Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

KHẢO sát sự đáp ỨNG của cây bắp RAU (zea mays linn) đối với CHẤT lân TRÊN đất TRỒNG RAU ở BÌNH tân VĨNH LONG và CHÂU THÀNH TRÀ VINH TRONG điều KIỆN NHÀ lưới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.46 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

NGUYỄN HỒNG PHONG

KHẢO SÁT SỰ ĐÁP ỨNG CỦA
CÂY BẮP RAU (Zea mays Linn) ĐỐI VỚI CHẤT
LÂN TRÊN ĐẤT TRỒNG RAU Ở BÌNH TÂNVĨNH LONG VÀ CHÂU THÀNH-TRÀ VINH
TRONG ĐIỀU KIỆN NHÀ LƯỚI

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: KHOA HỌC ĐẤT

Cần Thơ, 2009

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: KHOA HỌC ĐẤT
Tên đề tài:

KHẢO SÁT SỰ ĐÁP ỨNG CỦA
CÂY BẮP RAU (Zea mays Linn) ĐỐI VỚI CHẤT
LÂN TRÊN ĐẤT TRỒNG RAU Ở BÌNH TÂNVĨNH LONG VÀ CHÂU THÀNH-TRÀ VINH
TRONG ĐIỀU KIỆN NHÀ LƯỚI
Giáo viên hướng dẫn
TS. Nguyễn Mỹ Hoa


ThS. Phạm Thị Phương Thúy

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Hồng Phong
MSSV: 3053166
Lớp: Khoa Học Đất K31

Cần Thơ, 2009

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


i

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số
liệu, kết quả trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chưa được ai
công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào trước đây.

Tác gi ả luận văn

Nguy ễn Hồng Phong

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version



iii

LỜI CẢM TẠ

Chân thành biết ơn!
Ts. Nguyễn Mỹ Hoa đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến để tôi
hoàn thành luận văn tốt nghiệp
Quý Thầy, Cô Trường Đại Học Cần Thơ đã tận tình truyền đạt kiến thức cho
tôi trong suốt khóa học
Ba, Mẹ và những người thân đã lo lắng và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập
Chân thành cảm ơn!
Các bạn sinh viên lớp Khoa Học Đất K31, Khoa Nông Nghiệp & Sinh Học
Ứng Dụng, Trường Đại Học Cần Thơ đã động viên, cung cấp tài liệu và kinh
nghiệm quý báu cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện luận văn

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


iv

Nguyễn Hồng Phong. 2009. “Khảo sát sự đáp ứng của cây bắp rau (Zea mays Linn)
đối với chất lân trên đất trồng rau ở Bình Tân-Vĩnh Long và Châu Thành-Trà Vinh
trong điều kiện nhà lưới”. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư nghành Khoa Học Đất khóa
31. Khoa Nông Nghiệp & SHƯD. Trường Đại Học Cần Thơ.

TÓM LƯỢC

Nhiều báo cáo trong và ngoài nước cho thấy hiện tượng phú dưỡng lân trong

đất đang ngày càng gia tăng, ngay cả trên đất hấp phụ lân cao, có thể dẫn đến mất
cân đối dinh dưỡng và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng của cây trồng. Bên cạnh
đó, nông dân hiện nay có xu hướng bón quá nhiều phân lân ở đất trồng rau. Điều
này có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cây trồng, đồng thời làm mất đi
hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp. Đề tài “Khảo sát sự đáp ứng của cây
bắp rau (Zea mays Linn) đối với chất lân trên đất trồng rau ở Bình Tân-Vĩnh
Long và Châu Thành-Trà Vinh trong điều kiện nhà lưới” được thực hiện từ
ngày 15/01/2009 đến ngày 04/04/2009 trong nhà lưới, khoa Nông Nghiệp và Sinh
Học Ứng Dụng thuộc trường Đại Học Cần Thơ nhằm mục tiêu khảo sát sự đáp ứng
của cây bắp rau đối với chất lân trên các loại đất trồng rau ở 2 tỉnh Vĩnh Long và
Trà Vinh. Đề tài gồm 2 thí nghiệm trồng bắp rau (Zea mays Linn) giống Amazing
(râu trắng) trên 10 loại đất trồng rau ở Vĩnh Long và 10 loại đất trồng rau ở Trà
Vinh. Mỗi thí nghiệm được bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên, 3 lần lặp lại. Các chỉ
tiêu thu thập là chiều cao, đường kính thân các giai đoạn 20, 30, 40 ngày sau khi
gieo, sinh khối và năng suất bắp. Kết quả thí nghiệm cho thấy bón lân không làm
gia tăng rõ rệt đối với chiều cao, đường kính thân và sinh khối bắp rau trồng trên
các loại đất của Bình Tân-Vĩnh Long và Châu Thành-Trà Vinh. Ở Bình Tân-Vĩnh
Long bón lân có khuynh hướng làm gia tăng năng suất trên các loại đất BT3, BT5 là
đất có hàm lượng lân dễ tiêu trung bình 10,55 mg P 2O5/kg và 20,11 mg P 2O5/kg,
nhưng không có đáp ứng lân trên các loại đất có lân cao từ 33,09 mg P2O5/kg đến
76,91 mg P 2O5/kg. Ở Châu Thành-Trà Vinh bón lân không làm tăng năng suất trên
tất cả các loại đất có hàm lượng lân từ thấp tới cao, ngoại trừ trên đất CT8 có hàm
lượng lân dễ tiêu là 127,13 mg P 2O5/kg. Cần tiếp tục thí nghiệm nhiều vụ nữa để
xác định chính xác hơn sự đáp ứng của cây trồng đối với phân lân.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


v


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Cảm tạ
Tóm lược
Mục lục
Danh sách hình
Danh sách bảng

Chương 1

GIỚI THIỆU
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1
Vài nét chung về cây bắp
1.1.1 Tình hình sản xuất bắp trên thế giới và ở Việt
Nam
1.1.1.1 Tình hình trên thế giới
1.1.1.2 Tình hình sản xuất bắp trong nước
1.1.2 Đặc tính sinh trưởng của cây bắp rau
1.1.3 Đặc điểm sinh thái và điều kiện dinh dưỡng
khoáng của cây bắp rau
1.1.3.1 Điều kiện ngoại cảnh
1.1.3.2 Thời vụ
1.1.3.3 Giống
1.1.3.4 Dinh dưỡng khoáng cho bắp
1.1.3.5 Phương pháp bón phân cho bắp
1.1.3.6 Những vấn đề về bón phân cân đối
trong trồng bắp

1.1.4 Kĩ thuật trồng và thu hoạch bắp rau
1.1.4.1 Chăm sóc
1.1.4.2 Thu hoạch
1.2
Lân
1.2.1 Vai trò của lân đối với cây trồng
1.2.2 Lân trong đất
1.2.2.1 Lân tổng số
1.2.2.2 Lân dễ tiêu
1.2.3 Phản ứng của lân trong đất
1.2.3.1 Đối với lân hữu cơ
1.2.3.2 Đối với lân vô cơ
1.2.3.3 Phản ứng của lân trong đất chua
1.2.3.4 Sự chuyển hóa lân vô cơ ở đất kiềm
1.2.4 Những yếu tố ảnh hưởng đến độ hữu dụng của
lân trong đất
1.2.4.1 Loại khoáng sét
1.2.4.2 Thời gian phản ứng

