Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.27 KB, 19 trang )

Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

.PHẦN I : PHẨN MỞ ĐẦU
1/ Lý do chọn đề tài:
Chữ viết là một phương tiện giao tiếp giữa con người với con người, bên
cạnh ngôn ngữ nói. Muốn cho mọi người đọc được chữ viết của mình, người viết
phải viết đúng, rõ rãng, đẹp. Nếu viết chữ sai nhiều, viết ngoáy, viết chữ quá xấu sẽ
gây khó khăn cho người đọc hoặc chính bản thân mình khi không đọc được chính
chữ mình viết.
Chữ viết không chỉ đơn thuần là công cụ giao tiếp và trao đổi thông tin, là
phương tiện để tiếp nhận tri thức mà nó còn thể hiện tính cách của con người.
Cha ông ta từ xưa đã có câu “Nét chữ, nết người”. Đúng vậy, nhìn vào nét chữ
người ta đánh giá tính cách của con người. Nếu chữ viết đầy đủ, nét đều và đẹp thì
người ta đánh giá cao con người đó tính cẩn thận, chu đáo. Còn ngược lại nét chữ
viết nguệch ngoạc, sai dấu, sai lỗi nhiều thì người ta sẽ nghĩ ngay chủ nhân của chữ
viết đó có tính cẩu thả, luộm thuộm.
Việc rèn luyện chữ viết cho học sinh tiểu học là vô cùng quan trọng và cần
thiết. Bởi chữ viết của học sinh, đặc biệt là của học sinh đầu cấp Tiểu học đặt nền
móng cơ bản cho toàn bộ quá trình học tập, rèn luyện cho học sinh những phẩm
chất đạo đức tốt như: Tinh thần kỉ luật, tính cẩn thận và óc thẩm mĩ.
Bộ giáo dục đã nhiều lần thay đổi chữ viết ở Tiểu học.Sau nhiều lần thay
đổi, chúng ta lại quay về với mẫu chữ mềm mại, thanh gọn trước kia nhằm giúp
học sinh viết chữ đẹp hơn. Tuy nhiên sau mỗi lần thay đổi lại có những điều làm
được và chưa làm được. Thực trạng chữ viết của học sinh hiện nay còn xấu và
thiếu chính xác. Các em còn viết sai, viết quá chậm. Có những em học sinh viết
đúng, nhanh, làm tính giỏi nhưng viết quá xấu, trình bày không sạch sẽ, rõ ràng thì
không thể trở thành một học sinh giỏi toàn diện được. Điều đó ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng học Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung. Hơn
nữa chữ viết hoa hiện hành là kiểu chữ đẹp nhưng lại khó viết, đặc biệt là đối với


các em học sinh đầu cấp. Các nét cong, nét lượn mềm mại và thay đổi liên tục
trong một con chữ. Để tạo dáng thẩm mĩ, các nét cơ bản ở chữ cái viết hoa thường
có biến điệu chứ không như chữ cái viết thường. Là một giáo viên dạy lớp, tôi
nhận thấy tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt. Việc
rèn luyện kĩ năng viết chữ cho học sinh, nhất là học sinh lớp 1, lớp 2 lại càng quan
1


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

trọng hơn. Vậy nên, tôi rất muốn giảng dạy môn tập viết thật tốt để học sinh viết
đẹp hơn, sạch hơn và cẩn thận hơn. Đó cũng là nhằm nâng cao chất lượng dạy –
học. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết
người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện
cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như với thầy và bạn đọc
bài vở của mình…”.
Chính vì thấy được tầm quan trọng của môn Tập viết, tôi đã đi sâu tìm hiểu,
học hỏi, nghiên cứu và đã rút ra những biện pháp giúp học sinh viết chữ đẹp, góp
phần giáo dục các em trở thành những con người phát triển toàn diện, có ích cho
đất nước.

