Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

RAU AN TOÀN kỹ thuật trồng ớt, gừng,bí đỏ an toàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.83 KB, 32 trang )

RAU AN TOÀN
Khái niệm về rau an toàn
Những sản phẩm rau tươi (bao gồm tất cả các loại rau ăn củ, thân, lá, hoa quả có chất lượng
đúng như đặt tính giống của nó, hàm lượng các hoá chất độc và mức độ nhiễm các sinh vật
gây hại ở dưới mức tiêu chuẩn cho phép, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng và môi
trường, thì được coi là rau đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, gọi tắt là "rau an toàn".
Các yêu cầu chất lượng của rau an toàn
Chỉ tiêu về nội chất
Chỉ tiêu nội chất được quy định cho rau tươi bao gồm:
Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Hàm lượng nitrat (NO3).(ớt ngọt 200 mg/kg, ớt cay 400 mg/kg – CH Liên bang Nga)
Hàm lượng một sốm kim loại nặng chủ yếu: Cu, Pb, Hg, Cd, As,...
Mức độ nhiễm các vi sinh vật gây bệnh (E. coli, Samonella ...) và kí sinh trùng đường ruột
(trứng giun đũa Ascaris)
Tất cả các chi tiêu trong sản phẩm của từng loại rau phải được dưới mức cho phép theo tiêu
chuẩn của Tổ chức Quốc tế FAO/WHO hoặc của một số nước tiên tiến: Nga, Mỹ ... trong khi
chờ Việt Nam chính thức công bố tiêu chuẩn về các lĩnh vực này
Chỉ tiêu về hình thái
Sản phẩm được thu hoạch đúng lúc, đúng yêu cầu từng loại rau (đúng độ già kỹ thuật hay
thương phẩm); không dập nát, hư thối, không lẫn tạp chất, sâu bệnh và có bao gói thích hợp.
Điều kiện sản xuất rau an toàn
Những quy định chung:
Sản xuất các loại "rau an toàn" , khi thực hiện phải vận dụng cụ thể cho từng loại rau, từng
điều kiện thực tế của từng địa phương. Nếu thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những điều kiện
sau đây thì bảo đảm các yêu cầu về "rau an toàn" như đã nêu trên.
Đất trồng:
Đất để sản xuất "rau an toàn", không trực tiếp chịu ảnh hưởng xấu của các chất thải công
nghiệp, giao thông khu dân cư tập trung, bệnh viện, nghĩa trang, không nhiễm các hóa chất
độc hại cho người và môi trường.
Phân bón:



Chỉ dùng phân hữu cơ như phân xanh, phân chuồng đã được ủ hoai mục, tuyệt đối không
dùng các loại phân hữu cơ còn tươi (phân bắc, phân chuồng, phân rác ...). Sử dụng hợp lý và
cân đối các loại phân (hữu cơ, vô cơ ...). Số lượng phân dựa trên tiêu chuẩn cụ thể quy định
trong các quy trình của từng loại rau, đặc biệt đối với rau an lá phải kết thúc bón trước khi thu
hoạch sản phẩm 15 - 20 ngày. Có thể dùng bổ sung phân bón lá (có trong danh mục được
phép sử dụng ở Việt Nam) và phải theo đúng hướng dẫn. Hạn chế tối đa sử dụng các chất
kích thích và điều hòa sinh trưởng cây trồng.
Nước tưới:
Chỉ dùng nước giếng khoan, nước từ các sông suối hồ lớn ... không bị ô nhiểm các chất độc
hại. Tuyệt đối không dùng trực tiếp nước thải từ công nghiệp, thành phố bệnh viện, khu dân
cư nước ao, mương tù đọng.
Phòng trừ sâu bệnh:
Phải áp dung phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp trên nguyên tắc hạn chế thấp nhất sự
thiệt hại do sâu bệnh gây ra; có hiệu quả kinh tế cao, ít độc hại cho người và môi trường. do
đó cần chú ý các biện pháp chính sau:
* Giống: Phải chọn giống tốt, các cây con giống cần được xử lý sạch sâu bệnh trước khi xuất
ra khỏi vườn ươm.
* Biện pháp canh tác: Cần tận dụng triệt để các biện pháp canh tác để góp phần hạn chế thấp
nhất các điều kiện và nguồn phát sinh các loại dịch hại trên rau. Chú ý thực hiên chế độ luân
canh: lúa - rau hoặc xen canh giữa các loại rau khác họ với nhau: Bắp cải, su hào, suplơ với
cà chua để giảm bớt sâu tơ và một số sâu hại khác.
* Dùng thuốc: Chỉ dùng thuốc khi thật cần thiết. Phải có sự điều tra phát hiện sâu bệnh,
hướng dẫn dùng thuốc của cán bộ kỹ thuật. Tuyệt đối không dùng thuốc trong danh mục cấm
và hạn chế sử dụng ở Việt Nam. Hoạc hạn chế tối đa sử dụng các loại thuốc có độ độc cao
(thuộc nhóm độc I và II), thuốc chậm phân hủy thuộc nhóm Clor và lân hữu cơ. Triệt để sử
dụng các loại thuốc sinh học, thuốc thảo mộc, thuốc có độc thấp (thuộc nhóm độc III trở lên),
thuốc chóng phân hủy, ít ảnh hưởng các loài sinh vật có ích trên ruộng.
Cần sử dụng luân phiên các loại thuốc khác nhau để tránh sâu nhanh quen thuốc. Bảo đảm
thời gian cách ly trước khi thu hoạch đúng hướng dẫn trên nhãn của từng loại thuốc. Tuyệt

đối không sử dụng đạm ủ rau tươi (xử lý sản phẩm đã thu hoạch) bằng các hoá chất BVTV.
QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG RAU
-----------------ThS. Trần Thị Ba
Bộ môn Khoa Học Cây Trồng
Khoa Nông Nghiệp & Sinh học ứng dụng, Trường ĐHCT
1. SỬA SOẠN ĐẤT
1.1. Chọn đất


Đất phải thích hợp cho yêu cầu của từng loại rau: Đất pha cát, phù sa ven sông, đất thịt hay
đất sét pha. Khu trồng rau phải gần nguồn nước, nguồn phân. Khu trồng rau phải thuận tiện
cho giao thông phân phối.
1.2. Cày, bừa, phơi đất
Cày sâu để tăng chiều dầy tầng canh tác, phá vỡ lớp đất đế cày.
Phơi ải thường được áp dụng trước khi sửa soạn đất để diệt cỏ dại, mầm bệnh trong đất, làm
đất khô ráo, thoáng khí, dễ làm đất hơn.
1.3. Lên liếp
Sau khi cày bừa, làm cỏ, cần tiến hành lên liếp tạo điều kiện cho rễ phát triển tốt, đất được
thoát nước và khâu chăm sóc được dễ dàng.
Để rau có điều kiện hứng đủ ánh sáng cần chú ý hướng liếp. Hướng Đông Tây cho cây đủ
ánh sáng nhất.
1.4. Đậy liếp bằng màng phủ nông nghiệp
Màng phủ nông nghiệp còn gọi là "màng bạt" hay "thảm", là một loại nhựa dẻo, mỏng
chuyên dùng để phủ liếp trồng rau.
Mục đích: Hạn chế côn trùng gây hại, hạn chế bệnh hại, ngăn ngừa cỏ dại, điều hòa độ ẩm và
giữm cấu trúc mặt đất, giữ phân bón, tăng nhiệt độ đất, hạn chế độ phèn, mặn, tăng giá trị
trái.
Trồng rau sử dụng màng phủ nông nghiệp có thể khắc phục được một phần yếu tố bất lợi của
môi trường, cải thiện phương pháp canh tác cổ truyền theo hướng công nghiệp hóa, mang lại
hiệu quả kinh tế cao cho nông dân.

Cách sử dụng màng phủ nông nghiệp trên một số loại rau có thời gian sinh trưởng dài.
Chuẩn bị trước khi trồng:
- Lên liếp: Lên liếp cao 20 - 40 cm tùy mùa vụ, mặt liếp phải bằng phẳng.
- Rải phân lót: Toàn bộ vôi, phân chuồng và 1/4 lượng phân hóa học rài, trộn đều trên mặt
liếp. Trồng bằng màng phủ nên bón lượng phân lót nhiều hơn trồng phủ rơm bởi vỉ phân bón
được giữ bên trong màng phủ ít bị thất thoát...
- Đậy màng phủ: Tưới ướt mặt liếp trồng khi đậy màng phủ.
- Đục lỗ màng phủ: Dùng lon sửa bò đường kính 10 cm.
- Xử lý mầm bệnh: Phun thuốc trừ nấm bệnh vào lỗ trước khi đặt cây con.
2. XỬ LÝ HẠT GIỐNG TRƯỚC KHI GIEO
2.1. Xử lý hột giống:
Đề nghị phòng bệnh do nấm khuấn có sẳn trong hạt hoặc tấn công cây con lúc mới gieo.


2.2. Cách gieo hột:
- Gieo hột thẳng:
*Ưu điểm: Gieo thẳng rễ mọc sâu, cây sinh trưởng rất mạnh không bị mất sức.
* Khuyết điểm: Khó chăm sóc gặp mưa to cây hư nhiều.
- Gieo trong bầu:
* Ưu điểm: Gieo trong bầu cây sinh trưởng đều ít hao cây con.
* Khuyết điểm: Tốn công làm bầu, rễ không phát triển sâu.
3. CHĂM SÓC:
Xới đất để diệt cỏ, cải thiện thành phần không khí trong đất và giữ ẩm độ đất.
Vun đất làm thêm phần xốp vào nơi gốc cây, giúp cây khỏi ngã khi có gió to và tăng cường
khả năng tiếp xúc của bộ rễ với đất, tạo điều kiện cho rễ bất định trên gốc thân phát triển.
Tủ đất giúp giảm sự bốc thoát hơi nước từ đất.
4. BÓN PHÂN:
Có nhiều cách bón phân:
- Vãi phân và cày lấp đất chôn phân trước khi gieo trồng
- Bón phân vào rãnh ở một bên hay cả 2 bên hàng cây.

- Trộn đều phân vào đất trong rãnh khi gieo, lấp đất và gieo hạt lên trên.
- Rãi trên mặt hoặc giữa hàng cây các loại phân NPK dễ tiêu, có hiệu nhanh khi cây lớn.
5. TƯỚI NƯỚC:
Là một trong những biện pháp chủ yếu đảm bảo năng suất cao mà không lệ thuộc vào điều
kiện thời tiết. Phương pháp tưới được sử dụng phổ biến:Tưới thùng, gàu, tưới rãnh.
6. PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH
6.1. Phương pháp canh tác
- Khử giống.
- Cải thiện điều kiện môi trường.
- Điều chỉnh nước tưới và thoát nước hợp lý, tạo ẩm độ đất và không khí thích hợp cho sự
phát triển của cây và không thuận hợp cho vi sinh vật.


