Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

ẢNH HƯỞNG của CALCIUM OXIT đến NĂNG SUẤT và PHẨM CHẤT TRÁI QUÝT ĐƯỜNG (citrus reticulata blanco) tại HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH hậu GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.97 KB, 53 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
-oOo-

LÊ MINH BÃO

ẢNH HƯỞNG CỦA CALCIUM OXIT
ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT
TRÁI QUÝT ĐƯỜNG (Citrus reticulata Blanco)
TẠI HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH HẬU GIANG

LUẬN VĂN KỸ SƯ NÔNG HỌC

Cần Thơ, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
-oOo-

LÊ MINH BÃO

ẢNH HƯỞNG CỦA CALCIUM OXIT
ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT
TRÁI QUÝT ĐƯỜNG (Citrus reticulata Blanco)
TẠI HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH HẬU GIANG

LUẬN VĂN KỸ SƯ NÔNG HỌC


Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

PGS.TS. Nguyễn Bảo Vệ

Lê Minh Bão

ThS. Bùi Thị Cẩm Hường

MSSV: 3083626
Lớp: Nông Học K34

Cần Thơ, 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
Chứng nhận đã chấp thuận luận văn tốt nghiệp với đề tài:

“Ảnh hưởng của calcium oxit đến năng suất và phẩm chất trái quýt
Đường (Citrus reticulata Blanco) tại huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu
Giang”
Do sinh viên LÊ MINH BÃO thực hiện.
Kính trình hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.

Cần Thơ, ngày

tháng


năm 2012

Cán bộ hướng dẫn

PGS. TS. NGUYỄN BẢO VỆ

ThS . BÙI THỊ CẨM HƯỜNG


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn với đề tài:
“Ảnh hưởng của calcium oxit đến năng suất và phẩm chất trái quýt Đường (Citrus
reticulata Blanco) tại huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang”
Do sinh viên LÊ MINH BÃO thực hiện và bảo vệ trước hội đồng ngày……tháng
……năm 2012.
Luận văn đã được hội đồng đánh giá ở mức ………………
Ý kiến hội đồng:
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………

Cần Thơ, ngày……tháng…… năm 2012
Thành viên hội đồng
Thành viên 1


---------------------

Thành viên 2

---------------------

Thành viên 3

----------------------

DUYỆT KHOA
Trưởng Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả trình bày
trong luận án hoàn toàn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
luận án nào trước đây.

Tác giả luận án

Lê Minh Bão


LÝ LỊCH KHOA HỌC
1. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH
- Họ và tên:

Lê Minh Bão


Giới tính: Nam

- Ngày sinh:

07/07/1990

Nơi sinh: Vĩnh Long

- Dân tộc:

Kinh

- Quê quán: ấp An Hòa, xã Phú Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long
2. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP VÀ CÔNG TÁC
- Tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2008 trường trung học phổ thông Phạm
Hùng, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
- Từ năm 2008 đến năm 2012 học ngành Nông Học, Khoa Nông Nghiệp và Sinh
Học Ứng Dụng, trường Đại Học Cần Thơ.

Cần Thơ, ngày

tháng

Người khai

Lê Minh Bão

năm 2012



LỜI CẢM TẠ
Kính dâng lên Cha Mẹ, người đã hết lòng vì sự nghiệp của con
THÀNH KÍNH BIẾT ƠN
PGS.TS. Nguyễn Bảo Vệ và ThS. Bùi Thị Cẩm Hường đã tận tình hướng dẫn và
dạy bảo cho em trong quá trình thực hiện đề tài.
CHÂN THÀNH CẢM ƠN
Thầy Nguyễn Hồng Phú và cô Trần Thị Bích Vân đã nhiệt tình hướng dẫn em
trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Qúy thầy cô Trường Đại Học Cần Thơ đã truyền đạt những kiến thức quý báo cho
em trong suốt quá trình học tập tại trường.
THÂN ÁI GỬI VỀ
Chị Châu Kim Thoa, chị Lương Ngân Hàng Xuyên và tập thể các anh chị học
viên cao học lớp Trồng Trọt khóa 17 đã nhiệt tình giúp đỡ và chỉ bảo tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Bạn Thạch Hiệp, bạn Chau Đa, bạn Trần Quí Thịnh, bạn Bùi Triều Khai, bạn Lâm
Đệ và tập thể các bạn lớp Nông Học khóa 34 đã nhiệt tình cộng tác cũng như giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Trân trọng

Lê Minh Bão


LÊ MINH BÃO, 2012. “Ảnh hưởng của calcium oxit đến năng suất và phẩm chất trái quýt
Đường (Citrus reticulata Blanco) tại huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang”. Luận văn tốt
nghiệp kỹ sư Nông Học. Khoa Nông Nghiệp và SHƯD. Trường Đại Học Cần Thơ. Cán bộ
hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Bảo Vệ và ThS. Bùi Thị Cẩm Hường.