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version

ii
iii
iv
v
xii
xiii
1
2
2

2
2
2
4
4
4
4
4
5
7
8
9
9
10
10
10
12
13
16
18
18
18
19
20
20
20
20


vi


Chương 2

Chương 3

1.2.4.3 pH
1.2.4.4 Chất hữu cơ
1.2.4.5 Nhiệt độ
1.2.5 Sự lưu tồn của lân trong đất
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1
Phương tiện thí nghiệm
2.1.1 Thời gian và địa điểm
2.1.2 Đất thí nghiệm
2.1.3 Vật liệu thí nghiệm
2.2
Phương pháp thí nghiệm
2.2.1 Bố trí thí nghiệm
2.2.2 Phương pháp canh tác
2.2.3 Chỉ tiêu theo dõi
2.2.4 Xử lý số liệu
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1
Ảnh hưởng của lân lên sinh trưởng của bắp rau
3.1.1 Các chỉ tiêu sinh trưởng về chiều cao cây và
đường kính thân
3.1.1.1 Chiều cao
3.1.1.2 Đường kính
3.1.2 Sinh khối
3.1.3 Năng suất

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version

21
21
21
22
23
23
23
23
23
23
23
25
26
26
27
27
27
27
30
32
35
38
39
42



vii

DANH SÁCH HÌNH
Hình
3.1
3.2

3.3
3.4

3.5

3.6
3.7

Tên hình
Sự phát triển chiều cao của bắp rau ở nghiệm thức có bón lân qua
các giai đoạn ở Bình Tân-Vĩnh Long và Châu Thành-Trà Vinh
Sự phát triển chiều cao của bắp rau ở nghiệm thức không bón lân
qua các giai đoạn ở Bình Tân-Vĩnh Long và Châu Thành-Trà
Vinh .
Chiều cao trung bình ở hai nghiệm thức có và không bón lân của
Bình Tân-Vĩnh Long và Châu Thành-Trà Vinh ở các giai đoạn.
Đường kính trung bình ở hai nghiệm thức có và không bón lân
của Bình Tân-Vĩnh Long và Châu Thành-Trà Vinh ở các giai
đoạn.
Đường kính bắp nghiệm thức có bón lân và không bón lân ở
Bình Tân-Vĩnh Long và Châu Thành-Trà Vinh giai đoạn 40

ngày.
Sinh khối bắp nghiệm thức có bón và không bón lân ở Bình TânVĩnh Long và Châu Thành-Trà Vinh,
Năng suất bắp trồng trên các loại đất của Bình Tân-Vĩnh Long và
Châu Thành-Trà Vinh ở hai nghiệm thức có bón và không bón
lân

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version

Trang
27
28

29
30

31

34
37


viii

DANH SÁCH BẢNG
Bảng
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5

1.6
1.7
2.1
2.2
3.1

3.2
3.3
3.4
3.5
3.6

Tên bảng
Diện tích và năng suất bắp tại Đồng Bằng Sông Cửu Long
những năm gần đây
Lượng NPK bón cho bắp
Chẩn đoán nhu cầu dinh dưỡng qua lá của cây bắp
Đánh giá lân tổng số trong đất
Đánh giá lân trong đất vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
Hàm lượng lân tổng số trên tầng mặt của các nhóm đất chính
vùng Tây Nam Sông Hậu
Đánh giá hàm lượng lân dễ tiêu
Các loại đất thí nghiệm ở Bình Tân-Vĩnh Long
Các loại đất thí nghiệm ở Châu Thành-Trà Vinh
Chiều cao trung bình (cm) của 10 loại đất của 2 tỉnh Vĩnh Long
và Trà Vinh ở cả hai nghiệm thức có bón và không bón giai
đoạn 40 NSKG
Đường kính trung bình ở cả hai nghiệm thức có bón và không
bón
Sinh khối bắp trồng trên các loại đất Vĩnh Long và Trà Vinh ở

hai nghiệm thức có bón lân và không bón lân
Sinh khối trung bình của 10 loại đất của Vĩnh Long ở cả hai
nghiệm thức có bón và không bón lân
Năng suất bắp ở hai nghiệm thức có bón lân và không bón lân
Khối lượng trái trung bình trên các loại đất Bình Tân-Vĩnh
Long và Châu Thành-Trà Vinh ở cả hai nghiệm thức có bón và
không bón lân

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version

Trang
3
6
7
13
14
14
18
24
24
29

30
32
33
35
36


1


MỞ ĐẦU
Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, trên đa số các loại cây trồng nhất là trên rau
màu, phân lân được sử dụng với một liều lượng rất cao mà không chú ý đến đặc tính độ
phì khác nhau của từng cánh đồng. Điều này dẫn đến sự tích lũy lân ở một số điểm
trồng rau màu chuyên canh có vòng quay sử dụng đất ngắn gây lãng phí phân bón, tăng
chi phí trong sản xuất và ảnh hưởng đến đời sống của cây trồng.
Có nhiều ý kiến đánh giá về chất lân đối với cây trồng. Theo Đỗ Thị Thanh Ren.
(1999) cho rằng sau chất đạm không có chất nào ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây
trồng bằng chất lân. Theo Nguyễn Xuân Trường và ctv,(2000) lân có vai trò quan trọng
với cây bắp, tuy nhiên khả năng hút lân ở giai đoạn cây con rất yếu. Thời kỳ 3 – 4 lá
cây bắp hút không được nhiều lân, đó là thời kỳ khủng hoảng lân của bắp, nếu thiếu lân
ở giai đoạn này sẽ làm giảm năng suất nghiêm trọng.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Mỹ Hoa và ctv, (2006) cho thấy nhiều ruộng
khảo sát trong vùng trồng rau chuyên canh của Tiền Giang, hàm lượng lân dễ tiêu đạt
rất cao (129-234 mg P/kg). Kết quả điều tra cho thấy nông dân ở vùng khảo sát đã sử
dụng phân lân rất cao 100-150 kg P2O5/ha/vụ để bón cho các loại cây trồng. Mặt khác
một số kết quả nghiên cứu gần đây ở Trà Vinh cho thấy cây bắp có đáp ứng rất cao khi
bón phân đạm nhưng lại có đáp ứng rất thấp đối với phân lân (Nguyễn Mỹ Hoa, 2008).
Từ những vấn đề trên cho thấy đề tài “Khảo sát sự đáp ứng của cây bắp rau
(Zea mays Linn) đối với chất lân trên đất trồng rau ở Bình Tân-Vĩnh Long và
Châu Thành-Trà Vinh trong điều kiện nhà lưới” cần thiết được thực hiện nhằm
khảo sát sự đáp ứng của cây bắp rau đối với chất lân trên một số loại đất trồng rau ở
Bình Tân-Vĩnh Long và Châu Thành-Trà Vinh.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


