Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

KHẢO sát TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN sán TRÊN ĐƯỜNG TIÊU hóa ở bò tại lò mổ tập TRUNG THỊ xã SA đéc TỈNH ĐỒNG THÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.25 MB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẨN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
......

VÕ THẾ HƯNG

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN
SÁN TRÊN ĐƯỜNG TIÊU HÓA Ở BÒ
TẠI LÒ MỔ TẬP TRUNG THỊ XÃ
SA ĐÉC TỈNH ĐỒNG THÁP

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: THÚ Y

Cần Thơ, 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
….….
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: THÚ Y

Tên đề tài:

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN SÁN
TRÊN ĐƯỜNG TIÊU HÓA Ở BÒ TẠI LÒ MỔ TẬP
TRUNG THỊ XÃ SA ĐÉC
TỈNH ĐỒNG THÁP



Giáo viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

ThS: ĐỖ TRUNG GIÃ

VÕ THẾ HƯNG
MSSV: LT10517
Lớp: CN1067L1

Cần Thơ, 2012

i


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẤN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
….….

Đề tài: KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN SÁN TRÊN ĐƯỜNG
TIÊU HÓA Ở BÒ TẠI LÒ MỔ TẬP TRUNG THỊ XÃ SA ĐÉC TỈNH
ĐỒNG THÁP

Cần thơ, ngày tháng
Duyệt Bộ Môn

năm 2012


Cần Thơ, ngày tháng năm 2012
Duyệt Giáo Viên Hướng Dẫn

Cần Thơ, ngày
tháng
năm 2012
Duyệt khoa NN & SHƯD

ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ luận văn nào trước đây.

Tác giả luận văn

VÕ THẾ HƯNG

iii


LỜI CẢM TẠ

Thành kính biết ơn!
Cha Mẹ người đã hết lòng chăm sóc, nuôi dạy tôi nên người. Người luôn
luôn bên cạnh động viên tôi những lúc khó khăn để tôi được như ngày hôm nay.
Thầy Đỗ Trung Giã, đã tân tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời

gian làm luận văn tốt nghiệp.
Chân thành cảm ơn!
Thầy Nguyễn Hữu Hưng cố vấn học tập, cùng các quý thầy cô trong Bộ
Môn Thú Y và Chăn Nuôi Thú Y những đã cung cấp kiến thức tạo điều kiện
thuận lợi nhất trong thời gian tôi học tập tại trường.
Thầy Nguyễn Phúc Khánh, cô Huỳnh Ngọc Trang đã nhiệt tình giúp đỡ trong
thời gian tôi thực hiện đề tài tại phòng thí nghiệm.
Tập thể cán bộ Trạm Thú Y thị xã Sa Đéc đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi
thu thập mẫu trong quá trình làm luận văn.
Bạn Nguyễn Hoàng Huy, Trần kim Ngân, Lê Minh Hiếu, Trần Văn Thiết
đã đồng hành cùng tôi trong thời gian làm luận văn.
Tập thể các bạn lớp Thú y liên thông k36 đã giúp tôi trong thời gian học
tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

VÕ THẾ HƯNG

iv


MỤC LỤC

Trang tựa

i

Trang duyệt

ii

Lời cam đoan


iii

Lời cảm tạ

iv

Mục lục

v

Danh sách chữ viết tắt

vii

Danh sách bảng và biểu đồ

viii

Danh sách hình

ix

Tóm lược

x

CHƯƠNG 1 ĐẶT VẤN ĐỀ

1


CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN

2

2.1 Sơ Lược Về Tình Hình Nghiên Cứu Ký Sinh Trùng Bò Trong Nước
Và Trên Thế Giới

2

2.1.1 Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng ở bò trên thế giới

2

2.1.2 Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng ở bò trong nước

3

2.2 Sơ Lược Về Các Loài Giun Sán Ký Sinh

7

2.2.1 Sán lá gan và tác hại sán lá gan

7

2.2.2 Sán lá dạ cỏ và tác hại sán lá dạ cỏ

15


2.2.3 Sán dây và bệnh sán dây

20

2.2.4 Bệnh giun xoan dạ múi khế ở bò

24

CHƯƠNG 3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

30

3.1 Nội dung nghiên cứu

30

3.2 Thời gian tiến hành

30

3.3 Địa điểm tiến hành

30

v


3.4 Điều kiện tự nhiên Thị Xã Sa Đéc

30


3.5 Phương tiện và phương pháp nghiên cứu

33

3.5.1 Dụng cụ thí nghiệm và hoá chất

33

3.5.2 Phương pháp thí nghiệm

33

3.5.3 Nội dung nghiên cứu

35

CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN

36

4.1 Kết quả nhiễm giun sán tại lò mổ thị xã Sa Đéc

36

4.2 Kết quả tình hình nhiễm giun sán theo tuổi bò

37

4.3 Thành phần loài giun sán ký sinh tại lò mổ thị xã Sa Đéc


39

4.4 Kết quả nhiễm ghép các loài giun sán ký sinh ở bò theo tuổi

41

CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

43

5.1 Kết luận

43

5.2 Đề nghị

43

TÀI LIỆU THAM KHẢO

44

PHỤ CHƯƠNG

46

vi



DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT

KST: Ký sinh trùng
SCKT: Số con kiểm tra
SCN :Số con nhiễm
TLN: Tỷ lệ nhiễm
CTV: Cộng tác viên
B.forskali: Buhnus forskali
F.gigantica: Fasciola gigantica
F.hepatica: Fasciola hepatica
L.swinhoei: Lymnaea viridis
P.cervi: Paramphistomum ceri
P.contortus: Planorbis contortus
P.planorbis :Planorbis planorbis
G.obvius: Galumna obvius
G.nigara: Galumna nigara
S.latipes: Scheloribates latipes
M.expansa:Moniezia expansa
M.benedeni: Moniezia benedeni
H.contortus: Haemonchus contortus
M.digitatus: Mecistocirrus digitatus

vii


DANH SÁCH BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng
Bảng 2.1 Một số đặc điểm của các loài sán lá dạ cỏ

