là quy luật tất yếu của
chính bản thân người làm công tác giáo dục, của giáo viên và sinh viên trongđiều kiện mới.
Đổi mới phương pháp học tập là thay đổi, kế thừa các phương pháp học tập truyền thống và
tiếp thu các phương pháp học tập mới một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện. Hoàn cảnh,
để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Đổi mới không phải thay cái cũ bằng cái mới. Nó là sự kế thừa, sử dụng một cách có chọn lọc
và sáng tạo hệ thống phương pháp học tập truyền thống hiện còn có giá trị tích cực trong việc
hình thành tri thức, rèn luyện kỹ năng, kinh nghiệm và phát triển thái độ tích cực đối với đời
sống, chiếm lĩnh các giá trị xã hội. Đổi mới phương pháp học tập theo hướng khắc phục những
phương pháp lạc hậu, tăng cường vận dụng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật, CNTT,
nhằm tạo điều kiện cho người học hoạt động tích cực, độc lập và sáng tạo.
1.1.2. Khái niệm bản đồ tư duy, lịch sử hình thành, tác dụng và cách thành lập bản đồ tư
duy
a, Khái niệm bản đồ tư duy
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Bản đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp được đưa
ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là
cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược
đồ phân nhánh. Khác với máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo 1 trình


tự nhất định chẳng hạn như trình tự biến cố xuất hiện của 1 câu truyện) thì não bộ còn có khả
năng liên lạc, liên hệ các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả năng này
của bộ não”.
Phương pháp này có lẽ đã được nhiều người Việt biết đến nhưng nó chưa bao giờ được hệ
thống hóa và được nghiên cứu kĩ lưỡng và phổ biến chính thức trong nước mà chỉ được dùng
tản mạn trong giới sinh viên học sinh trước các mùa thi.
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng giản đồ ý, tổng thể của vấn đề
được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng thì liên hệ với nhau bằng các đường
nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ và nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều biểu thị toàn bộ cấu trúc chi tiết của một đối tượng

bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của đối tượng, sự quan hệ hỗ tương giữa các
khái niệm (hay ý) có liên quan và cách liên hệ giữa chúng với nhau bên trong của một vấn đề
lớn.
Theo Tony Buzan, người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra bản đồ tư duy thì: “Bản đồ tư duy là
một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở
giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ
được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho các ý chính và đều được nối với các ý trung
tâm. Với phương thức tiến dần từ trung tâm ra xung quanh, bản đồ tư duy khiến tư duy con
người cũng phải hoạt động tương tự. Từ đó các ý tưởng của con người sẽ phát triển”.
Hình 1.1. Bản đồ tư duy trong kế hoạch công việc hằng ngày
Như vậy ta có thể đi đến một khái niệm chung nhất về bản đồ tư duy là: “Bản đồ tư duy
(MindMap) là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một
chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường
nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ
lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một
kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề
nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng Bản đồ tư duy theo một cách riêng. Do đó, việc
lập Bản đồ tư duy phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người”.
b, Lịch sử hình thành bản đồ tư duy
Phương pháp này được phát triển vào cuối thập niên 60 (của thế kỉ 20) bởi Tony Buzan như là
một cách để giúp học sinh “ghi lại bài giảng” mà chỉ dùng các từ then chốt và các hình ảnh.
Cách ghi chép này sẽ nhanh hơn, dễ nhớ và dễ ôn tập hơn.
Đến giữa thập niên 70 Peter Russell đã làm việc chung với Tony và họ đã truyền bá kĩ xảo về
giản đồ ý cho nhiều cơ quan quốc tế cũng như các học viện giáo dục
c, Tác dụng (lợi ích) của việc ứng dụng bản đồ tư duy
* Trong cuộc sống:
– Ghi chú: Khi thông tin được gợi ra, Bản đồ tư duy (Mind maps) giúp tổ chức thông tin theo
một hình thức mà dễ dàng được xuất hiện và ghi nhớ. Được sử dụng để ghi chú tất cả các loại
sách vở, bài giảng, hội họp, phỏng vấn, và đàm thoại.
– Gợi nhớ, hồi tưởng: Bất cứ khi nào thông tin được xuất hiện từ trong bộ não thì Mind maps

cho phép các ý tưởng được ghi lại rất nhanh ngay sau khi nó được sinh ra vào một hệ được tổ
chức. Vì thế chẳng cần phải viết cả một câu. Nó như một phương tiện nhanh và hiệu quả trong
việc tổng quát và vì thế có thể giữ lại các hồi tưởng rất nhanh gọn.
– Sáng tạo: Bất cứ khi nào bạn muốn khuyến khích sự sáng tạo, Mind maps sẽ giúp bạn giải
phóng cách suy diễn cổ điển theo phương thức ghi chép sự kiện theo dòng cho phép các ý
tưởng mới được hình thành nhanh chóng theo luồng tư duy xuất hiện.
Hình 1.2. Sử dụng bản đồ tư duy giúp phát huy tính sáng tạo


– Giải quyết vấn đề: Khi bạn gặp trở ngại với một vấn đề, Mind maps có thể giúp bạn nhìn nhận
tất cả các vấn đề và làm thế nào để liên kết chúng lại với nhau. Nó cũng giúp bạn có được cái
nhìn tổng quát là bạn có thể nhìn nhận vấn đề dưới góc độ nào và sự quan trọng của nó.
– Trình bày (trình diễn): Mind maps không chỉ giúp ta tổ chức các ý kiến hợp lý, dễ hiểu mà còn
giúp ta trình bày mà không cần phải nhìn vào biên bản có sẵn.
* Trong giáo dục, đào tạo:
– BĐTD giúp sinh viên học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho
sinh viên không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học.
Thực tế cho thấy một số sinh viên học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn toán, các
em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên
kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần
sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để
lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong
dạy học HS sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển
tư duy.
– BĐTD giúp sinh viên học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não
của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra
theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy
động tối đa tiềm năng của bộ não.
Hình 1.3. Bản đồ tư duy trong học môn văn học
– BĐTD giúp sinh viên ghi chép có hiệu quả: Do đặc điểm của BĐTD nên người thiết kế BĐTD

phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy,
sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả.
Tác giả Stella Cottrell đã tổng kết cách “ghi chép” có hiệu quả trên BĐTD: 1). Dùng từ khóa và ý
chính; 2). Viết cụm từ, không viết thành câu; 3). Dùng các từ viết tắt. 4).Có tiêu đề. 5). Đánh số
các ý; 6). Liên kết ý nên dùng nét đứt, mũi tên, số, màu sắc,… 7). Ghi chép nguồn gốc thông tin
để có thể tra cứu lại dễ dàng. 8). Sử dụng màu sắc để ghi.
– Sử dụng BĐTD giúp GV chủ nhiệm, cán bộ quản lí nhà trường lập kế hoạch công tác và có
cái nhìn tổng quát toàn bộ kế hoạch từ chỉ tiêu, phương hướng, biện pháp,…và dễ theo dõi quá
trình thực hiện đồng thời có thể bổ sung thêm các chỉ tiêu, biện pháp,…một cách rất dễ dàng so
với việc viết kế hoạch theo cách thông thường thành các dòng chữ.
Hình 1.4. Bản đồ tư duy tóm lược 5 nội dung của phong trào thi đua “xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”
BĐTD có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện
nay. Có thể thiết kế BĐTD trên giấy, bìa, bảng phụ,… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm
bản đồ tư duy.
Việc sử dụng BĐTD giúp cán bộ quản lí có cái nhìn tổng quát toàn bộ vấn đề, giúp GV đổi mới
PPDH, giúp sinh viên học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển
khai nội dung dạy học có hiệu quả – nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong
trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo
phát động.
d, Cách thành lập bản đồ tư duy
Cho dù vẽ bằng tay hay bằng máy chúng ta đều có thể thực hiện theo các bước sau:
– Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang) hoặc trên máy.
+ Người vẽ sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có thể thay thế cho cả
ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình. Sau đó có thể bổ sung từ
ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
+ Nên sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh.
+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn tượng sâu sắc về chủ đề.





Bước
2: Vẽ
thêm
các
tiêu
đề
phụ
vào
chủ
đề
trung
tâm.
+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách
dễ dàng.
– Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ.
+ Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ chỉ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh.
+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian.
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Trên mỗi khúc
nên
chỉ

tối
đa
một
từ
khóa.

+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến các
nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng đường kẻ. Các đường kẻ càng
ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong được tổ chức rõ
ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu sắc khi
đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
– Bước 4: Người vẽ có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật cũng
như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tổng quan chung về trường Đại học Khoa học
a, Khái quát về trường ĐHKH
Trường Đại học Khoa học thuộc Đại học Thái Nguyên tiền thân là Khoa Khoa học Tự nhiên,
được thành lập năm 2002 theo Quyết định số 1286/QĐ-BGD&ĐT-TCCB ngày 28/ 03/ 2002 Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT).Đến tháng 11/ 2006, để phù hợp với sự mở rộng
của quy mô và ngành đào tạo, Giám đốc ĐHTN đã ký Quyết định số 803/QĐ-TCCB đổi tên
Khoa Khoa học Tự nhiên thành Khoa Khoa học Tự nhiên và Xã hội. Tháng 12/ 2008, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 1901/QĐ – TTg ngày 23/ 12/ 2008 về việc thành lập trường Đại
học Khoa học trên cơ sở nâng cấp khoa Khoa học Tự nhiên và Xã hội thuộc ĐHTN.
Trường ĐHKH có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học (NCKH), ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc. Trường là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách
pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
Nhiệm vụ của trường là đào tạo cán bộ có trình độ đại học và sau đại học phục vụ cho sự phát
triển kinh tế – xã hội của khu vực và đất nước. Triển khai các đề tài NCKH, ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội phục
vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội của khu vực và đất nước. Trường thực hiện nhiệm vụ quản
lý đào tạo, NCKH, tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất và các mặt công tác khác của trường theo
quy định của Nhà nước, Bộ GD&ĐT và sự phân cấp của ĐHTN; Là đơn vị dự toán và kế toán
hành chính sự nghiệp cấp 3 thuộc ĐHTN.

