Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Quản lý kinh tế về tình hình xuất nhập khẩu, lạm phát, tỷ giá của việt nam trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.36 KB, 16 trang )

Phân tích tình hình xuất nhập khẩu, lạm phát, tỷ giá của Việt
Nam trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2016.
Bài làm:
Kinh tế thế giới sau giai đoạn hậu khủng hoảng năm 2008
đã có những dấu hiệu phục hồi. Cầu thế giới đối với một số mặt
hàng trong đó có các mặt hàng của Việt Nam đã tăng trở lại. Thị
trường tài chính đã có những chuyển biến tích cực. Điều này đã
tác động tích cực đối với sản xuất trong nước, lạm phát và tỷ giá
giúp ổn định kinh tế vĩ mô trong những năm vừa qua.
1. Tổng quan tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 20122016:
Theo số liệu Tổng Cục thống kê công bố, tình hình xuất
nhập khẩu của nước ta trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm
2016 như sau:
Đơn vị tính: tỷ USD
Năm
2012
2013
2014
2015
2016

Xuất khẩu
114,529
132,033
150,217
162,016
176,581

Nhập khẩu
113,780
132,032


147,849
165,570
174,804

Cân đối
0,749
0,001
2,368
-3,554
1,777

Trong giai đoạn 2012-2016, cán cân thương mại được cải
thiện góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và là một trong
những tác nhân quan trọng giúp giảm áp lực tăng tỷ giá và cải
thiện cán cân tổng thể. Tuy nhiên, tỷ lệ nhập siêu giảm chủ yếu
do sự suy giảm của sản xuất trong nước (bao gồm giảm kim
ngạch nhập khẩu của các mặt hàng nguyên phụ liệu sản xuất,
máy móc, thiết bị, hàng tiêu dùng).
Về xuất khẩu: Giai đoạn 2012-2016, xuất khẩu hàng hóa
đã đạt tốc độ tăng trưởng cao, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng
GDP. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thế giới đã tăng hơn
gấp 3 lần trong 15 năm từ mức 0,25% năm 2001 lên tới 0,8%
năm 2016, đặc biệt là nhóm hàng nông sản Việt Nam, năm
2016 đã có thêm các mặt hàng mới như thanh long, xoài, vú
sữa, vải… được xuất sang các thị trường khó tính như Nhật Bản,
Mỹ, EU…Mặc dù tỷ trọng đóng góp còn ở mức thấp song điều
1



này cho thấy mức độ tham gia ngày càng sâu và rộng của Việt
Nam trong chuỗi giá trị thế giới, cải thiện đáng kể vị thế của
Việt Nam nói chung và hàng hóa Việt Nam nói riêng.
Về nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu trong tổng kim ngạch
xuất khẩu có xu hướng giảm dần, góp phần cải thiện cán cân
thương mại Việt Nam. Giai đoạn 2012-2016, nhập khẩu Việt
Nam trung bình tăng trên 14,36%/ năm, thấp hơn hẳn 2 giai
đoạn (2001-2010).
Tuy nhiên, giai đoạn 2012-2016, sự cải thiện cán cân
thương mại chưa thực sự bền vững, nguyên nhân là:
Xuất khẩu của khu vực FDI có xu hướng ngày càng lớn
trong cơ cấu xuất nhập khẩu cho thấy sự lấn át của khu vực FDI
cũng như những khó khăn và sự yếu thế của khu vực trong
nước.Từ năm 2000 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của khu vực
FDI liên tục tăng với tốc độ tăng trưởng cao, đặc biệt từ sau
năm 2008 đã góp phần củng cố vị thế của khu vực này trong
tổng xuất khẩu chung của Việt Nam. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân khiến cơ cấu nhập khẩu theo mặt hàng của
Việt Nam có những thay đổi, tỷ trọng nhập khẩu các nguyên
nhiên phụ liệu cho khu vực FDI liên tục tăng trong khi tỷ trọng
nhập khẩu hàng hóa cho khu vực trong nước liên tục giảm.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chủ yếu vẫn là các mặt hàng
có giá trị gia tăng thấp. Mặc dù tỷ trọng giá trị các mặt hàng
nông lâm thủy sản và công nghiệp nặng và khoáng sản có xu
hướng giảm trong khi tỷ trọng của các mặt hàng công nghiệp
nhẹ tăng, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều là các mặt hàng
gia công, sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày da, điện
thoại, máy tính… do đó giá trị tăng thêm thực tế đối với Việt
Nam ngày càng giảm.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu chậm thay đổi. Thị trường tiêu

thụ chính của Việt Nam vẫn là khu vực ASEAN, Mỹ, Nhật Bản và
Trung Quốc. Điều đó làm tăng sự phụ thuộc của Việt Nam vào
các quốc gia này, đặc biệt là Trung Quốc. Trong giai đoạn này,
tốc độ, tỷ lệ nhập siêu từ Trung Quốc trên tổng xuất khẩu của
Việt Nam sang Trung Quốc vẫn còn ở mức cao.
Tuy nhiên, nếu tính trung bình theo giai đoạn 5 năm có thể
thấy tỷ lệ này của giai đoạn 2012-2016 thấp hơn giai đoạn trước
2