- Bón phân thay đổi pH và nnồng độ các chất dinh dưỡng trong đất cũng có thể ngăn ngừa
một số bệnh do vi sinh vật trong đất gây ra.
- Luân canh và xen canh.
6.2. Phương pháp sinh học:
- Sử dụng giống kháng.
- Biện pháp sử dụng thiên địch thiên nhiên.
6.3. Phương pháp hoá học:
Việc áp dụng biện pháp hóa học có ý nghĩa tích cực nhất trong viêc bảo vệ rau phòng tri dịch
hại vì thuốc tác dụng phòng trị dịch nhanh.
Sử dụng thuốc hóa học phòng trị côn trùng thường đưa đến việc làm ô nhiểm môi trường và
sản phẩm rau thu hoạch và diệt côn trùng có ích, do đó chỉ trong trường hợp rất cần thiết hãy
sử dụng. Nếu có thể nên giảm đến mức tối thiểu việc sử dụng thuốc hóa học hoặc sử dụng kết
hợp với các phương pháp khác.
7. THU HOẠCH
- Chín kỹ thuật, chín nông học hay chín thu hoạch là thời điểm sản phẩm có thể sử dụng làm
thực phẩm, dự trữ, chuyên chở hay chế biến.
KỸ THUẬT SỬ DỤNG MÀNG PHỦ NÔNG NGHIỆP TRỒNG MỘT SỐ LOẠI RAU

-------------------------------------ThS. Trần Thị Ba
Bộ môn Khoa Học Cây Trồng
Khoa Nông Nghiệp & Sinh học ứng dụng, Trường ĐHCT
I. GIỚI THIỆU
Đậy liếp bằng màng phủ nông nghiệp là phương pháp canh tác phổ biến trong sản xuất rau ở
nhiều quốc gia trên thế giới như ở Mỹ, Hàn Quốc, Do Thái, Nhật Bản, Thái Lan, Indonesia,
Đài Loan, Malaysia, v.v... trong hơn 10 năm qua. Ở Việt Nam, trường Đại Học Cần Thơ đã
bắt đầu nghiên cứu sử dụng màng phủ nông nghiệp từ 1992, nhưng tập trung nhất 1997-2000.
Hiện nay, đồng bằng sông Cửu Long có hơn 1.000 ha rau được trồng với màng phủ nông
nghiệp. Trong đó tỉnh An Giang đang sử dụng màng phủ hơn 400 ha chủ lực là trồng dưa leo
tập trung tại huyện Chợ Mới; tại Tiền Giang, huyện Gò Công Tây khoảng 300 ha chuyên
trồng cây dưa hấu. Hầu hết các tỉnh khác đều có sử dụng màng phủ trồng nhiều loại rau khác
nhau, nhưng diện tích còn nhỏ chừng vài chục đến 100 ha. Nhu cầu sử dụng màng phủ trong
nước ngày càng tăng rõ rệt trong năm vừa qua.
Màng phủ nông nghiệp còn gọi là "màng bạt" hay "thảm", là một loại nhựa dẻo, mỏng,
chuyên dùng để phủ liếp trồng. Hiện nay trên thị trường Việt Nam chỉ có một loại màng phủ


là mặt trên có màu xám bạc và mặt dưới màu đen. Màng phủ Việt Nam do Công ty Bao Bì
Sài Gòn (SAPACO) sản xuất đầu tiên từ năm 1994 có chất lượng tốt, ổn định được tiêu thụ
mạnh nhất; ngoài ra còn có màng phủ của công ty Bioted; công ty giống Cây Trồng Miền
Nam và màng nhập từ Malaysia.
Kích cỡ màng phủ có 5 loại, khác nhau về độ rộng của bề khổ: rộng 0,9 m; 1 m; 1,2 m; 1,4 m
và 1,6 m; chiều dài mỗi cuồn đều bằng nhau là 400 m; thời gian sử dụng từ 1-4 vụ dưa leo
hoặc 6-10 tháng ngoài đồng tuỳ theo chất lượng màng phủ và cách bảo quản.
Sử dụng màng phủ nông nghiệp nhằm mục đích tăng hiệu quả kinh tế một cách ổn định cho
người trồng rau.
II. THUẬN LỢI VÀ BẤT LỢI CỦA MÀNG PHỦ NÔNG NGHIỆP
* Thuận lợi: Những kết quả nghiên cứu sử dụng màng phủ để trồng rau trên thế giới và
Trường Đại Học Cần Thơ đã cho thấy có nhiều thuận lợi:

1. Hạn chế côn trùng gây hại:
Màu xám bạc của màng phủ có tác dụng phản chiếu ánh sáng mặt trời nên cung cấp thêm ánh
sáng và xua đuổi rầy mềm, bù lạch (côn trùng môi giới truyền bệnh siêu vi khuẩn gây xoăn
đọt), bọ rầy dưa. Ngoài ra còn giảm ấu trùng bọ rầy dưa cắn phá rễ cây dưa; giảm sâu ăn tạp,
sâu trưởng thành lẫn trốn dưới đất lên cắn phá cây rau vào ban đêm. Vì vậy sử dụng màng
phủ giảm số lần phun xịt thuốc sâu trên rau đặc biệt là giai đoạn cây con (20 ngày sau khi
trồng). Hiệu quả giảm sự tấn công của côn trùng gây hại cũng giảm khi tán lá cây càng lớn.
2. Hạn chế bệnh hại:
Màng phủ cách ly mầm bệnh tấn công từ đất hay từ rơm lên cây, bề mặt màng phủ khô nhanh
sau khi mưa, bộ lá chân luôn khô ráo, không thuận lợi cho nấm bệnh phát triển nên giảm
được bệnh do nấm Rhizoctonia, Sclerotium trên gốc thân, giảm bệnh đốm phấn, thán thư trên
bộ lá dưa leo.
3. Hạn chế cỏ dại:
Màng phủ có một mặt đen ngăn cản ánh sáng mặt trời, làm hạt cỏ bị chết trong màng phủ,
không cần làm cỏ trên mặt liếp trong suốt thời gian cây rau ở ngoài đồng. Cỏ dại không
những cạnh tranh dinh dưỡng với rau mà còn là nơi trú ngụ của côn trùng gây hại, làm cỏ
không những tốn chi phí mà còn làm làm động rễ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây rau.
4. Điều hoà độ ẩm mặt đất và giữ cấu trúc dất:
Mùa nắng mặt đất có màng phủ ngăn cản sự bốc hơi, giữ độ ẩm tốt, đỡ công tưới nước. Mùa
mưa, lượng nước mưa không trực tiếp rơi trên mặt liếp nên rễ cây không bị úng nước, mặt
liếp không bị xói mòn, không lèn mặt, đất giữ cấu trúc tơi xốp và độ ẩm ổn định trong suốt
mùa vụ nên bộ rễ phát triển tối đa, rộng khắp mặt liếp.
5. Giữ phân bón:


Màng phủ ngăn cản sự bốc hơi của phân đạm (Urea), làm giảm sự thẩm lậu và rửa trôi của
phân bón khi tưới nước hoặc mưa to. Sự hấp thu các chất dinh dưỡng N, P, K, Ca, Mg từ bộ
rễ cây trồng có sử dụng màng phủ cao hơn 1,4-1,5 lần so với mặt đất trần (không phủ); phân
bón sử dụng cho rau hữu hiệu hơn.
6. Hạn chế độ phèn, mặn:

Đất nhiễm phèn, mặn có sử dụng màng phủ sẽ hạn chế bớt vì màng phủ làm giảm sự bốc hơi
qua mặt đất nên phèn, mặn được giữ ở tầng đất sâu, giúp bộ rễ hoạt động tốt hơn, năng suất
cây trồng tăng cao hơn.
7. Tăng nhiệt độ đất:
Màng phủ giữ ấm mặt đất vào ban đêm, đặc biệt là trong mùa lạnh hoặc khi mưa dầm thiếu
nắng mặt đất bị lạnh, bộ rễ phát triển kém; màng phủ giúp duy trì nhiệt độ đất, bộ rễ phát
triển tổn định, cây tăng trưởng khoẻ.
8. Hạn chế chuột:
Bề mặt màng phủ trơn, láng không thuận lợi cho chuột bò vào nên sản phẩm rau ít bị hại ở
giai đoạn thu họach trái như cà chua, ớt, dưa leo và đậu cove nếu như trồng có làm giàn cao
ráo. Có thể dùng màng phủ thay thế cao su bao quanh ruộng lúa, ruộng rau tránh chuột vì rẽ
tiền hơn cao su thường dùng.
9. Tăng giá trị sản phẩm:
Vì màng phủ cung cấp thêm ánh sáng cho cây, giúp màu sắc vỏ trái đẹp, trái không tiếp xúc
với mặt đất nên sạch sẽ, bán cao giá hơn và tỉ lệ trái loại bỏ cũng ít.
Nói chung, màng phủ nông nghiệp làm thay đổi tiểu khí hậu dưới tán cây, tạo điều kiện thuận
lợi cho cây phát triển, cây khoẻ mạnh ngay từ lúc nhỏ. Có thể nói màng phủ là tấm lá chắn sự
tấn công của dịch hại trên cây rau.
* Bất lợi:
1. Màng phủ được làm bằng nhựa khó phân hủy trong điều kiện tự nhiên, do đó sau khi sử
dụng xong cần thu gom tàn dư màng phủ tập trung lại đốt hoặc tìm chổ chôn sâu. Nếu vứt
bừa bãi, màng phủ lưu tồn lâu ngày trong đất dễ gây ô nhiễm môi trường.
2. Giá màng phủ cao, đầu tư ban đầu nhiều, nông dân nghèo gặp khó khăn mặc dù lợi nhuận
đem lợi khá hấp dẫn.
III. HIỆU QUẢ CỦA MÀNG PHỦ NÔNG NGHIỆP
Những kết quả nghiên cứu sử dụng màng phủ để trồng rau (dưa leo, cà chua, ớt, khổ qua, đậu
que, ...) của Bộ Môn Khoa Học Cây Trồng, Khoa Nông Nghiệp, Trường Đại Học Cần Thơ
1997-2000 đã cho thấy:
Trồng rau sử dụng màng phủ nông nghiệp:



- Năng suất rau bình quân quanh năm cao hơn phương pháp canh tác truyền thống (phủ rơm
hoặc không phủ) từ 10 - 30% trong điều kiện canh tác bình thường, tuy nhiên ở những vùng
đất có nhiều khó khăn như tỉ lệ cát cao, nưới tưới khan hiếm (nước mặn) như huyện Thạnh
Trị, vùng ven biển huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng... năng suất có thể cao hơn 50-100%. Rõ
ràng màng phủ khắc phục được một phần yếu tố bất lợi của môi trường
- Tiền lời tăng cũng khoảng 20-30% so với phủ rơm (tương ứng với phần năng suất tăng) sau
khi đã trừ hết các chi phí đầu tư kể cả chi phí màng phủ. Bởi vì sử dụng màng phủ giảm chi
phí làm cỏ, thuốc trừ sâu bệnh và phân bón.
- Cải thiện phương pháp canh tác cổ truyền (phủ rơm), giúp nông dân đở cực khổ hơn trong
việc chăm sóc hàng ngày (như tưới nước, làm cỏ, phun thuốc sâu). Kỹ thuật mới tương đối
đơn giản, người dân có thể thực hiện được trên đất chuyên rẫy hoặc đất trồng lúa để trồng rau
quanh năm.
- Làm thay đổi bộ mặt nông thôn, sản xuất theo hướng công nghiệp hoá và đời sống người
nông dân từng bước được nâng cao bởi thu nhập khá hơn.
IV. KỸ THUẬT SỬ DỤNG MÀNG PHỦ NÔNG NGHIỆP TRỒNG RAU
1. Chuẩn bị trước khi trồng:
- Lên liếp: Rất cần thiết vì có lên liếp thì bộ rễ cây mới phát triển tốt, tưới nước được dễ
dàng. Liếp cao trung bình 15-40 cm tuỳ theo mùa, mùa nắng lên liếp thấp, mưa lên liếp cao.
Thông thường liếp đơn rộng 0,7 - 1,0 m trồng 1 hàng rau như ớt, cà phổi, cà chua, dưa leo,
khổ qua; sử dụng màng phủ khổ 0,9 m hoặc 1 m. Nhưng trồng dưa hấu, bí đỏ, bí đao, bầu,
mướp... nên dùng khổ 1,2 m trồng 1 hàng trên liếp; lên liếp rộng 1 - 1,2 m vì bộ rễ chúng phát
triển rất rộng.
Nếu trồng hàng đôi (2 hàng/liếp) đối với cà phổi, cà chua, ớt, dưa leo,đậu đũa, đậu cove...
dùng màng phủ khổ 1,2 - 1,4 m. Trên đất ruộng, trồng hàng đôi có thể lên liếp rộng 1,2 - 1,5
m trồng 2 hàng dưa leo, nhưng dùng 2 màng phủ (khổ 1 m) đậy song song theo chiều dài liếp,
chừa rảnh giữa rộng khoảng 10 cm và sâu 10 cm để đi lại và tưới thêm lúc thu hoạch trái rộ
sẽ cho năng suất tăng đáng kể.
Những nông dân trồng rau có kinh nghiệm sử dụng màng phủ nông nghiệp thích dùng màng
phủ khổ rộng hơn mặt liếp, trùm kín chân liếp vì khỏi phải làm cỏ xung quanh mé liếp và giữ

độ ẩm tốt hơn.
- Rãi phân lót: Gồm toàn bộ vôi, phân chuồng và khoảng 1/4-1/3 tổng lượng phân hoá học.
Bón bằng cách rãi phân trên toàn bộ mặt liếp, rồi xới trộn đều. Nên bón lót lượng phân nhiều
hơn trồng phủ rơm vì phân bón nằm dưới màng phủ ít bị mất mác và khi đã đậy màng phủ
khó giở ra để bón phân.
- Cách phủ màng phủ: Trong mùa nắng, sau khi phơi đất, lên liếp, bón phân lót nên tưới nước
trên mặt liếp trước khi đậy màng phủ, đặc biệt ngay hàng sẽ trồng cây. Mùa mưa, không phơi
đất được sau khi cuốc lên liếp, bón phân lót (có thể bồi bùn như ở huyện Gò Công Tây, Tiền
Giang để vài ngày cho đất ráo, mặt đất hơi răn nứt) rồi đậy màng phủ.


Cần 2 người thực hiện thao tác đậy màng phủ, dùng cây tròn đường kính 3-5 cm xỏ xuyên
qua lõi cuồn màng phủ, một người cố định ở một đầu liếp và một người khác kéo màng phủ
theo chiều dài liếp, đến cuối liếp rồi cắt ngang. Nên phủ kín cả hai bên chân liếp để tránh cỏ
mọc và giữ bộ rễ được tốt, trên nền đất lúa giữ mực nước cách mặt liếp 25-30 cm.
Cố định màng phủ tránh gió tốc bằng cách dùng dây chì bẻ hình chữ U mỗi cạnh khoảng 10
cm ghim hai bên mé màng phủ (dây chì sử dụng được nhiều năm) hoặc dùng tre chẻ lạc ghim
mé liếp (trên đất có nhiều sét, mềm và dẽo), cũng có thể lắp đất tấn xung quanh mé liếp. Trên
nền đất lúa, đa số bà con trồng dưa hấu ở Tiền Giang dùng dây ni long cột mỗi đầu dây một
đoạn cây dài khoảng 15 cm, chiều dài dây bằng độ rộng của màng phủ, giăng dây ngang mặt
màng phủ khoảng cách 1,2-1,5m một dây. Cách này dễ vén lên để tưới nước hoặc bón phân
sau này, nhưng dễ bị gió lùa vén màng phủ dồn lên trên mặt liếp lúc cây mới trồng.
- Đục lổ màng phủ: Dùng lon sữa bò, có khoét lổ thông gió xung quanh chân lon, làm cán để
cầm, cột dây chì vòng miệng lon chừa râu dài 50 - 70 cm để đo khoảng cách, đốt than nóng
cho vào trong lon. Cách này thao tác đục lổ rất nhanh và đều mà không cần làm dấu vị trí lổ
đục trước đó (1.000m2 đục lổ trong 30 phút), thực hiện dễ dàng trong mùa nắng. Còn trong
mùa mưa, mặt màng phủ ướt việc đục lổ bằng than nóng khó thực hiện hơn, nên dùng lon có
đường kính nhỏ 6 - 7 cm như lon nước yến hoặc lon cá mòi cắt bỏ viền cứng ở miệng lon,
mài bén mép lon rồi đặt lon lên màng phủ, tay vừa ấn xuống và vừa xoay tròn, chỉ áp dụng dễ
dàng trên mặt liếp bằng phẳng, rất dễ thực hiện trên đất ruộng, mềm và mặt liếp có bồi bùn

vài ngày sau.

- Xom lổ mặt đất: Dùng chày tỉa xom lổ đường kính rộng 7-8 cm. Độ sâu tùy cách gieo hột:
gieo thẳng (xom lổ cạn 2-3 cm), còn đặt cây con (xom sâu 5-7 cm).
- Xử lý mầm bệnh: Phun thuốc trừ nấm bệnh như Copper B (20 g/10 lít) hoặc Validacin (20
cc/10lít) vào lổ trước khi đặt cây con .
2. Trồng cây:
Rãi một ít đất mịn hoặc rơm hoặc trấu mục vào trong lổ (không nên dùng nhiều tro trấu, nhất
là trong mùa nắng vì sức nóng của màng phủ và của tro làm cây con bị hóc, phát triển yếu),
gieo hột hoặc đặt cây con vào lổ rồi lắp đất xung quanh gốc.
Có sử dụng màng phủ nên cấy cây con sớm hơn bình thường (cà chua, ớt khoảng 15-20 ngày
thay vì 25-30 ngày). Nếu trồng trễ hơn cây cao quá, khi trồng trên màng phủ gặp nắng mạnh,
cây bị héo lá hoặc chóp ngọn chạm đất bị cháy, cây mất sức, chậm phục hồi.
Cần xử lý côn trùng phá hại cây con bằng thuốc hột như Basudin 10H, Regent rãi xung quanh
gốc sau khi gieo hột hoặc sau khi cấy cây con (2 kg/1.000 m2).


3. Chăm sóc sau khi trồng:
- Tưới nước:
Trồng - 2 tuần sau khi trồng: Bộ rễ cây còn nhỏ, ăn cạn chưa cần nhiều nước, chỉ cần đủ ẩm
nên dùng thùng vòi thùng búp sen tưới đều trên mặt liếp giống như tưới nước trồng không
màng phủ, tưới 3-5 lần/ngày trong mùa nắng. Chú ý tăng số lần tưới vào buổi trưa, giúp làm
giảm nhiệt độ mặt liếp, cây con ít bị sốc.
Để tránh cây con bị xoáy gốc có thể dùng rơm chặt ngắn 10 - 15 cm đậy trên hốc sau khi gieo
hoặc sau khi cấy. Ở những vùng gió nhiều, khi cây con lên khỏi mặt màng phủ dùng một ít
đất tấn xung quanh gốc giúp cây đứng vững. Giai đoạn này cây con trong màng phủ sinh
trưởng chậm hơn cây con phủ rơm, do sức nóng của màng phủ và việc cung cấp nước khó
khăn.
Sau 2 tuần: Bộ rễ cây phát triển đầy đủ về chiều sâu và rộng, nếu trồng trong mùa nắng tiến
hành tưới thấm, bơm nước vào rảnh, thường 2 - 4 ngày mới tưới một lần. Trên nền đất cát,

bơm nước đầy rảnh ngang đỉnh mặt liếp nước thấm từ từ vào trong liếp. Trên đất thịt (thịt pha
sét) nền ruộng lúa, bơm nước cách mặt đỉnh liếp 10- 15 cm, chờ nước thấm vào liếp chừng
20-30 phút, dở màng phủ theo dõi độ ẩm đất rồi xả nước ra bớt, giữ mực nước trong rảnh
cách mặt liếp 25 - 30 cm là tốt nhất, mỗi ngày tưới nước một lần bằng cách đi dưới mương
vén màng phủ lên dùng thau tát nước (phổ biến ở Tiền Giang). Giai đoạn 1 tháng sau khi
trồng cây trong màng phủ tăng trưởng tốt hơn trồng phủ rơm.
- Bón phân thúc:
Tưới phân vào gốc: Giai đoạn cây nhỏ (dưới 20 ngày tuổi) dùng lon, ấm hoặc thùng vòi pha
phân loãng tưới ngay gốc cây (trong lổ đục) chỉ sử dụng các loại phân dễ tan (Urea hặc DAP)
với số lượng ít.
Rải phân vào đất: Thường 2 lần vào các ngày (15-20 ngày và 30-40 ngày sau khi trồng đối
với rau ngắn ngày như dưa leo, khổ qua, đậu đũa, đậu cove,... rải 3 lần đối với rau dài ngày
như cà chua, ớt, cà phổi, đậu bắp (ngoài 2 lần trên bón thêm 1 lần 50-60 ngày). Mỗi lần
khoảng 1/4 tổng lượng phân, có đủ các thành phần dinh dưỡng NPK.
Cách bón phân tống: Có hai cách
Dùng lon đục lổ giữa 2 gốc cây rau hoặc 2 bên gốc cây rau, dùng chày tỉa xom xuống đất sâu
15 cm, rồi dùng muỗng cà phê múc phân bỏ vào lổ, phân sẽ tan từ từ rất an toàn, nhưng nên
bón phân hơn sớm.
Giở màng phủ lên một bên rãi phân đều cách gốc 15-20 cm, cách này tốn công và cây dễ bị
ngộ độc phân vì rễ non của cây nằm sát mặt đất (chỉ nên rãi lượng phân nhỏ hoặc nên pha
phân loãng để tưới nhiều lần cho hiệu quả tốt hơn).
Các loại rau thu hoạch nhiều lần, trong thời gian thu trái cũng nên tưới phân hỗn hợp N-P-K
xen kẻ phân các đợt thu hoạch để kéo dài thời gian thu hoạch hơn và giảm tỉ lệ trái đèo.