Hình 1.5. Trường Đại học Khoa học, ĐHTN
Sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển, hiện nay trường ĐHKH đang đào tạo các chuyên
ngành sau: Cử nhân Toán, Toán-Tin, Lý, Hóa, Khoa học Môi trường, Sinh học, Công nghệ sinh
học, Lịch sử, Văn học, Khoa học quản lý, Công tác xã hội, Du lịch, Báo chí, Luật học, thạc sỹ
ngành Toán, Sinh, Tiến sỹ ngành Hóa Sinh. Các thế hệ cán bộ giảng viên của nhà trường đã
góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ các tỉnh trong cả nước, đặc biệt là
vùng trung du và miền núi phía Bắc.
Trong thời gian tới, Nhà trường sẽ điều chỉnh xây dựng các chuyên ngành đào tạo sau đại học
theo hướng nhu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế. Chủ trương của Nhà trường là giữ vững
quy mô đào tạo đại học chính quy ở mức ổn định phù hợp với quy mô ngành nghề. Chú trọng


tăng cường đào tạo trình độ sau đại học với chất lượng cao, đồng thời đáp ứng yêu cầu đào
tạo của hệ không chính quy, văn bằng 2, liên thông với chỉ tiêu tuyển sinh và quy mô đào tạo
thích hợp. Quy mô sinh viên nhập học trong 3 năm gần đây cho thấy số lượng đều tăng lên
hàng năm.
b, Cơ sở vật chất của nhà trường
Tổng diện tích xây dựng là 3482 m2 gồm: 1563 m2 phòng học, 534 m2 khu văn phòng, 875 m2
phòng thí nghiệm, 71 m2 thư viện, 02 phòng máy tính với diện tích 175 m2, Hội trường có diện
tích 526 m2, 2110 m2 ký túc xá. Trường đã được nhận 73.532 m2 đất đã được đền bù giải
phóng trong tổng số 21,1 ha đất đã quy hoạch cho trường. Là trường thành viên của Đại học
Thái Nguyên nên trường có thể được sử dụng hệ thống cơ sở vật chất của các đơn vị thành
viên khác trong Đại học Thái Nguyên để phục vụ cho cho quá trình đào tạo, vì vậy cơ sở vật
chất cơ bản đã đáp ứng được nhiệm vụ đào tạo.
Để phục vụ cho đào tạo, nghiên cứu khoa học, trường đã có một hệ thống các phòng thí
nghiệm thuộc các chuyên ngành: Hoá học; Vật lý; Sinh học; Công nghệ sinh học; Khoa học Trái
đất; Khoa học Môi trường. Các phòng thí nghiệm của trường đã được cung cấp các trang thiết
bị từ các dự án “Dự án nâng cao chất lượng giáo dục đại học – Mức 2 QIG B”; Các dự án
chương trình mục tiêu năm 2008; năm 2009, Đây là hệ thống các thiết bị thí nghiệm đồng bộ,
đáp ứng được với các chương trình đạo tạo do Bộ GD&ĐT đặt ra.

Giai đoạn 2010 đến 2015:
– Giải phóng toàn bộ diện tích đất đã được phê duyệt theo Quy hoạch để có thể xây dựng
Giảng đường; Thư viện; Phòng thí nghiệm; Văn phòng; Ký túc xá, Nhà ăn cho sinh viên; Sân
chơi, bãi tập; Hội trường, nhà thi đấu…
– Xây dựng các dự án chương trình mục tiêu và dự án tăng cường năng lực để củng cố và bổ
sung thêm trang thiết bị cho các phòng thí nghiệm đã có, xây dựng thêm một số phòng thí
nghiệm chuyên ngành đáp ứng được với sự phát triển của trường.
– Củng cố và tăng cường các trang thiết bị về công nghệ thông tin đủ đáp ứng cho nhu cầu
quản lý, nhu cầu dạy và học theo phương pháp tiên tiến, nghiên cứu khoa học, chuyển giao
công nghệ và hợp tác quốc tế.
Giai đoạn 2016 đến 2020:
– Xây dựng thêm giảng đường trung tâm thí nghiệm và nghiên cứu khoa học để đáp ứng với
quy mô phát triển của trường.
– Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống ký túc xá, nhà ăn, sân chơi, bãi tập.
– Tăng cường năng lực công nghệ thông tin.
* KẾ HOẠCH XÂY DỰNG CƠ BẢN CỦA TRƯỜNG NHƯ SAU:

TT

T. gian khởi
công

T.gian hoàn
thành

Tên hạng mục công trình

1

01/2010


12/2015

Giải phóng mặt bằng theo Quy hoạch

2

06/2009

06/2010

Nhà Giảng đường 5 tầng ( Nhà B2)

3

05/2010

05/2011

Nhà Giảng đường 5 tầng ( Nhà B1)

4

05/2010

05/2011

Nhà Giảng đường 5 tầng ( Nhà B3)

5


05/2011

05/2012

Nhà Hiệu bộ + nghiên cứu

6

06/2009

08/2014

06 Nhà ký túc xá SV

7

01/2011

10/2011

Nhà ăn sinh viên

Diện
( m2
130.800


8


05/2011

05/2012

Thư viện( phòng đọc 150 chỗ )

9

05/2011

05/2013

Xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu

10

05/2014

05/2015

Trung tâm thí nghiệm, NCKH

11

05/2014

05/2015

Hội trường 1200 khán giả


12

05/2015

05/2016

Trung tâm GDTC

13

05/2015

05/2016

Sân bóng đá

14

05/2015

05/2018

Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật

* Về trang thiết bị:
– Xây dựng các dự án chương trình mục tiêu từng năm nhằm tăng cường trang thiết bị cho các
phòng thí nghiệm.
– Tích cực xây dựng các dự án tăng cường năng lực:
+ Năm 2010-2011 hoàn thiện dự án và chuẩn bị cơ sở để tiếp nhận trang thiết bị của dự án
tăng cường năng lực cho ngành Khoa học Môi trường với tổng kinh phí là 3,3 tỷ đồng.

+ Từ 2011-2013: Xây dựng và xin phê duyệt dự án tăng cường năng lực cho ngành Công
nghệ Sinh học với tổng kinh phí là 7.5 tỷ đồng.
+ Từ 2014-2020: Xây dựng và xin phê duyệt dự án thành lập trung tâm thí nghiệm Vật lý hiện
đại bằng nguồn vốn xây dựng cơ bản với kinh phí từ 30 đến 40 tỷ đồng.
– Tăng cường tiết kiệm, tích cực tìm nguồn huy động vốn đề không ngừng bổ sung, đổi mới
trang thiệt bị phục vụ cho mọi hoạt động của nhà trường.
c, Đội ngũ cán bộ giảng viên và sinh viên của nhà trường
* Đội ngũ cán bộ giảng viên
Hiện tại trường gồm có 6 Khoa chuyên môn, 2 Bộ môn với đội ngũ cán bộ giảng viên trẻ, sáng
tạo, nhiệt tình. Có thể thấy: đội ngũ cán bộ giáo viên của trường không ngừng tăng lên về số
lượng cũng như chất lượng. Trình độ của cán bộ, giáo viên được nâng cao.
Có nhiều giảng viên được cử đi học cao học, nghiên cứu sinh ở trong và ngoài nước. Tuy
nhiên, về mặt số lượng cán bộ giảng viên thì mức tăng qua các năm là tương đối chậm so với
quy mô đào tạo của trường. Nếu 2006 tổng số lượng cán bộ, giảng viên là 93 người thì tới năm
2011 mức này tăng lên 277 người. Mặt khác với 18 chuyên ngành đào tạo khác nhau, số lượng
sinh viên ngày càng tăng thì mức tăng như hiện tại về số lượng cán bộ, giảng viên sẽ không
đáp ứng nhu cầu đào tạo của trường, nhiều môn chuyên ngành phải mời giảng viên từ các
trường khác đến giảng dạy. Bên cạnh đó, nhà trường chưa có cán bộ giảng viên có trình độ
giáo sư, số lượng cán bộ, giảng viên là phó giáo sư và tiến sỹ còn ít. Chiếm đa số trong tổng
đội ngũ giáo viên là trình độ thạc sỹ. Hiện nay, số lượng cán bộ giảng viên có trình độ cử nhân
chiếm khá nhiều. Để đáp ứng với sự phát triển của nhà trường, yêu cầu đặt ra đó là phải không
ngừng nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ giảng viên.
Vì thế, song hành với công tác tuyển chọn cán bộ, giảng viên chuyên ngành một số môn, nhà
trường cũng cần đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành, năng lực chuyên môn cho cán
bộ, giảng viên trong trường
* Sinh viên nhà trường
Hiện nay, trường ĐHKH đang tiến hành đào tạo 4 hệ chính: hệ chính quy, hệ địa chỉ, hệ liên
thông, hệ vừa học vừa làm. Với số lượng sinh viên là 5362 sinh viên, trong đó hệ chính quy có
3476 sinh viên, hệ địa chỉ có 1171 sinh viên, hệ liên thông có 492 sinh viên, hệ vừa học vừa làm
là 223 sinh viên.