18


Bảng 4.1 Tỷ lệ nhiễm giun sán trên bò tại lò mổ thị xã Sa Đéc

36

Bảng 4.2 Tỷ lệ nhiễm giun sán theo tuổi bò

37

Bảng 4.3 Cường độ nhiễm sán lá dạ cỏ theo nhóm tuổi bò

38

Bảng 4.4 Tỷ lệ nhiễm thành phần loài giun sán ký sinh trên bò

39

Bảng 4.5 Tỷ lệ nhiễm ghép các loài giun sán ký sinh ở bò theo tuổi

41

Biểu đồ
Biểu đồ 4.1 Tỷ lệ thành phần loài giun sán ký sinh ở bò mổ khám

40

Biểu đồ 4.2 Tỷ lệ nhiễm ghép các loài giun sán ở bò theo tuổi

41


viii


DANH SÁCH HÌNH

Hình 2.1 Fasciola gigantica

9

Hình 2.2 Fasciola hepatica

9

Hình 2.3 Vòng đời phát triển của Fasciola spp

11

Hình 2.4 Ốc Lymnaea viridi

12

Hình 2.5 Ốc Lymnea swinhoei

13

Hình 2.6 Paramphistomum cervi

17

Hình 2.7 Đốt giữa Moniezia expansa


23

Hình 2.8 Monezia benedeni (đốt chính)

24

Hình 2.9 Monezia benedeni (đầu sán)

24

Hình 2.10 Haemonchus contortus

27

Hình 2.11 Haemonchus contortus

27

Hình 3.1 Sơ đồ tỉnh Đồng Tháp

31

Hình 3.2 Bò khảo sát

32

Hình 3.3 Dụng cụ, hoá chất thí nghiệm

33


ix


TÓM LƯỢC
Qua thời gian thực hiện đề tài “Khảo Sát Tình Hình Nhiễm Giun Sán Trên Đường
Tiêu Hóa Ở Bò Tại Lò Mổ Tập Trung Thị Xã Sa Đéc Tỉnh Đồng Tháp”. Bằng
phương pháp mổ khám, chúng tôi tiến hành mổ khảo sát 80 con bò ở địa bàn tỉnh
Đồng Tháp được những kết quả sau đây:
Tỷ lệ nhiễm giun sán ở bò tại lò mổ thị xã Sa Đéc là 88,75%.
Bò nhiễm giun sán theo tuổi như sau: Bò nhỏ hơn 2 năm tuổi nhiễm với tỷ lệ 75%,
bò từ 2-4 năm tuổi nhiễm với tỷ lệ 89,04 %, bò >4 năm tuổi nhiễm với tỷ lệ 100%.
Bò nhiễm giun sán ở 2 lớp: Trematoda nhiễm với tỷ lệ 100%, Cestoda nhiễm với
tỷ lệ 1,04%.
Thành phần loài giun sán thuộc lớp Trematoda ký sinh ở gồm 12 loài:
Paramphistomum cervi, Paramphistomum gotoi, paramphistomum liorchis,
Fischoederius elongatus, Ceylonocotyle dicranocoelium, Ceylonocotyle
atriptocoelium, Ceylonocotyle orthocoelium, Gastrothylax glandiflormis, ,
Gigantocotyle bathycotyle, pasciola gigantica, Eurytrema Coelomaticum,
Carmyekius. Trong đó Parsphistomum cervi nhiễm với tỷ lệ cao (74,23%) và thấp
nhất loài Ceylonocotyle atriptocoelium (2,06%).
Lớp Cestoda chúng tôi phát hiện loài Moniezia benedeni với tỷ lệ nhiễm là 1,04%
đây là loài ít phát hiện nhưng gây ảnh hưởng lớn đối với nhà chăn nuôi.

x


CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đối với ngành chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gia súc nói riêng, thì chăn nuôi trâu

bò chiếm vị trí rất quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế lớn của nhà nước:
cung cấp lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Để đáp ứng yêu
cầu trên, trong tương lai cần phát triển đàn trâu bò với qui mô rộng lớn hơn. Song
song với sự phát triển đàn gia súc, công tác thú y đóng vai trò quan trọng không
kém. Hiện nay, người dân phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong công tác
phòng trị những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm (bệnh tụ huyết trùng, bệnh lỡ mồm
long móng...), bệnh ký sinh trùng. Trong đó, bệnh ký sinh trùng không phát triển
nhanh và gây chết hàng loạt như những bệnh truyền nhiễm nhưng chúng ảnh hưởng
lâu dài, làm chậm sự phát triển của gia súc, gây thiệt hại không nhỏ đối với lợi ích
người chăn nuôi.
Xuất phát từ những lý do trên và được sự chấp thuận của Bộ môn Thú Y - Khoa
Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, trường Đại học Cần Thơ, chúng tôi tiến hành
thực hiện đề tài “ Khảo Sát Tình Hình Nhiễm Giun Sán Trên Đường Tiêu Hóa
Ở Bò Tại Lò Mổ Tập Trung Thị Xã Sa Đéc Tỉnh Đồng Tháp”.
Mục tiêu của đề tài:
Khảo sát tình hình nhiễm giun sán ký sinh ở bò tại thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Xác định tỷ lệ nhiễm giun sán ký sinh ở bò.
Xác định cường độ nhiễm giun sán theo từng nhóm tuổi cụ thể ở bò.
Xác định thành phần loài giun sán ký sinh.
Từ đó đề ra những biện pháp phòng và điều trị bệnh giun sán ký sinh trên bò một
cách hiệu quả.