CÂY ỚT CAY
Tên khoa học: Capsicum frutescens L.
Họ cà: Solanaceae
ThS. Trần Thị Ba
Bộ môn Khoa Học Cây Trồng

Khoa Nông Nghiệp & Sinh học ứng dụng, Trường ĐHCT
I. GIỚI THIỆU
Ớt cay được xem là cây gia vị nên có mức tiêu thụ ít. Gần đây ớt trở thành một mặt hàng có
giá trị kinh tế vì ớt không chỉ là gia vị tươi mà còn được sử dụng trong công nghiệp chế biến
thực phẩm và dược liệu để bào chế các thuốc trị ngoại khoa như phong thấp, nhức mỏi, cảm
lạnh hay nội khoa như thương hàn, cảm phổi, thiên thời... nhờ tính chất capsaicine chứa trong
trái. Nhờ vậy nhu cầu và diện tích ớt ở nhiều nước có chiều hướng gia tăng.
Ở Việt Nam việc canh tác ớt chưa được quan tâm, phần lớn canh tác lẻ tẻ, không đầu tư thâm
canh cao nên năng suất thấp, thường chỉ đạt 800-1.000kg ớt tươi /1.000m2.
II. ĐẶC TÍNH SINH HỌC
Rễ: Ớt có rễ trụ, nhưng khi cấy rễ phân nhánh mạnh và cây phát triển thành rễ chùm, phân bố
trong vùng đất cày là chính.
Thân: khi cây già phần gốc thân chính hóa gỗ, dọc theo chiều dài thân có 4-5 cạnh. Thân có
lông hoặc không lông, cây cao 35-65 cm, có giống cao 125-135 cm. Ớt phân tán mạnh, kích
thước tán thay đổi tùy theo điều kiện canh tác và giống.
Lá: Mọc đơn, đôi khi mọc chùm thành hình hoa thị, lá nguyên có hình trứng đến bầu dục,
phiến lá nhọn ở đầu, lá màu xanh nhạt hoặc đậm, có lông hoặc không lông.
Hoa: Lưỡng phái, mọc đơn hoặc thành chùm 2-3 hoa. Hoa nhỏ, dài, hoa màu xanh có hình
chén, lá đài nhỏ, hẹp và nhọn. Tràng hoa có 6-7 cánh màu trắng hoặc tím. Số nhị đực bằng số
cánh hoa và mọc quanh nhụy cái. Phần trong cánh hoa có lỗ tiết mật.
Hoa ớt có thể tự thụ phấn hay thụ phấn chéo do côn trùng vì ớt thuộc loại tiền thư, thụ phấn
chéo có ý nghĩa lớn ở ớt cay, tỷ lệ thụ phấn chéo từ 10-40 % tùy giống, do đó cần chú ý trong
công tác để giống và giữ giống thuần.
Trái: Trái có 2-4 thùy, dạng trái rất thay đổi từ hình cầu đến hình nón, bề mặt trái có thể
phẳng, gợn sóng, có khía hay nhẵn; trái khi chín có màu đỏ đen vàng; trái không cay hay rất
cay.
Chiều dài và dạng trái đóng vai trò quan trọng trong việc chọn giống ớt xuất khẩu dưới dạng
quả khô. Ớt quả khô nguyên trái phải dài hơn 9 cm và khi khô không rời cuống. Việc chế biến
ớt bột không đòi hỏi tiêu chuẩn về kích thước và dạng trái nhưng yêu cầu về màu sắc, độ cay
và tỷ lệ tươi/khô khi phơi; ớt trái to ở nước ta có tỷ lệ tươi/khô là 6,5:1 trong khi ớt trái nhỏ

có tỷ lệ này là 8:1. Trái chưá nhiều hạt tròn dẹp, nhỏ có màu nâu sáng,


Ớt là cây chịu nhiệt, nhiệt độ thích hợp cho tăng trưởng là 18-30oC. Nhiệt độ cao trên 32oC và
thấp dưới 15oC. Cây tăng trưởng kém và hoa dễ rụng. Ớt là cây không quang cảm, tuy nhiên
trong điều kiện ngày ngắn các giống ớt cay phát triển tốt và cho năng suất cao. Ớt chịu đựng
được điều kiện che rợp đến 45%, nhưng che rợp nhiều hơn ớt chậm trổ hoa và rụng nụ.
III. GIỐNG
Hiện nay nhiều nơi vẫn canh tác giống địa phương là chính. Giống trồng phổ biến ở đồng
bằng sông Cửu Long có giống Sừng Trâu, Chỉ Thiên, ớt Búng, ớt Hiểm, ở miền Trung có
giống ớt Sừng Bò, Chìa Vôi. Ngoài ra Viện Nghiên Cứu NN Hà Nội công bố bộ sưu tập với
117 giống nội địa (1987), điều này chứng minh nguồn giống ớt phong phú, đa dạng chưa
được biết đến ở nước ta. Tuy nhiên giống địa phương bị lai tạp nên thoái hóa, quần thể không
đồng đều và cho năng suất kém, trong khi các giống F1 có khả năng cho năng suất vượt trội
trong điều kiện thâm canh cao nên bắt đầu được ưa chuộng và đang thay thế dần các giống
địa phương.
1. Giống lai F1:
- Giống Chili (công ty Trang Nông phân phối): Trái to, dài 12-13 cm, đường kính trái 1,21,4cm; trọng lượng trung bình trái 15-16 gram, dạng trái chỉ địa, trái chín đỏ, cứng, cay trung
bình, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Cây cao trung bình 75-85 cm, sinh trưởng mạnh,
chống chịu bệnh tốt và cho năng suất cao.
- Giống số 20 (công ty Giống Miền Nam phân phối): sinh trưởng mạnh, phân tán lớn, ra
nhiều hoa, dễ đậu trái, bắt đầu cho thu hoạch 85-90 ngày sau khi cấy, cho thu hoạch dài ngày
và chống chịu tốt bệnh virus. Trái ớt chỉ địa dài 14-16 cm, thẳng, ít cay, trái cứng nên giữ
được lâu sau thu hoạch, năng suất 2-3 tấn/1.000m2.
- Giống TN 16 (công ty Trang Nông phân phối): Cho thu hoạch 70-75 ngày sau khi gieo, trái
chỉ thiên khi chín đỏ tươi, rất cay, dài 4-5 cm, đường kính 0,5-0,6cm, trọng lượng trung bình
3-4g/trái, đậu nhiều trái và chống chịu khá với bệnh thối trái, sinh trưởng tốt quanh năm.
- Giống Hiểm lai 207 (công ty Hai Mũi Tên Đỏ phân phối): Giống cho trái chỉ thiên, dài 2-3
cm, trái rất cay và thơm, năng suất 2-3 kg trái/cây, chống chịu khá bệnh thán thư.
2. Giống địa phương:

- Giống Sừng Trâu: Bắt đầu cho thu hoạch 60-80 ngày sau khi cấy. Trái màu đỏ khi chín, dài
12-15 cm, hơi cong ở đầu, hướng xuống. Năng suất 8-10 tấn/ha, dễ nhiễm
bệnh virus và thán thư trên trái.
- Giống Chỉ Thiên: Bắt đầu cho trái 85-90 ngày sau khi cấy. Trái thẳng,
bóng láng, dài 7-10 cm, hướng lên, năng suất tương đương với ớt Sừng
nhưng trái cay hơn nên được ưa chuộng hơn.
- Giống Ớt Hiểm: Cây cao, trổ hoa và cho trái chậm hơn 2 giống trên
Giống Chỉ Thiên
nhưng cho thu hoạch dài ngày hơn nhờ chống chịu bệnh tốt. Trái nhỏ 3-4
cm nên thu hoạch tốn công, trái rất cay và kháng bệnh đén trái tốt nên trồng được trong mùa
mưa.