Năm học 2008 – 2009 nhà trường đã triển khai, áp dụng hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ
– một phương thức giúp làm tăng tính chủ động của người học, tự tìm tòi, nghiên cứu kiến
thức, phân tích và giải quyết vấn đề. Điều này giúp sinh viên nhà trường nâng cao được tính
chủ động, từ đó nâng cao được chất lượng đào tạo của nhà trường. Trong những năm qua kết
quả học tập của sinh viên đã được cải thiện đáng kể, thể hiện cụ thể trong kết quả học tập của
sinh viên không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên số lượng sinh viên học lực trung bình và yếu
vẫn tăng lên. Điều này cho thấy chất lượng đào tạo của nhà trường còn nhiều hạn chế. Nguyên
nhân đầu vào tuyển sinh không cao, nhiều bộ phận sinh viên chưa thích ứng được với hình
thức đào tạo theo tín chỉ, thiếu tính chủ động trong việc học tập và nghiên cứu.
1.2.2. Tổng quan về bộ môn Khoa học quản lý
Được thành lập năm 2006, đến nay, bộ môn KHQL đã và đang đào tạo khoảng 600 sinh viên hệ
chính quy ngành Khoa học Quản lý với 2 chuyên ngành là Quản lý nguồn nhân lực và Quản lý
các vấn đề xã hội và chính sách xã hội. Dự kiến, trong thời gian tới, bộ môn sẽ đưa thêm 1 số
chuyên ngành mới vào chương trình đào tạo như Quản lý văn hóa – dân tộc và tôn giáo, Bảo
hộ sở hữu trí tuệ, Quản lý khoa học và công nghệ để theo kịp với sự phát triển của xã hội.
* Đào tạo:
Với mục tiêu đào tạo những cử nhân vững vàng về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, có khả
năng thực hành nghề, chương trình đào tạo của BM được thiết kế đảm bảo tính mới, cập nhật,
mềm dẻo, linh hoạt. Đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, tận tâm với công việc và không ngừng học
tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ là một lợi thế để bộ môn KHQL có những bước tiến vượt bậc
kể từ khi thành lập đến nay. Cùng với việc áp dụng những phương pháp giảng dạy tiên tiến kết
hợp trang thiết bị hiện đại, giảng viên của bộ môn đã tạo ra những tiết học thực sự lý thú và bổ
ích với sinh viên.
Bên cạnh hoạt động giảng dạy, hoạt động nghiên cứu khoa học cũng được bộ môn chú trọng
quan tâm. Hàng năm, có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học của cán bộ, sinh viên được triển
khai và nghiệm thu đạt kết quả cao. Nhiều đề tài trong số đó đã trở thành nguồn học liệu quan
trọng cho cán bộ, giảng viên của ngành trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu.
* Thực tập, thực tế

Theo học ngành Khoa học quản lý, sinh viên còn có nhiều điều kiện, cơ hội thâm nhập, tìm hiểu
thực tiễn quản lý thông qua các chuyến thực tập, thực tế tại các cơ quan, đơn vị như các sở,
ban, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp, các công ty, doanh nghiệp… Đây là dịp để các bạn kiểm
chứng, tích lũy không chỉ kiến thức mà còn cả kĩ năng làm việc nhằm chuẩn bị những điều kiện
tốt nhất cho quá trình lập nghiệp sau này.
* Ngoại khóa
Với phương châm học đi đôi với hành, học tại nhiều không gian khác nhau, Khoa Văn – Xã hội
không chỉ cập nhật chương trình, xu hướng đào tạo mới mà còn tạo dựng những cơ hội, môi
trường học tập lý thú cho sinh viên thông qua các hoạt động ngoại khóa có tính đặc trưng nghề
nghiệp như chương trình Nhà quản lý tương lai, sinh viên diễn án, tài năng sinh viên… Thông
qua các hoạt động này, sinh viên có thể trao đổi, giao lưu và học hỏi lẫn nhau, đồng thời được
gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với những nhà quản lý thành đạt trên nhiều lĩnh vực, lắng nghe những
chia sẻ và kinh nghiệm quý báu trên con đường vươn tới thành công của họ. Từ đó, giúp cho
sinh viên xác định động cơ, mục đích học tập đúng đắn để có một tương lai tốt đẹp nhất.
* Cơ hội việc làm
Sau khi tốt nghiệp, cử nhân KHQL có thể làm việc tại:
+ Các phòng, ban, phân xưởng, xí nghiệp, doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước hoặc tư nhân
(phòng hành chính – nhân sự, hành chính – tổng hợp, tổ chức cán bộ, tiền lương – tiền
công…);
+ Các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương tới địa phương (UBND và các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND các cấp, chuyên viên các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Bảo hiểm xã hội các cấp, Liên đoàn lao động các cấp…);


+ Công tác trong ngành quản trị kinh doanh, tài chính, ngân hàng, thương mại, bảo hiểm, luật,
chính trị…;
+ Làm công tác giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề.
Với đội ngũ cán bộ năng động, tận tâm với sinh viên, sáng tạo trong công việc, trong những
năm vừa qua, BM KHQL dần khẳng định vị thế của mình với các cơ sở đào tạo khác và là địa

chỉ tin cậy cho những bạn trẻ muốn khẳng định mình trong lĩnh vực quản lý.
* Nghiên cứu khoa học
Từ khi thành lập đến nay, Bộ môn Khoa học quản lý (KHQL) luôn chú trọng vào công tác NCKH
và xem đây là nhiệm vụ then chốt của giảng viên, sinh viên. Nhận thức rõ việc giảng dạy bậc
đại học không thể tách rời hoạt động nghiên cứu khoa học, Bộ môn KHQL đã liên tục động
viên, tạo điều kiện cho các giảng viên, sinh viên công bố kết quả bảo vệ công trình khoa học,
phục vụ công việc nghiên cứu và giảng dạy ở tất cả các hệ đào tạo. Hiện nay, Bộ môn xác định
hướng nghiên cứu cơ bản về quản lý nhân lực, quản lý chính sách, quản lý văn hóa và dân
tộc…. Trong 5 năm đầu hình thành và phát triển, Bộ môn đã tham gia thực hiện 07 đề tài cấp
cơ sở và có 01 đề tài cấp Đại học Thái nguyên đang được đề xuất:
STT

Tên công trình

Chủ nhiệm đề tài

Cấp

Thời gian thực hiện

1

Xây dựng Bộ ngân hàng câu hỏi thi
trắc nghiệm môn Lịch sử tư tưởng và
các học thuyết quản lý
Giảng viên Trần Thị HồngTrường

2009 – 20010

2


Xây dựng bài giảng điện tử môn Quản
lý nguồn nhân lực theo hướng tích
Giảng viên Nguyễn Thị
cực hóa nhận thức của người học
Kim Phương

Trường

2010 – 2011

3

Xây dựng ngân hàng câu hỏi thi trắc
nghiệm cho môn Chính trị học đại
cương”.

Giảng viên Bùi Trọng Tài Trường

2011 – 2012

4

Xây dựng ngân hàng câu hỏi thi trắc
nghiệm trên máy tính học phầnXã hội Giảng viên Nguyễn Thị
học đại cương”.
Kim Phương

Trường


2011 – 2012

5

Xây dựng Bộ ngân hàng câu hỏi thi
trắc nghiệm trên máy tính học
phầnLịch sử tư tưởng quản lý

Giảng viên Trần Thị HồngTrường

2011 – 2012

6

Xây dựng ngân hàng câu hỏi thi trắc
nghiệm học phần Khoa học quản lý
đại cương

Giảng viên Nguyễn Thị
Kim Phương

Đại học

2011 – 2012

7

Xây dựng ngân hàng câu hỏi thi trắc
nghiệm cho môn Tổ chức học đại
cương


Giảng viên Trần Thị HồngTrường

2012 – 2013

8

Thực trạng và giải pháp phát triển thị
trường dịch vụ sở hữu trí tuệ Thái
Nguyên

Giảng viên Nguyễn Thị
Kim Phương

Đại học Thái
Nguyên


Cho đến nay Bộ môn đã hướng dẫn và nghiệm thu 12 Khóa luận tốt nghiệp đại học K5, K6; 15
đề tài NCKH sinh viên, đồng thời hướng dẫn 06 đề tài NCKH K8 đang trong quá trình thực hiện.
Trong thời gian tới, Bộ môn tiếp tục chú trọng vào việc tham gia đăng ký tuyển chọn đề tài các
cấp và đẩy mạnh hoạt động NCKH của sinh viên.
1.2.3. Tổng quan về lớp KHQL K8
a, Khái quát chung về lớp KHQK K8
Là một trong những lớp thành viên của bộ môn Khoa học quản lý. Hiện nay, lớp KHQL K8 hiện
có 137 sinh viên, thuộc 25 tỉnh thành trong đó nhiều nhất là sinh viên thuộc tỉnh Thái Nguyên
với 53 sinh viên. Còn lại là sinh viên thuộc các tỉnh lân cận: Bắc Giang 11 sinh viên, Cao Bằng 9
sinh viên, Bắc Kạn 6 sinh viên, Lạng Sơn 7 sinh viên, Thanh Hóa 5 sinh viên, Hưng Yên 3 sinh
viên, Nghệ An 3 sinh viên, Phú Thọ 3 sinh viên, Sơn La 2 sinh viên, Tuyên Quang 8 sinh viên,
Bắc Ninh 5 sinh viên, Hà Giang 4 sinh viên, Thái Bình 3 sinh viên, ngoài ra còn có sinh viên