TÓM LƯỢC

Đề tài “Ảnh hưởng của calcium oxit đến năng suất và phẩm chất trái quýt
Đường (Citrus reticulata Blanco) tại huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang” được thưc
hiện từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 12 năm 2011 trên giống quýt Đường trên 4 năm tuổi
được trồng từ nhánh chiếc nhằm tìm ra liều lượng thích hợp cho trái có chất lượng tốt nhất.
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 5 nghiệm thức: đối
chứng, bón cho cây với liều lượng 500, 1000, 1500 và 2000 kg CaO/ha, với 4 lần lập lại, 3
trái/cây/lập lại cho mỗi nghiệm thức.
Kết quả ghi nhận được như sau: Khi bón CaO với liều lượng 1000 kg/ha giúp tăng
đường kính trái (6,9 cm), chiều cao trái (6,0 cm), từ đó dẫn đến tăng năng suất (36,5
tấn/ha), tăng độ dày vỏ trái (0,23 mm), tăng màu sắc vỏ trái (E=35,0). Nhưng khi bón
CaO cho quýt Đường thì các phẩm chất bên trong trái (độ Brix, pH dịch trái và hàm lượng
vitamin C trong thịt trái) sẽ không bị ảnh hưởng.


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Trang phụ bìa

i

Lời cam đoan

iii

Lý lịch khoa học

iv


Lời cảm tạ

v

Tóm lược

vi

Mục lục

vii

Danh sách bảng

x

Danh sách hình

xi

Mở đầu

1

CHƯƠNG 1: Lược khảo tài liệu

2

1.1 Giá trị dinh dưỡng của cây có múi


2

1.2 Nguồn gốc và phân bố

2

1.2.1 Nguồn gốc

2

1.2.2 Phân loại

3

1.3 Tình hình sản xuất cây có múi

3

1.3.1 Tình hình sản xuất trên thế giới

3

1.3.2 Tình hình sản xuất trong nước

3

1.4 Đạt tính thực vật cây có múi

4


1.4.1 Rễ

4

1.4.2 Thân, cành

4

1.4.3 Lá

5

1.4.4 Hoa

5

1.4.5 Trái

6

1.4.6 Hột

6


1.5 Yêu cầu về sinh thái

7


1.5.1 Nhiệt độ không khí

7

1.5.2 Vũ lượng và ẩm độ không khí

8

1.5.3 Gió

8

1.5.4 Ánh sáng

9

1.5.5 Đất
1.6 Ảnh hưởng của việc sử dụng calcium lên thực vật

10
10

1.6.1 các con đường hấp thụ calcium

10

1.6.2 Tác dụng của calcium lên thực vật

11


CHƯƠNG 2: Phương tiện và phương pháp
2.1 Phương tiện

15
15

2.1.1 Thời gian và địa điểm

15

2.1.2 Vật liệu thí nghiệm

15

2.2.3 Dụng cụ và hóa chất phân tích

15

2.2 Phương pháp bố thí nghiệm

15

2.3 Các chỉ tiêu theo dõi

16

2.3.1 Các chỉ tiêu nông học

16


2.3.2 Các chỉ tiêu sinh hóa

17

2.3.3 Đánh giá cảm quan

18

2.4 Xử lý số liệu
CHƯƠNG 3: Kết quả và thảo luận
3.1 Chiều cao và đường kính trái

19
20
20

3.1.1 Đường kính trái

20

3.1.2 Chiều cao trái

21

3.2 Trọng lượng trái

22

3.3 Trọng lượng vỏ trái


23


3.4 Độ dày vỏ trái

24

3.5 Độ khác màu vỏ trái (E)

24

3.6 Số múi, hột chắc, hột lép và tổng số hột

26

3.7 Độ Brix, pH và hàm lượng vitamin C dịch trái

26

3.7.1 Độ Brix dịch trái

26

3.7.2 pH dịch trái

27

3.7.3 Hàm lượng vitamin C

28


3.8 Năng suất

28

3.9 Đánh giá cảm quan

29

CHƯƠNG 4: Kết luận và đề nghị

31

4.1 Kết luận

31

4.2 Đề nghị

31

TÀI LIỆU THAM KHẢO

32

PHỤ CHƯƠNG

35



DANH SÁCH BẢNG
Bảng

Tựa bảng

Trang

1.1

Thành phần dinh dưỡng của cam, chanh, quýt, bưởi.

2

2.1

Thang đánh giá một số đặc điểm bên ngoài của trái quýt Đường.

19

3.2

Số múi, hột chắc, hột lép và tổng số hột trên trái quýt Đường giữa
các nghiệm thức bón calcium oxit ở các liều lượng khác nhau tại
thời điểm thu hoạch.

26

3.3

Độ Brix, pH dịch trái và hàm lượng vitamin C của trái quýt Đường

giữa các nghiệm thức bón calcium oxit ở các liều lượng khác nhau
tại thời điểm thu hoạch.

27


DANH SÁCH HÌNH
Hình

Tựa hình

Trang

3.1

Đường kính trái quýt Đường giữa các nghiệm thức bón calcium
oxit ở các liều lượng khác nhau tại Phụng Hiệp, Hậu Giang.

20

3.2

Chiều cao trái quýt Đường giữa các nghiệm thức bón calcium oxit
ở các liều lượng khác nhau tại Phụng Hiệp, Hậu Giang.

21

3.3

Trọng lượng trái quýt Đường giữa các nghiệm thức bón calcium

oxit ở các liều lượng khác nhau tại Phụng Hiệp, Hậu Giang.

22

3.4

Trọng lượng vỏ trái quýt Đường giữa các nghiệm thức bón
calcium oxit tại thời điểm thu hoạch.