IV. KỸ THUẬT TRỒNG
1. Thời vụ
Ở đồng bằng sông Cửu Long ớt có thể trồng quanh năm, tuy nhiên trong sản xuất thường
canh tác ớt vào các thời vụ sau:
- Vụ sớm: Gieo tháng 8-9, trồng tháng 9-10, bắt đầu thu hoạch tháng 12-1 dl và kéo dài đến
tháng 4-5 năm sau. Vụ này ớt trồng trên đất bờ líp cao không ngập nước vào mùa mưa. Ớt
trồng mùa mưa đỡ công tưới, thu hoạch trong mùa khô dễ bảo quản, chế biến và thời gian thu
hoạch dài, tuy nhiên diện tích canh tác vụ này không nhiều.
- Vụ chính (Đông Xuân): Gieo tháng 10-11, trồng tháng 11-12, bắt đầu thu hoạch tháng 2-3
dl. Trong vụ này cây sinh trưởng tốt, năng suất cao, ít sâu bệnh.
- Vụ Hè Thu: Gieo tháng 4-5 trồng tháng 5-6 thu hoạch 8-9 dl. Mùa này cần trồng trên đất
thoát nước tốt để tránh úng ngập và chọn giống kháng bệnh thán thư.
2. Chuẩn bị cây con
Lượng hạt giống gieo đủ cấy cho 1.000m2 từ 15-25 gram (150-160 hột/g). Diện tích gieo
ương cây con là 250 m2. Chọn đất cao ráo hay làm giàn cách mặt đất 0,5-1 m, lót phên tre hay
lá chuối rồi đổ lên trên một lớp đất, phân, tro dày 5-10 cm rồi gieo hạt. Cách này dễ chăm sóc
cây con và ngăn ngừa côn trùng hoặc gia súc phá hại. Cũng có thể gieo hạt thẳng vào bầu hay

gieo theo hàng trên líp ương. Hạt ớt thường nẩy mầm chậm, 8-10 ngày sau khi gieo mới mọc
khỏi đất, cây con cấy vào lúc 30-35 ngày tuổi, có sử dụng màng phủ cây con nên cấy sớm lúc
20 ngày tuổi.
3. Cách trồng
Đất trồng ớt phải được luân canh triệt để với cà chua, thuốc lá và cà tím. Trồng mùa mưa cần
lên líp cao vì ớt chịu úng kém. Khoảng cách trồng thay đổi tùy thời gian dự định thu hoạch
trái, nếu ăn trái nhanh (4-5 tháng sau khi trồng) nên trồng dày, khoảng cách trồng 50 x (3040) cm, mật độ 3.500-5.000 cây/1.000m2; nếu muốn thu hoạch lâu nên trồng thưa, 70 x (5060) cm, mật độ 2.000-2.500 cây/1.000m2.
4. Sử dụng màng phủ nông nghiệp (bạt plastic)
4.1 Mục đích:
a. Hạn chế côn trùng và bệnh hại: Mặt màu bạc của màng phủ phản chiếu ánh sáng mặt trời
nên giảm bù lạch, rầy mềm, giảm bệnh do nấm tấn công ở gốc thân và đốm trên lá chân
b. Ngăn ngừa cỏ dại: Mặt đen của màng phủ ngăn cản ánh sáng mặt trời, làm hạt cỏ bị chết
trong màng phủ.
c. Điều hoà độ ẩm và giữ cấu trúc mặt đất: Màng phủ ngăn cản sự bốc hơi nước trong mùa
nắng, hạn chế lượng nước mưa nên rễ cây không bị úng nước, giữ độ ẩm ổn định và mặt đất
tơi xốp, thúc đẩy rễ phát triển, tăng sản lượng.


d. Giữ phân bón: Giảm rửa trôi của phân bón khi tưới nước hoặc mưa to, ít bay hơi nên tiết
kiệm phân.
e. Tăng nhiệt độ đất: Giữ ấm mặt đất vào ban đêm (mùa lạnh) hoặc thời điểm mưa dầm thiếu
nắng mặt đất bị lạnh.
f. Hạn chế độ phèn, mặn: Màng phủ làm giảm sự bốc hơi qua mặt đất nên phèn, mặn được
giữ ở tầng đất sâu, giúp bộ rễ hoạt động tốt hơn.
4.2 Cách sử dụng màng phủ nông nghiệp
- Vật liệu và qui cách: Dùng 2 cuồn màng phủ khổ rộng 0.9-1m trồng ớt hàng đơn, còn hàng
đôi 1,5 cuồn màng khổ 1,2-1,4 m, diện tích vải phủ càng rộng thì hiệu quả phòng trừ sâu
bệnh càng cao. Chiều dài mỗi cuồn màng phủ là 400 m, khi phủ liếp mặt xám bạc hướng lên,
màu đen hướng xuống.
- Lên liếp: Lên liếp cao 20-40 cm tùy mùa vụ, mặt liếp phải làm bằng phẳng không được lồi

lõm vì rễ khó phát triển và màng phủ mau hư, ở giữa liếp hơi cao hai bên thấp để tiện việc
tưới nước.
- Rãi phân lót: Liều lượng cụ thể hướng dẫn bên dưới, nên bón lót lượng phân nhiều hơn
trồng phủ rơm vì màng phủ hạn chế mất phân và không bị cỏ dại canh tranh. Có thể giảm bớt
20% lượng phân so với không dùng màng phủ.
- Xử lý mầm bệnh: Phun thuốc trừ nấm bệnh như Oxyt đồng hoặc Copper B (20 g/10 lít)
hoặc Validacin (20 cc/10lít) đều trên mặt liếp trước khi đậy màng phủ.
- Đậy màng phủ: Mùa khô nên tưới nước ngay hàng trồng cây trước khi đậy màng phủ. Khi
phủ kéo căng vải bạt, hai bên mép ngoài được cố định bằng cách dùng dây chì bẻ hình chữ U
mỗi cạnh khoảng 10 cm ghim sâu xuống đất (dây chì sử dụng được nhiều năm) hoặc dùng tre
chẻ lạc ghim mé liếp.
5. Bón phân: (tương tự cà chua)
Tùy theo loại đất, mức phân bón trung bình toàn vụ cho 1.000m2 như sau:
20 kg Urea + 50 kg Super lân + 20 kg Clorua kali + 12 kg Calcium nitrat + (50-70) kg 16-168 + 1 tấn chuồng hoai + 100 kg vôi bột, tương đương với lượng phân nguyên chất (185210N)-(150-180P2O5)-(160-180K2O) kg/ha.
* Bón lót: 50 kg super lân, 3 kg Clorua kali, 2 kg Calcium nitrat, 10-15 kg 16-16-8, 1 tấn
phân chuồng và 100 kg vôi. Vôi rải đều trên mặt đất trước khi cuốc đất lên liếp, phân chuồng
hoai, lân rãi trên toàn bộ mặt liếp xới trộn đều. Nên bón lót lượng phân nhiều hơn trồng phủ
rơm vì phân nằm trong màng phủ ít bị bốc hơi do ánh nắng, hay rửa trôi do mưa.
* Bón phân thúc:
Lần 1: 20-25 ngày sau khi cấy (giống thấp cây) và 20 ngày sau khi cấy (giống cao cây). Số
lượng 4 kg Urê, 3 kg Clorua kali, 10 kg 16-16-8 + 2 kg Calcium nitrat. Bón phân bằng cách
vén màng phủ lên rãi phân một bên hàng cà hoặc đục lổ màng phủ giữa 2 gốc cà.


Lần 2: 55-60 ngày sau khi cấy, khi đã đậu trái đều.
Lượng bón: 6 kg Urê, 5 kg Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 2 kg Calcium nitrat. Vén màng
phủ lên rãi phân phía còn lại cà hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc cà.
Lần 3: Khi cây 80-85 ngày sau khi cấy, bắt đầu thu trái.
Lượng bón: 6 kg Urê, 5 kg Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 3 kg Calcium nitrat. Vén màng
phủ lên rãi phân phía còn lại hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc cà.

Lần 4: Khi cây 100-110 ngày sau khi cấy, thúc thu hoạch rộ (đối với ớt sừng dài ngày).
Lượng bón: 4 kg Urê, 4 kg Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 3 kg Calcium nitrat. Vén màng
phủ lên rãi phân hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc cà.
Chú ý:
Ớt thường bị thối đuôi trái do thiếu canxi, do đó mặc dù đất được bón vôi đầy đủ trước khi
trồng hoặc bón đủ Calcium nitrat nhưng cũng nên chú ý phun bổ sung phân Clorua canxi
(CaCl2) định kỳ 7-10 ngày/lần vào lúc trái đang phát triển để ngừa bệnh thối đuôi trái..
Nếu không dùng màng phủ, nên chia nhỏ lượng phân hơn và bón nhiều lần để hạn chế mất
phân.
Nhằm góp phần tăng năng suất và phẩm chất trái, nhất là trong mùa mưa có thể dùng phân
bón lá vi lượng như MasterGrow, Risopla II và IV, Miracle,... Bayfolan, Miracle... phun định
kỳ 7-10 ngày/lần từ khi cấy đến 10 ngày trước khi thu hoạch.
6. Chăm sóc:
6.1 Tưới nước:
Ớt cần nhiều nước nhất lúc ra hoa rộ và phát triển trái mạnh. Giai đoạn này thiếu nước hoặc
quá ẩm đều dẫn đến đậu trái ít. Nếu khô hạn kéo dài thì tưới rảnh (tưới thấm) là phương pháp
tốt nhất, khoảng 3-5 ngày tưới/lần. Tưới thấm vào rãnh tiết kiệm nước, không văng đất lên lá,
giữ ẩm lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Mùa mưa cần chú ý thoát nước tốt, không để
nước ứ đọng lâu.

Tưới thấm và tưới nhỏ giọt
6.2 Tỉa nhánh:


Thông thường các cành nhánh dưới điểm phân cành đều được tỉa bỏ cho gốc thông thoáng.
Các lá dưới cũng tỉa bỏ để ớt phân tán rộng
6.3 Làm giàn: Giàn giữ cho cây đứng vững, để cành lá và trái không chạm đất, hạn chế thiệt
hại do sâu đục trái và bệnh thối trái làm thiệt hại năng suất, giúp kéo dài thời gian thu trái.
Giàn được làm bằng cách cắm trụ cứng xung quanh hàng ớt dùng dây chì giăng xung quanh
và giăng lưới bên trong hoặc cột dây nilong lúc cây chuẩn bị trổ hoa.