thuộc Hà Nội, Yên Bái, Lào Cai, Nam Định, Hà Nam, Quảng Ninh, Quảng Ngãi…
Hình 1.6. Gv chủ nhiệm Bùi Trọng Tài và tập thể sinh viên lớp KHQL K8
* Đội ngũ ban cán sự lớp:
Dưới sự quản lý trực tiếp của giáo viên chủ nhiệm lớp đó là thầy Bùi Trọng Tài, khoa Văn- Xã
hội, hằng năm theo sự chỉ đạo từ đoàn trường ĐHKH, lớp KHQL K8 đều tổ chức đại hội Đoàn,
Lớp, Hội bầu ra những cá nhân có năng lực và được tín nhiệm để lãnh đạo lớp, giúp lớp tiến
bộ. Hiện nay ban cán sự và những sinh viên nằm trong đội ngũ quản lý lớp gồm:
– Ban cán sự lớp: 4 đồng chí (gồm: 1 lớp trưởng, 1 lớp phó học tập, 1 lớp phó văn thể, 1 lớp
phó đời sống)
– Ban chấp hành chi đoàn, chi hội: 3 đồng chí (gồm: 1 bí thư, 1 phó bí thư, 1 ủy viên)
– Ngoài ra còn 14 sinh viên là nhóm trưởng quản lý 14 nhóm sinh viên trong lớp.
Đội ngũ ban cán sự năng động, sáng tạo. Thực hiện tốt những nhiệm vụ cấp trên, phát huy tinh
thần đoàn kết, gắn bó trong nội bộ lớp cũng như với các sinh viên khác trong toàn trường. Các
thành viên trong lớp quan tâm, chăm sóc, và giúp đỡ nhau trong học tập và trong cuộc sống.
Các thành viên không chỉ là bạn học cùng lớp mà còn là những người anh, người chị, người
em trong một gia đình đoàn kết và cùng nhau tiến bộ.
Hình 1.7. Cơ cấu tổ chức của lớp KHQL K8 bằng sơ đồ tư duy
b, Thành tích đạt được của lớp KHQL K8
* Hoạt động trong nội bộ lớp:
– Thường xuyên tổ chức họp lớp, nhận xét, đánh giá những mặt được và chưa được trong
công tác quản lý của ban cán sự, những băn khoăn, thắc mắc của các bạn sinh viên trong lớp
để kịp thời chỉnh đốn, sửa đổi cho phù hợp.
– Tổ chức các buổi giao lưu, gắn kết giữa sinh viên lớp KHQL K8 với các bạn sinh viên lớp Văn
K8.
– Tổ chức sinh nhật cho các thành viên trong lớp, tổ chức mùng 8/3, 20/10…cùng với rất nhiều
chương trình văn nghệ hấp dẫn.
* Tham gia trong các hoạt động của Khoa, của trường:
– Tham gia các mùa thi nấu ăn và cắm hoa của Khoa, của trường và giành giải 3 vào hội thi
ngày 8/3/2011.
– Tham gia các giải bóng đá của Khoa và đã giành được những giải cao: giải nhất đội bóng đá

nữ, và giải 3 bóng đá nam mùa giải năm 2012.
– Tham gia các chương trình văn nghệ của khoa, trường và giành giải cao: giải sinh viên triển
vọng trong cuộc thi Tài năng sinh viên khoa học, giải nhất trong cuộc thi liên hoan văn nghệ
khoa Văn – Xã hội lần thứ nhất tổ chức ngày 23/01/2013.
– Tham gia chương trình nhà quản lý tương lai số 2 và xuất sắc giành giải nhất.
– Tham gia đầy đủ các hoạt động từ thiện của khoa, trường phát động và hoàn thành tốt: như
mua xổ số ủng hộ, mua tăm tre, thu gom giấy vụn, hiến máu nhân đạo, tình nguyện mùa hè
xanh…
Hình 1.8. Một số hoạt động nổi bật của lớp KHQL K8


Từ những cuộc thi và những hoạt động ý nghĩa đã giúp cho sinh viên ngành KHQL K8 phát huy
tính năng động, sáng tạo, tinh thần đoàn kết, đặc biệt là phát huy truyền thống tốt đẹp “lá lành
đùm lá rách”, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn của dân tộc Việt Nam.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP TRUYỀN THỐNG
CỦA SINH VIÊN LỚP KHQL K8, TRƯỜNG ĐHKH
2.1. Phương pháp học tập truyền thống của bản thân sinh viên lớp KHQL K8
2.1.1. Phương pháp lập kế hoạch học tập
Lập kế hoạch học tập là một công việc vô cùng quan trọng đối với mỗi sinh viên, nhằm giúp các
công việc được sắp xếp một cách hợp lý và hiệu quả. Để các công việc được tổ chức lôgic,
trước mỗi kỳ học sinh viên cần lập được kế hoạch của mình, mục tiêu và cách đạt được mục
tiêu.
Khi tiến hành phỏng vấn và trưng cầu nhận thức của sinh viên lớp KHQL K8 về tầm quan trọng
của việc lập kế hoạch trong học tập, tác giả thu được kết quả như sau:
Bảng 2.1: Nhận thức của sinh viên lớp KHQL K8 về tầm quan trọng của việc lập kế hoạch
trong học tập
Câu hỏi

Đáp án


Sự cần thiết của việc lập kế hoạch học tập

Tỉ lệ
(%)
A
Rất cần thiết
94/137
68.61
B
Cần thiết, nhưng nếu không lập kế hoạch học tập cũng không sao
28/137
20.44
C
Không cần thiết
15/137
10.95
Qua bảng số liệu thu thập được cho ta thấy: Có tới 68.61% cho rằng việc lập kế hoạch học tập
là rất cần thiết; 20.44% cho rằng việc lập kế hoạch học tập là cần thiết, nhưng nếu không lập kế
hoạch học tập cũng không sao, không ảnh hưởng gì đến kết quả học tập; 10.95% cho rằng
không cần thiết vì chỉ cần học chăm chỉ là được. Như vậy, có thể thấy sinh hầu hết sinh viên
lớp Khoa học quản lý K8 đều ý thức được tầm quan trong của việc lập kế hoạch trong học tập,
bên cạnh đó vẫn còn 20.44% sinh viên chưa thấy rõ tầm quan trọng và vẫn còn 10.95% sinh
viên thờ ơ, thấy việc lập kế hoạch học tập là không cần thiết, không ảnh hưởng gì đến việc học
tập.
Khi phỏng vấn về hình thức lập kế hoạch trong học tập thì đến 99.27% sinh viên lớp KHQL K8
sử dụng cách lập kế hoạch học tập theo phương pháp truyền thống đó là kế hoạch học tập một
kỳ sẽ được ghi vào một tờ giấy hoặc đánh máy theo hình thức gạch đầu dòng các mục quan
trọng được đánh ký hiệu từ lớn đến mục nhỏ. Bản kế hoạch chỉ viết theo dòng kẻ giấy và chỉ sử
dụng chữ viết và các ký hiệu thông thường như: dấu gạch ngang “ – ”, dấu sao “ * ”, dấu cộng “

+ ”.v.v. và các con số đánh thứ tự đầu mục.
Ví dụ điển hình nhất của kế hoạch học tập đó là thời khóa biểu của sinh viên:

Câu trả lời


Lớp học phần

Học phần

Thời gian

Ðịa điểm

Chính trị học đại cương(212)_L01

GEP231

Từ 24/12/2012 đến 27/04/2013:
Thứ 6 tiết 7,8 (LT)

GDM202 ZM

Nghiệp vụ thư kí văn phòng(212)_L01

OSS421

Từ 24/12/2012 đến 27/04/2013:
Thứ 3 tiết 8,9 (LT)


GDM104 ZM

Quản lí chất lượng(212)_L01

QUM221

Từ 24/12/2012 đến 27/04/2013:
Thứ 4 tiết 7,8,9 (LT)

GDM304 ZM

Quản lí dự án(212)_L01

PRM231

Từ 24/12/2012 đến 27/04/2013:
Thứ 2 tiết 7,8,9 (LT)

GDM301 ZM

Quản lí hành vi trong tổ chức(212)_L01

PBO221

Từ 17/12/2012 đến 22/12/2012:
Chủ nhật tiết 1 (LT)

MG102 Th.H

Tài chính công(212)_L02


PBA221

Từ 24/12/2012 đến 27/04/2013:
Thứ 3 tiết 10,11,12 (LT)

GDM101 ZM

Thực tế chuyên môn QL 2(212)_L01

PMN422

Từ 17/12/2012 đến 22/12/2012:
Chủ nhật tiết 6 (LT)

MG102 Th.H

Tiếng Anh 2(212)_L04

ENG132

Từ 25/02/2013 đến 09/06/2013:
Thứ 4 tiết 10,11,12 (LT)

GDM303 ZM

Hình 2.1 Thời khóa biểu học kỳ 2 năm học 2012- 2013 của bạn
Vương Quang Luân, sinh viên lớp KHQL K8
Nhìn vào thời khóa biểu chúng ta có thể nhận thấy kế hoạch học tập theo phương pháp truyền
thống sử dụng chủ yếu là chữ viết, số, nhìn vào thời khóa biểu này cảm thấy rất rối mắt, khó

nhớ thời gian, địa điểm học.
2.1.2. Phương pháp ghi chép bài
Ghi chép là một việc rất quan trọng trong quá trình học tập. Nghe, nhìn vào người giảng và ghi
chép là ba hoạt động gắn bó mật thiết trong quá trình nghe giảng. Học sinh ghi chép bài tập đầy
đủ và đúng cách sẽ giúp ghi nhớ bài học tốt hơn, việc học tập đạt hiệu quả hơn.
Khi nghiên cứu về phương pháp ghi chép bài tác giả nhận thấy các sinh viên thường ghi bài
theo cách “cô đọc trò ghi” ghi rất nhiều mà không trọng tâm vào nghe, đặt câu hỏi và trả lời câu
hỏi của giáo viên đưa ra. Một quyển vở nhiều chữ, nhìn rất khó nhớ và để tìm lại một khái niệm
hay một công thức tính toán sinh viên phải dở đi dở lại, mất rất nhiều thời gian tìm kiếm. Trong
ghi chép hầu hết các sinh viên không biết phân tích và chọn lọc thông tin, nên thông tin được
ghi lại dài dòng, khó hiểu.
Ghi chép bài theo kiểu truyền thống làm cho sinh viên cảm thấy nhàm chán. Khiến học sinh
không tập trung trong giờ học. Có lẽ sẽ khá khó để tìm thấy một giảng đường mà 100% các
bạn sinh viên đều chăm chú theo dõi và ghi chép bài đầy đủ. Nhiều bạn thường chọn những
chỗ ngồi giáo viên ít để ý để… ngủ, hay online bằng laptop, rồi không ghi bài, hoặc đọc giáo
trình của những môn học khác…
Hình 2.2. Sinh viên không tập trung trong giờ học


