Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Tiểu luận tác động của hiệp định TPP đến hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.32 KB, 45 trang )

Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, để phát triển hơn nữa việc hợp tác kinh tế quốc tế giữa các
nước, ngoài những hiệp định đã có một số nước vẫn tiếp tục tham gia
vào những hiệp định mới với sự mở cửa hợp tác rộng hơn, trong đó phải
kể đến là Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương. Hơn cả
việc tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp định
Thương mại Tự do xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership TPP) được coi như Hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới" đầy tham
vọng và tiêu chuẩn cao; là một thỏa thuận khu vực mở rộng, linh hoạt và
toàn diện. Với cam kết mở cửa thị trường mạnh và tham gia sâu của các
bên, loại bỏ hoàn toàn nhiều dòng thuế nhập khẩu, mở cửa dịch vụ và
các yêu cầu cao về môi trường và lao động… Vì thế, TPP được đánh giá
là cơ hội không thể bỏ qua.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tiểu luận là hệ thống những thông tin tổng quát về Hiệp
định TPP, tác động của nó tới nền kinh tế Việt Nam và tác động đến hoạt
động của hệ thống NHTM Việt Nam.
3. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
Qua tìm hiểu, nhận thấy hiệp định TPP thu hút được rất nhiều sự quan
tâm nghiên cứu, tìm hiểu từ nhiều tác giả, các chuyên gia kinh tế trong
và ngoài nước về TPP ảnh hưởng đến nền kinh tế và hoạt động của hệ
thông NHTM.
Theo phương pháp nghiên cứu phổ biến, phần đông các tác giả tập
trung phân tích, đánh giá, nhận định về thuận lợi khó khăn triển vọng
trước khi chúng ta gia nhập Hiệp định TPP, từ đó chỉ ra những khó khăn,
thách thức mà ngân hàng thương mại sẽ phải ứng phó khi chúng ta gia
nhập TPP. Từ đó, các tác giả gợi ý một số giải pháp nhằm định hướng
phát triển cho các Ngân hàng thương mại trong nước trong thời gian tới.


Với hướng nghiên cứu này có thể kể ra các công trình của một số tổ


chức, nhà nghiên cứu uy tín trong nước, tiêu biểu như: (+) bài nghiên
cứu “Tổng quan về Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái
Bình Dương” của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương; “Đánh
giá sơ bộ tác động của TPP đối với Việt Nam” của Nghiên cứu quốc tế;

Ngoài ra, một số tác giả đi theo hướng đi sâu trình bày những khía
cạnh cụ thể hơn đối với từng địa phương, từng doanh nghiệp, trong đó
phân tích những lợi thế của họ khi Việt Nam ký kết TPP, đồng thời chỉ ra
những vấn đề cần khắc phục nhằm tận dụng hiệu quả hơn cơ hội mà TPP
mang lại.
Có thể thấy, các công trình, bài viết được các nhà nghiên cứu đề cập
đến nhiều nội dung phong phú, mới mức độ nông sâu khác nhau. Trong
tiểu luận này, tôi muốn đề cập một cách khái quát, có hệ thống các vấn
đề liên quan đến Hiệp định TPP, đi sâu hơn nghiên cứu các tác động cụ
thể của TPP đến hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam, trên cơ sở đó
đề xuất một số khuyến nghị, chính sách.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung tìm hiểu về TPP và Tác động của Hiệp định TPP
đến hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Hiệp
định TPP và tác động của Hiệp định TPP đến hoạt động của hệ thống
NHTM Việt Nam từ năm 2010 cho đến nay, và từ đó đề xuất định hướng
và các giải pháp phòng ngừa các rủi ro, và phát triển ngân hàng thương
mại.


5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được xây dựng theo phương pháp thống kê, tổng hợp kết

hợp phân tích, so sánh dựa trên kiến thức sẵn có của bản thân va một số
nguồn tư liệu sẵn có
6. Kết cấu chương
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần phụ lục, tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về Hiệp định TPP và tác động đến tổng thể nền
kinh tế Việt Nam
Chương 2: Những tác động của TPP đối với Hoạt động của Ngân
hàng thương mại
Chương 3: Phương hướng giải pháp chủ yếu cho NHTM hội nhập
TPP


MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TPP VÀ TÁC ĐỘNG
ĐẾN TỔNG THỂ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
I.
II.

Tổng quan về Hiệp định TPP
Tác động của TPP đến tổng thể nền kinh tế Việt Nam

Chương II: NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA TPP ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.
II.

Những thuận lợi, cơ hội của NHTM khi VN gia nhập TPP
Những thách thức, khó khăn của NHTM khi VN gia nhập TPP


Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO
NHTM HỘI NHẬP TPP
I.
II.

Những việc cần làm
Các bất cập và giải pháp chống lại thách thức của NHTM khi
VN gia nhập TPP

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ST
T

Kí hiệu viết tắt

Nội dung viết tắt

1

TPP

2

WTO

3


NHTM

Ngân hàng thương mại

4

VN

Việt Nam

Trans-Pacific Partnership(Hiệp định thương
mại tự do xuyên Thái Bình Dương)
World Trade Organization(Tổ chức thương
mại thế giới)


CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TPP VÀ TÁC ĐỘNG
ĐẾN TỔNG THỂ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
I.

Tổng quan về Hiệp định TPP
I.1. Định nghĩa về Hiệp định TPP

Hiệp định TPP (tên tiếng anh là Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement) tạm dịch là Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến
lược xuyên Thái Bình Dương. Đây là một hiệp định thương mại tự do
nhiều bên, được ký với mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự
do chung cho các nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. TPP hiện tại
có 12 thành viên bao gồm: Australia, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico,

New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Mỹ, Nhật Bản và Việt Nam.
Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa,
dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên nhằm tăng cường trao
đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước này, thắt chặt hơn mối quan hệ kinh
tế.
I.2. Lịch sử hình thành, phát triển và quá trình đàm phán
Năm 2002, TPP bắt đầu hình thành với 3 nước đầu tiên là Singapore,
New Zeland và Chile bàn thảo Pacific Three Closer Economic
Partnership (P3-CEP).
Tháng 4/2004, Brunei tham gia và thỏa thuận được đổi tên thành Hiệp
định Đối tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương hay còn gọi là
P4. Hiệp định này được ký kết bởi 4 thành viên vào ngày 3/6/2005 và có
hiệu lực từ ngày 28/5/2006.
Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm
phán của Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao
đổi với Hoa Kỳ về khả năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng
của P4. Phía Hoa Kỳ cũng bắt đầu tiến hành nghiên cứu vấn đề, tham
vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị viện về vấn đề này.