7. Phòng trị sâu bệnh
7.1 Sâu hại::
- Rầy lửa, bọ trỉ, bù lạch (Thrips sp.)
- Thành trùng và ấu trùng rất nhỏ có màu trắng hơi vàng, sống tập trung trong đọt non hay
mặt dưới lá non, chích hút nhựa cây làm cho đọt non bị xoăn lại. Thiệt hại do bọ trĩ, bọ dưa
có liên quan đến bệnh siêu trùng.
- Bù lạch có tính kháng thuốc rất cao, nên định kỳ 7-10 ngày/lần phun dầu khoáng DC-Tron
plus (Caltex) sẽ giảm đáng kể sự tấn công của bù lạch; khi thấy mật số vài ba con trên một
đọt non cần phun một trong các loại như Confidor 100SL, Admire 50EC, Danitol 10EC,
Vertimec...0.5-1%o, cần thay đổi thuốc thường xuyên.
- Sâu xanh đục trái (Heliothis armigera): Thành trùng là bướm đêm, kích thước to, thân mập
nhiều lông, cánh màu vàng sáng, giửa cánh có một chấm đen to và một chấm trắng nằm cạnh
nhau. Trứng đẻ thành ổ có phủ lông vàng; một bướm cái đẻ 200-2000 trứng. Âu trùng là sâu
có nhiều lông, màu sắc thay đổi từ màu hồng, xanh, xanh vàng đến nâu đen theo môi trường
sống. Sâu ở phía ngòai thò đầu vào bên trong phá hại búp non, nụ hoa, cắn điểm sinh trưởng,
đụt thủng quả từ khi còn xanh cho đến lúc gần chín làm thối trái. Nhộng màu nâu đỏ nằm
trong lá khô hoặc trong đất.
- Bọ phấn trắng (Bemisia tabaci): Thành trùng màu trắng bóng, dài 3-4 mm, bay chậm, hình
dáng giống như bướm. Âu trùng rất giống rệp dính, màu trắng trong, được phủ một lớp sáp, ít
bò, thường cố định một chổ chích hút mô cây. Trứng, ấu trùng và thành trùng luôn luôn hiện
diện ở mặt dưới lá trên các loại cây ăn trái, bầu bí, dưa, cà, ớt, bông vãi, thuốc lá. Ấu trùng và
thành trùng đều chích hút làm lá biến vàng, cây mau suy yếu, giảm năng suất và truyền bệnh
siêu trùng như rầy mềm. Bọ phấn trắng phát triển nhanh trong điều kiện nóng và khô, rất dễ
quen thuốc khi phun ở nồng độ cao, hoặc phun thường xuyên định kỳ.
Trong tự nhiên có nhiều loài ong ký sinh trên ấu trùng bọ phấn trắng. Thuốc hiệu quả là
Admire, Confidor, phun ở mặt dưới lá.
- Rầy nhớt, rầy mềm (Aphis spp.)
Còn được gọi là rầy mật, cả ấu trùng lẫn thành trùng đều rất nhỏ, dài độ 1-2mm, có màu
vàng, sống thành đám đông ở mặt dưới lá non từ khi cây có 2 lá mầm đến khi thu hoạch,
chích hút nhựa làm cho ngọn dây dưa chùn đọt và lá bị vàng. Rầy truyền các loại bệnh siêu vi

khuẩn như khảm vàng. Chúng có rất nhiều thiên địch như bọ rùa, dòi, kiến, nhện nấm.. nên
chỉ phun thuốc khi nào mật số quá cao ảnh hưởng đến năng suất. Phun các loại thuốc phổ
biến rầy mềm như Trebon, Bassa.


d- Sâu ăn tạp, sâu ổ, sâu đàn (Spodoptera litura)
- Sâu non lúc nhỏ sống tập trung ở mặt dưới phiến lá nên gọi là sâu ổ, khi lớn lên phân tán
dần, mình có màu xám với khoan đen lớn ở trên phía lưng sau đầu, ăn lủng lá có hình dạng
bất định, hoặc cắn đứt ngang thân cây con. Sau đó sâu thường chui vào sống trong đất, ẩn
dưới các kẻ nứt hay rơm rạ phủ trên mặt đất, nhộng ở trong đất.
- Nên làm đất kỹ trước khi trồng vụ sau để diệt sâu và nhộng còn sống trong đất, xử lý đất
bằng thuốc hạt. Có thể ngắt bỏ ổ trứng hay bắt sâu non đang sống tập trung.
- Nên thay đổi loại thuốc thường xuyên, phun vào giai đoạn trứng sắp nở sẽ cho hiệu quả cao:
Sumicidin 10EC, Cymbus 5EC, Karate 2.5EC, Decis 2.5 EC... 1-2%o có thể pha trộn với
Atabron 5EC từ 2-3 cc/bình xịt 8 lít.
7.2 Bệnh hại:
- Bệnh héo cây con: Do nấm Rhizoctonia solani, Phythophthora sp., Pythium sp. Bệnh
thường gây hại cây con trong líp ương hoặc sau khi trồng khoảng một tháng tuổi. Vết bệnh
thường xuất hiện ở phần thân ngay trên mặt đất, nấm tấn công vào gốc làm gốc cây bị thối
nhũn và cây bị gãy gục, phần cây bên trên vết bệnh vẫn còn tươi xanh, sau đó cây mới bắt
đầu héo. Bệnh phát triển mạnh khi ẩm độ cao, nấm lưu tồn trên thân luá, rơm rạ, cỏ dại, lục
bình, hạch nấm tồn tại trong đất sau mùa gặt lúa.
- Phun, Validacin 5L, Anvil 5SC, Rovral 50WP, Ridomil 25 WP 1-2%o; Copper -B 2-3%o,
Tilt super 250 ND, Bonanza 100 (các loại thuốc trị bệnh đốm vằn trên luá đều trị được bệnh
này)
- Bệnh héo chết cây do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum, nấm Fusarium oxysporum, F.
lycopersici, Sclerotium sp.: Bệnh thường gây hại khi cây đã trưởng thành, hoặc khi cây bắt
đầu mang trái. Đầu tiên các lá ngọn bị héo vào buổi trưa, và tươi lại vào buổi chiều mát, sau
vài ngày cây bệnh chết hẳn, không còn khả năng hồi phục, bộ rễ không phát triển.
Đối với bệnh do vi khuẩn cần nhổ và tiêu hủy cây bệnh; dùng vôi bột rãi vào đất, hoặc

Starner, New Kasuran, Copper Zin C tưới nơi gốc cây hay phun ngừa bằng Kasumin. Đối với
nấm cần phát hiện sớm, phun ngừa hoặc trị bằng thuốc Copper B, Derosal, Appencarb super,
Ridomil, Score.
- Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum sp. Bốn loài Colletotrichum được tìm thấy trên ớt là:
C. gloesporiodes, C. capsici (2 loài quan trọng nhất), C. acertatum và C. coccodes. Bệnh
thường gây hại trên trái đang hay đã chín trong điều kiện có mưa nhiều, hoặc ẩm độ không
khí cao. Vết bệnh lúc đầu hình tròn, úng nước, hơi lõm xuống, sau đó lan dần ra, tâm vết
bệnh có màu nâu đen, viền màu nâu xám, bên trong có nhiều vòng đồng tâm và có những
chấm nhỏ li ti màu đen nhô lên cao. Bệnh gây hại chủ yếu trên trái làm trái mất thương phẩm.
Ở đồng bằng sông Cửu Long bệnh phát triển và lây lan mạnh vào mùa mưa, nhất là vào các
tháng 7, 8, 9 dl. Nấm bệnh tồn tại rất lâu trong đất, trên cây và trong hạt cây bệnh.
Các thuốc Copper B, Manzate, Mancozeb, Antracol, Ridomil được sử dụng rộng rãi để trừ
bệnh này. Tuy nhiên, bệnh khó phòng trị trong mùa mưa và vì bịnh chỉ xuất hiện rất trễ khi
trái chín. Hiện nay biện pháp trồng giống kháng bệnh như ớt hiểm trong mùa mưa là kinh tế
nhất.


- Bệnh héo muộn do nấm Phytophthora infestan: Bệnh gây hại trên thân, lá và trái. Vết bệnh
lúc đầu có màu xanh úng nước, sau đó chuyển sang màu nâu đen. Nếu trời ẩm bên dưới vết
bệnh có tơ màu trắng bao phủ; nếu thời tiết khô thì vết bệnh khô dòn, dễ vở. Bệnh thường
xuất hiện ở cuống trái, bệnh nặng làm trái dễ rụng.
Không trồng ớt liên tục nhiều năm trên cùng một ruộng. Phun trị khi bệnh xuất hiện với các
loại thuốc Aliette, Manzate, Mancozeb, Curzate.
V. THU HOẠCH VÀ ĐỂ GIỐNG
Thu hoạch ớt khi trái bắt đầu chuyển màu. Ngắt nhẹ nhàng cả cuống trái mà không làm gãy
nhánh. Ơt cay cho thu hoạch 35-40 ngày sau khi trổ hoa, ở các lứa rộ thu hoạch ớt mỗi ngày,
bình thường cách 1-2 ngày thu 1 lần, nếu chăm sóc tốt năng suất trái đạt 20-30 tấn/ha.
Làm giống nên chọn cây tốt, cách ly để tránh lai tạp làm giảm giá trị giống sau này. Chọn trái
ở lứa thu hoạch rộ, để chín chín hoàn toàn trên cây, hái về để chín thêm vài ngày rồi mổ lấy
hạt, phơi thật khô, để vào chai lọ kín và để nơi khô ráo. Hạt ớt chứa nhiều chất béo, do đó hạt

khô thường hút nước lại và gia tăng ẩm độ, vì vậy trữ hạt ở điếu kiện nóng ẩm (ẩm độ trữ hơn
70% và nhiệt độ 20oC) hạt mất khả năng nẩy mầm 50% trong thời gian 3 tháng và mất khả
năng nẩy mầm hoàn toàn trong thời gian 6 tháng. Trữ hạt trong điều kiện khô, kín (ẩm độ
20%, nhiệt độ là 25oC), hạt khô (ẩm độ 5%) có thể giữ độ nẩy mầm 80% trong 5 năm.
Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thuận lợi cho việc canh tác ớt và khả năng xuất khẩu ớt
thu ngoại tệ cũng không nhỏ. Tuy nhiên để thực hiện được điều đó cần chú ý những điểm như
sau:
- Các giống ớt địa phương hiện trồng có năng suất còn thấp và tỷ lệ ớt tươi/khô cũng thấp.
- Ớt xuất khẩu thường ở dạng khô. Phương pháp làm ớt khô bắng cách phơi ớt tươi trực tiếp
ngoài nắng thường làm ớt mất màu, không phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu. Ngoài ra việc
phơi nắng kéo dài trong 10-20 ngày tạo điều kiện cho bệnh đén trái tiếp tục phát triển trong
thời gian phơi và làm mất phẩm chất ớt.
Ớt xuất khẩu và dùng trong chế biến thực phẩm còn đòi hỏi các tiêu chuẩn như độ cay, mùi
hương mà các giống trồng hiện chưa đáp ứng được. Do đó cần chú ý công tác chọn tạo giống
và kỹ thuật chế biến ớt, bảo đảm tiêu chuẩn xuất khẩu thì cây ớt mới có giá trị kinh tế cao.
CÂY GỪNG
Tên khoa học: Zingiber offcinale Rosc
Họ gừng: Zingiberaceae
ThS. Trần Thị Ba
Bộ môn Khoa Học Cây Trồng
Khoa Nông Nghiệp & Sinh học ứng dụng, Trường ĐHCT
1. CHỌN VÀ CHUẨN BỊ GIỐNG
1.1 Chọn giống
Giống gừng Tàu già củ to, bóng, không khô héo, không nhăn nhúm, teo dọp, không sâu bệnh.