1


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN

2.1 Sơ Lược Về Tình Hình Nghiên Cứu Ký Sinh Trùng Trâu Bò Trong Nước
Và Trên Thế Giới.

2.1.1 Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng ở bò trên thế giới.
Sán lá được biết đến từ năm 1370. Năm 1379, lần đầu tiên Jehan De Brie mô tả
toàn bộ sán lá gan trên cừu. Năm 1752, Swammerdam phát hiện những vĩ ấu
(cercaria) của sán Fasciola hepatica ở một con ốc Gasteropoda. Đến năm 1758
Fasciola hepatica được Linnaeus mô tả. Năm 1845, Rudolphi phát hiện
Dicrocoelium dendriticum, Creplin (1847) phát hiện ra Paramphistomum
explanatum, Cobbold (1885) phát hiện ra Fasciola gigantica. Vào năm 1882,
Thomas và Leuckart nghiên cứu chu kỳ sinh học hoàn chỉnh của sán lá gan (Đỗ
Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh, 1978).
Ravichandra cho rằng ốc là ký chủ trung gian của sán. Ở mỗi nước khác nhau sẽ có
những loại ốc khác nhau. Ví dụ: Lymnaea auricularia ở Ấn Độ, Lymnaea
rulfesceus ở Pakistan, Lymnaea natalensis caillaudi ở Malaysia (trích dẫn Đỗ
Trọng Minh, 1999).
Dawes (1962) ghi nhận gia súc bị suy nhược và thiếu máu là do độc tố của Fasciola
gigantica, gây ra thiếu đạm trong máu, giảm lượng albumin và tăng globulin (Phạm
Sĩ Lăng và Phan Địch Lân, 2001).
Soulby (1977) cho rằng Dicrocoelium dendriticum có 2 ký chủ trung gian đó là ốc
và kiến, micracidium không nở từ trứng mà nở trong ký chủ trung gian, ở trong ruột
óc.kém.
Hope-Cawdery et al., (1977) cho thấy bò bị nhiễm 40-140 con sán lá thì tăng trọng
giảm 8-28%.
Aitken et al., (1978) ghi nhận nếu trâu bò bị nhiễm sán lá gan sẽ dễ bị nhiễm các
bệnh truyền nhiễm khác như: Salmonella dublin, Clostridium oedematiens.
Urquhart et al., (1987) cho rằng chu trình phát triển của Fasciola gigantica ở mỗi
giai đoạn đều dài hơn Fasciola hepatica.
Theo FAO (1992), ở phía nam Brazil và vùng Andes khi kiểm tra phân bò tìm thấy
trứng sán lá gan Paramphistomum explanatum với tỷ lệ nhiễm 61% ở bò trưởng
thành và 50% ở bê.
2



Patzelt và Ralf (1993) qua khảo sát trên 2.320 con bò được nuôi ở Pakistan tác giả
cho biết bê 9 tháng tuổi rất dễ bị nhiễm sán lá gan. Tỷ lệ nhiễm tăng dần theo tuổi.
Cụ thể là tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở thú non là 10% và ở thú già là 72%.
Sandra Marcia Tietzmarques và Maria Luccia Scroffrneker (1999) kiểm tra 482 gan
trâu bò (377 gan bò và 105 gan trâu) ở bang Rio Grand do Sul, Brazil cho thấy tỷ lệ
nhiễm Fasciola hepatica là 10,34% ở bò và 20% ở trâu.
2.1.2 Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng ở bò trong nước
Việt Nam đã có những nghiên cứu xác định các loài ký chủ trung gian của sán lá
gan Fasciola gigantica. Năm 1945, đã phát hiện thành phần loài giun sán ký sinh ở
trâu bò như Paramphistomum cervi, Paramphistomum explanatum, Fasciola
hepatica, Fasciola gigantica ký sinh ở trâu, bò và tại miền Bắc (Đỗ Dương Thái và
Trịnh Văn Thịnh, 1978).
Phan Địch Lân và Lê Hồng Căn (1972) đã xác định ốc là ký chủ trung gian chủ
yếu. Ở Việt Nam thường gặp 2 loài ốc sau: Lymnaea swinhoei và Lymnaea viridis.
Tỷ lệ ốc mang trùng đến 90%.
Phan Địch Lân và ctv, (1974) điều tra tình nhiễm giun sán từng vùng cho thấy
vùng nữa đồi núi (Ninh Bình) có tỷ lệ nhiễm Fasciola ở trâu là 54-56,3% (ốc ký
chủ trung gian là Lymnaea viridis, Lymnaea swinhoei và Gyraulus chinensis,
Paramphistomum). Ở vùng cao (Lào Cai) thấy trâu bò nhiễm sán lá gan 20,8-26,6%
ít hơn đồng bằng và ốc ký chủ trung gian là Lymnaea viridis.
Trịnh Văn Thịnh (1978) công bố trâu bò vùng Đồng bằng Bắc Bộ nhiễm sán lá gan
với tỷ lệ 50-70%. Ông cho biết trâu mắc bệnh giun sán với tỷ lệ cao. Ở giai đoạn
non nghé rất dễ bị nhiễm giun tròn, ở tuổi trưởng thành trâu rất dễ bị nhiễm các loài
sán lá Fasciola gigantica, Fasciola hepatica, Dicrocoelium dendriticum,….
Ở các nông trường quốc doanh miền Bắc Việt Nam, Phạm Xuân Dụ nhận xét ở gia
súc nhai lại tỷ lệ nhiễm Fasciola là cao nhất. Cường độ nhiễm sán lá gan bò nhập
nội cao hơn bò giống địa phương. Đối với họ Fasciolidae, loài Fasciola gigantica
phổ biến gây nhiễm ở trâu bò, dê cừu. Loài Paramphistomum explanatum ở chủ
yếu ký sinh ở gan trâu bò, dê cừu, loài này thường kết hợp với sán lá họ

Fasciolidae. Tỷ lệ nhiễm sán lá ở bò vùng núi cao hơn trung du. Tỷ lệ nhiễm
Paramphistomum cervi, Fasciola gigantica ở bò rất cao và tăng dần theo tuổi (Đỗ
Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh, 1978).
Trịnh Văn Thịnh (1978) đã phát hiện được 37 loài Trematoda, 7 loài Cestoidae, 40
loài Nematoda ký sinh trên gia súc nhai lại ở nước ta.
Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1980) đã điều tra tình hình nhiễm sán lá ở các
tỉnh phía Bắc cho thấy tỷ lệ nhiễm sán lá ở trâu bò là 55%, trung du 48%, miền núi
là 40%.
3


Phan Địch Lân (1985) khảo sát thấy tỷ lệ trâu bò nhiễm sán lá gan ở miền núi từ 30
đến 35%, vùng đồng bằng và trung du từ 40-70%. Các cơ sở chăn nuôi bò tập trung
và bò sữa tỷ lệ nhiễm 28-30%. Tác giả cho biết qua điều tra từ năm 1979-1984, tỷ
lệ nhiễm sán lá gan trên bò Holstein ở Nông trường Sao Đỏ là 25% và Nông trường
Mộc Châu là 32,5%.
Phan Địch Lân (1985) khi điều tra các loài ốc - ký chủ trung gian của sán lá gan
trên 15 tỉnh phía Bắc nhận thấy có sự hiện diện của 2 loài ốc Lymnaea viridis và
Lymnaea swinhoei, mật độ vụ đông xuân lớn hơn vụ hè thu.
Vụ đông xuân:

Lymanaea viridis

123 ± 54 con/m2

Lynanaea swinhoei 146 ± 49 con/m2
Vụ hè thu:

Lymanaea viridis


64 ± 17 con/m2

Lynanaea swinhoei 59 ± 33 con/m2
Hồ Thị Thuận và Nguyễn Ngọc Phương (1986) cho biết qua kiểm tra phân tỷ lệ
nhiễm sán lá gan trâu bò ở Lâm Đồng là 34,55%; khu vực Sài Gòn, Cần Thơ nhiễm
33,66%; Minh Hải nhiễm 2,47-7%. Khi mổ khám tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò là
21,93% và trâu là 91,66%.
Hồ Thị Thuận (1986) đã khảo sát trên 626 bò nuôi ở Thành phố Hồ Chí Minh, tìm
thấy 159 bò nhiễm sán lá gan, chiếm tỷ lệ 25,39%. Khi khảo sát tại trại bò Hương
Lộc tỉnh Đồng Nai, Hồ Thị Thuận báo cáo có 18 bò nhiễm trên tổng đàn 46 con
chiếm tỷ lệ 39,12%. Hồ Thị Thuận còn cho rằng ở vùng Đông Nam Bộ chỉ có 2 loài
ốc ký chủ trung gian Lymnaea viridis và Lymnaea swinhoei.
Theo Vũ Sĩ Nhân và Đỗ Trọng Minh (1989) nghiên cứu tình hình nhiễm Fasciola
gigantica ở bò đồng bằng tỉnh Phú Khánh từ 21 - 30%, không tìm thấy Fasciola
Hepatica.
Theo báo cáo của Đỗ Trung Giã (1985-1990) tình hình nhiễm giun sán ở bò các
tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long như sau:
Địa điểm

Trematoda

Nematoda

Kiên Giang

100%

66,64%

Hậu Giang


100%

69,72%

An Giang

100%

36,63%

Nguyễn Hữu Hưng và ctv, (1993) qua mổ khám trên 130 trâu bò (86 trâu, 44 bò) và
qua kiểm tra phân 82 trâu bò (49 trâu, 33 bò) tại Thốt Nốt cho biết trâu bò huyện
4


Thốt Nốt nhiễm sán lá với tỷ lệ cao, trong đó tỷ lệ nhiễm sán lá 100%. Sử dụng
Dertil B, uống trực tiếp, không gây phản ứng phụ, hiệu lực đạt 100%.
Phan Địch Lân (1994) tổng kết Việt Nam là một trong 5 nước Châu Á trồng lúa
nước có tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở mức cao nhất, trâu bò càng lớn tuổi thì tỷ lệ nhiễm
càng cao.
Nguyễn Trọng Kim (1995) công bố vùng biển Nghệ An bò nhiễm sán lá gan từ 22 32%.
Phạm Văn Khuê (1996) ở Việt Nam tỷ lệ nhiễm Fasciola ở trâu khá cao (60-70%).
Những vùng lầy lội ẩm thấp vào mùa nóng ẩm, mưa nhiều tỷ lệ nhiễm có thể lên
đến 90%. Do tái nhiễm nên trâu bò càng lớn tuổi tỷ lệ nhiễm càng cao. Trâu bò từ
13-24 tháng tuổi nhiễm 30%, trên 24 tháng tuổi nhiễm 47%.
Phan Lục (1996) khi kiểm tra tình hình nhiễm sán lá gan ở Đồng bằng Sông Hồng
thấy tỷ lệ nhiễm trên trâu 70%; trên bò 61,20%.
Khuất Duy Tân (1996) thông báo ở Chương Mỹ, Thanh Oai (Hà Tây) trâu bò
nhiễm sán lá gan từ 48,64 - 66,77%, trâu nhiễm nặng hơn bò, cường độ nhiễm tới

365 sán trên 1 cá thể trâu.
Nguyễn Thị Lê (1996) khảo sát ở trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì thấy
bò sữa nhiễm sán lá gan là 46,23%, tác giả còn công bố ốc Parasisaralus sriatulus
là loài ký chủ trung gian của sán lá gan.
Lương Tố Thu và ctv, (1996) cho biết tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu bò qua kiểm tra
ở lò mổ lên tới 76%, gan bị xơ hóa, hoại tử, canxi hóa phải hủy bỏ 80 - 100%.
Nguyễn Hữu Hưng (1996) bằng phương pháp mổ khám trên 150 trâu bò (64 trâu,
86 bò) cho biết đàn trâu bò tỉnh An Giang nhiễm sán lá gan chiếm tỷ lệ tương đối
cao, trâu 85,93%, bò 83,72% và kiểm tra phân trên 130 bò ở hai huyện Tri Tôn và
Tịnh Biên cho biết tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 46,15%.
Lương Văn Huấn và ctv (1997) điều tra trên 11 tỉnh phía Nam thì tỷ lệ nhiễm sán lá
gan ở bò qua soi phân từ 28,10 - 45,20% tùy theo lứa tuổi và qua mổ khám từ 2032,20% tùy theo địa phương.
Lương Tố Thu (1997) qua điều tra 4 tỉnh phía Bắc có tỷ lệ nhiễm sán lá gan như
sau: Đồng bằng là 55,50%; trung du là 31,50% và miền núi là 23%.
Tô Du (1999) bệnh sán lá gan thường xảy ra ở trâu nhiều hơn bò, do trâu thích ăn
cỏ dưới nước, bệnh thường rất nặng với trâu bò nhập nội. Thời gian phát triển của
bệnh sán lá gan thường dưới 6 tháng, con vật chết vì kiệt sức không đau đớn, không
co giật.
5