2


CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1

VÀI NÉT CHUNG VỀ CÂY BẮP

1.1.1 Tình hình sản xuất bắp trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.1.1Tình hình trên thế giới
Ngành sản xuất bắp thế giới tăng liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay, nhất là
trong hơn 40 năm gần đây, bắp là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao
nhất trong các cây lương thực chủ yếu. Vào năm 1961, năng suất bắp trung bình
của thế giới chỉ chưa đến 20 tạ/ha, năm 2004 đã đạt 49.9 tạ/ha. Năm 2007, theo
USDA, diện tích bắp đã vượt qua lúa nước, với 157 triệu ha, năng suất 4.9 tấn/ha
và sản lượng đạt kỷ lục với 766.2 triệu tấn. (FAOSTAT, USDA 2008).
Sản lượng bắp ở thế giới trung bình hằng năm từ 696.2 – 723.3 triệu tấn (2005 –
2007). Trong đó nước Mỹ sản xuất 40.62% tổng sản lượng bắp và 59.38% do các nước
khác sản xuất.
Nhu cầu tiêu thụ nội địa bắp trên thế giới rất lớn, trung bình hằng năm từ 702,5
– 768,8 triệu tấn. Trong đó nước Mỹ tiêu thụ 33,52% tổng sản lượng và các nước khác
chiếm 66,48%.
Sản lượng bắp xuất khẩu trên thế giới trung bình hằng năm từ 82,6 – 86,7 triệu
tấn. Trong đó, Mỹ xuất khẩu 64,41% tổng sản lượng và các nước khác chiếm 35,59%.
Sản lượng bắp trên thế giới năm 2007 tăng gấp đôi so với 30 năm trước đây (sản lượng
khoảng 349 triệu tấn 1977) ( Sở khoa học công nghệ An Giang)
1.1.1.2 Tình hình sản xuất bắp trong nước
Bắp là loại cây lương thực chính trồng rộng rãi trên thế giới. Ở Việt Nam, từ
năm 1900 - 1945, bắp là loại nông sản xuất khẩu đứng hàng thứ ba sau lúa và cao su.
Từ năm 1961 – 1980 diện tích trồng bắp gia tăng từ 260.200 ha – 389.000 ha. Từ năm
1980 – 1992 diện tích trồng bắp gia tăng nhanh chóng 478.000.
Năng suất bắp Việt Nam những năm 1960 chỉ đạt trên 1 tấn/ha, với diện

tích hơn 200 nghìn hecta đến đầu những năm 1980, năng suất cũng chỉ đạt 1,1
tấn/ha và sản lượng hơn 400.000 tấn do vẫn trồng các giống bắp địa phương với
kỹ thuật canh tác lạc hậu. Từ giữa những năm 1980, nhờ hợp tác với Trung tâm
Cải tạo Ngô và Lúa mỳ Quốc tế (CIMMYT), nhiều giống bắp cải tiến đã được đưa
vào trồng ở nước ta, góp phần nâng năng suất lên gần 1,5 tấn/ha vào đầu những
năm 1990. Tuy nhiên, ngành sản xuất bắp nước ta thực sự có những bước tiến
nhảy vọt là từ đầu những năm 1990 đến nay, gắn liền với việc không ngừng mở

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


3

rộng giống bắp lai ra sản xuất, đồng thời cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác
theo đòi hỏi của giống mới.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục thống kê (2007), diện tích trồng bắp
của cả nước là 1067.9 nghìn ha. Trong đó các tỉnh Đông Bắc là 236 nghìn ha chiếm
diện tích lớn nhất . Các vùng khác là Đồng Bằng Sông Hồng (84.7 nghìn ha), Tây Bắc
(172 nghìn ha), Bắc Trung Bộ (137.3 nghìn ha), Duyên Hải Nam Trung Bộ
(42.1 nghìn ha), Tây Nguyên (233.4 nghìn ha), Đông Nam Bộ (126.1 nghìn ha), Đồng
Bằng Sông Cửu Long (36.3 nghìn ha).
Bảng 1.1: Diện tích và năng suất bắp tại Đồng Bằng Sông Cửu Long những năm gần đây.
Diện tích (nghìn ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (nghìn tấn)

Vùng
2006


Sơ bộ 2007

2006

Sơ bộ 2007

2006

Sơ bộ 2007

Đồng bằng sông
Cửu Long

33,7

36,3

56,0

55,7

188,7

202,2

Long An

4,6


4,6

48,5

57,8

22,3

26,6

Tiền Giang

1,5

4,2

32,0

31,9

4,8

13,4

Bến Tre

0,7

0,6


27,1

35,0

1,9

2,1

Trà Vinh

5,4

5,3

44,3

44,0

23,9

23,3

Vĩnh Long

0,9

1,0

18,9


18,0

1,7

1,8

Đồng Tháp

5,0

4,5

72,2

72,7

36,1

32,7

An Giang

10,0

10,5

76,0

76,0


76,0

79,8

Cần Thơ

0,8

0,9

47,5

48,9

3,8

4,4

Hậu Giang

1,3

1,5

49,2

47,3

6,0


7,1

Sóc Trăng

2,8

2,8

33,6

34,3

9,4

9,6

Bạc Liêu

0,5

0,2

42,0

45,0

2,1

0,9


Cà Mau

0,2

0,2

35,0

25,0

0,7

0,5

Nguồn: Tổng cục thống kê

An Giang là tỉnh có diện tích trồng bắp lớn nhất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
với 10.5 nghìn ha, cũng là tỉnh dẫn đầu về năng suất (76 tạ/ha) và sản lượng (79.8
nghìn tấn).
Riêng đối với cây bắp rau thì ở An Giang, huyện Chợ Mới là huyện có diện tích
trồng lớn nhất, tính đến tháng 4/2007, toàn tỉnh An Giang đã thu hoạch được hơn

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


4

14.850 ha màu. Diện tích thu hoạch màu vụ Đông Xuân đạt hơn 830 ha, vụ Hè Thu
năm nay, bà con nông dân trong tỉnh đã gieo trồng được 9.479 ha màu, trong đó chủ
yếu là rau dưa với 3.550 ha, bắp lai 1.650 ha, bắp rau 1.041 ha, đậu xanh 826 ha, bắp

trắng 754 ha, mè 634 ha, đậu nành 559 ha, cỏ chăn nuôi 189 ha.(Sở Nông nghiệp An
Giang)
1.1.2 Đặc tính sinh trưởng của cây bắp rau
Cây bắp ưa khí hậu ấm có khả năng thích nghi với khoảng khí hậu rộng, nên có
thể trồng được trong tất cả các vùng của Việt Nam. Bắp có thể phát triển tốt trên bất kì
loại đất nào nếu có hệ thống tưới tiêu đầy đủ để duy trì đủ oxy cho rể phát triển, và có
khả năng giữ nước để tạo độ ẩm thích hợp trong suốt mùa sinh trưởng. Cây bắp không
kén đất nên có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng thích hợp nhất là
đất trung tính có pH từ 6.0 – 7.2, đất giàu mùn và chất dinh dưỡng.
Chu kỳ sinh trưởng của cây bắp nói chung bắt đầu từ khi hạt nảy mầm đến trái
chín hoàn toàn. Chu kỳ này thay đổi từ 50 – 350 ngày, nhưng đối với bắp rau thu hoạch
ở giai đoạn trái non trung bình từ 55 – 60 ngày, tùy theo giống, điều kiện canh tác và
môi sinh. Sự sinh trưởng của bắp được tiến hành qua nhiều thời kỳ nối tiếp nhau một
cách liên tục (Dương Minh, 1999).
1.1.2 Đặc điểm sinh thái và điều kiện dinh dưỡng khoáng của cây bắp rau
1.1.3.1 Điều kiện ngoại cảnh
Bắp rau là cây trồng ngắn ngày, thuộc nhóm cây ưa nhiệt.
Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng, phát triển của cây là 23 – 250C và nhiệt độ
này cũng là nhiệt độ thích hợp cho giai đoạn tạo bắp tới thu hoạch sản phẩm.
Đất trồng cần tơi xốp, giàu chất dinh dưỡng, loại đất giàu hữu cơ nhiều mùn, đất
thịt pha cát, đất phù sa ven sông đảm bảo cho hệ thống tưới tiêu hoàn chỉnh.
1.1.3.2 Thời vụ
Bắp rau có thể trồng nơi thoát nước tốt, có hệ thống tưới tiêu hoàn chỉnh. Thích
hợp và có hiệu quả cao nhất là vụ Đông Xuân và vụ Xuân Hè (do ít chịu ảnh hưởng gió
to và mưa nhiều).
1.1.3.3 Giống
Hiện nay có rất nhiều giống bắp non được trồng sản xuất dưới dạng thử nghiệm
và đang tiếp tục theo dõi. Qua nhiều vụ sản xuất, hiện nay giống Pacific 421 đang được
Công ty Dịch vụ Kỹ thuật nông nghiệp An Giang hợp đồng thu mua. Đây là giống bắp
lai chuyên dùng để thu họach trái non cho sản lượng cao và chất lượng rất đồng bộ. Nó