Tháng 9/2008, Văn phòng Đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR)
thông báo quyết định của Hoa Kỳ tham gia đàm phán P4 mở rộng và
chính thức tham gia Hiệp định này để mở cửa thị trường đầu tư và dịch
vụ tài chính.
Tháng 11/2008, Peru, Australia cũng bày tỏ ý định muốn gia nhập.
Tại buổi họp báo công bố sự tham gia của Australia và Peru, đại diện các
bên khẳng định sẽ đàm phán để thiết lập một khuôn khổ mới cho TPP.
Kể từ đó, các vòng đàm phán TPP được lên lịch và diễn ra cho đến nay.
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia TPP với tư cách thành
viên lien kết. Tuy nhiên, đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối

năm 2009 do phải chờ đợi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và
Chính quyền mới của Tổng thống Obama tham vấn và xem xét lại việc
tham gia đàm phán TPP.
Tháng 12/2009, USTR thông báo quyết định của Tổng thống Obama
về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP. Chỉ lúc này đàm phán TPP mới
được chính thức khởi động.
Tháng 3/2010, vòng đàm phán TPP đầu tiên được tiến hành tại
Melbourn (Australia). Năm 2010 đã chứng kiến 4 vòng đàm phán trong
khuôn khổ TPP (Vòng 2, 3 đã tiến hành tại San Francisco - Hoa Kỳ
tháng 6/2010 và tại Brunei tháng 10/2010, Vòng 4 kết thúc trong tháng
12/2010 tại New Zealand). Các nước đàm phán đặt mục tiêu là sẽ hoàn
thành đàm phán TPP vào cuối 2011 sau 5 vòng đàm phán.
Tháng 10/2010, tại vòng đàm phán thứ ba diễn ra ở Brunei, Malaysia
chính thức tham gia đàm phán TPP, nâng tổng số nước tham gia đàm
phán lên 9 nước.
Tháng 11/2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách
thành viên liên kết, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP.
Tháng 6/2012, Canada và Mexico tuyên bố tham gia đàm phán và trở
thành thành viên chính thức vào tháng 10/2012.


Tháng 7/2013, Nhật Bản tham gia đàm phán và trở thành thành viên
thứ 12 tại vòng đàm phán thứ 18 diễn ra ở Malaysia.
Ngày 5/10/2015, sau nhiều vòng đàm phán tại Atlanta, hiệp định TPP
chính thức đạt được những thỏa thuận cuối cùng.
Ngày 4/2/2016, Bộ trưởng phụ trách thương mại của 12 nước tham
gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) gồm Ốt-xtrây-lia,
Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân,
Pê-ru, Xinh-ga-po, Hoa Kỳ và Việt Nam đã tham dự Lễ ký kết để xác
thực lời văn Hiệp định TPP tại Auckland, Niu Di-lân.

I.3. Nội dung chính của Hiệp định TPP
Theo đó, hiệp định TPP gồm có 30 chương điều chỉnh thương mại và
các vấn đề liên quan tới thương mại.
Bắt đầu từ thương mại hàng hóa và tiếp tục với hải quan và thuận lợi
hóa thương mại; vệ sinh kiểm dịch động thực vật; hàng rào kỹ thuật đối
với thương mại; quy định về phòng vệ thương mại; đầu tư; dịch vụ;
thương mại điện tử; sở hữu trí tuệ; lao động; môi trường…
Bộ Công Thương cho biết, có 5 đặc điểm chính làm TPP trở thành
một hiệp định mang tính bước ngoặc của thế kỷ 21, tạo ra một tiêu
chuẩn mới cho thương mại toàn, bao gồm: tiếp cận thị trường một cách
toàn diện; tiếp cận mang tính khu vực trong việc đưa ra các cam kết; giải
quyết các thách thức mới đối với thương mại; bao hàm toàn bộ các yếu
tố liên quan đến thương mại và là nền tảng cho hội nhập khu vực.
- Về thương mại hàng hóa
Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các
hàng rào phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp và xóa bỏ hoặc cắt
giảm thuế quan cũng như các chính sách mang tính hạn chế khác đối với
hàng hóa nông nghiệp.


Việc xóa bỏ phần lớn thuế quan đối với hàng công nghiệp sẽ được
thực hiện ngay lập tức mặc dù thuế quan đối với một số mặt hàng sẽ
được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các bên thống nhất.
Việc cắt giảm thuế cụ thể do các bên thống nhất được quy định tại lộ
trình cam kết bao gồm tất cả hàng hóa và được đính kèm theo lời văn
của hiệp định.
Đối với hàng nông nghiệp, các bên sẽ xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan
và các chính sách mang tính hạn chế khác để gia tăng thương mại hàng
nông nghiệp trong khu vực, cải cách về mặt chính sách, bao gồm cả việc
thông qua xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp.

Các bên tham gia TPP đưa ra các quy định hạn chế việc cấp vốn ưu
đãi từ chính phủ hoặc các chính sách khác gây bóp méo thương mại
nông sản.
- Về dệt may
Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may
- ngành công nghiệp. Hầu hết thuế quan sẽ được xóa bỏ ngay lập tức,
mặt dù thuế quan đối với một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với
lộ trình dài hơn do các bên thống nhất.
Chương dệt may cũng bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu cầu
việc sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP.
Điều này sẽ thúc đẩy việc thiết lập các chuỗi cung ứng và đầu tư khu
vực trong lĩnh vực này, cùng với cơ chế “nguồn cung thiếu hụt” cho
phép việc sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong
khu vực.
Chương này còn đề cập đến các cam kết về hợp tác và thực thi hải
quan nhằm ngăn chặn việc trốn thuế, buôn lậu và gian lận cũng như cơ
chế tự vệ đặc biệt đối với dệt may để đối phó với thiệt hại nghiêm trọng
hoặc nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong
nước trong trường hợp có sự gia tăng đột biến về nhập khẩu.