Phan Địch Lân (2000) thông báo ở vùng núi Việt Nam trâu bò nhiễm 30-35%, ở
đồng bằng và trung du tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 40-70%.
Theo Phan Địch Lân (2000), nhận xét thì trâu trưởng thành phía Bắc nhiễm chủ yếu
là Fasciola gigantica, phía Nam qua điều tra trên bò ở lò mổ Chánh Hưng Sài Gòn
thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 60%.
Phạm Sĩ Lăng (2000) sán trưởng thành gây tổn thương cho gan và mật, đồng thời
tiết độc tố gây rối loạn tiêu hóa, viêm ruột cấp và mãn tính.
Phan Địch Lân (2000) tống kết Việt Nam là một trong 5 nước Châu Á trồng lúa
nước có tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở mức cao nhất, trâu bò càng lớn tuổi tỷ lệ nhiễm

càng cao.
Lê Văn Khương, Nguyễn Văn Khanh và Huỳnh Hữu Lợi (2001) điều tra nhiều
vùng sinh thái trong cả nước cho biết tình hình nhiễm sán lá gan ở bò từ 25,90%
đến 58,46% tùy theo miền, cao nhất là vùng núi và trung du Bắc Bộ.
Nguyễn Quang Tuyên và ctv (2002) kiểm tra 1.428 con trâu bò ở Thái Nguyên phát
hiện 135 con nhiễm với tỷ lệ là 9,45%.
Chann Bory (2003) khảo sát trên 2000 gan trâu bò (1400 gan trâu và 600 gan bò) ở
lò mổ Vissan Thành Phố Hồ Chí Minh thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò là
14,83% và trên trâu là 22,92%.
Trần Mạnh Giang, Phan Lục, Trương Văn Dung (2004) qua điều tra ở Sóc Sơn và
Hà Nội cho thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu là 59,67% và ở bò là 55,19%. Cũng
theo các ông tỷ lệ nhiễm theo lứa tuổi như sau: < 2 tuổi tỷ lệ nhiễm ở trâu là
26,31% và ở bò là 36%; 2 - 6 tuổi tỷ lệ nhiễm ở trâu là 71,40% và ở bò là 73,68%.
Nguyễn Đức Tân và ctv (2004) qua điều tra bê nuôi tại một số tỉnh Nam Trung Bộ
và Tây Nguyên cho biết tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bê là 14,41%.
Trong thời gian từ tháng 11 năm 2006, phòng khám chuyên khoa của Viện Sốt RétCôn Trùng Qui Nhơn đã điều trị khoảng 1500 bệnh nhân nhiễm sán lá gan Fasciola
từ 15 tỉnh Miền Trung Tây Nguyên.
Nguyễn Văn Đề (2004) tuổi thọ của sán lá gan trong cơ thể người từ 9 đến 13,5
năm. Ông còn cho biết gần đây số người bị nhiễm sán lá gan ngày càng nhiều trên
cả nước do ăn gỏi cá, rau tươi có ấu trùng cảm nhiễm xâm nhập và gây bệnh.
Bò sữa nhập nội, đặc biệt là bê dưới 6 tháng tuổi dễ bị bệnh sán lá gan thể cấp tính
và chết với tỷ lệ cao hơn trâu bò nhập nội (Phạm Sĩ Lăng, 2006).
Phan Lực (2006) qua kiểm tra 179 mẫu phân bò tại ĐăkLăk cho biết tỷ lệ nhiễm
sán lá rất cao là 82,40% và qua mổ khám 29 bò thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan là
6


58,63%.
Nguyễn Hữu Hưng (2009), qua kiểm tra 2437 mẫu phân bò tại 10 huyện thuộc 3
tỉnh: Sóc Trăng, Đồng Tháp và An Giang với 3 lứa tuổi <1; 1-2; >2 năm tuổi thuộc

3 giống bò: bò sữa, bò lai Sind và bò địa phương; đồng thời mổ khám 801 con bò,
khảo sát bệnh tích trên gan bò nhiễm sán tại các huyện trong 3 tỉnh và tiến hành thử
nghiệm với 3 lọai thuốc tẩy Praziquantel, Nitroxinil và Bilevor-M để tay trừ 105 bò
nhiễm sán lá gan ở cường độ nhiễm từ 2+ trở lên cho biết tình hình nhiễm sán lá
gan qua kiểm tra phân tại ba tỉnh thuộc vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long chiếm tỷ
lệ nhiễm khá cao 51,91% trong đó bò ở tỉnh Sóc Trăng có tỷ lệ nhiễm thấp nhất
49,45%, bò ở Đồng Tháp nhiễm cao hơn 53,31% và nhiễm cao nhất bò ở tỉnh An
Giang 53,45%. Bò địa phương có tỷ lệ nhiễm 58,68% cao hơn tỷ lệ nhiễm của bò
lai Sind 51,01% và nhiễm thấp nhất ở bò sữa 37,11%. Có sự sai khác về tỷ lệ nhiễm
tăng dần theo lứa tuổi bò, nhiễm thấp nhất ở lứa tuổi < 1 năm tuổi (30,43%) và tăng
dần ở lứa tuổi 1-2 năm tuổi (49,12%) và nhiễm cao nhất ở bò trên 2 năm tuổi
(62,81%). Có 2 loài sán lá gan: Fasciola spp và Paramphistomum explanatum được
tìm thấy, trong đó loài Fasciola spp nhiễm phổ biến chiếm tỷ lệ 43,58%,
Paramphistomum explanatum 21,01%. Cường độ nhiễm ghép 2 loài trên cá thể là
khá cao 12,68%.
Nguyễn Đức Tân, Lê Đức Quyết và ctv (2010) kết quả điều tra qua 963 mẫu phân
gia súc nhai lại (bò, dê, cừu) tỷ lệ nhiễm sán dây ở các tỉnh Đắt Lắt, Ninh Thuận,
Khánh Hòa lần lược là 13,88%, 13,06%, 15,76 %. Trong đó bò có tỷ lệ nhiễm sán
dây thấp nhất 5,41%.
Nguyễn Đức Tân và ctv (2010) kết quả xét nghiệm 335 mẫu phân bò, bê; 102 mẫu
phân trâu cho thấy : Tỷ lệ nhiễm chung bệnh sán lá gan ở bò bê là 47,16%, trong đó
Phú Yên là 59,32%, Khánh Hòa là 47,5%, Bình Định 43,36%, Tỷ lệ nhiễm ở trâu là
37,74%, trong đó Phú Yên 26,41%, Khánh Hòa 44,06% và Bình Định là 43,58%.
2.2 Sơ Lược Về Các Loài Giun Sán Ký Sinh.
2.2.1 Sán lá gan và tác hại của sán lá gan.
Phân loại
Ngành: Platyhelminths
Lớp : Trematoda
Bộ : Fasciolidae
Họ : Fasciolidae và Paramphistomidae