đó 2006-2010 và cao hơn giai đoạn 2001-2005. Cụ thể, tỷ lệ
nhập siêu từ Trung Quốc trên tổng xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc giai đoạn 2012-2016 ước khoảng 161%, giai đoạn
2006-2010 là 190,41% và giai đoạn 2001-2005 là 52,69%.
2. Tổng quan tình hình lạm phát của Việt Nam giai
đoạn 2012-2016:
Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung
của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá
trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Lạm phát ảnh
hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt
trong trường hợp lạm phát cao hoặc siêu lạm phát và không dự
đoán được sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng đối với nền
kinh tế, cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối, làm cho hoạt
động của của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng,
nguồn thu ngân sách nhà nước giảm do sản xuất bị suy thoái…
chính vì vậy nhà nước phải áp dụng những biện pháp thích hợp
để kiềm chế và kiểm soát lạm phát.
Ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát là một trong
những mục tiêu quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia. Trong
giai đoạn 2012-2016 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều

hành chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ (CSTT),
phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa góp phần quan trọng
trong kiểm soát và đưa lạm phát ở mức cao 23% vào tháng
8/2011 xuống còn 6,81% năm 2012, 6,04% năm 2013, 1,84%
năm 2014 và 0,63% năm 2015, 4,74% năm 2016.
Giai đoạn 2012-2016 đánh dấu thời kỳ giữ lạm phát ổn
định ở mức thấp nhất trong hơn 10 năm qua. Lạm phát ổn định
ở mức thấp, ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững, thị trường
ngoại hối, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối tăng lên mức kỷ lục,
thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện vững chắc là
những yếu tố cơ bản được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc
tế sử dụng làm căn cứ để nâng hệ số tín nhiệm của Việt Nam.
Vào nửa cuối năm 2011, thanh khoản của hệ thống TCTD
thiếu hụt nghiêm trọng, lãi suất liên ngân hàng tăng cao, có
thời điểm lên đến 30%/năm, nguy cơ đổ vỡ hệ thống hiện hữu
có tình trạng các ngân hàng hạn chế cho vay lẫn nhau.
3


Trước tình hình trên, bên cạnh việc thực hiện các giải pháp
nhằm mục tiêu ưu tiên về kiềm chế lạm phát, để hỗ trợ thanh
khoản cho thị trường, giảm thiểu nguy cơ đổ vỡ hệ thống TCTD,
NHNN đã điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, thực hiện
tái cấp vốn kịp thời cho hệ thống TCTD, sẵn sàng hỗ trợ thanh
khoản cho các TCTD, đảm bảo an toàn hệ thống...
Với việc điều hành đồng bộ các công cụ CSTT, từ đầu năm
2012 đến nay, thanh khoản hệ thống đã được cải thiện và đảm
bảo nên nhu cầu vay vốn trên liên ngân hàng để cân đối vốn
không cao, do vậy không tạo sức ép tăng lãi suất liên ngân
hàng như thời gian trước đây. Lãi suất liên ngân hàng đã giảm

mạnh và dao động trong khoảng 2-5%/ năm; Tỷ lệ tín dụng/huy
động vốn bằng VND giảm từ trên 100% cuối năm 2011 xuống
còn khoảng 90% hiện nay.
3. Tổng quan tình hình tỷ giá của Việt Nam giai đoạn
2012-2016:
Bước sang năm 2012, NHNN tiếp tục đặt mục tiêu ổn định
tỉ giá trong biên độ tăng không quá 2-3%/năm và hạn chế tình
trạng đô la hóa nền kinh tế, NHNN đã ban hành Thông tư số
03/TT-NHNN ngày 08/3/2012 thu hẹp các trường hợp được vay
vốn bằng ngoại tệ. Theo đó, khách hàng chỉ được vay ngoại tệ
nếu có đủ nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh
để trả nợ vay, những trường hợp khác phải có sự chấp thuận
bằng văn bản của NHNN.
Đến cuối năm 2012, giá USD mua vào tại các NHTM giảm
trung bình 1% so với cuối năm 2011.
Sang năm 2013, NHNN tiếp tục duy trì mục tiêu tỷ giá
trong biên độ không quá 2-3% nhằm kiểm soát kỳ vọng về sự
mất giá của VNĐ. Tuy nhiên, tại một số thời điểm trong năm
2013, áp lực tỉ giá tăng nhẹ theo diễn biến trên thị trường tài
chính trong nước và quốc tế, một số NHTM đã nâng giá USD lên
kịch trần cho phép, thậm chí tăng giá mua bằng giá bán lên
kịch trần 21,036 VNĐ, giá bán USD trên thị trường tự do lên tới
21,320 VNĐ.
Để chấm dứt áp lực lên tỷ giá, ngày 27/6/2013, NHNN đã
điều chỉnh tăng tỉ giá bình quân liên ngân hàng thêm 1% lên
mức 21,036 VNĐ/USD, sau 1.5 năm ổn định ở mức 20,828 VNĐ.
4