- Về quy tắc xuất xứ
Về nguyên tắc xuất xứ, 12 nước thành viên TPP đã thống nhất về một
bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định một hàng hóa cụ thể “có xuất xứ”
và do vậy được hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP. Các nhà nhập khẩu
sẽ có thể yêu cầu được hưởng ưu đãi về xuất xứ với điều kiện họ có các
chứng từ chứng minh.
Các bên cũng nhất trí không sử dụng các yêu cầu về thực hiện như là
điều kiện để một số nước áp đặt cho các doanh nghiệp để được hưởng
các lợi ích về thuế quan.

Ngoài ra, các bên nhất trí không áp dụng các hạn chế xuất khẩu, nhập
khẩu và các loại thuế không phù hợp với WTO, bao gồm cả đối với hàng
tân trang - việc này được cho là sẽ thúc đẩy việc tái chế tất cả các bộ
phận để chuyển thành các sản phẩm mới.
Nếu các bên TPP duy trì yêu cầu cấp phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu
thì phải thông báo cho các bên kia về những quy trình không nhằm mục
đích làm chậm sự lưu thông thương mại.
- Về quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại
Các nước nhất trí về các quy định liên quan tới xử phạt hải quan để
bảo đảm các hình thức xử phạt này được thực hiện một cách công bằng
và minh bạch.
Bên cạnh đó, vì tầm quan trọng của chuyển phát nhanh đối các lĩnh
vực kinh doanh, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nước TPP
đã nhất trí về các quy định hải quan đối với chuyển phát nhanh.
Để hỗ trợ việc chống buôn lậu và trốn thuế, các nước tham gia TPP
nhất trí cung cấp thông tin khi được yêu cầu để hỗ trợ lẫn nhau trong
việc thực thi luật hải quan.
Đối với các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật (SPS), các
nước TPP nhất trí cho phép công chúng được đóng góp ý kiến vào các
dự thảo quy định SPS trong quá trình đưa ra quyết định và ban hành


chính sách cũng như để bảo đảm rằng doanh nghiệp hiểu rõ các quy định
mà họ sẽ phải tuân thủ.
Việc kiểm tra hàng hóa đáp ứng các quy định SPS được dựa trên các
rủi ro tiềm tàng trên thực tế có gắn với việc nhập khẩu và thông báo cho
nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu trong vòng bảy ngày nếu hàng hóa bị cấm
nhập khẩu vì lý do liên quan đến SPS.
Đối với hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các thành
viên TPP đã nhất trí về các nguyên tắc minh bạch và không phân biệt đối

xử khi xây dựng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá
sự phù hợp.
Để cắt giảm chi phí cho các doanh nghiệp TPP, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ, các thành viên TPP nhất trí các quy định giúp xóa bỏ các
quy trình kiểm tra và chứng nhận trùng lắp đối với các sản phẩm, thiết
lập quy trình dễ dàng hơn giúp các công ty tiếp cận thị trường các nước
TPP.
Ngoài ra, hiệp định TPP bao gồm các phụ lục liên quan tới các quy
định về các lĩnh vực cụ thể nhằm thúc đẩy các cách tiếp cận chung về
chính sách trong khu vực TPP.
Các lĩnh vực này bao gồm mỹ phẩm, thiết bị y tế, dược phẩm, các sản
phẩm công nghệ thông tin và truyền thông, rượu và đồ uống có cồn, thực
phẩm và các chất gây nghiện và các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
Chương phòng vệ thương mại trong hiệp định TPP cho phép một
thành viên thực hiện một biện pháp tự vệ tạm thời trong một khoảng thời
gian cụ thể nếu việc nhập khẩu tăng đột biến do kết quả của việc cắt
giảm thuế được thực hiện theo hiệp định TPP đủ để gây ra thiệt hại
nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước.
Các biện pháp này có thể được duy trì lên tới 2 năm, với việc gia hạn
1 năm, nhưng phải được tự do hóa dần dần nếu các biện pháp này đã kéo
dài hơn một năm.


Đối với đầu tư, các thành viên chấp nhận các nghĩa vụ dựa trên cơ sở
“một danh mục chọn bỏ”, nghĩa là thị trường các nước là mở hoàn tòan
đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trừ khi các thành viên đưa ra một
ngoại lệ (biện pháp bảo lưu không tương thích) trong một trong hai phụ
lục cụ thể của quốc gia đó đính kèm hiệp định TPP: các biện pháp hiện
hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa ra các biện
pháp hạn chế hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự do hóa nào

trong tương lai, và các biện pháp và chính sách mà theo đó một quốc gia
duy trì quyền tự do làm theo ý mình một cách đầy đủ trong tương lai.
Trong chương thương mại điện tử, nghiêm cấm việc áp dụng thuế
quan đối với các sản phẩm kỹ thuật số và ngăn chặn các thành viên TPP
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp dịch vụ
trong nước đối với các sản phẩm kỹ thuật số này thông qua các biện
pháp như thuế phân biệt đối xử hoặc sự ngăn cấm một cách rõ ràng.
Các thành viên cũng được yêu cầu phải có các biện pháp để chấm dứt
các tin nhắn thương mại điện tử được gửi đi không do yêu cầu.
Đối với mua sắm chính phủ, các thành viên sẽ chỉ duyệt hợp
đồng dựa trên những tiêu chí đánh giá đã mô tả trong các thông báo và
hồ sơ dự thầu, sẽ xây dựng các quy trình hợp lý để chất vấn hoặc xem
xét các khiếu nại đối với một phê duyệt nào đó. Mỗi thành viên sẽ đưa ra
một danh sách chọn cho các đơn vị mà thành viên đó sẽ xây dựng, được
liệt kê tại phụ lục gắn liền với Hiệp định TPP.
Trong chương doanh nghiệp nhà nước (SOEs) tất cả các thành
viên TPP đều có doanh nghiệp nhà nước nên nhất trí bảo đảm rằng các
SOEs của mình sẽ tiến hành các hoạt động thương mại trên cơ sở tính
toán thương mại, trừ trường hợp không phù hợp với nhiệm vụ mà các
SOEs đó đang phải thực hiện để cung cấp các dịch vụ công.
Các thành viên cũng đồng ý bảo đảm rằng các SOEs hoặc đơn vị
độc quyền sẵn có không có những hoạt động phân biệt đối xử đối với
các doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ của các thành viên khác.