2/ Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
a/ Mục tiêu của đề tài:
- Giúp học sinh lớp 2 nắm được cấu tạo của các con chữ viết hoa, các từ và câu
ứng dụng theo mẫu hiện hành.
-Từ việc nắm chắc cấu tạo các con chữ, giúp các em viết đúng, đẹp, thành thạo
hơn các bài tập viết cũng như khi viết các môn học khác.
b/ Nhiệm vụ của đề tài:

- Nghiên cứu về thực trạng học tập viết của học sinh trong lớp,tình hình chữ
viết hiện tại của các em học sinh lớp 2 trong nhiều năm gần đây. Ảnh hưởng của
việc dạy môn Tập viết của giáo viên trong việc rèn chữ đối với học sinh.
- Từ thực tiễn, kinh nghiệm của bản thân sau nhiều năm trực tiếp giảng dạy học
sinh lớp 2, tìm tòi ra các biện pháp phù hợp ,có hiệu quả nhất để góp phần luyện “
nét chữ -nết người” cho học sinh.

3/ Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của tôi là học sinh lớp 2

4/ Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:
Học sinh lớp 2 từ năm học : 2011- 2012; 2012- 2013; 2013- 2014 và học kỳ I
của năm học 2014- 2015 trường Tiểu học Kim Đồng –Thành phố Buôn Ma Thuột
– Tỉnh Đắc Lắc .

5/ Phương pháp nghiên cứu :
Để tiến hành nghiên cứu, tôi đã kết hợp các phương pháp sau:
2


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

* Phương pháp quan sát : Quan sát học sinh khi các em viết trên bảng con
hoặc trong vở .
* Phương pháp làm mẫu : GV viết mẫu hoặc bạn viết mẫu trên bảng
* Phương pháp so sánh : So sánh điểm giống và khác nhau giữa các chữ
trong nhóm.
* Phương pháp luyện tập thực hành: Luyện viết thành thạo, đúng các nhóm

chữ trong các giờ luyện viết.
* Phương pháp nêu gương: kể những mẩu chuyện, những tấm gương kiên
trì luyện chữ cho các em nghe.

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I/ CƠ SỞ LÍ LUẬN
Trên cơ sở các em đã nhận diện, biết được các con chữ viết hoa, chữ viết
thường theo cỡ vừa và nhỏ từ lớp một. Các em đã biết được hình dáng, kích cỡ các
con chữ viết hoa (cỡ vừa và nhỏ), bước đầu biết cách viết theo đúng quy trình.Trên
cơ sở đó ,tôi muốn hình thành cho các em kỹ năng viết chữ đúng, đẹp cũng như
tính chăm chỉ,cẩn thận và làm cho các em hứng thú hơn với việc viết chữ đẹp càng
yêu thích học môn Tập viết.
Lớp 1, lớp 2, là những lớp đầu cấp bậc Tiểu học, do tay các em còn yếu nên
khả năng viết chữ của các em còn nhiều hạn chế, tốc độ viết của các em còn rất
chậm, chưa có sự tập trung khi viết. Ở lớp 1, các em mới được làm quen với chữ
viết thường cỡ vừa và nhỏ, số chữ viết trong bài còn ít. Lên lớp 2, các em bắt đầu
học cách viết chữ viết hoa cỡ vừa và nhỏ, các cụm từ và câu ứng dụng, kiểu chữ
nghiêng cỡ nhỏ.Số lượng chữ viết trong mỗi bài cũng được tăng lên rất nhiều so
với lớp 1.Chính vì thế , các em cần phải được tìm hiểu sâu hơn,được hướng dẫn kỹ
hơn để dần hình thành các kỹ năng viết chữ đúng, đẹp làm nền tảng cho các lớp
trên.
II/ THỰC TRẠNG
a./Thuận lợi - khó khăn
- Thuận lợi:
Trong những năm trở lại đây, việc rèn luyện chữ viết cho học sinh Tiểu học
được Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục, đặc biệt là Ban giám hiệu, các
3