Sau thời gian đó, nhu cầu USD tại các NHTM bắt đầu hạ nhiệt,

gây tác động lan tỏa sang thị trường tự do. Trong những ngày
cuối năm 2013, giá USD tại các NHTM quanh mức 21,140 VNĐ.
Trên thị trường tự do, giá USD phổ biến ở mức 21,180-21,200
VNĐ. Bên cạnh đó, tỉỷ lệ “đô la hóa” (tiền gửi ngoại tệ trong
tổng phương tiện thanh toán) giảm xuống 13.2% từ mức 15.8%
vào cuối năm 2011.
Đến năm 2014, NHNN đề ra mục tiêu tỷ giá trong biên độ
không quá ±2%.
Đây cũng là năm mà tín dụng VNĐ tăng chậm, theo đó,
NHNN đã nới lỏng đối tượng được vay ngoại tệ theo chủ trương
của Chính phủ, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên và khả năng
cân đối ngoại tệ của NHTM. Với lãi suất thấp hơn 4-5%/năm so
với vay vốn VNĐ, các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn tín
dụng giá rẻ.
Do tín dụng ngoại tệ tăng cao, giá mua bán USD được duy
trì ở mức cao, cùng với tâm lý kỳ vọng về khả năng NHNN sẽ
sớm điều chỉnh tăng tỷ giá sau những thông điệp của Thống đốc
và định hướng chính sách tỉ giá trong năm 2014, NHNN đã
quyết định nâng tỉ giá chính thức thêm 1% lên 21,246
VNĐ/USD, có hiệu lực từ ngày 19/6/2014. Đây là lần điều chỉnh
tỉ giá đầu tiên trong vòng một năm và là lần thứ 2 trong gần 3
năm 2011-2014.
Năm 2015, được coi là một năm đầy biến động, nhiều
thách thức trong chính sách tiền tệ và chính sách tỉ giá trước bối
cảnh USD liên tục lên giá do kỳ vọng Fed điều chỉnh tăng lãi
suất và Trung Quốc bất ngờ điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng Nhân
dân tệ, kéo theo làn sóng giảm giá mạnh của các đồng tiền của
các đối tác thương mại chính của Việt Nam.
Ở trong nước, việc huy động trái phiếu Chính phủ (TPCP)
để bù đắp thâm hụt ngân sách không thành công đã đẩy lãi

suất TPCP tăng cao, tạo áp lực kép lên thị trường tiền tệ. Dư
thừa thanh khoản trong ngắn hạn trong khi lãi suất tăng cao
trong dài hạn, qua đó gián tiếp cản trở mục tiêu tiếp tục giảm
lãi suất cho vay và ổn định tỷ giá.
Trước tình hình đó, ngay sau khi NH Trung ương Trung Quốc
phá giá đồng Nhân dân tệ vào ngày 11/8, ngày 12/8, NHNN đã
5


điều chỉnh biên độ tỉ giá giữa VNĐ và USD tăng từ +/-1% lên +/2%.
Tiếp đó, đón đầu các tác động bất lợi của khả năng Fed
tăng lãi suất và biến động của thị trường tài chính thế giới, ngày
19/8, NHNN đã điều chỉnh tỉ giá bình quân liên ngân hàng giữa
VNĐ và USD thêm 1%, đồng thời mở rộng biên độ tỉ giá từ +/2% lên +/-3%. Như vậy, tính chung trong năm 2015, NHNN thực
hiện điều chỉnh tăng tỉ giá 3% và nới biên độ thêm 2% từ mức
+/-1% lên +/-3%./.
Sau khi tăng 3% trong cả năm 2015, tỷ giá USD/VNĐ đã có
một năm 2016 được đánh giá khá ổn định, mặc dù thị trường tài
chính quốc tế đã biến động mạnh mẽ trong bối cảnh nhiều sự
kiện địa chính trị thay đổi, trong khi nền kinh tế trong nước cũng
trải qua một năm nhiều thăng trầm đáng chú ý.
Điểm đáng chú ý nhất trong năm 2016 là việc áp dụng cơ
chế tỷ giá trung tâm ngay từ đầu năm 2016đã góp phần ổn định
hóa thị trường ngoại hối trong năm vừa qua. Nhìn lại những năm
trước đây, VNĐ thường được neo chặt vào đồng USD trong suốt
một quãng thời gian cố định, rồi sau đó đột ngột bị phá giá
mạnh trước áp lực bị dồn nén suốt một giai đoạn, gây sốc cho
nền kinh tế và khiến các chỉ số vĩ mô trở nên bất ổn.
Nhận thấy những nhược điểm của cơ chế tỷ giá cố định, thì
từ đầu năm 2016 NHNN đã niêm yết tỷ giá trung tâm hàng ngày