Các thành viên TPP đồng ý chia sẻ danh sách các SOEs với các
thành viên khác và khi được yêu cầu sẽ cung cấp các thông tin bổ sung
về mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của chính phủ và những hỗ trợ phi
thương mại cung cấp cho các SOEs.
Hiệp định TPP quy định việc thành lập Ủy ban Doanh nghiệp vừa

và nhỏ được tiến hành họp định kỳ để rà soát mức độ hỗ trợ của hiệp
định TPP cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cân nhắc các cách thức để
nâng cao hơn nữa những lợi ích của hiệp định và giám sát các hoạt động
hợp tác hoặc nâng cao năng lực để hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
thông qua tư vấn xuất khẩu, hỗ trợ, đào tạo cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ; chia sẻ thông tin; cấp vốn thương mại và các hoạt động khác.
Đáng chú ý, TPP sẽ tạo nên các cơ chế chính thức nhằm rà soát tác
động của TPP lên sức cạnh tranh của các thành viên thông qua các cuộc
đối thoại giữa các chính phủ và giữa chính phủ với doanh nghiệp và
cộng đồng, tập trung tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực nhằm
đánh giá sự phát triển, tận dụng lợi thế của các cơ hội mới, và giải quyết
bất cứ các thách thức có thể nổi lên khi hiệp định TPP có hiệu lực.
Trong số các giải pháp này có việc thành lập Ủy ban Về cạnh tranh
và tạo thuận lợi kinh doanh. Ủy ban này sẽ nhóm họp thường xuyên
nhằm rà soát tác động của hiệp định TPP lên sức cạnh tranh của khu vực
và quốc gia, và lên hệ thống kinh tế khu vực.
- Đầu tư
Đối với việc thiết lập các quy tắc trong lĩnh vực đầu tư, các nước
tham gia hiệp định TPP phải ban hành các chính sách đầu tư và các biện
pháp bảo hộ trên cơ sở không phân biệt đối xử, đảm bảo nguyên tắc cơ
bản trong việc bảo vệ pháp luật. Bên cạnh đó, các nước thành viên cũng
phải bảo đảm các chính phủ thành viên sẽ đạt được các mục tiêu chính
sách công theo đúng qui định. Hiệp định TPP quy định các nguyên tắc
bảo hộ đầu tư cơ bản tương tự như các nguyên tắc trong các hiệp định
liên quan đến đầu tư khác, bao gồm nguyên tắc đối xử quốc gia; đối xử


tối huệ quốc; chuẩn mực ứng xử tối thiểu trong đầu tư phù hợp với các
nguyên tắc luật pháp quốc tế; nghiêm cấm các hành vi thu hồi tài sản
không phục vụ cho mục đích công, không đảm bảo đúng trình tự, thủ tục

quy định hoặc không thực hiện bồi thường; nghiêm cấm những yêu cầu
về thực hiện như yêu cầu về hàm lượng nội địa hay nội địa hóa công
nghệ; tự do chuyển giao nguồn vốn thực hiện đầu tư phù hợp với những
điều khoản ngoại lệ quy định trong Hiệp định TPP nhằm đảm bảo các
chính phủ thành viên được phép quản lý các dòng vốn vãng lai một cách
linh hoạt thông qua các biện pháp bảo hộ tạm thời (như các biện pháp
kiểm soát vốn) nhằm hạn chế hành vi chuyển vốn đầu tư trong trường
hợp xảy ra khủng hoảng cán cân thanh toán hoặc những mối đe dọa, suy
thoái kinh tế khác, cũng như nhằm bảo vệ tính thống nhất và ổn định của
hệ thống tài chính; bảo đảm quyền tự chủ của các quốc gia thành viên
trong việc bổ nhiệm các vị trí quản lý cao cấp.
- Dịch vụ tài chính
Chương dịch vụ tài chính của TPP cung cấp nhiều cơ hội tiếp cận thị
trường qua biên giới và đầu tư quan trọng nhưng vẫn đảm bảo rằng các
nước TPP vẫn có đủ năng lực điều hành thị trường và các tổ chức tài
chính cũng như thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp
khủng hoảng. Chương này bao gồm các nghĩa vụ cốt lõi tìm thấy trong
các hiệp định thương mại khác, bao gồm đối xử quốc gia; đối xử tối huệ
quốc; tiếp cận thị trường; và một vài quy định cụ thể của chương Đầu tư
bao gồm Tiêu chuẩn đối xử tối thiểu. Chương này cũng quy định việc
cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới cho một nước TPP từ một nhà
cung cấp của một nước TPP khác mà không yêu cầu nhà cung cấp dịch
vụ phải thành lập cơ sở hoạt động tại một nước khác để bán các dịch vụ
của mình nhưng phải phù hợp với quy định đăng ký hoặc ủy quyền cho
các nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới của một nước TPP khác
nhằm đảm bảo cho công tác điều hành và giám sát phù hợp. Một nhà
cung cấp dịch vụ của một nước TPP có thể cung cấp một dịch vụ tài
chính mới tại thị trường của nước TPP khác nếu các công ty trong nước



hoạt động tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó. Các nước
thành viên của TPP phải ban hành quy định trường hợp ngoại lệ đối với
một số quy tắc trong hai phụ lục đính kèm theo TPP phù hợp với điều
kiện của từng nước: (1) các biện pháp hiện hành quy định Bên tham gia
phải có nghĩa vụ không áp đặt thêm bất kỳ biện pháp chế tài nào khác
trong tương lại cũng như tuân thủ thỏa thuận tự do hóa trong các hoạt
động sau này, và (2) các biện pháp và chính sách quy định Bên tham gia
có đầy đủ quyền tự quyết trong tương lai.
II.