2.1.3. Phương pháp thuyết trình
Thuyết trình là trình bày bằng lời trước người nghe về một vấn đề nào đó nhằm cung cấp thông
tin hoặc thuyết phục, gây ảnh hưởng đến người nghe. Một người có hiểu biết sâu rộng và có
khả năng diễn đạt tốt bằng lời nói thì có thể giáo dục, thuyết phục và động viên người khác theo
mong muốn của họ. Khả năng thuyết trình tốt có thể đem lại cho nhà quản lý, nhà điều hành,
kinh doanh hay nhà khoa học thành công. Kỹ năng thuyết trình là một vũ khí vô cùng lợi hại,
một thế mạnh cạnh tranh của con người trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Đối với sinh viên thuyết
trình là một hoạt động không thể thiếu bởi sinh viên thường xuyên được tra cứu tài liệu và trình
bày trước lớp. Có được những bài thuyết trình thành công trước lớp hay trước đám đông sẽ
giúp sinh viên thành công trong học tập trong trường. Kỹ năng này cũng rất cần thiết cho sinh
viên khi trình bày các công trình nghiên cứu, khóa luận, báo cáo khoa học…trong và ngoài

trường.
Khi khảo sát khả năng thuyết trình của các sinh viên lớp KHQL K8 tác giả thu được kết quả ở
Bảng 2.2 như sau:
Bảng 2.2 Khảo sát tự đánh giá khả năng thuyết trình của sinh viên lớp KHQL K8, trường
ĐHKH:
Kết quả
STT

Khả năng thuyết trình

Số lượng

A

Rất tốt

0/137

B

Tốt

24/137

C

Tương đối tốt

48/137


D

Không tốt

65/137

Qua bảng số liệu thu thập cho thấy không có học sinh nào trong lớp nhận thấy rằng mình có
khả năng thuyết trình rất tốt, chiếm 17.51% sinh viên tốt, 30.04% sinh viên thuyết trình tương
đối tốt và chiếm nhiều nhất là 47.45% thuyết trình không tốt.
Khi nghiên cứu tác giả cũng nhận thấy bài thuyết trình của sinh viên và cả những slide bài
giảng của giáo viên thường được trình bày qua powerpoint bằng những slide nhiều chữ, chỉ có
thêm một vài ảnh minh họa, bài thuyết trình trở lên nhàm chán, không thu hút, không gợi sự
sáng tạo của sinh viên..
Hình 2.3 Slide thuyết trình báo cáo thực tế của sinh viên lớp KHQL K8
2.1.4. Phương pháp đọc tài liệu
Sách báo, tài liệu (gọi chung là sách) là kho tàng tri thức nhân loại được lưu lại cho các thế hệ
sau. Đó là nguồn tri thức rất quan trọng và vô tận đối với mọi người, đặc biệt là người trí thức –
trong đó có các bạn sinh viên. Mọi thành công của con người đều là sự kết hợp của nỗ lực sức
lực với tri thức lĩnh hội được từ thầy, từ cuộc sống, từ sách vở.
Hình 2.4 Sách là kho tàng kiến thức vô tận
Khi khảo sát sinh viên lớp KHQL K8 về mức độ thường xuyên của việc đọc tài liệu trong học tập
tác giả đã thu được kết quả sau:
Bảng 2.3 Khảo sát mức độ thường xuyên trong việc đọc, nghiên cứu tài liệu của sinh
viên lớp KHQL K8
Kết quả
STT

Mức độ thường xuyên trong đọc tài liệu

Số lượng



A

Rất thường xuyên

21/137

B

Thường xuyên

39/137

C

Không thường xuyên

65/137

D

Rất không thường xuyên

12/137

Qua bảng số liệu thu thập ta thấy hầu hết sinh viên đều sử dụng phương pháp đọc tài liệu trong
học tập. Tuy nhiên mức độ thường xuyên lại khác nhau trong đó nhiều nhất chiếm 47.45% số
sinh viên không thường xuyên đọc tài liệu, số sinh viên rất thường xuyên chiếm 15.33%,
thường xuyên 20.47%, vẫn còn những sinh viên rất không thường xuyên đọc tài liệu chiếm

8.75%.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả nhận thấy các bạn sinh viên lớp KHQL K8 đọc sách nhiều,
nhưng không trọng điểm, đọc tràn lan, nên thường bị quên rất nhanh. Bên cạnh đó còn có
nhiều trường hợp chọn tài liệu không hợp lý, không phù hợp với mình, nhiệm vụ của mình.
Nguồn tài liệu phục vụ cho việc học tập có rất nhiều ở thư viện trường Đại học Khoa học và đặc
biệt ở Trung tâm Học liệu Thái Nguyên. Vì vậy, khi chọn sách, các bạn chọn đúng sách mà
mình cần, đúng mục đích mà mình hướng tới đồng thời tìm được cách đọc và nghiên cứu tài
liệu hợp lý để giúp việc học tập đạt hiệu quả cao nhất.
2.1.5. Phương pháp tự học
Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh
kiến thức. Trong tự học, bước đầu thường có nhiều lúng túng nhưng chính những lúng túng đó
lại là động lực thúc đẩy sinh viên tư duy để thoát khỏi “lúng túng”, nhờ vậy mà thành thạo lên,
và đã thành thạo thì hay đặt những dấu hỏi, phát hiện vấn đề và từ đó đi đến có đề tài nghiên
cứu. Luật Giáo dục đã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng
năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn
luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”.
Khi nghiên cứu mức độ thường xuyên trong tự học của sinh viên lớp KHQL K8 trong đào tạo
theo hình thức tín chỉ hiện nay, tác giả thu được kết quả khảo sát sau:
Hình 2.5 Mức độ thường xuyên trong tự học của sinh viên lớp KHQL K8 trong đào tạo theo hình
thức tín chỉ
Số liệu ở Hình 2.5 thể hiện đa phần sinh viên lớp KHQL K8, trường Đại học Khoa học chưa
thường xuyên tự học chiếm tới 55%, còn có 12% sinh viên rất không thường xuyên tự học.
Đồng thời khi khảo sát nguyên nhân ảnh hưởng đến vấn đề tự học của sinh viên lớp KHQL K8,
trường ĐHKH tác giả thu được kết quả sau:
Bảng 2.4 Nguyên nhân ảnh hưởng đến vấn đề tự học của sinh viên lớp KHQL K8,
trường ĐHKH
Kết quả
STT

Các nguyên nhân


Số lượng

1

Thiếu phương tiện, nguồn tư liệu học tập

31/137

2

Thiếu thời gian

21/137

3

Chưa có ý thức, động cơ học tập đúng đắn

25/137

4

Chưa có phương pháp, kỹ năng tự học

34/137


5


Gv không giao bài tập tự học, tự nghiên cứu

26/137

Kết quả khảo sát thể hiện những nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên
lớp KHQL K8: thiếu phương tiện, nguồn tư liệu học tập, chưa có phương pháp, kỹ năng tự học,
Gv không giao bài tập tự học, tự . nghiên cứu. Những nguyên nhân vừa nêu xuất phát từ bản
thân sinh viên thiếu kỹ năng tự học, thiếu nguồn tư liệu học tập và giáo viên chưa thúc đẩy hoạt
động tự học của sinh viên.
Qua kết quả nghiên cứu về ý thức tự học của sinh viên lớp KHQL K8 tác giả nhận thấy rằng
hầu hết các sinh viên nhận rõ được tầm quan trọng của tự học. Tuy nhiên, hoạt động tự học
vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó sinh viên chưa giành nhiều thời gian cho việc tự học, chưa xây
dựng và rèn luyện kỹ năng tự học cho bản thân, hình thức tự học chưa hợp lý…
Đối với sinh viên ngành KHQL trường Đại học Khoa học, khối lượng kiến thức sinh viên được
cung cấp bao quát rất nhiều lĩnh vực như: Khoa học quản lý đại cương, Lịch sử tư tưởng quản
lý, Quản lý chất lượng, Quản lý chính sách, Quản lý dự án….Chương trình học bao quát và khá
rộng là khó khăn, thách thức nếu bản thân sinh viên không tự trang bị kiến thức cho bản thân
ngoài giờ học trên lớp. Chính vì vậy, tự học có ý nghĩa hết sức thiết thực đối với sinh viên
ngành KHQL, trường Đại học Khoa học.
2.1.6. Phương pháp học nhóm
Học tập theo nhóm là một phương pháp học tập trong đó các thành viên cùng phối hợp chặt
chẽ với nhau để giải quyết một vấn đề học tập cụ thể nhằm hướng đến một mục tiêu chung;
sản phẩm của nhóm là sản phẩm của trí tuệ tập thể.
Các nhà nghiên cứu đã từng tuyên bố rằng, “cho dù nội dung môn học như thế nào thì sinh
viên làm việc theo từng nhóm nhỏ cũng có khuynh hướng học được nhiều hơn những gì được
dạy và nhớ lâu hơn so với các hình thức dạy học khác’’ (Theo Barbara Gross Davis, Tools for
Teaching)
Học nhóm giúp sinh viên phát huy kỹ năng làm việc nhóm, khả năng sáng tạo của bản thân.
Việc sử dụng bản đồ tư duy trong học nhóm mang lại hiệu quả cao. Từ một yêu cầu lớn mọi
người có thể cùng nhau giải quyết bằng cách vẽ thêm các nhánh, hoàn thiện. Phát huy ý

tưởng, xây dựng được những kiến thức mới từ đó giúp việc học nhóm đạt hiệu quả cao.
Hình 2.6. Buổi học nhóm của một số sinh viên lớp KHQL K8
Kết quả khảo sát mức độ thực hiện các kỹ năng học tập theo nhóm trong sinh viên lớp KHQL
K8 cho thấy các kỹ năng này là một trong những hạn chế của các bạn sinh viên trong lớp.
Tổng hợp kết quả khảo sát được minh họa qua bảng sau:
Bảng 2.5 Bảng tổng hợp đánh giá mức độ thực hiện các kỹ năng của sinh viên lớp KHQL K8
(số lượng 137 sinh viên)
Mức độ thực hiện các kỹ năng
STT