có chiều cao cây thấp (khoảng 1,5m), thân cây cứng, ít bị gãy đổ. Tuy nhiên nếu trồng
trong vụ Hè thu cần phải có mật độ thích hợp và vun gốc để tránh giông to, gió lớn có
thể gây thiệt hại. Ngoài ra, ở Chợ Mới hiện nay nông dân trồng giống Amazing có đặc
tính giống với giống Pacific.
Một số đặc tính cơ bản của giống bắp non Amazing:

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


5

-

Chiều cao cây: 150 cm.

-

Bắt đầu thu hoạch trái non vào khoảng 41-43 ngày sau khi gieo.

-

Trổ cờ khoảng : 38-40 ngày sau khi gieo.
Năng suất trái tươi: 8-12 tấn/ha.

-

Chiều cao đóng trái từ 90 – 120 cm.

Ruộng trồng bắp non cần tránh để thụ phấn với ruộng bắp khác bằng cách cách
ly thời gian (trồng sớm hơn hoặc muộn hơn 25-30 ngày so với ruộng khác) hoặc cách

ly không gian (cách ruộng bắp khác trên 1000 m) hoặc trồng hàng bắp bảo vệ (tối thiểu
30 hàng bảo vệ khi có ruộng bắp khác cách 500 m). Tất cả cây trong ruộng bắp non
đều phải rút cờ, kể cả hàng bắp bảo vệ để tránh phấn rơi vào râu bắp.
Lượng giống cần cho 1 ha là 35-40 kg.Trồng hàng cách hàng 70-75 cm, cây
cách cây trên hàng 20-25 cm, gieo 3 hạt/hốc. Sau khi gieo 5-7 ngày nên kiểm tra và
gieo dậm lại những hốc không lên hoặc ở chỗ có cây quá yếu, 10-15 ngày sau khi gieo
tỉa bớt cây yếu chừa lại 2 cây/hốc.
1.1.3.4 Dinh dưỡng khoáng cho bắp
Bắp là cây phàm ăn, nếu muốn đạt năng suất cao phải trồng trên các loại đất
giàu chất dinh dưỡng. Nếu đất trồng thiếu chất dinh dưỡng phải tiến hành bón phân bổ
sung dể cây phát triển tốt, đạt năng suất cao.
Theo Nguyễn Như Hà các ảnh hưởng xấu của đất có pH thấp đối với cây bắp có
lẽ chủ yếu là do Al3+ di động cao. Khi đất có pH 4,5 – 4,7 bón vôi cho bắp có hiệu lực
cao nếu lượng vôi đủ trung hòa ½ độ chua thủy phân của đất. Ở pH>=5 không cần phải
bón vôi, do ở pH trên, Al3+ di động đã bị cố định hết, không còn gây tác hại lớn cho
bắp.
Phân chuồng hay các loại phân hữu cơ khác là loại phân cần bón cây bắp trên
mọi loại đất, nên sử dụng phân đã được ủ hoai mục. Cần ưu tiên bón phân hữu cơ khi
trồng bắp trên các loại đất nghèo mùn, đất 2 vụ lúa, đất xám bạc màu, đất có thành
phần cơ giới nặng.
Dạng phân đạm bón lót tốt nhất cho bắp là amôn nitrat hay sunphat amôn, urê
cũng tốt nhưng đòi hỏi quá trình chuyển hóa thành amôn nên cần trộn lẫn vào đất để
tránh quá trình bay hơi.
Dạng phân lân thường bón cho cây bắp là các loại super hòa tan hay amôn
photphat.
Loại kali thường bón cho bắp là kaliclorua vừa phù hợp lại rẻ nhất, trừ khi đất
thiếu lưu huỳnh thì có thể bón kali sunphat thì có thể đáp ứng cả K và S (Nguyễn Như
Hà, 2006)

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version



6
Bảng 1.2: Lượng NPK bón cho bắp (Nguyễn Xuân Trường, 2000)

Loại đất

Đất phù sa

Đất xám, cát

Đất đỏ vàng

Lượng bón (kg/ha)
Loại bắp
N

P2O5

K2O

Bắp lai

160 – 200

60 – 90

60 – 80

Bắp thường


120 – 150

50 – 70

40 – 60

Bắp rau (thu
non)

100 – 120

40 – 60

40 – 60

Bắp lai

140 – 180

80 – 100

90 – 120

Bắp thường

120 – 140

60 – 90


80 – 100

Bắp rau (thu
non)

100 – 120

40 – 60

40 – 60

Bắp lai

160 – 200

80 – 100

80 – 100

Bắp thường

120 – 150

60 – 80

40 – 60

Bắp rau (thu
non)


100 – 120

40 – 60

40 – 60

Lượng phân chuồng cần bón cho bắp trung bình là 8 – 10 tấn/ha, bón được 10 –
15 tấn/ha càng tốt.
Lượng phân bón cho bắp tùy vào khả năng đạt năng suất (tiềm năng giống, mật
độ cây), độ phì của đất và cả trình độ thâm canh.
Theo Huỳnh Thị Kim Cúc (1998) lượng phân bón tính bình quân cho 1 ha trồng
bắp non như sau:
- Phân chuồng ủ hoai mục: 15-20 tấn/ha.
- Đạm urê: 150kg/ha
- Super lân: 400kg/ha
- Clorua cali: 110kg/ha
Tuy nhiên, cũng tùy vào loại đất tốt, xấu mà thêm hoặc bớt urê, phân chuồng.
Theo Trần Văn Hiến (2007) trên các loại đất, nếu có điều kiện cần bón 5 -10 tấn
phân hữu cơ/ha. Lượng N-P-K bón theo công thức 140 N, 60 P2O5, 40kg K2O tương
đương với 330 kg Urê, 370kg Super lân, 80kg KCl/ha. Có thể dùng phân hỗn hợp như

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


7

16-16-8 hoặc 20-20-0 với lượng 200 kg/ha để bón lót cho cây, kết hợp với 200 kg Urê
để bón thúc.
Trong thực tế có thể dựa vào việc chẩn đoán nhu cầu dinh dưỡng qua lá của cây
bắp để xác định nhu cầu phân bón

Bảng 1.3: Chẩn đoán nhu cầu dinh dưỡng qua lá của cây bắp (T.Dierol, 2001)