Tác động của TPP đến tổng thể nền kinh tế Việt Nam
- Cơ hội lớn về quan hệ thương mại

Việt Nam có vai trò quan trọng đối với các nước trong đàm phán TPP,
bởi Việt Nam là quốc gia có thị trường đáng kể, có thể đem lại giá trị gia
tăng tương đối lớn cho các nước tham gia đàm phán. Kể cả với
Australia, Nhật Bản, Chile, New Zealand và Singapore – những nước đã
có FTA với nước ta – việc Việt Nam vào TPP vẫn mang lại nhiều lợi ích,
đặc biệt là trong những lĩnh vực mà Việt Nam chưa có nhiều cam kết với
họ, ví dụ như dịch vụ và đầu tư. Đối với Việt Nam, việc tham gia vào
TPP có thể đem lại một số tác động tích cực như sau:
Đầu tiên, TPP sẽ giúp Việt Nam cân bằng được quan hệ thương mại
với các khu vực thị trường trọng điểm, tránh phụ thuộc quá mức vào một
khu vực thị trường nhất định. Số liệu thống kê cho thấy, khu vực Đông
Á, bao gồm ASEAN, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản và
Hàn Quốc luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu
của Việt Nam, thường xuyên ở mức trên 60%, nếu tính riêng nhập khẩu
thì lên tới trên 75%. Với sự gần gũi về vị trí địa lý, việc Đông Á chiếm
tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại với Việt Nam là việc khó tránh.
Tuy nhiên, tỷ trọng trên là quá lớn, có thể tiềm ẩn rủi ro khi kinh tế

Đông Á có biến động bất lợi. Đàm phán và ký kết FTA với một số thị
trường trọng điểm như Mỹ, EU có thể giúp chúng ta khắc phục tình
trạng mất cân đối này.


Thứ hai, quan hệ thương mại tự do với các thị trường lớn như Mỹ,
Canada và việc Nhật Bản xóa bỏ thuế nhập khẩu cho hàng nông sản
trong TPP, sẽ là cú hích thực sự cho xuất khẩu của Việt Nam. Theo tính
toán của các doanh nghiệp, nếu thuế nhập khẩu được hạ về mức 0% thì
hàng dệt may và giày dép Việt Nam sẽ đứng trước cơ hội lớn trong việc
mở rộng thị phần trên thị trường các nước TPP, trong đó có thị trường
Mỹ. Cơ hội cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực khác như thủy sản, đồ
gỗ và nông sản cũng rất lớn.
Lợi ích thứ ba là cơ hội tiếp cận các thị trường rộng lớn gồm Mỹ,
Nhật Bản, Canada với thuế nhập khẩu bằng 0%, kết hợp với các cam kết
rõ ràng hơn về cải thiện môi trường đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ chắc chắn sẽ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam,
nhất là của các tập đoàn lớn. Nếu biết tận dụng thời cơ này, Việt Nam sẽ
hưởng lợi lớn từ làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm,
hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và
tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu do TPP đem lại.
Cuối cùng nhưng rất quan trọng, với các cam kết sâu và rộng hơn
WTO, TPP sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam phân bổ lại nguồn lực theo
hướng hiệu quả hơn, từ đó hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu và đổi
mới mô hình tăng trưởng. Ngoài ra, do TPP hướng tới môi trường cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch hóa quy trình xây dựng chính sách và
khuyến khích sự tham gia của công chúng vào quá trình này, cho nên sẽ
có tác dụng rất tốt để hoàn thiện thể chế kinh tế cũng như tăng cường cải
cách hành chính.
- Thách thức lớn nhất: Sức ép cạnh tranh

Bên cạnh các yếu tố tích cực đã nêu ở trên, việc tham gia vào TPP
cũng tiềm ẩn một số thách thức, trong đó được nói tới nhiều nhất là sức
ép cạnh tranh. Thách thức này xuất phát từ việc giảm thuế nhập khẩu về
0%, mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ trong
khuôn khổ TPP. Trong thực tế, thách thức về sức ép cạnh tranh do giảm
thuế nhập khẩu về 0% là có nhưng không lớn, bởi trong số 11 đối tác


TPP hiện tại, nước ta đã có quan hệ FTA với 7 nước, bao gồm: Brunei,
Malaysia, Singapore, Australia, Chile, New Zealand, Nhật Bản.
Trong tương lai gần, dù có tham gia hay không tham gia TPP, thuế
nhập khẩu áp dụng cho hàng hóa của những nước này vẫn được hạ về
0%, nên tác động tăng thêm của việc tham gia vào TPP, nếu có cũng
không lớn. Với những nước mà ta chưa có quan hệ FTA, gồm: Mỹ,
Canada, Mexico và Peru thì hoặc là có cơ cấu xuất nhập khẩu mang tính
bổ sung hơn là cạnh tranh với cơ cấu xuất nhập khẩu của ta (như Mỹ và
Canada) hoặc là không có triển vọng thâm nhập thị trường Việt Nam với
mức độ đủ lớn để gây ra sức ép cạnh tranh (như Peru, Mexico).
Nếu đi sâu phân tích cơ cấu xuất khẩu của các nước TPP, có thể thấy
những ngành sản xuất của Việt Nam thực sự gặp khó khăn sẽ là ôtô, thịt
lợn, thịt bò và đường. Các ngành bị tác động tương đối mạnh bao gồm
thực phẩm chế biến, rượu và hóa phẩm tiêu dùng. Các mặt hàng vốn vẫn
được bảo hộ cao như muối, lá thuốc lá, trứng gia cầm, thép, giấy… có
thể không đáng ngại, lý do là các nước TPP hoặc không xuất khẩu hoặc
hướng đến phân khúc thị trường khác so với sản xuất trong nước. Riêng
với xăng dầu, nếu xóa bỏ thuế nhập khẩu Việt Nam sẽ mất đi một trong
các công cụ điều hành giá quan trọng. Đây là tác động mà các cơ quan
quản lý nhà nước sẽ phải tính đến một cách cẩn trọng. Trong lĩnh vực
dịch vụ, cần nhớ rằng, sau 7 năm thực hiện cam kết gia nhập WTO, thị
trường Việt Nam đã tương đối mở. Sức ép cạnh tranh từ TPP, nếu có sẽ