Giống: Fasciola và Gigantocotyle (Paramphistomum)
7


+Fasciola gigantica
Hình thái: Sán có hình dạng giống chiếc lá, thường có màu xám nâu, dài 2575 mm,
rộng 5-12 mm, thường chiều dài gấp ba lần chiều rộng. Đầu sán có chóp, không có
vai, phần đầu phình ra. Hai rìa bên thân sán đi song song nhau, phần cuối thân tù
kín lại. Giác bụng tròn lớn lồi ra, giác miệng nhỏ ở ngay đỉnh đầu, túi sinh dục lớn
nằm gần giác bụng. Hầu dài hơn thực quản, ruột phân thành nhiều nhánh nhỏ,
buồng trứng phân thành nhiều nhánh nằm gần giữa trước thân. Hai tinh hoàn phân
nhánh nằm chồng lên nhau, tuyến noãn hoàn xếp dọc 2 bên thân.

Hình 2.1 Fasciola gigantica Cobbold, 1885
(www//.iranhelminthparasites.com)

Trứng to, hình bầu dục, màu vàng chanh, vỏ mỏng, có nắp, bên trong tế bào phôi
phân bố đều kín vỏ trứng, kích thước trứng 0,125-0,177mm x 0,060-0,1mm.
Ký chủ cuối cùng: trâu, bò, dê, cừu, lạc đà và cả con người.
Ký chủ trung gian: ốc thuộc họ Lymnaeidae. Ở Việt Nam là Lymnaea viridis và
Lymnaea swinhoei.
Vị trí ký sinh: Ống dẫn mật, gan.
Phân bố địa lý: Châu Phi, Bắc Mỹ, Nam Châu Âu, Châu Á (Trung Quốc, Ản Độ,
Nhật Bản, Pakistan, Malayxia, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam)
+Fasciola hepatica
Hình thái: Thân sán dẹp hình lá cây, thường có màu nâu nhạt, dài từ 20-30 mm và
rộng từ 4-16 mm. Phần thân trước phình to rồi thon lại dần ở phía cuối thân tạo
thành vai. Những ống dẫn tuyến noãn hoàng chạy ngang chia vùng giữa sán ra phần
trước và phần sau thân. Phần sau có tinh hoàn, bộ phận sinh dục đực. Tử cung ở
phần giữa thân trước tạo một mạng lưới rối như tơ vò. Phía sau tử cung là buồng

trứng có nhánh. Giác miệng nhỏ, tròn nằm ở chóp đầu con sán. Giác bụng hơi to
hơn, hình ba cạnh ở cách giác miệng 3-5mm

8


Hình 2.2 Fasciola hepatica Linnaeus, 1758
(www//.impe-qn.org.vn)

Trứng có kích thước 0,13-0,145mm x 0,07-0,09mm (theo Skarjabin và Schulz,
1973).
Ký chủ cuối cùng: trâu, bò, dê, cừu, người.
Ký chủ trung gian: Quan trọng nhất là ốc Galba truncatula, mỗi nước và mỗi vùng
khí hâu là một loài ốc khác, đều thuộc họ Lymnaeidae.
Vị trí ký sinh: Ống mật, có khi lạc vào phổi, dưới da, tổ chức xung quanh thận
Phân bố: nhiều vùng trên thế giới như Mỹ, phía Đông Canada, Nam Mỹ, Bắc Mỹ,
một số nước Châu Phi, Châu Á và Châu Âu.
Vòng đời và sự phát triển của sán lá gan
Vòng đời của Fasciola gigantica và Fasciola hepatica.
Theo Urquhart et al (1987) thì chu trình phát triển của Fasciola gigantica và
Fasciola hepatica thì giống nhau nhưng thời gian cho từng giai đoạn phát triển của
Fasciola gigantica dài hơn.
Gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn phát triển bên ngoài ký chủ
Trứng sán theo phân của vật chủ ra ngoài, gặp nhiệt độ thích hợp (25-30oC), đủ
ôxy, trứng sẽ nở sau 9-21 ngày thành Micracidium (mao ấu) dài khoảng 130mm.
Chúng bơi lội tự do trong nước nhờ lông xung quanh, sống không quá 48 giờ ở môi
trường ngoài và rất mẫn cảm với các chất hóa học. Chúng chủ động tìm ốc nước
ngọt giống Lymnaea, chui vào gan tụy của ốc biến đổi thành Sporocyst (bào ấu) có
kích thước khoảng 300 µm. Sau 3-7 ngày cứ một Micracidium biến đối thành một

Sporocyst. Một Sporocyst sinh sản vô tính tạo ra 5-10 Redia (lôi ấu) cần 18 ngày,
chúng gia tăng kích thước đến 1,6 mm; rồi 13-14 ngày sau Redia sinh sản vô tính
cho ra 3-6 Cercaria (vĩ ấu) có kích thước 300 µm x 230 µm. Sau đó Cercaria chui
9


ra khỏi ốc, bơi lội tự do trong nước từ 10-14 giờ, rụng đuôi và tạo kén Aldolescaria
có đường kính 200 µm. Sau 2-24 giờ bám vào cây cỏ dưới nước hay gần nước, vỏ
cây, đất... Khi vật chủ cuối cùng nuốt vào sẽ phát triển thành sán trưởng thành.
Giai đoạn phát triển bên trong cơ thể ký chủ
Khi vật chủ cuối cùng ăn phải kén Aldolescaria, tùy theo tình trạng sức khỏe, khả
năng đề kháng, tính cảm thụ của vật chủ mà kén có thể di hành về gan theo một
trong hai con đường sau đây
Theo hệ thống tuần hoàn đến gan.
Ấu trùng Aldolescaria chui qua màng ruột đi vào xoang bụng rồi tấn công vào
gan.Trong thời kỳ di hành, ấu trùng của Fasciola spp có thể đi qua các cơ quan như
phổi, hạch lâm ba, dưới da, tuyến tụy. Chúng trú ở đó và gây ra những tổn thương,
đến gan chúng phá thành mao mạch rồi xâm nhập vào ống dẫn mật và phát triển
thành dạng trưởng thành. Theo Phan Địch Lân (2000) thời gian từ khi trâu bò ăn
phải kén đến khi phát triển thành sán trưởng thành là 79-88 ngày. Fasciola spp
trưởng thành có thể sống trong cơ thể trâu bò gần 11 năm. Trịnh Văn Thịnh, Đỗ
Dương Thái (1978) thấy thời gian ngắn nhất từ trứng cho đến lúc thành kén của
Fasciola gigantica là khoảng 70 ngày.
Như vây vòng đời của sán lá gan khá dài, khoảng 4 tháng. Phát triển bên ngoài cơ
thể vật chủ (hơn 1 tháng trong ốc), 3 tháng phát triển bên trong cơ thể ký chủ.
Thức ăn chứa