Các kỹ năng

Thành thạo

Chưa th
Tương đốiTT thạo

1

Lập kế hoạch hoạt động nhóm

25

41

40

2

Xây dựng nội quy hoạt động nhóm


18

48

51

3

Phân công nhiệm vụ rõ ràng, hợp lý

21

49

43

4

Thảo luận, trao đổi

20

65

43

5

Nghiên cứu tài liệu


23

70

33


6

Chia sẻ trách nhiệm

24

48

50

7

Lắng nghe một cách chủ động, tích cực

23

59

48

8


Chia sẻ thông tin

24

60

48

9

Giải quyết xung đột

12

39

61

10

Tự kiểm tra – đánh giá hoạt động của nhóm

11

42

52

Từ bảng tổng hợp kết quả điều tra ở trên, cho thấy thực trạng mức độ thực hiện các kỹ năng
học tập theo nhóm ở sinh viên lớp KHQL K8 tác giả thấy rằng sinh viên trong lớp còn hạn chế

về nhiều kỹ năng học tập theo nhóm, đặc biệt là kỹ năng giải quyết xung đột, kỹ năng chia sẻ
trách nhiệm, kỹ năng xây dựng nội quy hoạt động nhóm, kỹ năng tự kiểm tra – đánh giá…, do
đó hoạt động học tập theo nhóm chưa thu được hiệu quả cao.
Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng học tập theo nhóm cần phải rèn luyện, bồi dưỡng các kỹ
năng làm việc nhóm cho sinh viên.
2.1.7. Phương pháp làm đề cương ôn tập
Ôn tập là hình thức nhằm ôn lại, củng cố, hệ thống hóa những kiến thức cơ bản của một
chương trình học. Khâu ôn tập trong quá trình dạy học giữ vai trò rất quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng học tập của sinh viên
Khi nghiên cứu về hình thức làm đề cương ôn tập của sinh viên lớp KHQL K8, tác giả thu được
kết quả như sau:
Bảng 2.6 Hình thức làm đề cương ôn tập của sinh viên lớp KHQL K8
Kết quả
STT

Các hình thức làm đề cương ôn tập

Số lượng

1

Tóm tắt bài học vào một quyển vở ghi

113/137

2

Sử dụng bản đồ tư duy để làm đề cương ôn tập

1/137


3

Không làm đề cương mà chỉ học trong sách giáo khoa, vở ghi

23/137

Từ bảng số liệu điều tra về hình thức làm đề cương ôn tập của sinh viên lớp KHQL K8 cho thấy
hầu hết các sinh viên trong lớp đều nhận thức được tầm quan trọng của việc làm đề cương ôn
tập và sử dụng phương pháp này trong học tập. Số liệu cho thấy có tới 82.48% sinh viên sử
dụng hình thức làm đề cương là tóm tắt bài học vào một quyển vở ghi, chỉ có 0.73% sinh viên
sử dụng bản đồ tư duy để làm đề cương ôn tập. Bên cạnh đó còn có 16.79% sinh viên không
làm đề cương ôn tập mà chỉ học trong vở ghi và sách giáo khoa. Bạn Nguyễn Thị Mai sinh viên
lớp KHQL K8 khi được hỏi về hình thức làm đề cương ôn tập đã trả lời: “Từ hồi đi học tới giờ
mình chỉ sử dụng hình thức làm đề cương ôn tập là ghi tóm tắt bài học vào một quyển vở, quen
rồi. Mình thấy cách làm như vậy tốn rất nhiều thời gian ghi chép, học cũng lâu thuộc mà lại
chóng quên, nhưng mình không biết sử dụng hình thức làm đề cương nào để giúp nhanh thuộc,
nhớ lâu mà lại không nhàm chán nên mình vẫn sử dụng hình thức này”.
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của phương pháp học tập truyền thống.
2.2.1. Những hạn chế còn tồn tại của phương pháp học tập truyền thống
– Phương pháp học tập truyền thống chưa phát huy tính sáng tạo của sinh viên: Với việc học
tập theo kiểu ghi chép “càng nhiều chữ càng tốt” khiến sinh viên chỉ quen với cách học thuộc
lòng, học vẹt, học chỉ để “trả bài” nên kiến thức bị quên rất nhanh.


– Phương pháp truyền thống khiến sinh viên cảm thấy nhàm chán, không hứng thú trong việc
học tập: Kiến thức chuyên ngành đồ sộ khi học theo phương pháp truyền thống khiến không ít
sinh viên cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi khi kỳ thi tới. Vì thế, nhiều bạn sinh viên không học bài,
làm bài tập về nhà, kể cả không ôn tập thi.
– Phương pháp truyền thống khiến kết quả học tập của sinh viên không cao:

Khi đánh giá kết quả học tập 5 kỳ của sinh viên lớp KHQL K8 giai đoạn 2010 – 2012 được thể
hiện trong bảng 2.7 như sau:
Bảng 2.7 Kết quả học tập 5 kỳ của sinh viên lớp KHQL K8
giai đoạn 2010 – 2012

Năm học

Kỳ học

Số lượng sinh
viên

Trong đó
Xất sắc

Giỏi

Khá

Trung b

HK1

140

1

1

46


46

HK2

140

0

4

55

34

HK1

137

0

3

62

50

2011-2012

HK2


137

0

1

36

56

2012-2013

HK1

137

2

11

73

27

2010-2011

( Nguồn: Số liệu điều tra)
Qua bảng số liệu ta thấy rằng số lượng sinh viên lớp KHQL K8 giảm xuống 3 sinh viên trong
năm học 2011-2012. Bằng việc sử dụng phương pháp học tập truyền thống kết quả học tập của

sinh viên lớp KHQL K8 không ổn định, có kỳ không có học sinh xuất sắc nào như kỳ 2 năm học
2010-2011, cả kỳ 1 và kỳ 2 năm học 2011-2012:
– Năm học 2010-2011: Sinh viên đạt loại xuất sắc chiếm 0.357%, sinh viên giỏi chiếm 1.786%,
sinh viên khá chiếm 36.071%, số sinh viên trung bình 28.572%, sinh viên học lực yếu 33.214%.
– Năm học 2011-2012: Không có sinh viên xuất sắc, số sinh viên đạt giỏi là 1.46%, 35.766%
sinh viên loại khá, sinh viên loại trung bình 38.686%, 24.088% sinh viên yếu.
– Kỳ 1 năm học 2012-2013: Có 2 sinh viên học lực xuất sắc chiếm 1.46%, sinh viên giỏi chiếm
8.029%, sinh viên khá 53.285%, 19.708% sinh viên trung bình, và 17.518% sinh viên yếu.
Số sinh viên xuất sắc và giỏi các kỳ học chiếm tỉ trọng rất ít trong tổng số 137 sinh viên, sinh
viên trung bình và đặc biệt là sinh viên yếu chiếm phần lớn trên tổng số lớp. Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng còn nhiều sinh viên có học lực yếu nhưng nguyên nhân cơ bản
nhất có thể do sinh viên thiếu tính chủ động trong học tập, không có phương pháp học tập hợp
lý.
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
a, Về phía nhà trường
– Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ học tập của sinh viên còn thiếu thốn. Các phòng thí nghiệm
ít, trang thiết bị chưa đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên. Hệ thống thư viện của trường
được cải thiện đáng kể nhưng số lượng tài liệu còn ít, chưa đáp ứng được với nhu cầu nghiên
cứu và học tập của sinh viên
– Khối lượng kiến thức cho sinh viên tương đối nặng: Những môn chuyên ngành ít, thực hành
ít, số lượng sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học sinh viên ít, không thu hút nhiều đối tượng
sinh viên.
– Nhà trường chưa tổ chức nhiều hội thảo, cuộc họp về việc xây dựng phương pháp học tập,
giảng dạy hiệu quả cho giảng viên và sinh viên.


– Chính sách khuyến khích và khen thưởng đối với những sinh viên đạt thành tích cao trong
học tập chưa thực sự thu hút, khích lệ sinh viên trong việc học tập và rèn luyện.
b, Về phía giảng viên
– Phương pháp dạy học vẫn còn nhiều hạn chế cần giải quyết. Đó là: phương pháp dạy học

truyền thống thụ động như thuyết trình, truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy
học chủ đạo của nhiều giáo viên, các hoạt động học tập đơn điệu thầy nói – trò nghe, thầy đọc
– trò chép, và thi cử theo lối đánh giá khả năng ghi nhớ – tái hiện. Chưa chú trọng tính thực tiễn
trong dạy học lý thuyết cũng như thực hành…
– Việc đổi mới phương pháp dạy học như nhận thức về sự cần đổi mới và ý thức đổi mới của
một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên chưa cao; kiến thức, năng lực của một bộ phận giáo viên
về phương pháp dạy học còn hạn chế. Chương trình, nội dung dạy học, khối lượng kiến thức
truyền đạt còn nặng so với thời gian dạy học…
– Cách thiết kế bài giảng còn chưa sáng tạo, nhiều chữ, không có tính gợi mở, thu hút chú ý và
khả năng sáng tạo của sinh viên.
Hình 2.7. Slide bài giảng môn Luật hành chính nhiều chữ
c, Về phía sinh viên
– Sinh viên thiếu niềm đam mê học tập và nghiên cứu có thể coi là một trong những nguyên
nhân lớn nhất ở sinh viên lớp KHQL K8 hiện nay. Khi làm một việc gì điều quan trọng nhất là
phải có lòng đam mê, việc học tập vô cùng vất vả, gian nan, kiến thức học tập đồ sộ, nếu sinh
viên không đam mê và kiên trì thì sẽ không thể có được kết quả học tập cao như mong đợi.
– Chưa đặt mục tiêu để hướng tới, đặt ưu tiên cho việc học tập. Nhiều sinh viên không có mục
tiêu và thậm chí không biết mình học làm gì, mong muốn điều gì cho việc học tập, chưa biết ưu
tiên cho việc học tập của mình thể hiện qua việc sinh viên dành ít thời gian cho việc học tập,
nghiên cứu.
– Sinh viên vẫn thiếu cơ hội liên hệ và áp dụng kiến thức học được vào thực tiễn do chương
trình giảng dạy ở bậc đại học tuy đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn quá chú trọng lý thuyết mà
chưa đi liền với thực hành.
– Chưa có phương pháp học tập hợp lý và đúng đắn.
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM ỨNG DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY ĐỂ ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN LỚP KHQL K8, TRƯỜNG ĐHKH
3.1. Những giải pháp ứng dụng bản đồ tư duy để đổi mới phương pháp học tập của sinh
viên lớp KHQL K8
3.1.1. Đổi mới phương pháp lập kế hoạch học tập