xuất hiện ở ba ngành chính: ngân hàng, phân phối và phần nào đó là viễn
thông giá trị gia tăng.
Trong lĩnh vực mua sắm chính phủ, tác động của việc mở cửa thị
trường tuy có, nhưng ở mức chấp nhận được bởi với một số thiết kế đặc
thù trong bản chào, việc mở cửa thị trường sẽ diễn ra từ từ, giúp các nhà
thầu Việt Nam có thêm thời gian để làm quen với sức ép cạnh tranh. Một
thách thức nữa cũng hay được nhắc tới, nhất là trong bối cảnh khó khăn
của ngân sách nhà nước năm 2013, chính là rủi ro thất thu ngân sách.
Giảm thuế nhập khẩu sẽ dẫn tới giảm thu ngân sách, nhưng tính toán của


các chuyên gia cho thấy thách thức này không lớn và việc giảm thu từ
thuế nhập khẩu, nếu có cũng sẽ được bù đắp từ các nguồn khác.
Tuy nhiên, có hai việc cần lưu ý ở đây. Thứ nhất, việc giảm thu sẽ
diễn ra từ từ bởi Việt Nam sẽ giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình. Thứ hai,
khi Việt Nam giảm thuế nhập khẩu, hàng nhập từ Mỹ và các nước TPP
có khả năng tăng lên và số thu từ thuế giá trị gia tăng (loại thuế không
phải xóa bỏ trong các FTA), vì vậy cũng tăng lên. Thậm chí không loại
trừ khả năng không những đủ bù đắp cho thuế nhập khẩu bị giảm mà
còn tăng thu cho ngân sách nhà nước. Hiệu ứng này đã được kiểm định
trên thực tế. Cụ thể, sau khi gia nhập WTO, dù ta giảm thuế nhập khẩu
nhưng tổng thu từ hàng hóa nhập khẩu vẫn tăng đều qua các năm.
Tóm lại, đánh giá đầy đủ tác động của một hiệp định thương mại toàn
diện, có mức độ cam kết sâu như Hiệp định TPP là việc khó và phức tạp.
Những gì đã trình bày ở trên, vì vậy chỉ góp phần đưa ra một góc nhìn
về cơ hội và thách thức của việc Việt Nam tham gia vào TPP.


CHƯƠNG II: NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA TPP ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

I.
Những thuận lợi, cơ hội của NHTM khi VN gia nhập TPP
I.1. Cơ hội
Hiệp định TPP mở ra cơ hội cho nhiều ngành kinh tế tại Việt Nam,
trong đó có tài chính ngân hàng. TPP đem lại những cơ hội cho Ngành
trong việc tiếp cận thị trường nước ngoài nhưng cũng tạo sức ép đòi hỏi
thay đổi trong chính sách quản lý vĩ mô cũng như hoạt động của từng tổ
chức tín dụng.
- Cơ hội lớn…
TPP sẽ tạo triển vọng cho ngành thương mại Việt Nam đạt mức tăng
trưởng mạnh mẽ; mở ra cơ hội cho các dịch vụ tài chính-ngân hàng đồng
hành, hỗ trợ vốn, cho các doanh nghiệp (DN) xuất khẩu trong tương lai.
Thu hút đầu tư, tăng cường dòng vốn
Các luồng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam từ các nhà đầu tư nước
ngoài dự kiến tăng trưởng mạnh trong thời gian tới. Từ năm 2014, nhiều
dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các nhà đầu tư Trung
Quốc, Đài Loan, Hồng Kông (đặc biệt là trong các ngành được hưởng
lợi từ TPP như: Dệt may, logistic, bất động sản…) đã “nhanh chân” đến
Việt Nam. Tính đến 31/12/2015, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng
vốn là 24,1 tỷ đô la Mỹ (USD), tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2014*.
Bên cạnh đó, vốn FDI và hoạt động thương mại gia tăng sẽ tăng độ
quen thuộc của nhà đầu tư quốc tế đối với Việt Nam, do đó dự báo sẽ
kéo theo dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam. Xếp hạng quốc gia
của Việt Nam được cải thiện đã tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng
tiếp cận với các nguồn vốn ủy thác trên thế giới với chi phí thấp hơn
nguồn vốn trong nước.


Việc tham gia sâu rộng của các nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ tạo
điều kiện mở rộng hợp tác, nâng cao năng lực quản trị và tài chính cho

các ngân hàng nội địa.

- Tăng cường về quy mô tín dụng và các dịch vụ ngân hàng
Do lưu thông tiền tệ trong các nước TPP thuận lợi, tỷ giá ổn định,
dòng tiền đầu tư trực tiếp và gián tiếp đổ vào Việt Nam gia tăng mạnh
mẽ dẫn tới nền sản xuất trong nước tăng trưởng mạnh, xuất khẩu cũng sẽ
tăng mạnh. Ước tính, GDP Việt Nam sẽ tăng thêm 23,5 tỷ USD vào năm
2020 và 33,5 tỷ USD vào năm 2025. Bên cạnh đó, TPP giúp hàng hóa và
dịch vụ của Việt Nam thuận lợi hơn khi tiếp cận thị trường các nước đối
tác thông qua cắt giảm thuế quan, bãi bỏ các điều kiện hạn chế đối với
đầu tư, dịch vụ.
Xuất khẩu ước tính sẽ tăng thêm 68 tỷ USD vào năm 2025. Điều này
mở ra cơ hội cho các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đồng
hành hỗ trợ vốn, dịch vụ cho nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp
xuất khẩu trong tương lai.
- Cơ hội nâng cao năng lực quản trị và tài chính
Lĩnh vực tài chính ngân hàng sẽ mở rộng hơn theo các cam kết chung.
Theo đó, Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào chính
Ngành Ngân hàng - nơi cần vốn, công nghệ và năng lực quản lý điều
hành cao. Hơn nữa, các NHTM có nhiều khả năng nới tỷ lệ nắm giữ cho
các đối tác chiến lược nước ngoài. Điều này sẽ tạo điều kiện mở rộng
hợp tác, nâng cao năng lực quản trị và tài chính cho các ngân hàng nội
địa làm tiền đề để phát triển Ngành Ngân hàng Việt Nam trong tương lai.
I.2. Thuận lợi của TPP mang lại cho NHTM
Đối với thị trường tài chính, TPP chính là cơ hội để Việt Nam hội
nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới. Các luồng vốn đầu tư