để làm cơ sở tham khảo cho tỷ giá mua bán của các NHTM.
Theo NHNN thì tỷ giá trung tâm nói trên dựa trên 3 chỉ số chính
là sự biến động của một rổ các đồng tiền của các nước đối tác
kinh tế chủ chốt Việt Nam, chỉ số phản ánh cung cầu ngoại tệ
và các cân đối vĩ mô.
Như vậy, thay vì trước đây tỷ giá USD/VNĐ được điều chỉnh
dựa trên sự biến động và áp lực cung cầu của đồng USD trên thị
trường thì giờ đây NHNN đã dựa vào 8 đồng tiền của các nước
có quan hệ thương mại, vay, trả nợ và đầu tư lớn vào thị trường
Việt Nam để làm cơ sở, cụ thể là các đồng USD, EUR, nhân dân
tệ, yên nhật, đô la Singapore, đồng Won, đô la Đài Loan và đồng
bath Thái. Về biên độ giao dịch thì NHNN vẫn nhất quán duy trì
ở tỷ lệ 3% vốn được điều chỉnh tăng từ 2% lên từ ngày
19/08/2015 cho đến nay.
6


Với tỷ giá trung tâm được điều chỉnh linh hoạt mỗi buổi
sáng trước giờ giao dịch đã giúp cho sự biến động hàng ngày
không quá lớn và cũng không gây sốc cho doanh nghiệp, nhất
là những doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh sử dụng nhiều
ngoại tệ trong giao dịch thanh toán, vay mượn. Ngoài ra, sự
điều chỉnh linh hoạt ở đây là có tăng có giảm, tức đi theo xu
hướng thị trường cũng như xu hướng tăng giảm của các ngoại tệ
mạnh trên thế giới, thay vì chỉ đi theo mỗi chiều tăng lên như
giai đoạn trước đây.
Trong năm qua có những đợt tỷ giá USD/VNĐ biến động
mạnh khiến giao dịch mua bán tại các ngân hàng cũng như
ngoài thị trường tự do tăng mạnh với chênh lệch giá mua và bán
bị giãn rộng ra so với mức bình thường. Cụ thể, có 4 đợt là vào

tháng 5, giai đoạn nửa cuối tháng 8 đến nửa đầu tháng 9, giai
đoạn tháng 10 và giai đoạn từ ngày 09/11 đến đầu tháng 12.
Về phía cầu ngoại tệ, quyết định ngừng cho vay ngoại tệ
đối với DN xuất khẩu kể từ tháng 3/2016, rồi sau đó mở ra cho
vay lại từ tháng 6 đến hết năm 2016, tiếp đó lại cho phép gia
hạn đến hết năm 2017 khiến cầu ngoại tệ tăng giảm thất
thường trong năm. Hoạt động nhập khẩu cũng suy yếu,kim
ngạch nhập khẩu tăng chậm trước bối cảnh nền kinh tế tăng
trưởng chậm lại và giá cả hàng hóa trên thế giới đi xuống.
Bên cạnh đó, NHNN cũng khuyến khích các doanh nghiệp
sử dụng các công cụ phái sinh ngoại tệ nhằm phòng ngừa rủi ro
biến động tỷ giá. Trước đó ngay từ tháng 10/2015 NHNN cũng
đã ban hành thông tư số 15/2015/TT-NHNN về việc hướng dẫn
giao dịch ngoại tệ trên thị trường ngoại hối với các sản phẩm
mua bán kỳ hạn,giao dịch hoán đổi và các quyền chọn nhằm
ngăn chặn đầu cơ ngoại tệ hoặc nhu cầu tăng sốc trong cùng
thời điểm gây bất ổn lên thị trường.
Trong khi đó, nhu cầu đầu tư cũng như đầu cơ đồng bạc
xanh đã giảm nhiều so với trước đây khi việc nắm giữ USD chỉ
còn kỳ vọng ở sự lên giá chứ không còn được hưởng lãi suất khi
gửi ngân hàng, sau khi NHNN quyết định giảm trần lãi suất USD
về 0% từ 18/12/2015. Do đó, nhiều người đã quyết định chuyển
dịch từ nắm giữ USD chuyển sang VNĐ gửi ngân hàng, thể hiện
ở huy động vốn ngoại tệ của các ngân hàng giảm nhưng huy
7


động vốn VNĐ tăng mạnh và NHNN cũng mua vào được một
lượng ngoại tệ đáng kể trong năm nay.
4. Nguyên nhân và chính sách tác động:

Trong giai đoạn 2012-2016, nước ta có 4 năm xuất siêu.
Song về cơ bản tình hình xuất siêu chủ yếu do sự lớn mạnh của
khối doanh nghiệp FDI. Nó cho thấy sự lấn át của khối doanh
nghiệp này so với doanh nghiệp trong nước đối với thị trường
thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, các doanh nghiệp siêu nhỏ với năng lực sản xuất,
cạnh tranh thấp. Các tập đoàn nhà nước đang trong giai đoạn
tái cấu trúc, bộ máy quản lý cồng kềnh, hiệu quả hoạt động
chưa cao, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô, giá trị gia
tăng thấp.
Đặc biệt, năm 2015, nước ta nhập siêu 3,5 tỷ USD. Lý giải
về vấn đề này, Bộ Công Thương đưa ra một số nguyên nhân tác
động đến cán cân thương mại như sau:
Thứ nhất, Thặng dư cán cân thương mại thời gian qua chủ
yếu dựa vào đóng góp của khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
(FDI), trong khi cán cân thương mại của khối doanh nghiệp
trong nước vẫn nhập siêu (năm 2012 nhập siêu 11,6 tỷ USD,
năm 2013 là 13,7 tỷ USD và năm 2014 ước 16,9 tỷ USD).
Qua theo dõi những năm gần đây, tăng trưởng xuất khẩu
của khu vực FDI đang có xu hướng giảm dần (xuất khẩu của khu
vực FDI năm 2012 tăng 31%; năm 2013 tăng 22%; năm 2014
ước tăng 12,9%); do năng lực sản xuất của khối doanh nghiệp
này gần đạt đỉnh; công suất đã tới hạn, gần hết công suất thiết
kế.
Thứ hai, năm 2015, được đánh giá là năm sẽ mở ra nhiều
cơ hội thuận lợi cho sự phát triển xuất khẩu, nhập khẩu. Tuy
nhiên, trong giai đoạn đầu, xuất khẩu chưa có khả năng tăng
cao về lượng do nguồn hàng trong nước chưa đáp ứng cả về số
lượng và chất lượng để thâm nhập vào các thị trường có yêu
cầu cao về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm; nhóm

hàng nông sản, thủy sản, công nghiệp chế biến đã đến ngưỡng
về năng lực sản xuất nên tăng trưởng xuất khẩu đang có xu
hướng giảm; đồng thời là chủ trương giảm xuất khẩu khoáng
sản thô gồm dầu thô, quặng sắt....
8


Thứ ba, kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng tốt hơn,
các nhà đầu tư nước ngoài cũng chọn Việt Nam là điểm đến đầu
tư để đón bắt những cơ hội từ các Hiệp định sắp được ký kết,
dẫn đến tăng nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị để phục vụ
cho các dự án đầu tư mới.
Thứ tư, trong thời gian vừa qua, trước những bất ổn về
chính trị trong quan hệ với Trung Quốc, yêu cầu chúng ta phải
đa dạng hóa thị trường nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc
thiết bị; tăng nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu từ các thị trường
khác ngoài thị trường Trung Quốc, như:EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản…
những sản phẩm, hàng hóa này có chất lượng tốt hơn và giá
cũng cao hơn; làm cho tổng kim ngạch nhập khẩu tăng.
Thứ năm, trước triển vọng phát triển thị trường xuất khẩu
thông qua sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và hiệu quả
mang lại từ các FTA sắp ký kết là động lực để thúc đẩy phát
triển sản xuất, làm tăng nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị
cho đầu tư mới và nguyên, vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng
hóa tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Thứ sáu, năm 2015, một số nhà máy nhiệt điện sẽ hoàn
thành và đi vào hoạt động, những nhà máy này sẽ sử dụng một
phần than nhập khẩu; Bên cạnh đó, Nhà máy lọc dầu Dung
Quất cũng dự kiến nhập khẩu thêm dầu thô để phục vụ cho sản
xuất (dự kiến nhập khoảng 15% tổng nhu cầu).

Nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất kinh doanh
trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu, Chính phủ đã đề ra và
thực hiện các chính sách tài khóa, tiền tệ như sau:
Về chính sách tài khóa:
Giai đoạn 2012-2016, chính sách tài khóa đã được điều
chỉnh theo hướng thắt chặt chi tiêu, cơ cấu lại các khoản chi,
đặc biệt là chi đầu tư công. Trong khi đó, chính sách thuế được
thực hiện theo hướng miễn, giảm, gia hạn một số sắc thuế
nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị
trường. Chính sách tài khóa trong thời gian qua đã có tác động
tốt đến cân đối ngân sách nhà nước, đến đầu tư và khu vực sản
xuất kinh doanh nói chung và tình hình xuất nhập khẩu nói
riêng.
9


Thực hiện chủ trương thắt chặt chi tiêu công, giai đoạn
2012-2016, chi thường xuyên mặc dù vẫn có xu hướng tăng
nhưng được kiểm soát theo hướng không tăng chi cho các chính
sách mới mà chỉ tăng do tăng quy mô các khoản chi và tăng chi
nhằm đảm bảo an sinh xã hội trong bối cảnh nền kinh tế gặp
nhiều khó khăn.
Mặc dù tốc độ tăng chi NSNN giảm dần nhưng số liệu ngân
sách cho thấy, trong giai đoạn 2012-2016, quy mô thâm hụt
NSNN vẫn ngày càng lớn. Mặc dù năm 2013 và 2014 tốc độ
tăng bội chi giảm mạnh tương ứng xuống còn 9% và 18%,
nhưng do quy mô bội chi lớn nên mức bội chi của 2 năm này
vẫn chiếm đến 5,3% GDP. Năm 2015, căn cứ tình hình kinh tế vĩ
mô có dấu hiệu khả quan, Quốc hội đã thông qua dự toán ngân
sách năm 2015 với mức bội chi giảm xuống còn 5% GDP, tuy