23

3.5

Độ dày vỏ trái quýt Đường giữa các nghiệm thức bón calcium
oxit ở các liều lượng khác nhau tại Phụng Hiệp, Hậu Giang

24

3.6

Độ khác màu vỏ trái quýt Đường giữa các nghiệm thức bón
calcium oxit ở các liều lượng khác nhau tại Phụng Hiệp, Hậu
Giang.

25

3.7

Năng suất tổng của cây quýt Đường giữa các nghiệm thức bón
calcium oxit ở các liều lượng khác nhau tại Phụng Hiệp, Hậu

Giang

29

3.8

Giá trị cảm quan của trái quýt Đường giữa các nghiệm thức bón
calcium oxit ở các liều lượng khác nhau tại Phụng Hiệp, Hậu
Giang.

30


MỞ ĐẦU
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới có thế mạnh trong việc phát triển nông
nghiệp, bên cạnh những cây lương thực có giá trị kinh tế cao như: lúa nước, bắp,
khoai mì thì cây ăn trái nói chung và cây có múi nói riêng cũng phát triển không
kém. Cây có múi là loại cây ăn trái quen thuộc và có tầm quan trọng của cả nước,
diện tích khoảng 56.900 ha và sản lượng ước tính khoảng 56.200 tấn vào năm 2004
(FAO, 2005). Trong đó quýt Đường là một trong những loại cây có giá trị thương
phẩm cao, mang lại thu nhập đáng kể cho người dân.
Quýt Đường (Citrus reticulata Blanco) được coi là một trong những trái cây
đặc sản ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, trái có phẩm chất thơm ngon, chứa
nhiều vitamin và khoáng chất đặc biệt là vitamin C (Trần Thượng Tuấn và ctv.,
1994). Hiện nay trai quýt Đường thường dùng để ăn tươi và chế biến nước giải
khác, một số ít được sử dụng làm mỹ phẩm và bánh kẹo.
Nhưng do Việt Nam là nước có ẩm độ và nhiệt độ cao nên đây cũng là điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của nấm và sâu bệnh hại làm suy giảm phẩm chất
trái quýt Đường cũng như làm ảnh hưởng tới thời gian tồn trữ trái làm mất giá trị
xuất khẩu.Vì thế, calcium được coi là một trong những khoáng chất quan trọng nhất

trong việc quyết định và nâng cao phẩm chất trái. Trong những năm gần đây vai trò
của calcium được quan tâm bởi vì những ảnh hưởng tốt của nó, calcium có thể trì
hoãn sự chín và lão hóa, giảm sự hô hấp, kéo dài chu kì sống và giảm những rối
loạn sinh lý học (Sharma và ctv., 1996). Cung cấp calcium trước thu hoạch là một
trong những bước quan trọng trong quá trình cải tạo đất cũng như cải thiện phẩm
chất trái và làm giảm sự tấn công của nấm bệnh ở giai đoạn sau thu hoạch (Conway
và ctv., 1994). Vì vậy đề tài “Ảnh hưởng của calcium oxit đến năng suất và phẩm
chất trái quýt đường (Citrus reticulata Blanco) tại huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu
Giang” được thực hiện nhằm mục tiêu xác định liều lượng calcium oxit bón cho cây
trước thu hoạch để nâng cao năng suất và phẩm chất trái quýt Đường.


CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG CỦA CÂY CÓ MÚI

Theo Trần Thượng Tuấn và ctv. (1994) trái cây có múi thường được sử dụng
rộng rãi vì có chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể nhất là vitamin C.
Trái cây có múi thường có vị chua nhẹ và hơi đắng (bưởi) giúp máu dễ tuần hoàn.
Vỏ ngoài của trái giàu pectin được sử dụng để làm mứt, kẹo, làm thuốc nam hay
trích lấy tinh dầu. Trái được chế biến thành nhiều loại sản phẩm như: nước giải
khát, xyrô, mứt, kẹo, rượu bổ… (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2004).
Bảng 1.1 Thành phần dinh dưỡng của cam, chanh, quýt, bưởi
Loại
trái

Nước
(%)

Tro

(%)

Protein
(%)


(%)

0,5

Cacbohydrat
(%)
8,4

1,4

Năng
lượng
(%)
43

Cam

87,5

0,5

Chanh

87,5


Quýt
Bưởi

Muối khoáng
(mg/100g)
Ca
P
Fe
34
23
0,4

0,5

0,3

3,6

1,3

18

40

22

0,6

88,5


0,6

0,4

8,6

0,8

43

35

17

0,4

83,4

0,4

0,5

15,3

0,7

59

30


19

0,7

1.2 NGUỒN GỐC VÀ PHÂN BỐ

1.2.1 Nguồn gốc
Theo nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy cây có múi có nguồn gốc ở vùng
Đông Nam Á, bao gồm phía Đông Arabia đến Philippines và từ Nam Himalayas
đến Indonesia hoặc Australia, trong đó cái nôi của cây có múi từ Đông Nam Ấn Độ
đến phía Bắc Burma (Davies và Albrigo, 1994).
Theo Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2003), một số loài cây có múi có
nguồn gốc ở Đông Nam Á, trong đó có sự phát sinh của một vài cây có múi cũng
như những loài cùng họ được phân bố từ biên giới Đông Bắc của Ấn Độ qua Miến
Điện và một vùng phía Nam của đảo Hải Nam.