1.2 Chuẩn bị giống
Vì chúng ta trồng vào muà nắng do đó ủ giống cho nẩy mầm trước khi trồng là khâu rất cần
thiết để khi trồng gừng lên đều. Đây là yếu tố quyết định trước tiên đến năng suất gừng sau
này.

Gừng giống phải được chuẩn bị một tháng trước khi trồng. Đem gừng về để nơi thoáng mát
cho nhót bớt nước khoảng một tuần rồi tiền hành bẻ hom:
* Khi bẻ hom giống phải to từ 40-60 gram, nguyên vẹn, không được dùng dao bổ đôi củ
giống vì khi trồng mất nước dễ chết, hom giống to mới đủ sức nuôi cây con mạnh khoẻ trong
giai đoạn đầu.
* Dùng tay bẻ hom chớ không dùng dao cắt vì dùng dao thì mầm bệnh sẽ từ củ này dễ dàng
lan truyền sang củ khác, bẻ xong cho gừng vào ngâm trong dung dịch thuốc Topsin hoặc
Dithane với liều lượng 200 g thuốc pha loãng với 50 lít nước ngâm khoảng 30 phút. Sau đó
vớt ra trãi chỗ khô ráo cho nhót nước khoảng một tuần, rồi tiến hành ủ giống: Gom gừng lại
thành đống cao không quá 5 tấc phủ lên một lớp rơm rối tưới cho đủ ẩm.
Chú ý:
+ Nền ủ phải cao và thoát nước tốt, trãi lên nền ủ một lớp tro trấu dầy từ 10-20 cm, sau đó
mới xếp gừng lên ủ.
+ Không quá khô, không quá ẩm, nếu khô gừng sẽ chậm nẩy mầm, còn quá ẩm sẽ bị thối.
+ Khoảng nửa tháng sau củ gừng u mầm thì mang đi trồng, không để mầm quá dài chuyên
chở dễ gãy.
2. CHUẨN BỊ PHÂN HỮU CƠ
Phân hữu cơ là yếu tố quyết định rất lớn đến năng suất, dùng tro trấu mục, rơm mục: 2 tấn
trộn với 2 tấn phân chuồng bón cho 1.000 m2. Nếu không có phân chuồng thì có thể sử dụng
các loại phân hữu cơ khác để thay thế.
3. CHUẨN BỊ ĐẤT
Đất phải được cày sâu 25-30 cm, phơi ải, xới cho nhuyễn rồi lên liếp. Trường hợp đất cao
thoát nước tốt không bị úng vào muà mưa thì không cần lên líp.
* Hướng liếp: phải vuông góc với mương tưới nước để tưới - tiêu nước được thuận lợi.
* Kích thước liếp: liếp có thể rộng từ 1- 1,2 m tùy khoảng cách trồng, chiều dài không quá
dài làm cho tưới tiêu nước khó khăn. Tốt nhất ta đào thêm 1-2 mương dẫn nước ở giữa, giống
như trồng dưa hấu để tưới tiêu nước được dễ dàng. Chiều cao liếp từ 20-30 cm.
* Làm đất trên mặt liếp: mặt liếp phải được làm thật bằng phẵng, bằm đất thật nhuyễn để rễ
gừng dễ sinh trưởng.
4. KỸ THUẬT TRỒNG



* Bón phân lót: trước khi xới đất tác cuối, tiến hành rãi 2 tấn phân hữu cơ, toàn bộ Super lân
và 5 kg Kali đều khắp mặt ruộng rồi xới trộn cho đều, sau đó lên líp.
* Khoảng cách và mật độ trồng: có thể áp dụng một trong các khoảng cách trồng như sau: 40
x 30 cm; 50 x 20 cm đối với liếp đôi, hoặc 70-20 cm đối với liếp đơn.
- Nếu trồng theo khoảng cách 50-20 cm thì lên liếp rộng 1 m, trồng hai hàng dọc, hàng cách
hàng 50 cm và cây cách cây 20 cm.
- Nếu trồng theo khoảng cách 40-30 cm thì mặt liếp rộng 1,2 m, trồng hàng cách hàng 40 cm,
cây cách cây 30 cm.
- Nếu trồng theo khoảng cách 70-20 cm thì liếp rộng 1,2 m, trồng hai hàng dọc theo liếp,
hàng cách hàng 70 cm, cây cách cây 20 cm.
Sau này khi vun gốc, tiến hành lấy đất ở giữa liếp đấp vào hai hàng gừng hai bên, tạo thành
liếp đơn như giồng khoai lang.
* Cách đặt hom giống: đào hốc sâu 10 cm, bằm đất dưới hốc thật nhuyễn, rãi Basudin xuống
hốc 2 kg/1.000 m2, đặt củ gừng xuống đè cho tiếp xúc với đất rồi phũ lên một lớp phân hữu
cơ 5-7 cm, dùng thùng vòi búp sen tưới đẩm rồi phũ lên một lớp rơm dầy giữ ẩm..
5. CHĂM SÓC
* Tưới nước: tưới 2 lần/ngày bằng thùng vòi búp sen đều đặn, tránh tình trạng tưới nước bằng
máy ngập cả liếp rồi vài ngày sau đó mới tưới trở lại làm cho lèn đất gừng sẽ không nẩy
mầm. Nếu có trời mưa thì không cần tưới thêm, nhưng trới nắng lại thì phải tưới nước.
Chú ý:
- Không để gừng thiếu nước, vì thiếu nước gừng chậm phát triển, kéo dài thời gian sinh
trưởng. Gừng là cây rất háo nước nhưng lại không chịu úng.
- Chất lượng nước tưới: Nước phải tốt không bị nhiểm phèn chua, nếu tưới nước phèn thì
gừng bị đén chậm phát triển.
- Khi gừng có củ có thể áp dụng phương pháp tưới thấm vào chiều mát rồi rút nước ra nhanh
vì gừng không chịu ngập úng (chỉ áp dụng cho loại đất nhẹ thoát nước tốt).
* Bón phân: tổng lượng phân cần dùng cho 1.000 m2: Urea 50 kg, Super lân 100 kg (bón lót
toàn bộ), Kali 10 kg (bón lót 5 kg).

Khi gừng lên cây khoảng 30% thì pha một muỗng canh ure vào thùng 20 lít tưới. Tưới 2-3 lần
mỗi lần cách nhau 4-5 ngày.
Khi thấy bụi gừng có từ 2-3 cây con tiến hành bón thúc 7 ngày một lần với liều lượng 5 kg
ure rãi cách gốc 10 cm. Mỗi tháng kết hợp làm cỏ và xới xung quanh chống lèn đất.
Kali còn lại bón rãi vào 90 ngày sau khi trồng.


Trong trường hợp có trồng xen: Khi ta bón phân cho cây trồng xen (phân này phải mua thêm)
gừng cũng hấp thu lượng phân này nên không cần tưới phân thêm cho gừng. Khi thu hoạch
dứt điểm cây trồng xen, ta tiến hành bón phân thúc như đã nêu trên.
Chú ý: Không cho phân bám trên lá gừng làm cháy lá
* Vun gốc: tiến hành vun gốc khi cây có 3-4 cây con/bụi, bỏ phân hữu cơ thẳng vào gốc cao
khoảng 5 cm. Sau đó đấp lên một lớp đất mỏng khoảng 1-2 cm. Biện pháp tốt nhất là trộn
50% đất và 50% phân hữu cơ để vun gốc. Khi thấy củ non lồi lên mặt đất thì vun gốc tiếp tục.
Chú ý: Phải thường xuyên theo dõi gừng, nếu thấy lồi củ thì vun gốc. Không nhất thiết phải
vun gốc đồng loạt. Tránh trường hợp vun gốc quá dầy sẽ làm củ gừng vươn dài, ốm không
đạt yêu cầu.
* Làm cỏ xới gốc: cần làm sạch cỏ dại, vì cỏ dại mang mầm bệnh lây lan cho gừng, kết hợp
xới xáo làm cho đất thoáng xốp tránh được hiện tượng lèn đất giúp gừng sinh trưởng dễ dàng.
* Trồng xen: việc trồng xen trên ruộng gừng vào mùa khô có ý nghĩa rất lớn. Ngoài việc làm
tăng thu nhập nó còn giúp giữ ẩm, che mát và thúc bách chúng ta tưới nước cho gừng.
Cây trồng xen được chọn phải là những cây háo nước, thời gian sinh trưởng dưới 2 tháng
như: Dưa leo chuột, bắp nù... Nếu trồng Bắp nù thì khi thu hoạch chỉ nên thu trái chừa cây lại
che mát cho gừng hoặc chỉ cần chặt nữa cây, dần dần khi gừng quen nắng mới chặt hết cây và
phủ lại để giữ ẩm.
6. PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH
* Cào cào, châu chấu: chỉ cắn phá lá, gây thiệt hại không lớn, nên phun các loại thuốc có mùi
hôi để xua đuổi chúng.
* Bệnh cháy lá: là bệnh rất phổ biến, có hai dạng
+ Cháy từ chóp lá vào: vết bệnh màu vàng cam thường không có hình dạng đặt biệt, bệnh

phát triển mạnh tơ nấm sẽ chui vào nách lá tấn công xuống củ làm chết cả cây.
+ Vết cháy: lúc đầu nhỏ hình tròn đến bầu dục, trong vết bệnh có những chấm đen, sau đó vết
bệnh lớn dần và kết dính lại với nhau làm cháy cả lá. Đặc điểm nhận dạng là vết bệnh luôn có
các chấm đen. Phòng trị: Carbebzim, Tilt, Bavistin... theo liều chỉ định.
* Bệnh thối củ: đây là bệnh gây hại lớn nhất trên gừng và không có thuốc trị hữu hiệu. Bệnh
do vi khuẩn Pseudomonas solanascerum và Ewinia sp. gây nên. Dùng thuốc gốc đồng để tưới
vào rễ.
Triệu chứng: cây gừng đang xanh tốt, bổng dưng bị héo đột ngột vào giữa trưa, vài hôm sau
toàn bộ cây bị vàng, khi nhổ lên đỉnh sinh trưởng sẽ có nhựa đục như sữa. Bệnh lây lan rất
nhanh nếu thấy bệnh xuất hiện cần thu hoạch sớm để tránh thiệt hại.
7. THU HOẠCH


Tiến hành thu hoạch khi củ gừng chưa có xơ, tuy nhiên cũng không quá non vì thu khi chế
biến củ bị nhăn nhúm giảm chất lượng. Nếu chăm sóc tốt, bón phân, tưới nước đầy đủ thì thu
hoạch vào 110-120 ngày tuổi. Tiêu chuẩn củ thương phẩm:
* Loại I: Trọng lượng củ trên 200 g, đường kính chổ to nhất trên 4 cm, không có xơ.
* Loại II: Trọng lượng củ dưới 200 g, không xơ, hoặc đường kính củ chổ to nhất nhỏ hơn 4
cm.
Khi thu hoạch rữa sạch sẽ, chặt cây chừa lại 2 cm. Chú ý không làm gẫy củ vì củ gẫy nhỏ sẽ làm giảm
tỉ lệ loại I.