quốc tế vào Việt Nam cũng sẽ tăng mạnh, tạo thuận lợi cho hệ thống
ngân hàng tăng cường thanh khoản và tiếp cận với các nguồn vốn ủy

thác trên thế giới với chi phí thấp hơn.
Các luồng vốn đầu tư quốc tế vào Việt nam sẽ tăng trưởng mạnh
trong thời gian tới tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường
thanh khoản và gia tăng cơ hội kinh doanh. Ngoài ra, hệ thống ngân
hàng có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn ủy thác trên thế giới với
chi phí thấp hơn do vị thế của Việt Nam sẽ cải thiện nhiều sau khi gia
nhập TPP. Theo đó, ngành Ngân hàng “có dịp” lặp lại giai đoạn phát
triển thần kỳ như năm 2006 khi Việt Nam gia nhập WTO, nhưng cường
độ có thể thấp hơn.
Việt Nam nhiều khả năng sẽ thu hút thêm dòng vốn nước ngoài, dưới
dạng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các công ty sản xuất.
Vốn FDI và hoạt động thương mại gia tăng sẽ tăng độ quen thuộc của
nhà đầu tư quốc tế đối với Việt Nam, do đó sớm muộn sẽ kéo theo dòng
vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam.
Hiệp định TPP sẽ tạo triển vọng cho ngành thương mại Việt Nam đạt
mức tăng trưởng mạnh mẽ, mở ra cơ hội cho các NHTM Việt Nam đồng
hành hỗ trợ vốn, dịch vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong tương
lai.
Lĩnh vực tài chính – ngân hàng sẽ được mở rộng hơn theo các cam
kết chung. Theo đó, Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào ngành ngân hàng – một ngành cần vốn, công nghệ và năng lực quản
lý điều hành cao. Hơn nữa, các NHTM VN có nhiều khả năng nới
“room” thêm nữa cho các đối tác chiến lược nước ngoài. Việc tham gia
sâu rộng của nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ tạo điều kiện mở rộng hợp
tác, nâng cao năng lực quản trị và tài chính cho các ngân hàng nội địa.
Đây có thể là cơ sở để phát triển ngành ngân hàng Việt Nam trong tương
lai.


II.


Những thách thức, khó khăn của NHTM khi VN gia nhập
TPP
II.1. Khó khăn
Dù vậy, có thể thấy, tham gia TPP cũng sẽ mang lại những thách thức
lớn đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính – ngân hàng của Việt Nam. Đối
với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, việc dần xóa bỏ các
điều kiện thị trường lại trở thành thách thức do hệ thống ngân hàng vẫn
còn nhiều hạn chế. Về tiếp cận dịch vụ ngân hàng, tuy đã có những tiến
bộ nhưng vẫn ở mức thấp so với một số nước trong khu vực và trên thế
giới. Điều này làm tăng cơ hội cho các ngân hàng quốc tế tiếp cận thị
phần khách hàng, ảnh hưởng tới thị trường tiềm năng của các ngân hàng
trong nước.
Trước đây, dịch vụ tài chính – ngân hàng là mảng hoạt động thương
mại mà mức độ mở cửa thị trường là hạn chế và dè dặt nhất. Lần đầu
tiên Việt Nam biết đến khái niệm cam kết mở cửa dịch vụ tài chính ngân
hàng là trong đàm phán Hiệp định thương mại song phương Việt Nam –
Mỹ, trong đó dịch vụ tài chính – ngân hàng đã làm quá trình đàm phán
kéo dài mất 4 năm mới được hoàn tất. Sau khi Hiệp định thương mại
song phương Việt Nam – Mỹ được ký kết vào năm 2000, Việt Nam cũng
chỉ mở một cánh cửa hẹp cho Mỹ tham gia vào cung ứng dịch vụ ngân
hàng – tài chính cùng nhiều quy định hạn chế. Trong khi đó, tham gia
TPP, Việt Nam phải cam kết mở rộng ngành dịch vụ tài chính – ngân
hàng với mức độ sâu hơn, xóa bỏ dần các điều kiện tiếp cận thị trường
tài chính – ngân hàng và không chỉ cam kết với riêng Mỹ mà với 12
nước có trình độ phát triển khác nhau nên tác động của việc mở cửa dịch
vụ tài chính – ngân hàng cũng sẽ lớn hơn. Cụ thể, phần lớn các nước
tham gia đàm phán TPP có thị trường tài chính – ngân hàng rất phát triển
(Mỹ, Australia, Singapore) hoặc đã mở cửa cho sự tham gia của nhà đầu
tư nước ngoài (New Zealand) hoặc lợi ích sẽ không bị ảnh hưởng quá

nhiều bởi việc mở cửa thị trường tài chính ngân hàng (Brunei) sẽ tạo
những khó khăn nghiêm trọng trong những thỏa thuận mở cửa thị trường


trong khuôn khổ đàm phán TPP. Hơn nữa, các nước phát triển, đặc biệt
là Mỹ và Australia sẽ có nhiều thuận lợi khi đưa ra những yêu cầu cao về
mở cửa thị trường tài chính – ngân hàng, vô hình chung tạo sức ép cạnh
tranh đối với các nước đang phát triển (Chile, Mexico, Malaysia), trong
đó có Việt Nam.
Cụ thể như:
- Với sự tham gia ngày càng sâu rộng của ngân hàng nước ngoài, đặc
biệt các định chế tài chính đến từ Mỹ, Nhật Bản và Australia thì áp lực
cạnh tranh trong ngành sẽ ngày càng tăng lên. Các ngân hàng nước
ngoài với tiềm lực tài chính và khả năng quản trị chuyên nghiệp sẽ gia
tăng sức ép đối với khối ngân hàng trong nước.
- Chiến lược “bán lẻ” của các ngân hàng nước ngoài với những thế
mạnh về sản phẩm dịch vụ, công nghệ, kỹ năng tiếp cận khách hàng
chuyên sâu.. có thể khiến ngân hàng nội địa mất dần các phân khúc thị
trường quan trọng, và là vấn đề mà các ngân hàng Việt Nam cần đặc biệt
quan tâm.
- Việc mở “room” tuy giúp các ngân hàng nội địa có thể tiếp nhận
luồng vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài nhiều hơn, nhưng sức ép bị thâu
tóm và chi phối cũng tăng cao. Viễn cảnh các doanh nghiệm niêm yết
trong lĩnh vực sản xuất – thương mại đã từng bị nhà đầu tư nước ngoài
chi phối, thao túng có thể lặp lại đối với lĩnh vực Ngân hàng. Và điều
này càng có thể xảy ra khi vẫn chưa đưa ra được bài toán giải quyết rõ
ràng cho vấn đề sở hữu chéo giữa các ngân hàng Việt Nam.
- Rủi ro từ việc phụ thuộc và vốn ngoại sẽ tăng lên cho nền kinh tế
Việt nam. Với tỷ lệ nợ nước ngoài (cả nợ công và nợ tư nhân) ngày một
tăng lên của Việt Nam, cộng với tầm quan trọng của tỷ trọng FDI trên