Loại dinh
dưỡng

Bộ phận và
thời gian
lấy mẫu
phân tích

N
P
K
Ca
Mg

Lá đối diện
và phía
dưới bắp,
vào thời kỳ
phun râu

S

Hàm lượng dinh dưỡng (% chất khô)
Bắp địa phương

Bắp lai
Thiếu


Đủ

Thiếu

Đủ

<2,9

3-5

<2,5

3-4

<0,25

0,3-0,6

<0,25

0,3-0,5

<1,5

1,8-2,6

<1,3

1,7-3,0


<0,3

0,3-1,0

<0,2

0,3-1,0

<0,15

0,2-0,6

<0,15

0,2-0,5

<0,15

0,2-0,3

<0,15

0,2-0,3

1.1.3.5 Phương pháp bón phân cho bắp
Bón lót cho bắp
Chủ yếu là dùng các loại phân hữu cơ và lân để bón lót, có thể bón theo 2 cách:
rải đều hay bón theo hàng. Bón rải đều phân trên ruộng sau đó bừa kỹ, có ưu điểm là
nhanh, đỡ tốn công nhưng không tập trung vàp gốc, tác dụng của phân chậm và hiệu
quả thấp. Bón phân theo hàng là hình thức bón phân sau khi làm đất xong, phân được

rải xuống đáy rạch đã rạch trước thành hàng, rồi lắp nhẹ một lớp đất bột trước khi rãi
giống xuống. Bón theo cách này phân được bón tập trung gần gốc bắp nên nhanh
chống phát huy tác dụng, nhưng tốn công và chậm, nếu để hạt giống bị tiếp xúc trực
tiếp với phân khoáng nhất là phân gây chua có thể gây xót hạt, thối mầm và chết.
(Nguyễn Như Hà, 2006)
Việc bón lót đạm và kali cho bắp có những ý kiến khác nhau: Vì xét về nhu cầu
của cây ở giai đoạn đầu thì chưa cần nên có khuyến cáo là không cần bón lót đạm và
kali. Nhưng do trồng bắp trong điều kiện đất cạn (khô), lượng phân bón nhiều, cây có
thể chịu được nồng độ muối tan cao nên bón lót 1/3 tổng lượng N và K2O, để sớm thỏa
mãn nhu cầu đạm, kali và thúc đẩy cây con sinh trưởng. (Nguyễn Như Hà, 2006).

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


8

Bón thúc cho bắp.
Bón thúc đợt 1, khi cây có 3 – 4 lá thật nhằm giúp cây phát triển bộ rễ, chuyển
dinh dưỡng từ hạt sang dinh dưỡng từ đất được tốt, thường bón 1/3 đạm + 1/3 kali. Pha
phân với nước tưới cho cây, nếu đất đủ ẩm có thể bón trực tiếp vào đất: rạch 2 bên cách
gốc cây bắp 5 – 7cm, rải đều phân vào rạch rồi kết hợp vun đất nhẹ để lấp phân quanh
gốc. Để giảm công bón phân khi đã có bón lót đạm và kali có thể không bón thúc lần
1.(Nguyễn Như Hà, 2006).
Bón thúc đợt 2 khi bắp có 7-9 lá thật, nhằm thúc đẩy sự phát triển của bộ rễ đốt,
nhằm giúp cho cây hút được nhiều chất dinh dưỡng, phát triển thân lá, phân hóa cơ
quan sinh sản và chống đổ. Thường dùng 1/3 đạm + 1/3 kali trộn đều phân bón vào
rảnh sâu 5-7cm hai bên hàng và cách gốc 10-15cm, sau đó lấp đất vun vào gốc.
(Nguyễn Như Hà, 2006)
Bón thúc đợt 3 lúc cây xoắn nõn (10-15 ngày trước khi trổ) tác dụng tốt cho quá
trình phân hóa bắp và trổ cờ, tạo điều kiện cho thân lá phát triển tối đa, giữ bộ lá xanh

lâu để quang hợp nuôi trái. Dùng toàn bộ lượng phân còn lại bón vào gốc như đợt 2 và
kéo đất vun gốc lại. (Nguyễn Như Hà, 2006).
Khi sử dụng các loại phân NPK, ngoài bón lót phần lớn lân khi trồng, lân còn có
thể bón làm nhiều đợt cùng các loại phân vô cơ khác bằng các loại lân hòa tan trong
nước theo yêu cầu của cây. Đối với đạm cần chia ra nhiều lần bón trong đó chú trọng
đợt bón trước lúc trổ cờ. Kali chia ra bón nhiều lần nhưng tập trung nhiều vào giai đoạn
trước phun râu. (Nguyễn Như Hà, 2006).
1.1.3.6 Những vấn đề về bón phân cân đối trong trồng bắp
Ở bất kỳ giai đoạn nào, đối với cây bắp đạm cũng là nhân tố rất lớn ảnh hưởng
đến năng suất, còn lân và kali bón bao nhiêu cũng chủ yếu là hàm lượng lân và kali dễ
tiêu trong đất. (Nguyễn Như Hà, 2006)
Rất cần thiết bón cân đối giữa phân hữu cơ – vô cơ vì phân hữu cơ ngoài tác
dụng cung cấp một phần dinh dưỡng còn cải thiện tính chất vật lý đất làm cây sinh
trưởng tốt hơn.
Trong việc trồng bắp cũng cần quan tâm bón thường xuyên các dạng phân S
như supe lân và sử dụng vi lượng Zn cho bắp để đảm bảo bắp cho năng suất cao, phẩm
chất tốt, có hiệu lực chung của phân bón cao và hiệu quả sản xuất cao. (Nguyễn Như
Hà, 2006)
Trồng bắp trên đất cát, đất xám, đất bạc màu cần quan tâm bón đủ cả N, P, K và
các phân trung, vi lượng, phân hữu cơ, còn trên đất đỏ thì cần chú ý bón lân và kali.
Trên đất nghèo dinh dưỡng như đất xám, đất cát, cần bón nhiều lân và kali hơn
so với đất phù sa, đất đỏ bazan. Trên các loại đất bạc màu, đất xám, đất cát bón phân
kali có tác dụng tăng năng suất rõ rệt. Bắp lai cần bón nhiều phân hơn bắp thường, và
bắp thường cần bón nhiều phân hơn bắp rau (Nguyễn Như Hà, 2006).