Theo Trần Thượng Tuấn và ctv. (1994), cho biết quýt Đường xuất phát từ
Đông Nam Á. Hiện nay được trồng phổ biến ở 49 nước. Ở Việt Nam, không ai biết
quýt đường được trồng trong thời gian nào (Vũ Công Hậu, 1996).
1.2.2 Phân loại
Cây có múi thuộc bộ Gerniales, họ Rutaceae, họ phụ Aurantioideae, tộc
Citreae, tộc phụ Citrinae, thuộc nhóm C (nhóm A: trái còn sơ khai; nhóm B: trái
tương tự cam quýt; nhóm C: cam quýt nhật) có 6 chi, loài cam quýt trồng trọt
(Genus Citrus) thuộc chi phụ Eucitrus (Nguyễn Văn Kế, 2003).
Quýt thuộc loài Citrus reticulata, dạng cây nhỏ cao khoảng 2-8 m đôi khi có
gai. Lá nhỏ hẹp hình xoan, lá dài 4-8 cm, rộng 1,5-4 cm màu xanh đậm bóng ở mặt
trên và xanh vàng nhạt ở mặt dưới.
1.3 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÂY CÓ MÚI

1.3.1 Tình hình sản xuất trên thế giới
Cây có múi là loại cây ăn trái quan trọng, chiếm sản lượng 107 triệu tấn trên
toàn thế giới (FAO, 2005). Theo Nguyễn Danh Vàn (2009), quýt Đường được trồng
khá phổ biến, nhất là ở Đồng bằng sông Cửu Long, trái to, khi chín vỏ trái có màu
xanh vàng, vỏ mỏng, nhiều nước, múi rất mềm, ít hạt, giá trị kinh tế cao.
1.3.2 Tình hình sản xuất trong nước
Trong thập niên vừa qua (1985-1995), ngành xản xuất cây có múi vươn lên
một cách đáng kể, nhu cầu tăng từ 48 triệu tấn lên đến 80 triệu tấn, diện tích cây có
múi ở Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 68% tổng diện tích cây có múi của cả
nước, sản lượng đạt 79,4% sản lượng của cả nước (Niên giám thống kê, 1996). Diện
tích cây ăn quả ở Đồng bằng sông Cửu Long ước tính khoảng 234.363 ha và miền
Đông Nam Bộ 100.000 ha so với tổng diện tích cây ăn quả của cả nước là 500.000
ha (Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam, 2002). Ở Nam Bộ, diện tích cây có
múi đứng hàng thứ hai (39.440 ha) sau cây nhãn (48.656 ha) với sản lượng cao nhất
là 552.160 tấn. Với gần 40.000 ha cây có múi. Đồng bằng sông Cửu Long chiếm


gần 37.000 ha, Đông Nam Bộ chỉ khoảng 3.000 ha đã cho thấy sự quan trọng của
cây có múi đến đời sống của nông dân.
1.4 ĐẶC TÍNH THỰC VẬT CÂY CÓ MÚI
1.4.1 Rễ
Rễ cây có múi thuộc loại rễ nấm (Micorhiza) (Hoàng Ngọc Thuận, 2000). Sự
phát triển của rễ thường xen kẻ với sự phát triển của thân cành trên mặt đất, thường
thì rễ hoạt động mạnh, thân cành sẽ hoạt động chậm và ngược lại, do đó việc bón
phân đầy đủ vào giai đoạn cành phát triển có tác dụng cung cấp chất dinh dưỡng
cho cây (Nguyễn Hữu Đống và ctv., 2003).
Theo Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2001), rễ cây có múi thường mọc
cạn, đa số rễ hút dinh dưỡng phân bố gần lớp đất mặt vì vậy việc giữ lớp đất mặt tơi
xốp, êm mát có tác dụng giúp cây hấp thụ chất dinh dưỡng tốt hơn. Ở vùng đất thấp,
việc trồng cây có múi bằng hột hay gốc tháp thường bị ảnh hưởng bởi mực thủy

cấp, nếu không lên líp cao và thiết kế bờ bao quanh vườn để được điều tiết nước cây
có thể suy yếu dần rồi chết và thối rễ.
1.4.2 Thân, cành
Cây có múi thuộc dạng thân gỗ, hình bán trụ, cây trưởng thành có thể có 4
đến 6 cành chính. Tùy theo độ tuổi, điều kiện sống, phương pháp nhân giống mà
cây có thể có chiều cao và hình thái khác. Trong một năm, cây có thể cho 3 đến 4
đợt cành tùy theo chức năng của cành trên cây có thể phân chia thành nhiều loại
cành (Nguyễn Hữu Đống và ctv., 2003).
Cành cam quýt phát triển theo lối hợp trục, khi cành dài đến một khoảng nhất
định thì ngừng lại. Tùy theo chức năng của cành trên cây có thể gọi như sau:
- Cành mang trái: được mọc ra từ những cành lớn gọi là cành mẹ. Cành mọc
ở ngọn hay gần ngọn cành mẹ là những cành đậu trái tốt hơn so với những cành
mọc bên trong.