CÂY BÍ ĐỎ
Tên khoa học: Cucurbita pepo
Cucurbita moschata
Họ bầu bí: Cucurbitaceae
ThS. Trần Thị Ba
Bộ môn Khoa Học Cây Trồng
Khoa Nông Nghiệp & Sinh học ứng dụng, Trường ĐHCT
1. GIỚI THIỆU

Bí đỏ có nguồn gốc Trung Mỹ, gồm 25 loài nhưng phổ biến nhất ở vùng nhiệt đới là C.
pepo và C. moschata, còn C. maxima thì thích hợp ở vùng khí hậu mát.
Sản phẩm sử dụng chính là trái giàu vitamin A, trái chứa 85 - 91% nước, chất đạm 0,8 - 2
g, chất béo 0,1 - 0,5 g, chất bột đường 3,3 - 11 g, cho năng lượng 85 -170 kJ/100 g. Ngoài
ra, hoa, lá và đọt non cũng được dùng làm rau ăn.
2. ĐẶC TÍNH SINH HỌC
Rễ: Hệ thống rễ phát triển mạnh, rễ chính ăn sâu và rễ phụ ăn lan rộng nên khả năng chịu
hạn tốt. Cây có khả năng phát triển trên đất hơi phèn hoặc mặn. Đây là cây rau được chú ý
canh tác đầu tiên trên những vùng đất mới khai phá.
Thân: Thân bò có tua cuốn, thân dài ngắn tuỳ giống, thân tròn hay có gốc cạnh. Thân có
khả năng ra rễ bất định ở đốt. Tua cuốn phân nhánh mọc ở đốt thân.
Lá: Lá đơn, mọc cách, cuống dài, phiến lá rộng, tròn hay gốc cạnh, có xẻ thùy sâu hay cạn,
màu xanh hay lốm đốm trắng.
Hoa: Hoa đơn phái cùng cây, to, cánh màu vàng, thụ phấn nhờ côn trùng. Trong điều kiện
khí hậu không thuận hợp cây sinh ra hoa lưỡng tính hay hoa đực bất thụ.
Trái: Đặc điểm của cuống trái là một đặc tính dùng để phân biệt các loài bí trồng. Cuống
trái mềm hay cứng, tròn hay gốc cạnh, đáy cuống phình hay không. Vỏ trái cứng hay mềm,
trơn láng hay sần sùi, màu sắc vỏ trái thay đổi từ xanh đậm tới vàng, hơi trắng. Hình dạng
trái rất thay đổi từ tròn, oval tới dài. Thịt trái dầy hay mỏng, màu vàng đỏ đến vàng tươi.


Ruột chứa nhiều hột nằm giữa trái.
Bí đỏ thích nghi rộng với điều kiện vùng nhiệt đới, bí có thể trồng ở đồng bằng cho đến
cao nguyên có cao độ 1.500 m. Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển từ 18
- 27oC. Cây sinh trưởng tốt trong điều kiện cường độ chiếu sáng mạnh, có khả năng chịu
hạn khá nhưng nếu khô hạn quá dễ bị rụng hoa và trái non.
Nhiệt độ và độ dài ngày đều có ảnh hưởng trên sự hìanh thành tỉ lệ hoa đực và cái trên cây.
Ngày dài và nhiệt độ cao thích hợp cho cây ra nhiều hoa đực.
Cây không kén đất nhưng đòi hỏi phải thoát nước tốt, vì cây chịu úng kém nhưng chịu khô
hạn tốt. Ẩm độ cao không thích hợp cho cây phát triển vì dễ phát sinh bệnh trên lá.

3. GIỐNG
Các giống địa phương trồng phổ biến. Hai giống được ưa chuộng nhất là:
- Giống Bí Vàm Răng: Trồng phổ biến ở Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng. Trái tròn dẹp,
có khía, nặng 3 - 5 kg, trái già màu vàng, vỏ hai da, thịt dầy, dẻo, màu vàng tươi, phẩm
chất ngon.
- Giống Bí trái dài Ban Mê Thuộc: Trồng phổ biến ở miền Đông Nam Bộ và cao nguyên.
Trái bầu dục dài, nặng 1 - 2 kg, vỏ vàng xanh hay vàng, trơn láng hay sần sùi, thịt mỏng,
màu vàng tươi đến vàng cam, ít dẻo, ngon ngọt.
4. KỸ THUẬT TRỒNG
4.1. Thời vụ
Bí đỏ trồng được quanh năm, tùy theo điều kiện đất và nước từng nơi mà bố trí trong mùa
khô hay mùa mưa. Mùa khô gieo tháng 11 - 1 dl, thu hoạch tháng 3 - 4 dl; mùa mưa gieo
tháng 5 - 6, thu hoạch tháng 8 - 9 dl.
4.2. Làm đất
Bí đỏ rất dễ trồng không kén đất, có thể trồng trên đất bờ hoặc đất ruộng sau mùa lúa,
nhưng tốt nhất là đất mới khai phá. Kỹ thuật làm đất bí tương tự như làm đất trồng dưa
hấu. Đất được cuốc lên líp đôi, khoảng cách giữa 2 tim mương 5 - 6 m, mương rộng 0,4 0,6 m, mặt luống rộng 0,7 m, cao 0,2 - 0,3 m, khoảng cách cây trên luống 0,5 - 0,7 m, mật
độ 5.500 - 7.500 cây/ha.
4.3. Gieo hạt
Hột gieo thẳng hoặc gieo trong bầu, thường ngâm ủ cho nẩy mầm trước khi gieo. Lượng
giống gieo 1 - 1,5 kg/ha tùy giống. Cây con đem trồng có 1 - 2 lá nhám.
4.4. Chăm sóc


4.4.1 Bón phân
Công thức phân áp dụng và cách bón như sau cho 1 ha:
N: từ 230- 250 kg
P2O5: 150-200 kg
K2O: 90 -100 kg
Loại phân

Phân chuồng (m3)
Vôi (kg)
Phân 16-16-8
Uree (kg)
DAP (kg)
KCl (kg)

Lượng
phân
30
1.000
600
250
150
100

Bón lót

Thúc lần 1
(20NSKT)

30
1.000
200

Thúc lần 2 (40Thúc nuôi trái
NSKT)

200
120


200
250

30
100

NSKT: Ngày sau khi gieo
Ngoài lượng phân trên có thể phun phân qua lá định kỳ 7-10 ngày/lần như Bayfolan, HVP,
Komix, Bioted... với nồng độ khuyến cáo trên nhản chai thuốc giúp cây khoẻ mạnh, tăng
trưởng nhanh, cho trái tốt.
4.4.2 Tưới nước: Cung cấp đầy đủ nước trong mùa khô, nhất là giai đoạn ra hoa. Thoát
nước tốt trong mùa mưa không để rễ cây bị úng.
4.4.3 Tạo hình: Khi bí dài 1m, lấy đất đắp đoạn thân giúp cây phát triển rễ phụ tăng khả
năng hút chất dinh dưỡng, cây sinh trưởng tôt hơn. Bí có khả năng đâm nhánh mạnh nên ra
rất nhiều nhánh. Mỗi cây chỉ nên chừa 2 - 4 nhánh tốt nhất hoặc dây chánh và 1 - 2 dây
nhánh, tiả hết các nhánh khác làm rau ăn để cây tập trung dinh dưỡng nuôi trái. Cũng tỉa
bớt các lá chân hoặc lá vàng úa, giúp thông thoáng ong bướm dể tìm hoa hút nhụy, tăng tỉ
lệ đậu trái.
4.4.4. Để trái: Hoa đực ở bí đỏ rất nhiều gấp hơn 20 lần hoa cái, hoa đực có sớm hơn hoa
cái vài ba ngày. Khoảng 35 ngày sau khi trồng hoa cái bắt đầu nở. Hoa nở vào buổi sáng
sớm, thường thì hoa đực và hoa cái trên một cây nở hoa không cùng lúc mà hạt phấn chỉ
thụ tinh trong vài giờ, vì vậy thụ phấn nhân tạo rất cần thiết để đảm bảo năng suất. Ngắt
hoa đực, bỏ hết đài và cánh hoa, quét nhị đực lên nướm vòi nhụy. Không nên phun thuốc
trừ sâu xông hơi mạnh trong thời gian chấm nụ. Mỗi cây thường để 1 - 3 trái tùy theo
khoảng cách trồng và độ phì của đất.
4.4.5. Phòng trừ sâu bệnh: tương tự như trên dưa hấu, khổ qua.
5. THU HOẠCH



Nếu ăn ngay hoặc tiêu thụ nhanh tại điạ phương có thể thu trái non (khoảng 30 ngày sau
khi đậu trái), trái thu non hái được nhiều trái và dây lâu tàn. Nếu để dự trử lâu nên thu khi
trái thật già vỏ cứng có màu vàng, có lớp sừng, có phấn, cuống vàng và cứng (khoảng 3 - 4
tháng sau khi trồng) tùy theo giống, dùng dao cắt cả cuống đem về bôi vôi vào mặt cắt giữ
nơi thoáng mát. Năng suất 20 - 30 tấn/ha.
6. ĐỂ GIỐNG
Cần chọn trái đều đặn, nằm trên dây chính, thật già, vỏ cứng chắc, thu hoạch khi dây đã
tàn, cất giữ trong nhà ít nhất 1 tháng mới bổ ra lấy hạt. Hạt được rửa sạch, phơi khô để vào
chai kín cất giữ.
:: Trang chủ
:: Giới thiệu
:: Kỹ thuật trồng
:: Sâu hại
:: Bệnh hại
:: Thuốc BVTV
:: Hỏi đáp
:: Tài liệu
:: Tìm kiếm
:: Hướng dẫn

Bệnh thán thư ớt
TRIỆU CHỨNG BỆNH
Bệnh thường gây hại nặng trong mùa mưa và có nhiệt độ cao, mùa nắng bệnh ít gây hại hơn.
Bệnh thường gây hại từ già đến chín, nếu giống mẫn cảm bệnh gây hại cả trên trái non.


×