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


9


1.1.3

Kĩ thuật trồng và thu hoạch bắp rau

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh An Giang kĩ thuật trồng và
thu hoạch bắp rau như sau
1.1.4.1Chăm sóc
Tưới nước:
Hệ thống tưới tiêu cũng có ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định năng suất và
phẩm chất bắp non cao hay thấp. Do đó, mùa nắng cứ 2-3 ngày tưới 1 lần cho đến khi
cây được 35 ngày tuổi và sau đó cứ 3-5 ngày tưới 1 lần cho đến khi thu hoạch. Cần
tưới cho đất đủ ẩm, nhất là giai đoạn sắp trổ cờ cho trái.
Tuy nhiên trong mùa mưa cần phải thoát nước, tránh ngập úng sẽ ảnh hưởng đến sự
sinh trưởng của bắp.
Làm cỏ vun gốc:
Cần làm sạch cỏ dại trong và xung quanh ruộng bắp. Trong 40 ngày đầu, ruộng
bắp non phải thật sạch cỏ. Nên dùng thuốc diệt cỏ hiệu quả cao. Đối với 1 ha bắp non
thường dùng 1-1,2 lít Dual 720ND hặoc 0,5 lít Ronstar 40EC phun trong 2 ngày đầu
sau gieo, tránh phun sau khi bắp mọc lên đều.
Nếu làm cỏ bằng tay nên kết hợp với bón phân và vun gốc để cây bắp vững và
phát triển tốt.
Sâu bệnh và cách phòng trừ:
Nên xử lý hạt giống để bảo vệ cây con, vì vậy vào lúc gieo hạt giống nên rải
Basudin 10H lên lớp tro phủ hạt bắp để tránh kiến, dế phá mầm.
- 15 ngày sau khi gieo: Bỏ vài hột Basudin 10H vào đọt ngừa sâu đục thân và phun
Coper B ngừa bệnh.
- 30 ngày sau khi gieo: Dùng thuốc trừ sâu bệnh như trên để ngừa lần 2.
Ngoài ra chúng ta có thể sử dụng bẩy đàn diệt bướm. Cần chú ý trong quá trình
trồng bắp non nên hạn chế tối đa việc dùng thuốc hóa học để trừ sâu hại. Do bắp non
được sử dụng như là một loại rau sạch, nên thông thường không nên sử dụng thuốc

BVTV trong quá trình sinh trưởng của cây.
Nếu trường hợp sâu hại tấn công cũng không ảnh hưởng nhiều đến năng suất
cây. Mặt khác vì bắp non thu hoạch rất sớm nên đôi khi sâu bệnh chưa phá hại kịp thời
đến trái thì đã được thu hoạch.
Rút cờ:
Rút cờ trước khi nở hoa (sau khi trồng khoảng 38-42 ngày). Rút cờ phải đồng
loạt, lúc cờ còn nằm trong lá bao, khi rút cờ tránh mất nhiều lá. Cờ rút ra dùng để nuôi
bò rất tốt vì hàm lượng dinh dưỡng rất cao. Việc rút cờ có tác dụng vừa khống chế
chiều cao cây, hạn chế việc đổ ngã trong mùa mưa vừa tập tập trung dưỡng chất nuôi
cây, nuôi trái; đồng thời hạn chế sâu đục bông cờ, giúp bắp mau ra trái.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


10

1.1.4.2 Thu hoạch
Sau khi rút cờ 3-5 ngày, trái bắp non sẽ nhú râu ra. Một số giống thông thường
khi râu dài ra khoảng 3 cm thì trái bắp đạt tiêu chuẩn thu hoạch cụ thể như trái dài
khoảng 7-10cm, đường kính giữa trái khoảng 1-1,5 cm. Trước khi thu hoạch cần xác
định xem trái bắp non đã đủ tiêu chuẩn thu hoạch chưa, bằng cách kiểm tra độ dài râu
nhú ra và chiều dài bắp non bên trong vỏ.
Khi xác định trái dài đủ tiêu chuẩn thì tiến hành bẻ trái. Phải thu hoạch trái mỗi
ngày để tránh trường hợp trái bắp vượt tiêu chuẩn do kích cở lớn, đồng thời sản lượng
thu hoạch không bị mất ký và héo.
Đa số những trái thu hoạch sớm thường có kích thước, hình dạng, độ đồng đều
cao. Bẻ trái bằng tay và nên thu hoạch từ sáng sớm và thu hoạch còn vỏ để tránh hư
giập khi vận chuyển. Sau đó mang đến nơi có bóng mát mới tách bỏ vỏ. Dùng dao rạch
một đường dọc trên vỏ bi, rồi dùng tay tách bỏ vỏ, gỡ sạch râu bắp, cắt bỏ cuống trái.
Đối với giống bắp non lai Amazing có thể thu hoạch vào khoảng 41-43 ngày sau khi

trồng và thu hoạch kéo dài chừng 7-10 ngày. Thu hoạch bắt đầu khi trái thứ nhất phun
râu 3-5 cm và với trái thứ hai và trái thứ ba thì chờ phun râu dài 5cm. Màu râu hồng
tím chưa biến thành nâu đen. Mỗi cây thường thường có từ 2 trái (thỉnh thoảng cũng có
cây có 5 trái) và thời gian thu hoạch rộ tập trung trong 5 ngày đầu. Tránh thu hoạch ép
hoặc để bắp phát triển vượt quá kích cở sẽ làm cho năng suất và giá trị sản phẩm giảm.
Nên thu hoạch và giao sản phẩm mỗi ngày trong suốt thời gian thu hoạch để không bị
mất ký và héo.
Nơi vị trí trái bắp đã cắt có thể sẽ tái mọc lên trái khác. Vì vậy, nếu muốn giữ
trái này cần phải bón thêm phân (nhất là các loại phân bón lá) để trái bắp có đủ dinh
dưỡng và phát triển tốt nhằm giảm bớt trường hợp dị dạng, bông dừa
* Những đặc điểm nhận biết trái bắp non đạt tiêu chuẩn chất lượng.
- Chiều dài trái từ 4-9 cm.
- Đường kính trái (chỗ lớn nhất) đạt từ 1-1,5 cm.
- Trái bắp có màu vàng sáng và hình dáng đẹp.
- Sự xếp noãn trên trái đều đặn.
1.2

LÂN

1.2.1 Vai trò của lân đối với cây trồng
Lân có vai trò rất quan trọng đối với cây trồng, sau chất đạm không có chất nào
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng bằng chất lân. Hàm lượng lân trong cây và
trong đất thường thấp hơn đạm và kali. Trong đất lân thường có xu hướng phản ứng
với các thành phần khác trong đất tạo thành các hợp chất không hòa tan, chậm hữu
dụng cho cây trồng (Đỗ Thị Thanh Ren, 1999).

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


11


Hiện nay lân là yếu tố hạn chế năng suất, chi phối độ phì thực tế của đất và đã
trở thành vấn đề chiến lược đối với nông nghiệp nước ta vì hàm lượng lân ở các lọai
đất đều thấp (Đỗ Ánh và Bùi Đình Dinh, 1992).
Lân cần thiết cho hầu hết các quá trình sinh lý sinh hóa xảy ra trong cây. Thiếu
lân năng suất cây trồng giảm nghiêm trọng, phần lớn đất Việt Nam nghèo lân nên bón
lân rất có tác dụng (Bùi Đình Dinh và ctv., 1993). Trong cây tỷ lệ lân biến động trong
phạm vi 0,08 – 1,14% so với chất khô (Vũ Hữu Yêm, 1995). Phần lớn lân được dự trữ
trong hạt. Trong cây lân chủ yếu nằm dưới dạng hữu cơ, chỉ có 10 – 12% là lân vô cơ.
Khi hạt chín thì lân vô cơ giảm dần và chuyển sang Fytin. Cây có thể đồng hóa được
lân vô cơ của acid orthophosphorid. Một ít muối của acid metaphosphorid (H3PO4) và
acid phosphorid.
Cây trồng hấp thu lân ở dạng H2PO4- hoặc HPO42-. Sự hiện diện của các ion
phosphate trong dung dịch đất phụ thuộc rất nhiều vào pH của dung dịch. Trong các
loại đất chua (pH từ 4.0 - 5.5) ion hóa trị một H2PO4- chiếm ưu thế trong khi ở dung
dịch có pH cao hơn là ion hóa trị hai HPO42- (Đỗ Thị Thanh Ren, 2004).
Khác với đạm, lân luôn giữ ở dạng oxyt hóa bên trong cây. Lân hiện diện ở
dạng lân vô cơ hoặc dạng ester của acid phosphorid, nghĩa là trong acid nuclêic (DNA
và RNA), lân hiện diện mang tính không thể thay thế được cho sự tạo tính di truyền
của cây trồng. Bên cạnh đó lân còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo năng lượng
biến dưỡng trong cây. Adenosin triphosphate là một nucleic acid đơn, một hợp chất trữ
năng lượng cho tiến trình hô hấp hoặc quang tổng hợp trong cây. Lân là thành phần của
lipid đặc biệt là phospholipids. Những hợp chất này là thành phần chính của màng tế
bào. Các thành phần khác của lân trong cây ở dạng lân vô cơ. Các dạng này là thành
phần dự trữ của lân trong cây ở điều kiện lân được hấp thu cao (Đỗ Thị Thanh Ren,
1999).
Khi cây thiếu lân nhẹ, các thành phần lân này được sử dụng, trong khi đó nồng
độ các hợp chất chứa lân hữu cơ không thể thay thế chất khác được như nucleic acid,
phospholipid được giữ nguyên không thay đổi. Ngay cả khi cây thiếu lân trầm trọng,
các hợp chất này vẫn không thay đổi, nhưng tốc độ tăng trưởng của cây thay đổi đột