- Cành mẹ: là cành tạo ra cành mang trái. Cành to khỏe, lâu tròn mình. Cần
nắm được thời vụ ra cành mẹ để có biện pháp bồi dưỡng tích cực, giúp mọc được
nhiều cành mang trái hơn.
- Cành dinh dưỡng: là các loại cành trong giai đoạn chưa ra hoa trái, thường
mọc vào các mùa trong năm.
- Cành vượt: là loại cành mọc thẳng bên trong tán cây, cành phát triển mạnh,
dẹp, màu xanh, lá to bóng láng, đôi khi có gai dài. Cành này sử dụng rất nhiều dinh
dưỡng của cây mà không có lợi ích gì nhiều, đôi khi còn là nơi ẩn náo của sâu bệnh.
Do đó, cần cắt bỏ những cành vượt khi cây còn nhỏ (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh
Phong, 2001).
1.4.3 Lá
Lá cam quýt gồm một phiến hình elip với cuống lá có một eo lá hay còn gọi
là cánh, cánh lá nhỏ ở lá cam, khá nhỏ ở lá quýt. Một cây cam quýt khỏe mạnh có
thể có 130.000 đến 200.000 lá với tổng diện tích lá khoảng 200 m 2. Trên lá khí
khổng tập trung nhiều nhất ở mặt lưng. Số lượng thay đổi tùy theo giống, trung bình

khoảng 500 khí khổng/mm2 (Nguyễn Ngọc Tuyết, 2003).
1.3.4 Hoa
Hoa cam quýt thuộc loại đơn hay chùm mọc từ nách lá, trong điều kiện tự
nhiên hoa thường mọc vào đầu mùa mưa hoặc dùng kỹ thuật xiết nước để xử lý ra
hoa. Hoa có dạng hình thuông tròn đỉnh hơi to hơn phía dưới, đường kính rộng 2-4
cm rất thơm thường là hoa lưỡng tính (Lê Văn Hòa và Nguyễn Bảo Toàn, 2004).
Hầu hết các loài cây có múi đều tự thụ, tuy nhiên cũng có thể thụ phấn chéo. Có tác
giả cho rằng ở quýt, thụ phấn chéo sẽ làm tăng năng suất, mặc dù trái sẽ có nhiều
hột hơn (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2003).


1.4.5 Trái
Trái cam quýt gồm có 3 phần:
- Ngoại quả bì: Là phần vỏ ngoài của trái, gồm có biểu bì với lớp cutin dày
và các khí khổng. Bên dưới lớp biểu bì là lớp tế bào nhu mô vách mỏng, giàu lục
lạp nên có thể quang hợp được khi trái còn xanh. Trong giai đoạn đầu phát triển trái,
ngoại quả bì có màu xanh đậm chứa nhiều mô có hoạt động quang hợp và một ít khí
khổng. Khi trái gần chín, diệp lục tố dần bị tiêu biến và lục lạp chuyển thành sắc lạp
giàu thể carotene (Goldschmidt, 1988).
- Trung quả bì: Là phần phía trong kế ngoại quả bì, đây là một lớp gồm nhiều
tầng tế bào hợp thành, có màu trắng.
- Nội quả bì: Gồm có các múi trái được bao quanh bởi vách mỏng trong suốt.
Bên trong vách múi có những sợi đa bào (hay còn gọi là con tép, lông mập), phát
triển và đầy dần dịch nước, chiếm đầy các múi chỉ chừa lại một số khoảng trống để
hột phát triển. Như vậy nội quả bì cung cấp phần ăn được của trái với dịch nước có
chứa đường và acid (chủ yếu là acid citric).
Tỷ lệ đậu trái cũng ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: dinh dưỡng, lượng nước
cung cấp, khí hậu, sâu bệnh... Bộ tán lá của cây cũng có ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu
trái, nếu mỗi trái được nuôi bởi một số lá thích hợp thì sẽ phát triển tốt hơn. Thí dụ:
bưởi cần khoảng 60 lá/trái, chanh khoảng 20 lá/trái, cam, quýt khoảng 50 lá/trái

(trung bình là 20-25 lá/trái)... Do đó, việc duy trì bộ tán lá khỏe, nhiều sẽ giúp trái
đậu và phát triển tốt (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2003).
1.4.6 Hạt
Đa số cây có múi có hạt đa phôi gồm một phôi hữu tính và một phôi vô tính.
Phôi hữu tính hình thành từ giao tử do sự thụ tinh của tế bào trứng. Có khoảng 6
hay hơn phôi vô tính phát triển từ tế bào sinh dưỡng của phôi tâm và vì vậy cây sẽ
mang đặc điểm di truyền của cây mẹ. Cây mọc ra từ phôi hữu tính thường thiếu sức
sống, dễ chết và thường bị lấn áp bởi phôi vô tính. Ở cam quýt, sự thụ phấn cần
thiết cho sự phát triển của phôi vô tính (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2003).