nhiên vẫn vượt khá xa mục tiêu đặt ra trong Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2012-2016 và Chiến lược tài chính đến
năm 2020 là dưới 4,5% GDP (tính cả TPCP). Như vậy, mặc dù chi
NSNN đã từng bước được thắt chặt, tốc độ tăng chi giảm dần,
thậm chí quy mô chi đầu tư giảm cả về số tuyệt đối nhưng thâm
hụt ngân sách vẫn liên tục xảy ra và ở mức cao so với mục tiêu
đặt ra.
Chính sách tiền tệ giai đoạn 2012-2016:
Trong 5 năm qua, tác động của chính sách đã thể hiện tích
cực, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô nói chung, khu vực tài
chính nói riêng, được xã hội ghi nhận.
Thực trạng điều hành giai đoạn 2012-2016:
CSTT của NHNN trong 5 năm qua về cơ bản có thể được khái
quát ở những mặt sau:
Điều hành lãi suất linh hoạt, bám sát mục tiêu bao trùm
của CSTT, đảm bảo là công cụ để neo kỳ vọng lạm phát, ổn định
tỷ giá và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Một số thay đổi trong điều hành lãi suất những năm qua
luôn tuân thủ nguyên tắc không gây ra những cú sốc thị trường,
đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm
phát, tăng trưởng kinh tế. NHNN đã có những đánh giá, nhận
diện khá chính xác tình hình để có được hướng điều hành hợp lý
10


nhất. Khi mặt bằng lãi suất cho vay ở mức rất cao, có thời điểm
đã vượt 20%/năm, NHNN đã quyết định phải ổn định lại mặt
bằng lãi suất thông qua áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực
tiếp (quy định trần lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay).
Việc áp dụng trần lãi suất huy động đã giúp giảm động cơ cạnh

tranh không lành mạnh giữa các TCTD, hỗ trợ siết chặt kỷ luật
thị trường. Trong khi đó, việc quy định trần lãi suất cho vay, đặc
biệt đối với lĩnh vực ưu tiên, góp phần gia tăng cơ hội tiếp cận
vốn cho các doanh nghiệp.
Bên cạnh những ứng biến linh hoạt trong việc sử dụng
công cụ trần lãi suất, các mức lãi suất chính sách cũng có
những bước chuyển biến căn bản theo hướng chủ động, dẫn dắt
thị trường và được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát diễn
biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ trong từng thời kỳ. Điều này đã góp
phần quan trọng vào việc thực hiện thành công nhiệm vụ giảm
mặt bằng lãi suất để tháo gỡ khó khăn về chi phí vay vốn cho
doanh nghiệp, nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát được lạm phát, ổn
định thị trường tiền tệ.
Điều hành tỷ giá ổn định, hỗ trợ tích cực cho công tác kiểm
soát, kiềm chế lạm phát.
Hàng năm, NHNN đã chủ động công bố định hướng điều
hành tỷ giá giao động trong khoảng 1%-3% mỗi năm (mức điều
chỉnh không quá 1% trong các tháng cuối năm 2011, không quá
2%-3% trong năm 2012 và 2013; không quá 1%-2% trong năm
2014, không quá 2% trong năm 2015, không quá 1,2% trong
năm 2016) nhằm tăng cường tính minh bạch, định hướng thị
trường, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động
xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Tần suất điều chỉnh tỷ
giá cũng giảm dần so với giai đoạn trước. Sau lần điều chỉnh
tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng 9,3%/năm vào giữa tháng
2/2011 (trong bối cảnh thị trường ngoại tệ căng thẳng kéo dài
do tác động của giá vàng thế giới và lạm phát tăng cao), mỗi
năm tiếp theo tỷ giá được điều chỉnh tăng nhẹ qua các năm
(1%-2%/năm), ngoại trừ năm 2015 sau sự kiện phá giá đồng
Nhân dân tệ của Trung Quốc và kỳ vọng điều chỉnh tăng lãi

suất điều hành của Fed.

11


Trong quá trình điều hành, bên cạnh các biện pháp trực
tiếp như công bố tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng, các
kỹ thuật can thiệp thị trường, NHNN đã chủ động phối hợp đồng
bộ với các công cụ điều tiết tiền tệ để hạn chế tối đa các áp lực
tác động đến ổn định của tỷ giá. Theo đó, NHNN đã chú trọng
điều hành công cụ lãi suất, gồm cả lãi suất nội tệ và lãi suất
ngoại tệ phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô, đảm bảo lợi
ích nắm giữ đồng nội tệ, khuyến khích công chúng chuyển từ
nắm giữ USD sang VND.
Ngoài ra, NHNN cũng tích cực sử dụng công cụ nghiệp vụ
thị trường mở (OMO) trong việc điều tiết mức cung tiền một
cách nhịp nhàng để hỗ trợ và đảm bảo thanh khoản hợp lý,
nhằm hạn chế sự dịch chuyển của dòng tiền, đặc biệt vào thời
điểm tỷ giá có biến động và thanh khoản hệ thống dư thừa.
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động kinh
doanh và đầu tư vàng, tạo điều kiện cho thị trường hoạt động
thông suốtNHNN đã nỗ lực trong việc hoàn thiện hành lang
pháp lý điều tiết hoạt động kinh doanh và đầu tư vàng, trong đó
ghi dấu ấn quan trọng nhất là việc tham mưu cho Chính phủ
ban hành khuôn khổ pháp lý mới về quản lý hoạt động kinh
doanh vàng (Nghị định 24/2012/NĐ-CP, ngày 03/04/2012 để
thay thế Nghị định 174 về quản lý thị trường vàng). Nghị định
24 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý mới nhằm tổ chức, sắp xếp lại
thị trường vàng, giao cho NHNN cấp phép đối với hoạt động kinh
doanh mua, bán vàng miếng; tổ chức sản xuất vàng miếng; tổ