cán cân thanh toán và sự mở cửa hơn nữa của thị trường chứng khoán
Việt Nam, chúng ta đang ngày càng phụ thuộc vào vốn ngoại. Trong bối
cảnh đó, khi thị trường tài chính toàn cầu gặp những cú sốc lớn khiến
dòng vốn quốc tế biến động mạnh, nền kinh tế Việt Nam sẽ càng dễ tổn


thương. Một cú sốc khiến vốn ngoại ngưng vào hoặc chảy ra sẽ tác động
khó lường tới sức ép phá giá ngoại tệ và sự ổn định của hệ thống tài
chính. Ngược lại, sự đổ vào nhanh chóng của vốn ngoại sẽ làm tăng
bong bóng bất động sản, tài sản tài chính và đẩy giá VND lên như những
gì đã diễn ra trong giai đoạn 2006-2008.
Những thách thức trên sẽ càng được nhân đôi khi hệ thống ngân hàng
Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng vẫn ở
mức hạn chế. Nếu so sánh với một số nước trong khu vực và trên thế
giới nói chung thì khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng tại Viêt Nam còn
chưa cao, mức độ phân bố các chi nhánh và phòng giao dịch chưa đồng
đều, chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm như thành phố Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Điều này sẽ tăng cơ hội tiếp cận thị
phần khách hàng trong nước cho các ngân hàng quốc tế của các nước, đe
dọa thị trường tiềm năng của ngân hàng trong nước. Hơn nữa, hiệu quả
hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn thấp, đặc biệt một số
ngân hàng có năng lực quản lý yếu kém, vi phạm các nguyên tắc quản trị
doanh nghiệp và quản trị rủi ro. Một điểm quan trọng khác là cơ cấu lợi
nhuận kém bền vững, với 80% lợi nhuận của hệ thống NHTM Việt Nam
là thu nhập từ lãi (cao hơn nhiều so với trung bình các nước trong khu
vực Đông Nam Á) và tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập ở mức rất
thấp, chỉ trên 15% vào cuối năm 2011 (đứng thứ 4 tính từ thấp đến cao
trong 200 nước do WB tổng hợp). Thêm vào đó, khuôn khổ quản trị
chưa được công khai, minh bạch với báo cáo công bố chủ yếu là báo cáo
thường niên và báo cáo tài chính để kiểm toán, chứ không có báo cáo

giao dịch nội bộ, giao dịch với các bên liên quan hoặc liên quan tới công
ty con của ngân hàng. Những điểm yếu này của hệ thống ngân hàng có
thể cản trở ngành ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh gia nhập TPP.
II.2. Thách thức
 Rủi ro đến từ dòng vốn ngoại


“Hiệp định của thế kỷ 21” đã kết thúc giai đoạn đàm phán vào ngày
5/10 vừa qua. Trong đó, các vấn đề liên quan đến tài chính, ngân hàng
cũng đã được xem xét cụ thể. Tuy chỉ tác động gián tiếp nhưng với quy
mô rất lớn, ngành tài chính ngân hàng sẽ có nhiều ảnh hưởng.
- Xuất hiện nhiều “sóng” lớn
Hiến chương về dịch vụ tài chính của TPP vẫn chưa được công bố chi
tiết nhưng có thể thấy đây là một khía cạnh mà 12 thành viên của TPP
rất cẩn thận suy xét để vừa bảo đảm mang đến lợi ích tổng thể cho nền
kinh tế nhưng cũng vừa bảo vệ phần nào hệ thống tài chính nước nhà
trước sức ép cạnh tranh mới, nhất là các quốc gia đang phát triển như
Việt Nam.
Chính vì thế, ngành tài chính Việt Nam nhiều khả năng sẽ tiếp tục
chứng kiến các thay đổi lớn khi TPP bắt đầu có hiệu lực. Thủ tục hành
chính được đánh giá sẽ có sự thay đổi khá lớn. Đó chính là cơ chế cho
phép nhà đầu tư nước ngoài có thể khởi kiện chính phủ các quốc gia sở
tại nơi mình hoạt động nếu họ cảm thấy chính phủ quốc gia này đưa ra
các quy định bất hợp lý, trái với TPP và gây thiệt hại cho họ, nhà đầu tư
nước ngoài (cơ chế ISDS). Do đó, các quyết định mang nhiều tính hành
chính các bộ, ngành thực hiện trong nhiều năm nay sẽ phải được tính
toán và xem xét rất cẩn trọng trước khi đưa ra, đặc biệt nếu các quyết
định ấy ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương
mại.
Cùng với đó, các nước có đưa ra cam kết không phá giá đồng nội tệ

của mình để mang lại lợi thế cạnh tranh khi tham gia vào TPP. Điều này
có thể sẽ ảnh hưởng đến chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam hiện
nay. Cơ chế thực thi cam kết này như thế nào chưa được công bố, nhưng
có thể nói các chính sách về điều hành tỷ giá của NHNN trong các năm
tới sẽ theo các chuẩn mực chung của các nước thành viên TPP. Đi kèm
với thách thức thì đây cũng là cơ hội lớn cho hệ thống ngân hàng, kể cả
trong và ngoài nước. Các ngân hàng sẽ có cơ hội cải thiện mạnh mẽ


×