1.5 YÊU CẦU VỀ SINH THÁI
1.5.1 Nhiệt độ không khí
Cây cam quýt có nguồn gốc cận nhiệt đới nên không chịu được nhiệt độ khá
cao hay khá lạnh, tuy nhiên cây cam quýt chịu được nhiệt độ cao tốt hơn nhiệt độ
lạnh. Việt Nam là đất nước có khí hậu nhiệt đới, với cách chịu nhiệt như vậy cây
cam quýt có thể trồng được ở bất cứ nơi nào ở miền Nam cũng như miền Bắc Việt
Nam (Vũ Công Hậu, 1996).
Càng lên cao nhiệt độ càng thấp và cây cam quýt sinh trưởng chậm lại, thời
gian từ khi ra hoa đến khi kết quả dài ra. Ở miền Nam, nhiệt độ đôi khi quá cao cam
quýt có thể chịu được nhiệt độ cao tới 520C trong thời gian ngắn nhưng trên thực tế
đã thấy quá trình sinh lý, sinh hóa của cam quýt đã ngừng hẳn ở nhiệt độ 360C. Khi
nhiệt độ hạ thấp 5-100C cây ngừng sinh trưởng. Ở các nước nhiệt đới không có rét,
không có thời gian cho cây nghĩ, hoa thường ra vào đợt có những trận mưa rào,
vùng này một năm cây ra hoa nhiều lần và quanh năm đều có trái chín (Nguyễn
Ngọc Tuyết, 2003).
Ở vùng nhiệt đới, nhiệt độ quá cao làm cây phát dục kém, nên người ta phải
trồng cam quýt dưới các bóng cây khác, hay trồng trên những luống, giữa các rãnh
có tưới nước để giữ độ ẩm. Sức chịu nhiệt của cam quýt còn phụ thuộc vào gốc
ghép, nếu dùng gốc ghép là cam đắng thì cây sẽ chịu nhiệt cao hơn dùng các gốc

cam khác. Ở vùng nhiệt đới, cam quýt mau già do bốc hơi nước nhiều, làm trái mất
nước, trái khô nên không để trái lâu trên cây được (Vũ Công Hậu, 1996).
Nhiệt độ còn ảnh hưởng quan trọng đến phẩm chất và sự phát triển của trái.
Thường ở nhiệt độ cao, trái chín sớm, ít xơ và ngọt, nhưng khả năng cất giữ kém và
màu sắc trái chín không đẹp (ở nhiệt độ thấp các sắc tố hình thành nhiều hơn). Ở
miền Nam thường có biên độ nhiệt giữa ngày và đêm không cao nên khi chín vỏ trái
thường còn màu xanh, tuy nhiên yếu tố tạo màu sắc khi chín còn ảnh hưởng bởi
giống trồng. Ngoài ra, nhiệt độ còn tác động đến môi trường rễ, khoảng 25-26 0C là
nhiệt độ tối hảo để rễ cây hút chất đạm tốt nhất (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh
Phong, 2003).


1.5.2 Vũ lượng và ẩm độ không khí
Vũ lượng hằng năm cần cho cam quýt ít nhất là 875 mm trong trường hợp
không tưới. Nhiều tác giả cho rằng lượng mưa thích hợp hằng năm cho cam là từ
1.000-1.400 mm và phân phối đều. Quýt, chanh có yêu cầu vũ lượng lớn hơn từ
1.500-2.000 mm/năm. Nói chung, cam quýt không thích hợp với khí hậu nhiệt đới
quá ẩm và ẩm độ không khí quá cao (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2003).
Cam quýt là những cây ưa ẩm độ trung bình, do đó nghề trồng cam quýt đã
mở ra rất rộng, vì vậy cam quýt được trồng rộng rãi ở các nước có lượng mưa khác
nhau nhưng nơi nào ít mưa thì phải tưới. Ở miền Nam, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên
có mùa mưa rõ rệt, lượng nước bốc hơi nhiều cần thiết phải có chế độ nước tưới hợp
lí. Miền Nam không có rét đến mức làm cam quýt ngừng sinh trưởng, nếu để tự
nhiên không tưới đến đầu mùa mưa tháng 4 và tháng 5 dương lịch, sau mưa 25-30
ngày là cam quýt ra hoa chín vào tháng 11,12 và tháng 1 dương lịch, đó là mùa cam
quýt rộ. Vào tháng 11 và 12 dương lịch có nơi nhiệt độ khá thấp nếu kết hợp lúc đó
ẩm độ còn tốt thì lại ra hoa một đợt nữa, trái chín vào tháng 6 và 7 dương lịch là vụ
cam quýt trái vụ thường ít hơn vụ chính (Vũ Công Hậu, 1996).
1.5.3 Gió
Gió là một trong những yếu tố của khí hậu ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và

phát triển của cây quýt. Gió nhẹ làm hơi nước, cacbon dioxit trộn đều có lợi cho bộ
lá ít phát sinh bệnh. Trong thời kì cây ra trái, nếu bị gió nhiều gió mạnh, trái dễ bị
xây xát, dễ rụng (Nguyễn Ngọc Tuyết, 2003).
Gió lớn có thể làm đổ cây, nhất là trồng cây bằng chiết cành. Gió mạnh vào
mùa đông gây ảnh hưởng đến năng suất cây. Gió bão là gió nguy hiểm nhất cho
cây, lá có thể bị đứt đi, trái cọ sát vào nhau gây thương tích, tạo điều kiện thuận lợi
cho sâu bệnh xâm nhập. Ở những vùng nhiều gió, người ta thường trồng những
hàng cây chắn gió xung quanh vườn cam quýt để hạn chế bớt gió, cây không bị lay
động, chống gió Đông Bắc khi cây ra hoa, thụ tinh và trái đang lớn (Võ Hữu Thoại,
2002).