ngột.
Theo Đỗ Ánh (2003) lân là thành phần của adenosin triphosphate (ATP), lân có
tác dụng thúc đẩy các quá trình chín, lân là nguồn năng lượng vận chuyển và bảo tồn
vật chất, lân cần thiết cho hình thành acid nucleic và phospholipid, thúc đẩy đẻ nhánh
trổ bông và tăng cường chất lượng hạt. Lân giúp việc phân chia tế bào dễ dàng hơn (Vũ
Hữu Yêm, 1995).
Lân giúp rễ cây phát triển mạnh, ăn sâu lan rộng, giúp cây đứng vững, hút được
nhiều dưỡng chất khác trong đất. Thúc đẩy việc ra rễ bên đặc biệt là lông hút (Vũ Hữu
Yêm, 1995).

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


12

Lân làm tăng cường phẩm chất nông sản. Lân làm tăng cường khả năng thu hút
đạm do nó có tác dụng chống chế độ độc của lượng đạm khoáng, tăng cường việc
chuyển hóa đạm thành protid.
Bón lân làm tăng quá trình chuyển hóa đạm nitrate, do đó làm giảm mạnh nồng
độ đạm nitrate trong cây (Trần Thị Tường Linh và ctv, 2005).
Theo Đỗ Ánh (2003) đối với đất lân là một chỉ tiêu của độ phì đất “Đất giàu lân
có độ màu mỡ cao và ngược lại đất có độ màu mỡ cao đều giàu lân” (E.Detrunk, 1931),
vì vậy giữa đất và lân có độ tương quan. Do đó đất thiếu lân nghiêm trọng, năng suất
cây trồng tăng tỷ lệ thuận với liều lượng bón lân (Nguyễn Bình Nhựt và ctv., 2004).
Lân có vai trò quan trọng với cây bắp, tuy nhiên khả năng hút lân ở giai đoạn
cây con rất yếu. Thời kỳ 3 – 4 lá cây bắp hút không được nhiều lân, đó là thời kỳ
khủng hoảng lân của bắp, nếu thiếu lân ở giai đoạn này sẽ làm giảm năng suất nghiêm
trọng. Cây bắp hút nhiều lân nhất (khoảng 62% tổng lượng lân yêu cầu) ở thời kỳ 6-12
lá sau đó giảm dần đi ở các thời kỳ sau (Nguyễn Xuân Trường và ctv., 2000).
Bắp khi thiếu lân lá chuyển sang màu đỏ đến tím. Lá xanh đậm hơn bình

thường, chuyển sang màu tím ở mặt dưới lá và sau cùng là toàn bộ cây phát triển chậm,
thân nhỏ và ngắn, trì hoãn trưởng thành nên cây tăng trưởng kém. Thiếu lân thường
xuất hiện đầu tiên ở lá già nhất, thường xuất hiện trên đất nén dẻ, đất phèn nặng, đất
kiềm hay đất có hàm lượng lân nghèo. Ngoài ra đối với bắp lấy hạt thiếu lân làm cho
trái cong queo, trường hợp nặng lá sẽ chuyển sang màu vàng và chết (Nguyễn Xuân
Trường và ctv., 2000).
Triệu chứng thừa lân của bắp: thời gian đầu lá bắp bị vàng úa lõm chõm phía
sau chót lá và dọc theo hai rìa lá già. Sau đó vàng nhạt dần từ chót lá vào cuốn lá, dần
dần hoại tử và héo .
1.2.2 Lân trong đất
Đá mẹ và mẫu chất là yếu tố quyết định độ phì nhiêu tiềm năng lân. Phần lớn
các đất này có hàm lượng lân tổng số cao, tỷ lệ lân tổng số có thể đạt tới 0,3 – 0,5%
P2O5 (Nguyễn Tử Siêm và ctv., 2000).
Lân có trong thành phần hữu cơ nên đất nào giàu mùn, nhiều chất hữu cơ thì tỷ
lệ lân cao. Lân được tích lũy trên lớp đất mặt nên thông thường tầng mặt có tỷ lệ lân
cao hơn ở lớp đất dưới (Vũ Hữu Yêm, 1995).
Lân trong đất thường nằm dưới dạng hữu cơ và vô cơ. Lân vô cơ chứa trong các
khoáng vật apatit, photphorit, sianit… còn lân hữu cơ là lân liên kết với chất hữu cơ
trong cơ thể vi sinh vật, rễ cây, các chất hữu cơ trung gian đang phân giải và mùn. Ở
những đất nhiều mùn tỉ lệ lân hữu cơ cao hơn lân vô cơ. Lân hữu cơ tan trong môi
trường kiềm còn lân vô cơ dễ tan trong môi trường axit (Nguyễn Thế Đặng và ctv.,
1999).
Tuy nhiên người ta thường phân biệt lân trong đất có hai dạng lân tổng số và lân
dễ tiêu.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


13


1.2.2.1Lân tổng số
Tổng số các hợp chất lân trong đất, dù kết hợp với cation nào, ở dạng nào, hữu
cơ hoặc vô cơ gộp lại thành “lân tổng số” của đất, thể hiện bằng hàm lượng tổng số
P2O5 (Lê Văn Căn, 1985). Do đó lân tổng số chỉ cho chúng ta biết được tổng lượng lân
trong đất mà không cho biết khả năng cung cấp lân cho cây trồng, vì lân trong đất được
kiểm soát bởi nhiều yếu tố môi trường, có thể bị giữ lại bởi các hợp chất khó tan như
phosphate sắt nhôm. Mặc khác các loại cây trồng khác nhau thì khả năng sử dụng lân
cũng khác nhau. Các đất có hàm lượng lân tổng số khác nhau, đặc biệt ở Việt Nam
hàm lượng lân tổng số rất thấp. Nhưng xét về phì nhiêu thực tế thì lân tổng số không có
ý nghĩa gì nhiều, vì đại bộ phận lân tổng số ở dạng khó tiêu đối với thực vật (Nguyễn
Tử Siêm và ctv., 2000).
Bảng 1.4: Đánh giá lân tổng số trong đất (Lê Văn Căn, 1978)