Sinh viên lớp KHQL K8 có thể xây dựng bản đồ tư duy cho các kế hoạch học tập, cũng như kế
hoạch cho các hoạt động khác như thể dục, thể thao, các hoạt động ngoại khóa…
Kế hoạch bao gồm các công việc cần làm như: mục tiêu học tập tốt, rèn luyện tốt. Trong từng
mục tiêu lại có những mục tiêu khác nhỏ hơn nhằm thực hiện mục tiêu lớn.
– Học tập tốt bao gồm:
+ Điểm tích lũy đạt bao nhiêu?
+ Để đạt được cần thực hiện những nhiệm vụ gì?
– Rèn luyện tốt bao gồm:
+ Điểm rèn luyện đạt bao nhiêu?
+ Nhiệm vụ cần làm?
Mỗi nhánh lớn bao gồm các nhánh nhỏ hơn từ đó kế hoạch học tập được hoàn thiện dễ dàng
và lôgic.
Cũng là thời khóa biểu học tập kỳ 2 năm học 2012- 2013 của bạn Vương Quang Luân như ở
trên nhưng được mô tả bằng bản đồ tư duy sẽ dễ ghi nhớ môn học, tiết học, giảng đường hơn
nhiều so với phương pháp truyền thống:
Hình 3.1. Thời khóa biểu của bạn Vương Quang Luân lớp KHQL K8 bằng bản đồ tư duy


Nhìn vào thời khóa biểu chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy môn học của từng ngày trong tuần,
có thể nhớ rất nhanh lịch học của cả tuần. Đồng thời cũng giúp tư duy lôgic, sáng tạo
3.1.2. Đổi mới phương pháp ghi chép bài
Để học tập tốt điều quan trọng nhất là tạo được sự hứng thú và niềm yêu thích khi học. Ngoài
việc chú ý nghe giảng chăm chú thì đối với mỗi sinh viên thì việc ghi chép bài là công việc
thường xuyên để tiếp thu kiến thức từ giáo viên.
Hình 3.2. Tại sao nên ghi chép bài
Với cách ghi chép bằng bản đồ tư duy không chỉ tạo cho sinh viên có sự say mê và niềm vui khi
học, giúp việc gho chép dễ dàng hơn, mà còn tạo tính liên kết giữa các bài học. Giúp sinh viên
hiểu bài và còn có thể thuộc bài ngay trên lớp.
Hình 3.3. Cách ghi chép bằng bản đồ tư duy
Để học tốt sinh viên cũng cần chuẩn bị bài mới và học bài cũ. Để chuẩn bị bài mới sinh viên

nên tổng hợp bài học bằng các ý chính, từ ý chính phát triển thành những ý nhỏ hơn. Giúp sinh
viên nắm được bài học, ghi nhớ bài học lâu. Từ đó làm cho việc học của mỗi sinh viên trở lên
chủ động và tích cực hơn.
Sinh viên có thể sử dụng bản đồ tư duy để học bài mới hay ghi chép, tóm tắt, hệ thống hóa nội
dung bài học. So với cách ghi chép theo kiểu truyền thống, tức là ghi chép thông tin bằng cách
sử dụng các kí tự và chữ số theo đường thẳng, thì việc ghi chép bằng công cụ BĐTD hiệu quả
hơn nhiều. Kĩ thuật ghi chép này cho phép sinh viên nhanh chóng ghi lại các ý tưởng bằng các
từ khóa, sắp xếp một cách cơ bản thông tin khi nó được truyền tải và cho sinh viên cơ hội để
hình thành những mối liên hệ và liên tưởng. Sinh viên cũng có thể tham gia vào bài học bằng
cách bổ sung những suy nghĩ, quan điểm và cảm nghĩ của chính mình. Đồng thời, trong kĩ
thuật ghi chép này, sinh viên còn sử dụng cả màu sắc, hình ảnh để lưu trữ thông tin nên rất dễ
nhớ vì đã tận dụng được chức năng của cả não trái lẫn não phải trong việc ghi nhớ.
Hình 3.4. Ghi chép bài môn Tài chính công bằng bản đồ tư duy
Sử dụng BĐTD sẽ giúp sinh viên dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả. Bởi khi sinh
viên muốn xây dựng một bản đồ tư duy thì các bạn phải sử dụng hết tất cả các kỹ năng quan
sát, kỹ năng đọc, phân tích tài liệu, đặc biệt là kỹ năng tư duy (gồm các thao tác phân tích, tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa) và cuối cùng là kỹ năng vẽ. Trong khi vẽ bản đồ
tư duy để thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức, các sinh viên còn tưởng tượng, sáng tạo ra
các cách thể hiện khác nhau, cách phối hợp màu sắc để nhấn mạnh các kiến thức quan trọng.
Như vậy, bản đồ tư duy có vai trò rất quan trọng trong dạy học và đặc biệt đổi mới cách tổ chức
dạy học của giảng viên đồng thời góp phần bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên lớp KHQL
K8 phù hợp với các mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học: dạy học theo hướng hoạt động
học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
3.1.3. Đổi mới phương pháp thuyết trình
Thuyết trình là khi bạn đứng trước đám đông trình bày về kế hoạch, phương pháp hay công
việc của mình. Những nguyên nhân làm cho một bài thuyết trình của sinh viên không hiệu quả
do:
– Do tâm lý của sinh viên, muốn trình bày thật tốt nhưng vẫn xảy ra lỗi nho nhỏ.
– Do sinh viên tập trung sức lực vào bài thuyết trình của mình, hy vong nó sẽ thành công, gây
áp lực lớn.

– Sinh viên cũng luôn tuân theo một quy luật, trình bày theo một khuôn mẫu có sẵn. Vì thế khi
thuyết trình bị rơi vào tư thế bị động phụ thuộc vào từ ngữ và máy móc làm mất đi sự thoải mái
trong khi thuyết trình
Bản đồ tư duy sẽ giúp sinh viên khắc phục được những nhược điểm và hạn chế đó:
– Với BĐTD bạn hãy đặt các chủ đề của bài thuyết trình ở trung tâm của trang giấy và phát
triển dựa trên các hình ảnh và từ khóa mà bạn định trình bày. Cách làm này rất khoa học giúp
các bạn sinh viên tự tin rất nhiều.


– Bản đồ tư duy được hình thành, các nhánh, các ý trung tâm sẽ được sắp xếp theo trật tự, làm
nổi bật vấn đề và liên kết giữa các nhánh. Với bản đồ tư duy sinh viên chỉ cần nửa giờ đồng hồ
để trình bày các ý kiến hiệu quả và khoa học.
Bản đồ tư duy đang được áp dụng rất nhiều, nó giúp cho não bộ đánh giá được vấn đề một
cách tổng quan. Sinh viên có thể linh hoạt trong cách trình bày, kiểm soát được thời gian cũng
như nội dung muốn truyền tải.
Thuyết trình tốt với Bản đồ tư duy là mỗi sinh viên đang tự khẳng định chính mình, thuyết phục
được người nghe và nhận được sự tán dương của mọi người.
Hình 3.5. Bản đồ tư duy trong bài thuyết trình báo cáo thực tế
3.1.4. Đổi mới phương pháp đọc tài liệu
Sinh viên lớp KHQL K8 có dung lượng kiến thức cần ghi nhớ nhiều, chủ yếu là kênh chữ. Thực
tế sinh vên lớp KHQL K8 các bạn thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần
trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng các kiến thức đã học
trước đó vào bài sau. Phần lớn sinh viên khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết
cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng BĐTD
trong đọc tài liệu sinh viên sẽ tìm thấy phương pháp học tập, tăng tính độc lập, chủ động, sáng
tạo và phát triển tư duy. Khi đọc sinh viên hãy tự mình vẽ lại kiến thức quan trọng bằng BĐTD,
do đặc điểm của BĐTD nên người thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố
cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic. Từ đó khi nhìn vào bản đồ tư duy sẽ có ấn tượng
mạnh, trí não sẽ nhanh nhớ hơn mà không cần phải học thuộc nhiều lần.
Trong lúc đọc sách khi nảy ra được vài ý hay hoặc ý quan trọng thì chỉ cần thêm chúng vào

đúng vị trí trong bản đồ tư duy. Sau khi đọc xong ta sẽ có được một Bản đồ tư duy tổng kết tất
cả các điểm hay và mấu chốt của cuốn sách đó. Ta cũng có thể nghĩ ra và phát triển nhiều ý
tưởng trong lúc đọc từ đó tăng hiệu quả của việc đọc sách.