chức xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu vàng nguyên liệu
để sản xuất vàng miếng và tổ chức huy động và mua, bán vàng
miếng.
Những thay đổi về mặt pháp lý như trên đã đáp ứng sự
thay đổi của thực tiễn, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước,
hạn chế tác động bất lợi của hoạt động kinh doanh vàng đến
CSTT, tỷ giá, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và
đó cũng chính là bước tiến quan trọng trong lộ trình chống vàng
hóa trong nền kinh tế.
Trên cơ sở pháp lý mới ban hành, NHNN cũng đẩy nhanh
việc chuyển quan hệ huy động-cho vay vàng sang quan hệ
mua, bán vàng trên thị trường, đấu thầu vàng thông qua việc
12


chỉ đạo đẩy nhanh việc tất toán số dư huy động vàng và giảm
số dư cho vay vốn bằng vàng; giám sát chặt chẽ việc TCTD thực
hiện lộ trình tất toán số dư cho vay vốn bằng vàng. Nhờ vậy, thị
trường vàng ngày càng đi vào ổn định, tự điều tiết theo quy luật
cung cầu; không còn các “cơn sốt” vàng gây bất ổn kinh tế
ngay cả khi giá vàng thế giới có biến động, tình trạng “vàng
hóa” từng bước được ngăn chặn, qua đó góp phần ổn định thị
trường ngoại hối và kinh tế vĩ mô.
Đến tháng 4/2015, các TCTD đã giảm dần số dư cho vay
bằng vàng, dư nợ cho vay vàng của toàn hệ thống (giảm 90%
so với ngày 30/4/2012). Điều đó đã loại bỏ toàn bộ rủi ro liên
quan đến sự biến động giá vàng và chấm dứt tình trạng vàng
hóa trong hệ thống TCTD.
Chính sách tín dụng theo hướng tháo gỡ khó khăn cho khu
vực sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ đắc lực chuyển dịch cơ cấu và

chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Tỷ lệ lạm phát được kiềm chế, giảm đều và hiện đang ở mức
thấp
Tỷ lệ lạm phát sau khi tăng cao trong nửa đầu năm 2011
đã giảm xuống và diễn biến ổn định cho tới nay. Cụ thể, từ mức
đỉnh 18,13% năm 2011 xuống còn 6,81% năm 2012, 6,04%
năm 2013 và dưới 2% giai đoạn 2014-2015, riêng năm 2016 là
4,74%. Ngoài ra, tăng trưởng cung tiền và tín dụng kể từ năm
2012 đến nay không tạo áp lực tăng lạm phát như những thời
kỳ trước đó do đã được tập trung hướng vào các lĩnh vực sản
xuất trọng tâm của nền kinh tế.
Lãi suất nhanh chóng hạ nhiệt, hỗ trợ hợp lý cho khu vực
sản xuất
Tính cho đến thời điểm hiện tại, mặt bằng lãi suất cho vay
trung và dài hạn bằng khoảng 47% so với cuối năm 2011 và
tương đương mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006 (giai đoạn
kinh tế phát triển ổn định), góp phần hỗ trợ giảm chi phí vốn
vay của doanh nghiệp và hộ dân. Với những nỗ lực trong công
tác điều hành lãi suất, chỉ trong thời gian ngắn, lãi suất cho vay
đã giảm hơn một nửa, từ 20%/năm (thậm chí 24%/năm) xuống
chỉ còn 9%-11% và còn khoảng 6,5%/năm đối với các lĩnh vực
ưu tiên.
13


Bên cạnh các khoản vay mới với lãi suất thấp, NHNN cũng
yêu cầu các TCTD đưa lãi suất của các khoản vay cũ về mức
15%/năm và sau đó là 13%/năm, góp phần tháo gỡ khó khăn
cho doanh nghiệp và tạo điều kiện giải phóng kênh tín dụng.
Bên cạnh đó, lãi suất cho vay USD cũng được điều hành