Mức độ

P2O5%

P2O5 Kg/ha (từ 0-25cm)

1

Rất nghèo

0,01

300

2

Nghèo


0,0 1 – 0,05

300 – 1500

3

Trung bình

0,05 – 0,1

1500 – 3000

4

Giàu

0,1 – 0,2

3000 – 6000

5

Rất giàu

0,2

6000

Stt


Hàm lượng lân tổng số trong đất biến thiên trung bình từ 0,02 – 0,15% P2O5.
Đất vùng ĐBSCL nhìn chung nghèo lân tổng số, hàm lượng lân trung bình của các
nhóm đất chính là 0,06% P2O5. Đất phù sa nhiễm mặn có hàm lượng lân tổng số khá
0,088% P2O5. Đất phù sa sông Hồng có hàm lượng lân tổng số và lân dễ tiêu nhiều hơn
vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (Đỗ Thị Thanh Ren, 1999). Phù sa sông Hồng, mặn
trung tính kiềm có tỷ lệ lân trung bình 0,1% P2O5 (Nguyễn Tử Siêm và ctv.,2000). Hai
dạng lân chủ yếu là lân vô cơ và lân hữu cơ.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


14
Bảng 1.5: Đánh giá lân trong đất vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (Kuyma, 1976)

Số thứ tự

Mức độ

% P2O5

1

Rất nghèo

0,03

2

Nghèo


0,03 – 0,06

3

Trung bình

0,06 – 0,08

4

Khá

0,08 – 0,13

5

Giàu

0,13

Bảng 1.6: Hàm lượng lân tổng số trên tầng mặt của các nhóm đất chính vùng Tây Nam Sông
Hậu (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 1990).

Hàm lượng P2O5 (%)

Nhóm đất
Trung bình

Thấp nhất


Cao nhất

Phèn

0,053

0,017

0,150

Phèn nhiễm mặn

0,061

0,022

0,131

Phù sa

0,060

0,011

0,236

Phù sa nhiễm mặn

0,088


0,028

0,293

v LÂN HỮU CƠ
Lân hữu cơ được tìm thấy trong đất mùn, lá cây và các dư thừa thực vật và động
vật đất vì đây là dạng liên kết với chất hữu cơ nên nó được tìm thấy chủ yếu ở lớp đất
mặt. Hàm lượng lân trong đất thay đổi tùy theo loại đất và gia tăng với hàm lượng chất
hữu cơ theo thứ tự sau: đất cát < đất sét < đất than bùn (Đỗ Thị Thanh Ren, 2004).
Các hợp chất hữu cơ chứa lân gồm có: phitin, axit nucleic, phosphatit,
sacarophosphat…và các vi sinh vật đất. Lân được tích lũy trong đất nhờ sự tích lũy
sinh học, vì vậy trong đất mặt thường chứa nhiều lân hữu cơ hơn các tầng dưới sâu.Tỷ
lệ lân hữu cơ phụ thuộc chủ yếu vào hàm lượng mùn trong đất và dao động trong
khoảng từ 10-50% của lân tổng số (Trần Văn Chính và ctv., 2006).

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


15

Dạng lân hữu cơ trong đất biến động từ 10 – 15 % lân tổng số bao gồm các
phytin, nucleoprotein, lectin, hợp chất mùn và các chất acid hữu cơ chứa lân, các acid
mùn chứa từ 4 – 5 % lân trong điều kiện thuận lợi có thể giải phóng từ 15 – 20 kg
lân/ha/năm (Nguyễn Tử Siêm và ctv., 2000).
Trong đất phytin thường chiếm với tỷ lệ dưới 30 – 40 % tổng số lân hữu cơ và
không hòa tan được trong nước (Đỗ Thị Thanh Ren, 1999). Phospholipid là hợp chất
béo được tìm thấy ở thực vật, cùng với nucleic acid chúng chiếm tỷ lệ 1 – 2 % lân hữu
cơ trong đất (Đỗ Thị Thanh Ren., 2004).
Theo Nguyễn Chí Thuộc và ctv., (1974), dạng lân hữu cơ trong đất phổ biến là

phytate chiếm 50% tổng số lân hữu cơ. Ở đất chua lân hữu cơ chủ yếu là dạng nhôm
phytate, sắt phytate, còn ở đất trung tính chủ yếu là canxiphyteta. Canxiphytate hòa tan
trong acid và không hòa tan trong môi trường trung tính và môi trường kiềm, trái lại
phytate nhôm và sắt không hòa tan trong dung dịch acid nhưng hòa tan trong môi
trường kiềm (Đỗ Thị Thanh Ren, 2004).
Ngoài ra lân trong đất còn tồn tại ở cơ thể sinh vật nhưng cây không thể hút trực
tiếp được, đến khi vi sinh vật chết đi và cơ thể của chúng bị khoáng hóa cây mới hút
được (Nguyễn Chí Thuộc và ctv., 1974). Theo Lê Văn Căn (1978) trong đất mùn, lân
hữu cơ dao động từ 0,81 – 2,45% phụ thuộc vào các loại đất khác nhau và điều kiện
sinh học hình thành nên loại đất đó. Trong các loại đất khoáng, tỷ lệ lân hữu cơ từ 25 –
65% và ở các chân đất nhẹ, đất bạc màu… có ít keo sét thì tỷ lệ lân thường thấp hơn
các chân đất khác.
Sau khi các chất hữu cơ trong đất được phân hủy thì chất hữu cơ mới được giải
phóng ra acid orthophosphoric và những muối dễ tan của nó. Nhưng những dạng này bị
hấp phụ bởi đất và sinh vật cho nên lân hòa tan trong đất rất ít. Nếu ta vùi chất hữu cơ
nghèo lân vào trong đất, sau khi bị khoáng hóa thì lân dễ tiêu trong đất không tăng mà
còn bị giảm xuống, khi chất hữu cơ vùi vào trong đất ít hơn 0,2 – 0,3% P2O5 thì khi
phân giải sẽ không có thêm chút lân dễ tiêu nào vì bị vi sinh vật hút hết (Nguyễn Chí
Thuộc và ctv., 1974).
v LÂN VÔ CƠ (lân khoáng)
Hợp chất vô cơ chứa lân chủ yếu là những muối của axit octophosphoric với Ca,
Mg, Fe và Al. Trong đất lân còn có trong thành phần của apatit, phôtphoric và vivianit,
cũng như trong trạng thái hấp phụ của anion phôtphat. Apatit là nguồn gốc đầu tiên của
tất cả các hợp chất lân trong đất. Nó chiếm tới 95% hợp chất lân trong vỏ trái đất. Các
hợp chất lân vô cơ trong đất phần lớn có tính di động kém (Trần Văn Chính và ctv.,
2006).
Hàm lượng lân vô cơ trong đất thường cao hơn lân hữu cơ, ngoại trừ trên các
loại đất hữu cơ, hàm lượng lân vô cơ gia tăng theo phẫu diện (Đỗ Thị Thanh Ren,
2004). Lân vô cơ chiếm khoảng 80% lân tổng số, bao gồm phosphate K, Na, NH4, Ca,
Mg, Fe, Al… đây là những sản phẩm do phong hóa đá mẹ, do phân giải chất hữu cơ

hoặc do sự chuyển biến phân lân từ ngoài vào. Dạng dễ tan là phosphate của cation hóa

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


×