Hình 3.6.Tóm lược nội dung sau khi đọc sách “Tam độc”của
Nhà xuất bản Tôn giáo
3.1.5. Đổi mới phương pháp tự học
Sau khi sử dụng BĐTD để ghi chép bài học thì khi học bài cũ hay ôn tập sinh viên không nên ôn
lại bài bằng cách ngắm, nhìn lại các nhánh mà chúng ta cần vẽ lại các nhánh.
Hãy sử dụng một tờ giấy tương đương với tờ giấy sơ đồ tư duy mà sinh viên đã dùng để ghi
chép bài học, có thể chỉ sử dụng bút một màu. Nhìn qua sơ đồ tư duy, không đọc nội dung mà
ước chừng thời gian để có thể ghi lại hết các nét và từ khóa. Sau đó hãy đặt đồng hồ báo thức
đúng một thời lượng đó và bắt đầu vẽ. Khi chuông báo hết giờ, hãy dừng lại ngay và đối chiếu
với sơ đồ tư duy cũ. Có thể sẽ thiếu sót một vài từ khóa, một vài nhánh. Nhưng sinh viên hãy
nhìn kĩ những từ khóa đó và nhớ. Từ đó việc tự học trở nên nhẹ nhàng, dễ dàng tiếp thụ kiến
thức hơn rất nhiều.
Hình 3.7. Bản đồ tư duy được dùng để tóm lược kiến thức môn
Kỹ năng giao tiếp
3.1.6. Đổi mới phương pháp học nhóm
Bản đồ tư duy tạo nên sự đồng thuận trong nhóm, các thành viên đều suy nghĩ tập trung vào
một vấn đề chung cần giải quyết, các ý kiến đưa ra của mỗi cá nhân đều được liên kết với chủ
đề, tránh được hiện tượng lan man và đi lạc chủ đề. Mọi thành viên trong nhóm đều đóng góp ý
kiến và cùng nhau xây dựng bản đồ tư duy do nhóm mình thiết kế.
Bản đồ tư duy giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ ràng và hệ
thống, việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn và dể thuyết trình được nội dung bài


học. Đồng thời bản đồ tư duy là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả bởi nó tối đa hoá được
nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng
thuyết trình và làm việc khoa học. Sử dụng sơ đồ tư duy giúp cho các thành viên hiểu được nội

dung bài học một cách rõ ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn.
Chỉ cần nhìn vào sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được
nội dung bài học.
Hình 3.8. Minh họa học sinh làm việc nhóm bằng Bản đồ tư duy
Một Bản đồ tư duy do các thành viên của tổ, nhóm thảo luận cùng thiết kế ngay tại cuộc học
nhóm sẽ phát huy được trí tuệ tập thể giúp cả tổ, nhóm tìm được các biện pháp, cách thức tổ
chức dạy học các bài khó, bài ôn tập, ra đề kiểm tra,… một cách có hiệu quả nhất.
3.1.7. Đổi mới phương pháp làm đề cương ôn tập
Trước mỗi kỳ thi việc làm đề cương và tổ chức ôn tập là công việc vất vả và nặng nề. Đầu tiên
mỗi sinh viên cần lập kế hoạch ôn tập của mình. Mỗi môn có mục tiêu đặt ra là đạt điểm gì?,
cần ôn bao nhiêu thời gian…Sau đó đến công việc quan trọng nhất đó là làm đề cương ôn tập.
Mỗi một môn sẽ được hệ thống lại kiến thức bằng bản đồ tư duy. Nhờ đó mà sinh viên nắm
vững kiến thức cơ bản, liên kết các kiến thức lại với nhau và công việc ôn tập trở lên hứng thú,
kết quả học tập sẽ được cải thiện đáng kể.
Hình 3.9. Sử dụng Bản đồ tư duy làm đề cương ôn tập chương 1 môn
Kỹ năng năng giao tiếp
3.1.8. Giới thiệu một số phần mềm dùng để tạo sơ đồ tư duy
Một sơ đồ tư duy có thể được thực hiện dễ dàng trên một tờ giấy với các loại bút màu khác
nhau. Tuy nhiên, cách thức này có nhược điểm là khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa. Một giải
pháp được hướng đến là sử dụng các phần mềm để tạo ra sơ đồ tư duy. Một số phần mềm tiêu
biểu trong thể loại “phần mềm mind mapping” (mind mapping software).
Phần mềm Buzan’s iMindmap™: một phần mềm thương mại, tuy nhiên có thể tải bản dùng
thử 30 ngày. Phần mềm do công ty Buzan Online Ltd. thực hiện. Trang chủ
tại www.imindmap.com
Phần mềm Inspiration: sản phẩm thương mại của công ty Inspiration Software, Inc. Sản phẩm
có phiên bản dành cho trẻ em (các em từ mẫu giáo đến lớp 5) rất dễ dùng và nhiều màu sắc.
Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ tại www.inspiration.com
Phần mềm Visual Mind: sản phẩm thương mại của công ty Mind Technologies. Phần mềm dễ
sử dụng và linh hoạt trong sắp xếp các nút chứa từ khóa. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ
tại www.visual-mind.com

Phần mềm FreeMind: sản phẩm hoàn toàn miễn phí, được lập trình trên Java. Các icon chưa
được phong phú, tuy nhiên chương trình có đầy đủ chức năng để thực hiện mind mapping.
Trang chủ tại:
/>Ngoài ra, chúng ta còn có thể tham khảo một danh sách các phần mềm loại mind mapping tại
địa chỉ sau:
/>3.2. Những khuyến nghị
3.2.1. Những khuyến nghị liên quan đến sinh viên
– Cần có tư tưởng cải tiến, thay đổi, và tự thay đổi phương pháp học tập của mình.
– Sinh viên cần kiên trì và đam mê thực sự khi bắt đầu sử dụng bản đồ tư duy vì đổi sang bản
đồ tư duy chính là sinh viên chuyển sang một phương pháp học hoàn toàn mới. Có rất nhiều
bỡ ngỡ, yêu cầu sinh viên cần rèn luyện liên tục để thành thạo và thu kết quả tốt trong học tập
của bản thân.
– Sinh viên đã sử dụng bản đồ tư duy nên giúp đỡ bạn bè của mình, khuyến khích bạn bè của
mình tự đổi mới phương pháp học tập.


– Sử dụng bản đồ tư duy sinh viên vẫn cần có thái độ tốt, tích cực trong học tập, phải chăm chỉ,
không được lười biếng trong việc học tập của mình.
3.2.2. Những khuyến nghị liên quan đến tập thể lớp
a, Tổ chức tọa đàm, tập huấn sử dụng bản đồ tư duy
Để bản đồ tư duy đến được với các thành viên trong lớp, tập thể lớp cần tổ chức các buổi tọa
đàm, hướng dẫn sử dụng bản đồ tư duy.
b, Làm việc nhóm trên cơ sở ứng dụng bản đồ tư duy
Tại các buổi làm việc nhóm như: họp ban cán sự lớp, họp lớp… việc sử dụng bản đồ tư duy là
rất cần thiết để giải quyết công việc hiệu quả, các thành viên cùng tham gia thảo luận góp ý
kiến, phát triển ý kiến thông qua bản đồ tư duy, công việc sẽ hoàn thành hiệu quả. Đồng thời,
phát huy khả năng sáng tạo của mỗi người.
c, Lập kế hoạch học tập của lớp
Công việc lập kế hoạch học tập và hoạt động của lớp là nhiệm vụ quan trọng của ban cán sự
lóp, nhằm tổ chức và duy trì hoạt động của lớp. Kế hoạch được trình bày bằng bản đồ tư duy

dễ hiểu, logic giúp cho đội ngũ ban cán sự lớp nắm được các công việc của lớp và hiểu rõ
nhiệm vụ cần làm của cả một năm.
3.2.3. Những khuyến nghị liên quan đến giảng viên
a, Ứng dụng trong quá trình thiết kế bài giảng
Phương tiện dạy học bằng sơ đồ tư duy ngày càng trở nên phóng phú và được các nước tiên
tiến trên thế giới sử dụng đạt hiệu quả cao. Nếu biết khai thác tốt sơ đồ tư duy sẽ hỗ trợ đắc
lực cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Cùng với sự kết hợp các phương pháp, phương
tiện trực quan và kỹ thuật sẽ góp phần đẩy lùi hiện tượng “đọc chép” một cách có hiệu quả.
Việc sử dụng sơ đồ tư duy cùng phương tiện trực quan và kỹ thuật đòi hỏi giáo viên phải có sự
đầu tư công sức và trí tuệ cho bài giảng. Rõ ràng làm tốt công việc này sẽ góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả giờ dạy và hiên tượng “đọc chép” sẽ không có cơ hội để tồn tại.
Trước khi giảng dạy công việc quan trọng đối với mỗi giảng viên là thiết kế bài giảng. Bằng việc
ứng dụng bản đồ tư duy bài giảng trở lên hấp dẫn đối với sinh viên, thu hút sinh viên hơn. Cũng
sử dụng powerpoint để thiết kế bài giảng, nhưng thay bằng việc viết tóm lược bài học bằng chữ
, bằng từ ngữ thì giảng viên nên sử dụng bản đồ tư duy để tạo bài giảng. Bằng việc sử dụng
những hình ảnh, đường nét, từ ngữ ngắn gọn bài giảng sẽ dễ hiểu, dễ nhớ và sinh động hơn.
Giáo viên có thể ứng dụng bản đồ tư duy vào trong việc dạy học như soạn bài giảng, trình bày
bài giảng…Sử dụng một bảng đen lớn hay máy chiếu, giáo viên có thể vẽ phần tương ứng của
bản đồ tư duy trong khi đang giảng bài. Cách biểu thị quy trình tư duy như thế sẽ làm rõ cấu
trúc bài học, đồng thời duy trì được sự chú ý của sinh viên, giúp sinh viên nhớ và hiểu bài dễ
hơn, cũng có thể cho sinh viên tự hoàn chỉnh bản đồ tư duy.
b, Ứng dụng trong quá trình giảng dạy
Giáo viên giảng dạy bằng bản đồ tư duy giúp cho sinh viên dần hình thành tư duy mạch lạc,
hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng
phương pháp bản đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp
gợi mở, thuyết trình… có tính khả thi cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên
nhà trường.
Hình 3.10. Giáo viên giảng bài bằng bản đồ tư duy
Thay vì yêu cầu sinh viên chuẩn bị powpoin thuyết trình cho bài học tiếp theo thì giáo viên nên
để sinh viên chuẩn bị bài bằng bản đồ tư duy. Vừa khiến cho công việc chuẩn bị bài không

nhàm chán, đồng thời tạo cho sinh viên có khả năng sáng tạo và tính lôgic về bài học. Giáo
viên cũng tiết kiệm được thời gian dạy mà sinh viên vẫn nắm chắc được kiến thức.
Trước khi vào bài học giáo viên có thể cho học sinh lập bản đồ tư duy theo nhóm hoặc cá nhân
với các yêu cầu, đề bài và những gợi ý chẳng hạn: Tư tưởng quản lý của Khổng Tử (tiểu sử,
quan niệm về bản chất con người, phương pháp cai trị…). Sau đó, cho một vài học sinh hoặc


×