Phần lớn các loài cam quýt có thể chịu được bão nhỏ trong một thời gian
ngắn, mức độ chống chịu theo thứ tự sau: Chanh Yên, chanh Ta, chanh Tây, bưởi,
cam Ngọt, cam Chua, quýt, quất (Fortunella) và cam Ba Lá (Poncirus trifoliata).
Gió nhẹ với vận tốc khoảng 5-10 km/giờ, có tác dụng hạ thấp nhiệt độ của vườn
trong mùa hè, cây được thoáng mát, giảm sâu bệnh. Khi lập vườn cũng cần lưu ý
hướng gió có hại (như hướng gió Tây Nam ở Đồng bằng sông Cửu Long) để bố trí
trồng cây chắn gió, giúp điều hòa được không khí trong vườn, giảm đổ ngã, cây thụ
phấn tốt trong mùa hoa nở (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2003).
1.5.4 Ánh sáng
Cam quýt là loại cây không thích ánh sáng trực xạ. Kết quả nghiên cứu cho
thấy cường độ ánh sáng thích hợp khoảng 10.000-15.000 lux (tương đương với ánh
sáng khoảng 8 giờ sáng và 4-5 giờ chiều trong ngày mùa hè). Cường độ ánh sáng
quá cao có thể làm nám trái (dễ thấy trên trái cam Sành), mất nước nhiều, sinh
trưởng kém dẫn đến tuổi thọ ngắn. Trong họ cam quýt, bưởi tương đối chịu đựng
được lượng ánh sáng cao, kế đến là cam. Cam Sành và quýt, thích lượng ánh sáng
vừa phải. Do đó, việc trồng xen tạo điều kiện có bóng râm sẽ giúp cây sinh trưởng
tốt hơn. Có thể tạo điều kiện ánh sáng vừa phải cho cam quýt ở Đồng bằng sông
Cửu Long bằng việc trồng dày hợp lý, như trồng dày trên hàng nhưng thưa giữa các

hàng và có thể bố trí líp trồng theo hướng Đông-Tây để tránh bớt ánh sáng trực xạ.
Hiện nay chưa có tài liệu nào nói về sự đáp ứng của cây với quang kỳ (Nguyễn Bảo
Vệ và Lê Thanh Phong, 2003).
Cây có múi là cây ưa nắng trừ những nơi có nhiệt độ quá cao phải có cây che
bóng. Trong điều kiện bình thường, nếu thiếu ánh sáng sự quang hợp sẽ kém, lượng
carbonhydrate tích lũy ít, sản lượng giảm, phẩm chất kém. Trong điều kiện thiếu
ánh sáng, cây bị rợp bóng, cây có múi thường ra lá non to hơn, cành bị mềm, lâu
hóa gỗ, các cành trái khó phát sinh, mầm hoa khó phân hóa. Trái chỉ ra xung quanh
tán cây và các bên ngoài, các cành ở giữa tán vòm cây nhỏ, phát dục không đầy đủ,
sinh trưởng chậm ít ra hoa kết trái, khô và chết dần (Nguyễn Hữu Đống và ctv.,
2003).


1.5.5 Đất
Đất là nơi cây cắm bộ rễ xuống giữ cho cây ổn định vững vàng không bị lay
chuyển. Đất có hai chức năng quan trọng: cung cấp chất dinh dưỡng và giữ nước.
Vì vậy đất còn giữ được nước ổn định là những đất thích hợp cho cam quýt phát
triển (Vũ Công Hậu, 1996). Điều kiện tiên quyết khi chọn đất canh tác cây cam quýt
đòi hỏi có tầng canh tác dày, pH phù hợp, thoát thủy tốt vì cam quýt có bộ rễ ăn cạn
gần lớp đất mặt và yếu. Tốt nhất là đất thịt pha, màu mỡ, thoát nước tốt và thoáng
khí vì rễ cần nhiều oxy trong đất. Không nên trồng cam quýt trên đất sét nặng, phèn,
đất nhiều cát, đất có tầng canh tác mỏng, mực thủy cấp cao; tầng canh tác phải dày
ít nhất 0,5 m. Riêng ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhà vườn thường chọn vùng đất
phù sa cao ven sông lớn, lên líp kết hợp đê bao đã tạo được tầng đất canh tác dày
trên dưới 1 m, thoát nước tốt đã tạo điều kiện thuận lợi cho bộ rễ cam quýt phát
triển. Độ pH tốt cho cam quýt nằm trong khoảng 4-8, tốt nhất là từ 5,5-6,5 (Nguyễn
Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2003).
1.6 ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG CALCIUM LÊN THỰC VẬT
1.6.1 Các con đường hấp thụ calcium
Cây trồng có thể hấp thụ calcium bằng nhiều đường khác nhau:

* Hấp thụ qua rễ
Theo Huỳnh Nga (2006), khả năng hút calcium của từng đoạn rễ khác nhau:
chóp rễ có khả năng hút cao nhất và giảm dần ở vùng rễ trên. Các dạng cung cấp
calcium qua rễ như bột đá vôi (CaCO3), vôi sống (CaO), vôi tôi (Ca(OH)2) và vôi
thạch cao (CaSO4).
* Hấp thu qua bề mặt trái
Việc cung cấp calcium cho cây để giảm sự thiếu calcium ở trái và cải thiện
phẩm chất trái đã được áp dụng nhiều nơi trên thế giới. Theo Chamel (1989),
calcium không di chuyển từ lá đến trái do đó khi phun calcium nên phun trực tiếp
lên trái và nhờ con đường này calcium có thể ngấm vào trái. Các dạng cung cấp


calcium qua bề mặt trái như calcium chloride (CaCl2) và calcium nitrate
(Ca(NO3)2)…
1.6.2 Tác dụng của calcium lên thực vật
1.6.2.1 Ngăn chặn sự suy thoái của đất
Ở đất có phèn, đất thâm canh, đất canh tác bón nhiều phân đạm (urê) và kali
lâu năm và nhất là điều kiện nóng, ẩm mưa nhiều như ở Đồng bằng sông Cửu Long,
sự suy thoái của đất diễn ra khá nhanh chóng. Khi đất bị suy thoái, năng suất cây
trồng giảm dần theo thời gian canh tác, khoáng sét trong đất bị phá hủy, đất mất dần
cấu trúc, trở nên rời rạc, mềm nhão khi gặp nước và kết dính đóng váng khi khô, đất
trở nên bí chặt kém thông thoáng. Nếu để tình trạng suy thoái kéo dài, đất trở nên
già cổi, bạc màu, sức sản xuất kém, năng suất và chất lượng của cây trồng giảm, lúc
đó không thể khôi phục lại sức sống của đất được. Bón vôi (bột đá vôi-CaCO3) vào
đầu mùa mưa là một trong những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tiến trình suy thoái
này, giảm ngộ độc sắt (Fe), nhôm (Al) và mangan (Mn) cho cây trồng, phục hồi cấu
trúc đất làm đất thông thoáng và thấm nước tốt (Nguyễn Bảo Vệ và Nguyễn Huy
Tài, 2004).
1.6.2.2 Ức chế sự phát triển của nấm bệnh trong đất
Đất trở nên chua khi bị suy thoái là điều kiện thuận lợi cho nấm bệnh trong

đất phát triển. Trên đất ruộng, nấm bệnh làm dưa bị chạy dây, cà bị héo rủ, … Ở cây
ăn trái trồng trên đất liếp lâu năm bệnh vàng lá, thối rễ, chảy mủ thân… ngày càng
trở nên nghiêm trọng. Một trong những biện pháp ức chế sự phát triển của những
loại nấm gây hại này là bón vôi cải tạo đất. Thông thường có thể bón hàng năm vào
thời điểm sửa soạn đất hoặc bón liều cao từ 100-200 kg/công nhưng vài năm mới
bón lại một lần. Bón vôi sẽ giúp cho những vi khuẩn có lợi trong đất phát triển như
vi khuẩn cố định đạm ở cây họ đậu.


1.6.2.3 Khử mặn
Đất nhiễm mặn bị mất dần cấu trúc và rời rạc. Do đó cây trồng không hút
được nước và dưỡng chất. Để hạn chế tác hại của mặn, những vùng đất mặn có
phèn nên bón vôi nung (CaO) để rửa mặn, còn đất mặn không phèn nên bón vôi
thạch cao (CaSO4) với liều lượng khoảng 30-50 kg/công. Bón bằng cách rải đều
trên đất ruộng đã được cày xới và ngập nước, đối với đất liếp phải được cuốc lên
trước khi bón vôi. Sau khi rải vôi cần bừa hoặc trục cho vôi trộn đều trong đất,
ngâm nước từ 1-2 ngày rồi rút bỏ nước này đi. Còn đất liếp vườn cây ăn trái thì phải
tưới một lượng nước ngọt dư thừa để rửa mặn ra khỏi liếp.
1.6.2.4 Cung cấp dưỡng chất calcium cho cây trồng
Calcium là nguyên tố đa lượng rất cần thiết cho sự phát triển bình thường
của thực vật. Calcium không phân bố đồng đều trong cây, ở thân, lá và hạt nhiều
hơn ở rễ, mô già nhiều hơn mô non, trái dễ bị ảnh hưởng của sự thiếu calcium. Nếu
có sự thiếu calcium xảy ra sẽ dẫn tới sự xuất hiện của những triệu chứng rối loạn
sinh lý đối với cây trồng. Tùy theo chủng loại mà có sự biểu hiện ở các vị trí khác
nhau như nứt trái cà chua, thối đít trái cà chua, cháy đầu lá rau diếp, đốm nâu bên
trong trái táo, mô bị biến dạng làm hình thù vặn vẹo… (Lê Văn Hòa và Nguyễn Bảo
Toàn, 2004).
1.6.2.5 Bảo quản trái cây
Calcium là thành phần xây dựng và làm vững chắc vách tế bào thực vật.
Vách tế bào thực vật bao quanh tế bào chất của tế bào giúp duy trì cấu trúc và hình

dạng. Ngoài ra, vách tế bào cũng quản lý những vật chất hấp thu bởi thực vật. Sự
giảm bớt thành phần calcium trong tế bào gây ra những lỗ hổng hoặc làm nứt trong
vách tế bào. Calcium được cho là một nguyên tố khoáng chất quan trọng nhất trong
việc quyết định phẩm chất trái cây. Calcium ở một lượng thích hợp có thể giúp sự
duy trì vững chắc và là giảm những rối loạn sinh lý học. Sự xuất hiện của calcium
trực tiếp trên trái cây là phương pháp có hiệu quả nhất để gia tăng hàm lượng


×