chứa

Hình2.3 Vòng đời phát triển của Fasciola spp

(www//.dpd.cdc.gov)

10


Ký chủ trung gian
Ký chủ trung gian của sán lá gan là một loài ốc nước ngọt không có nắp như
Lymnaea truncatula, Lymnaea auricularia, Lymnaea viridis, Lymnaea swinhoei,
Lymnaea cubensis. Ở Việt Nam có 2 loài là Lymnaea swinhoei phổ biến ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long và Lymnaea viridis ở vùng núi và trung du.
Đặc điểm 2 loài ốc:
Lymnaea viridis (ốc chanh)
Ốc có vỏ mỏng dễ vỡ, không có nắp miệng, kích thước 10 mm, vỏ ốc dễ vỡ, số
vòng xoắn từ 4,5 - 5 vòng, vòng xoắn phải và lồi, vòng xoắn cuối cùng lớn. Ôc có
màu vàng nâu lốm đốm đen. Lỗ miệng hình bầu dục hơi dài không rộng. Ở một số
cá thể lỗ miệng có xu thế hẹp lại làm cho vỏ ốc có hình con thoi.
Ốc thích sống ở nơi nước xâm xấp, thường đẻ trứng 7-10 quả / ổ, sau 7 ngày nở sẽ
thành ốc con, trong điều kiện nhiệt độ ở nước ta ốc đẻ được quanh năm và nở thành
con.

Hình2.4 Ốc Lymnaea viridi, H. Adams, 1866
(ww//.munhwaenv.co.kr )
Lymnaea swinhoei (ốc vành tai)
Ốc có hình dạng không đồng nhất, vỏ mỏng dễ vỡ, không có nắp miệng, kích thước
trung bình 20 mm, đỉnh bé và nhọn. Số vòng xoắn từ 3,5 đến 4, vòng xoắn cuối
cùng rất lớn chiếm gần hết phần thân, vỏ xoe ra như cái vành tai. Lỗ rốn nhỏ không
rõ. Vỏ thuờng có màu đen hoặc vàng. Lỗ miệng gần như hình bán nguyệt xoe rộng,
Chiều dài lỗ miệng gấp ba lần chiều cao ốc.
Ốc đẻ trứng quanh năm, mỗi ổ trứng có từ 60-150 quả, ốc thường sống trôi nổi ở
cống, rãnh, ao, hồ.


11


Hình2.5 ôc Lymnaea swinhoe H. Adams, 1866
(www.//conchology.be )

Tác hại sán lá gan.
Đối với ngành chăn nuôi.
Bệnh sán lá gan ở thể cấp tính gây chết vật nuôi, ở thể mãn tính làm giảm năng suất
vật nuôi như giảm chất lượng và năng suất sữa15-35%, thậm chí tới 50%, giảm sinh
trưởng, sinh sản, gây sẩy thai, đẻ non, khó thụ tinh... Bệnh làm tổn thương tổ chức
và hoạt động sinh lý của con vật, giảm sức đề kháng, gia súc dễ cảm nhiễm với các
mầm bệnh khác như Salmonella dublin, Clostridium oedematien (Aitken et al,
1978). Hope -Cawdery et al (1997) cho thấy bò bị nhiễm 40 - 140 con sán lá gan thì
tăng trọng giảm từ 8-28% và khẳng định tác hại của sán lá gan đối với trâu bò là
gây thiếu máu và dị ứng khi cảm nhiễm nặng.
Đối với con người
Bệnh sán lá gan có thể lây từ gia súc sang người hay ngược lại. Bệnh có thể dẫn
đến tử vong do vỡ gan, xuất huyết... Mặc dù trong thời gian gần đây chưa có trường
hợp bệnh gây chết ở người nhưng nó cũng gây nên những bệnh nguy hiểm ảnh
hưởng không ít đến sức khỏe con người. Đặc biệt ở nước ta trong thời gian gần đây,
theo ghi nhận của Viện Sốt Rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung Ương đã có
trường hợp sán khoét ngực người chui ra (www.ykhoanet.com).
Bệnh sán lá gan do Fasciola còn được tìm thấy gây tác hại cho người. TrầnThị Kim
Dung ghi nhân được ở Việt Nam trong 3 năm (1997-2000) cho biết sán lá gan
Fasciola bùng phát ở người cụ thể tại TP. HCM qua kiểm tra một bệnh nhân nhập
viện, các bác sĩ đã phát hiện túi mật của bệnh nhân 19 tuổi căng to bất thường. Bằng
con đường nội soi, từ túi mật của bệnh nhân, một mẫu mô hình thoi di động đã được
gắp ra, các bác sĩ tại Bộ môn Ký sinh trùng, Đại học Y Dược TP HCM, khẳng định,

đó là một con sán lá gan Fasciola. Đây là một trong 500 ca bệnh sán lá gan và cũng
là trường hợp đầu tiên ở Việt nam gắp được sán lá gan qua đường nội soi.Số liệu
này đã gây được sự chú ý của các nhà ký sinh trùng học vì sán lá gan lâu nay chỉ
tìm thấy ở các động vật ăn cỏ như trâu, bò, dê và rất hiếm khi phát hiện được ở
người. Thế nhưng, hiện nay, tại TP HCM, việc bệnh nhân vào viện vì sán lá gan
không còn là chuyện lạ nữa (www. ykhoanet.com).
12