giảm ổn định theo hướng không để tồn tại khoảng cách chênh
lệch đáng kể với lãi suất cho vay VND, hiện lãi suất cho vay USD
ngắn hạn ở mức 3%-5,5% và dài hạn từ 5,5%-6,7%.
Có thể nói, với mặt bằng lãi suất hiện nay đã góp phần làm
giảm giá thành sản phẩm, tăng thêm khả năng cạnh tranh cho
sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường và bước đầu đã
tháo gỡ hàng tồn kho để chuẩn bị chu kỳ sản xuất mới.
Tăng trưởng tín dụng hợp lý, đạt được mục tiêu điều hành,
phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm.
Nếu như trong năm 2011, NHNN phải nhanh chóng áp
dụng các chính sách chặt chẽ để kiềm chế tốc độ tăng trưởng
tín dụng ở mức cao trên 30% xuống còn trên 14% để hỗ trợ
công tác kiểm soát lạm phát, thì ngay trong năm 2012 khi tăng
trưởng tín dụng có dấu hiệu "ngưng trệ" ảnh hưởng tới tăng
trưởng kinh tế, NHNN đã nhanh chóng thay đổi mục tiêu điều
hành theo hướng tăng trưởng tín dụng nhưng thận trọng. Điều
này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, song phải theo
nguyên tắc đảm bảo chất lượng tín dụng, hạn chế phân bổ vốn
vào khu vực không khuyến khích có nguy cơ gây ra lạm phát
cao và tăng trưởng thiếu bền vững trong tương lai. Nhờ đó, tăng
trưởng tín dụng đã có sự phục hồi qua các năm, cụ thể: năm
2012 là 8,85%; năm 2013 là 12,51%; năm 2014 là 14,16%; 6
tháng đầu năm 2015 tăng 7,83%. Trong giai đoạn này, tín dụng
tăng bình quân khoảng 13%/năm, thấp hơn so với mức tăng
bình quân 33,3%/năm giai đoạn 2006-2010, nhưng tăng trưởng
kinh tế vẫn đạt mức hợp lý.
Ngoài ra, cơ cấu tín dụng có sự chuyển hướng tích cực
sang các lĩnh vực ưu tiên theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, tốc
độ tăng trưởng tín dụng trong các lĩnh vực ưu tiên trong giai
đoạn 2012–2015 nhìn chung cao hơn so với tốc độ tăng trưởng

chung của toàn ngành, như: nông nghiệp nông thôn có tốc độ
tăng trưởng bình quân tín dụng giai đoạn 2011–2014 đạt
14


15%/năm; Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tăng trên
20%/năm; Công nghiệp ưu tiên phát triển tốc độ, tăng xấp xỉ
12%. Sự chuyển hướng tích cực của cơ cấu tín dụng như vậy đã
góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu đổi mới mô
hình tăng trưởng kinh tế .
Tỷ giá và thị trường ngoại hối ổn định góp phần cải thiện cán
cân thanh toán tổng thể, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, nâng
cao vị thế đồng tiền Việt Nam, hỗ trợ tích cực cho lộ trình chống
đô la hóa
Nhu cầu ngoại tệ hợp lý, hợp pháp của doanh nghiệp và cá
nhân được các TCTD đáp ứng đầy đủ do các nguồn ngoại tệ
được tập trung vào hệ thống các TCTD. Nếu như trước đây tỷ giá
thường xuyên biến động, ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của
các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thì từ cuối năm 2011 đến
nay, điều hành tỷ giá đã luôn nằm trong định hướng chỉ đạo của
NHNN. Chênh lệch tỷ giá của thị chính thức và thị trường tự do
thu hẹp đáng kể. Trong diễn biến của thị trường, những xáo trộn
xuất hiện chủ yếu do yếu tố tâm lý và đã nhanh chóng ổn định
sau các biện pháp đồng bộ của NHNN, vị thế và lòng tin vào
đồng Việt Nam ngày càng được củng cố.
Đáng kể là tình trạng đô la hóa đã giảm mạnh, tỷ lệ giữa
tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán giảm từ trên 30%
trong những năm 1990 xuống 15,8% cuối năm 2011, đến nay
còn khoảng 12%; Cán cân thanh toán tổng thể, đặc biệt là các
cân thương mại đã thặng dư trở lại sau nhiều năm nhập siêu;

Lượng kiều hối gia tăng mạnh trở lại từ cuối năm 2011; Dự trữ
ngoại hối nhà nước gia tăng; NHNN đã mua được một lượng lớn
ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, góp phần tăng tiềm
lực tài chính và uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Bên
cạnh đó, diễn biến lạm phát có xu hướng giảm tốc đã giúp ổn
định tâm lý thị trường, kỳ vọng về sự giảm giá VND được hạn
chế, khắc phục phần nào hiện tượng găm giữ đầu cơ ngoại tệ
trong giai đoạn trước.
Những kết quả từ điều hành của NHNN trong 5 năm qua là
rất tích cực. Song trong giai đoạn tới, diễn biến của kinh tế quốc
tế và trong nước còn chưa ổn định, được dự báo sẽ phức tạp
hơn và rất khó lường. Chính Phủ cùng với các Bộ, Ban, ngành
15


cần có các nghiên cứu dự báo, trên cơ sở đó đề ra và thực hiện
các chính sách tài khóa và tiền tệ phù hợp, kịp thời đã thúc đẩy
sản xuất kinh doanh, ổn định lạm phát, tỷ giá…góp phần ổn
định kinh tế vĩ mô trong những năm qua.

16



×