Nguyễn Văn Chương (2008) cho biết từ năm 2003-2005, khoa Ký sinh trùng của
Viện Sốt Rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã tiến hành đề tài cấp Bộ: “
Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh sán lá gan lớn ở một số điểm của
hai tỉnh miền Trung”. Đề tài được thực hiện tại 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà và
kết quả cho thấy: mổ 8 gan bò tại 4 điểm nghiên cứu thu thập được 223 sán lá gan
lớn trưởng thành trong gan; thu thập trứng sán lá gan lớn trong phân người bệnh
nuôi cấy thành ấu trùng (miracidium); sau khi định loại bằng kỹ thuật sinh học
phân tử (PCR: Polymerase Chain reaction) tại Viện xác định loài sán lá gan lớn ở
người và động vật (bò) đều là F.gigantica. Điều tra tại các điểm nghiên cứu cho
thấy loài ốc Lymnaea swinhoei nhiễm ấu trùng sán lá gan lớn với tỷ lệ 1,26%.
Ngoài ra tháng 12/2006 Khoa Ký sinh trùng tiếp tục thu nhận 2 con sán trưởng
thành chui từ ổ bụng và từ bắp chân ra ở 2 bệnh nhân đều ở tỉnh Bình Định (1 ở
huyện Tây Sơn, 1 ở thành phố Quy Nhơn). Kết quả xác định bằng PCR đều là loài
sán lá gan lớn F.gigantica. Như vây tại 3 tỉnh miền Trung (Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hoà) đã xác định loài sán lá gan lớn ký sinh trên người và động vật đều là
loài sán lá gan lớn Fasciola gigantica (www.impe-qn.org.vn).
Ở Việt Nam cho đến nay bệnh sán lá gan lớn đã xuất hiện ở 47 tỉnh, thành phố; tỷ
lệ nhiễm cao nhất ở một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên (Bình Định, Phú Yên,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Gia Lai và TP. Đà Nằng).(www.impeqn.org.vn)
Phòng và điều trị sán lá gan
Hiện nay, có thể tẩy sán lá gan cho súc vật nhai lại bằng một trong các loại thuốc

Thuốc Dertil: Dertil là thuốc có tác dụng đặc hiệu với sán lá gan Fasciola. Tên
khác:Menichlofolan, Bayer ME 3625, Bayer 9015A, Bilevon M. Dertil được bào
chế thành viên to, màu xanh lá cây đậm.. Viên Dertil "O" có chứa 100 mg hoạt
chất, viên Dertil "B" chứa 300 mg hoạt chất.
Dertil có tác dụng diệt sán lá gan trưởng thành ở gia súc nhai lại, với liều cao còn
diệt được cả sán non đang di hành trong nhu mô gan. Thuốc chỉ cần dùng một lần,
không cần điều trị lặp lại. Được chỉ định điều trị bệnh sán lá gan cấp tính và mãn
tính cho gia súc nhai lại.
Liều lượng:
Bò: 5-6 mg/kg thể trọng.
Trâu: 8-9 mg/kg thể trọng.
Dê, cừu: 5-8 mg/kg thể trọng (thể mãn tính: 5-6 mg/kg thể trọng, thể cấp tính: 78mg/kg thể trọng).
Cho từng cá thể uống thuốc, hoặc gói thuốc vào lá chuối non, đưa sâu vào miệng
13


cho con vật nuôi.
Thuốc Fasciolid (tên khác: Fasciolidum)
Thuốc được bào chế dưới dạng dung dịch màu vàng nâu, chứa 25% hoạt chất là
Nitroxynil. Fasciolid có tác dụng tẩy sán lá gan Fasciola dạng trưởng thành và các
giun tròn đường tiêu hoá loài nhai lại, được chỉ định tẩy sán lá gan cho gia súc nhai
lại.
Liều lượng: 0,04 ml/kg thể trọng (l ml/25 kgTT, tương đương 1 mg hoạt chất chấ/
kg thể tọng ). Tiêm dưới da.
Để tẩy sán lá gan, nên dùng thuốc 2-3 lần, cách nhau 25-30 ngày.
Thuốc Fasinex (chế phẩm của Triclabendazole): thuốc có tác dụng diệt cả sán non
và sán trưởng thành ký sinh ở ống dẫn mật hoặc đang di hành trong các nhu mô
gan. Fasinex được chỉ định dùng điều trị bệnh sán lá gan cho súc vật nhai lại.
Liều lượng: 10-12 mg/kg thể trọng. Cho uống một lần duy nhất. Thuốc có hiệu lực
cao và an toàn cho gia súc dùng thuốc.

Ngoài các thuốc trên, Albendazole, Bithionol, Closantel.... cũng có tác dụng tẩy sán
lá Fasciola ở súc vật nhai lại.
Lương Tố Thu và ctv (1997) đã nhân định về các thuốc trị sán lá gan và kết quả thử
nghiệm ở trâu, bò Việt Nam. Các tác giả khuyến cáo rằng, trên thị trường Việt Nam
hiện nay nên sử dụng Fasinex - 900 dạng viên (l viên/75 - 100 kg) hoặc Fasinex900 dạng sữa (l0 ml/100 kg thể trọng), cho hiệu lực cao.
Sử dụng Fasinex liều 12 mg/kg thể trọng tẩy sán lá gan cho trâu, Phan Lục và Trần
Ngọc Thắng (1999) cho biết, thuốc có hiệu lực và hiệu lực tẩy sạch sán đều đạt
100%.
Nguyễn Thị Kim Lan và ctv (2000) đã thử nghiệm một số thuốc tẩy sán lá gan cho
dê địa phương ở tỉnh Thái Nguyên, kết quả thấy: Thuốc Dertil (liều 5-8mg/kg thể
trọng) có tác dụng tẩy sạch 100% và an toàn đối với dê; thuốc Fasciolid (liều
0,04ml/kg thể trọng ) có hiệu lực tẩy sạch là 95% và tương đối an toàn cho dê;
thuốc Vermitan (chứa 20% Albendazole, liều 35 mg/kg thể trọng) đạt hiệu lực tẩy
sạch và an toàn đều là 100%, ngoài ra Vermitan còn có tác dụng tẩy cả sán dây và
giun tròn ở dê.

14


×