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2


Gv: Phạm Thị Hà

thầy,các cô và các bậc phụ huynh rất quan tâm. Chính vì thế, mục tiêu rèn chữ cho
học sinh lớp 1cũng như lớp 2 được đặt lên hàng đầu.
Mỗi giáo viên được trang bi bộ chữ dạy Tập viết.
Giáo viên được tham dự những chuyên đề về tập viết và các cuộc thi “Viết chữ
đẹp”, để học hỏi và trau dồi kiến thức, trau dồi kinh nghiệm.
Hàng tuần, học sinh đều có thêm tiết học để luyện viết thêm.
Nội dung các bài tập viết rõ ràng, phù hợp và cụ thể. Đặc biệt, học sinh còn
được luyện thêm về cách viết chữ nghiêng.
- Khó khăn: Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy vẫn còn gặp một số hạn chế
như:Bàn ghế của học sinh chưa được phù hợp với các em, vở tập viết của các em
giấy quá mỏng nên khi viết chữ hay bị nhòe mực, bài viết của học sinh quá dài nên
học sinh viết bài không xong…
b./ Thành công – Hạn chế:
- Thành công :
Tình hình chữ viết của học sinh mà tôi trực tiếp giảng dạy năm nào cũng có
sự tiến bộ rõ rệt. Chữ viết của các em cuối năm đúng và đẹp hơn rất nhiều so với
đầu năm. Năm sau có nhiều học sinh viết chữ đẹp hơn năm trước.
- Hạn chế:
Một số học sinh chữ viết không đúng mẫu, các nét chữ còn cứng, chưa có sự
mềm mại. Học sinh chưa hình thành được cách viết chữ nghiêng, chữ sáng tạo.
c./ Mặt mạnh- Mặt yếu:
- Mặt mạnh:
Đa số học sinh yêu thích việc viết chữ,nhất là các chứ viết hoa. Có nhiều phụ
huynh quan tâm đến việc rèn chữ cho con, em mình.
Để thực hiện đề tài này, bản thân tôi đã đầu tư nhiều thời gian nghiên cứu các
tài liệu hướng dẫn giảng dạy môn Tập viết, học hỏi kinh nghiệm từ các đồng
nghiệp cũng như tham khảo ý kiến đóng góp của chuyên môn nhà trường. Hơn

nữa, trong thời gian 9 năm trực tiếp giảng dạy lớp 2, bản thân tôi cũng đã tích lũy
được một số kinh nghiệm trong việc rèn chữ viết cho học sinh.
- Mặt yếu:
Trình độ học sinh không đồng đều nên gặp nhiều khó khăn trong việc kèm các
cháu học tập, đặc biệt là trong môn Tập viết.
4


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

So với các môn học khác thì môn tập viết không được học sinh và phụ huynh quan
tâm đầu tư nhiều thời gian cho lắm . Nhiều học sinh cho rằng đã có chữ mẫu ở
trong vở, cứ nhìn theo mà viết nên các em không chú ý lắm trong các giờ tập viết.
d./ Nguyên nhân và các yếu tố tác động- Đối với giáo viên: Về cơ bản, giáo viên Tiểu học chữ viết đạt chuẩn theo
mẫu. Tuy vậy, tỉ lệ giáo viên viết chữ đẹp chưa cao. Có những giáo viên còn viết
theo thói quen của mình. Việc chuẩn bị cho một giờ dạy Tập viết chưa kỹ càng,
chu đáo. Trong môn Tiếng Việt, chưa thực sự coi trọng phân môn Tập viết như các
môn khác. Vì thế, chưa tạo được sự hứng thú cho các em khi dạy và học phân môn
này. Trong khi tiến hành giờ dạy, một số giáo viên chưa hướng dẫn học sinh một
cách cơ bản và tỉ mỉ về việc viết chữ đúng mẫu, chưa kết hợp nhuần nhuyễn việc
dạy viết chữ với việc giải nghĩa từ, chưa hướng dẫn học sinh cách trình bày bài
trong vở mà làm cho giờ tập viết trở nên nhàm chán đối với học sinh.
- Đối với học sinh : Khả năng tập trung chú ý của các em trong giờ tập viết
chưa cao, bởi vì nhiều em cho rằng: “ đã có mẫu chữ , cứ nhìn vào đó mà viết”.
Nhiều em muốn được viết bút máy nhưng do giấy trong vở tập viết mỏng quá , khi
viết hay bị thấm mực nên vở trông rất bẩn gây cho các em cảm giác chán nản,
không còn hứng thú muốn nắn nót để viết chữ đẹp nữa.
e./ Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:

- Ở lớp 1 các em học môn tập viết chỉ dừng lại ở việc viết những con chữ độc
lập, rồi sau đó viết đến chữ và từ bằng chữ viết thường; tốc độ viết của các em còn
chậm, bài tập viết của các em cũng ngắn hơn . Sự khác biệt giữa môn tập viết lớp 2
với lớp 1 là các em tập viết chữ viết hoa, từ và câu ứng dụng . Chỉ sau thời gian 3
tháng nghỉ hè các em đã phải tiếp cận ngay với chữ viết hoa có nhiều nét cong,
vòng, lượn phối hợp với nhau để tạo nên một con chữ.Chẳng những thế, các em
còn phải viết cả câu ứng dụng theo nội dung từng bài. Điều đó rất mới mẻ và cũng
rất khó khăn cho các em nên trong các tiết Tập viết đầu năm giáo viên thì rất vất vả
nhưng hiệu quả thu được thì chẳng được bao nhiêu vì đa số các em viết không
xong bài theo yêu cầu, các nét chữ hoa chưa được mềm mại; chữ không dúng độ
cao, độ rộng nên không được đẹp…
Khi viết các em tì tay mạnh , giấy trong vở tập viết lại mỏng nên mực thấm từ
trang nọ sang trang kia trông rất là xấu . Bảng con là một đồ dùng không thể thiếu
5


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

trong khi học tập viết, thế mà bảng con của các em cái to,cái nhỏ ; bảng thì có 4 ô,
cái thì có 5 ô nên việc hướng dẫn các em gặp rất nhiều khó khăn, nhất là điểm đặt
bút và dừng bút. Nhiều em do thói quen cầm bút (có thể là do bắt chước người lớn
hay giáo viên các lớp dưới ) dựng đứng bút không có độ nghiêng nên khi viết bút
không chạy mà còn cào rách cả giấy. Đa số các em cầm bút rất chặt nên chóng mỏi
tay và khó điều khiển bút theo mong muốn nên tốc độ viết của các em chẳng
những chậm mà còn không đẹp, không đúng.
Ở lứa tuổi các em vẫn còn ham chơi hơn ham học, chính vì vậy mà các em
không được tập trung khi viết bài. Hơn nữa đồ dùng phục vụ cho môn tập viết chỉ
có bộ chữ mẫu và cái bảng nên các em cảm thấy môn học này nhàm chán hơn

những môn học khác có nhiều đồ dùng, tranh ảnh.
Một số em trong thời gian nghỉ hè, phụ huynh cũng đã cho tập viết trước, chữ
viết của nhiều em chưa được đúng với mẫu chữ của Bộ Giáo duc quy định. Khi
dạy giáo viên phải uốn nắn,sửa chữa laị cho các em nhưng vì các em đã viết thành
thói quen nên rất khó. Nhiều phụ huynh cho rằng các em chỉ cần viết đúng chính tả
là được rồi, bởi vì họ vẫn còn quan niệm “chữ đẹp nhờ hoa tay”; hay là chỉ cần đọc
thông viết thạo là được.
Đối với các em bàn ghế vừa tầm chẳng những giúp các em ngồi học thoái mái
hơn,chữ viết đẹp hơn mà còn giúp các em phát triển bộ xương một cách cân đối,
phòng được nhiều bệnh về xương ,về mắt cho các em .Vì vậy nếu thấy bàn ghế
không phù hợp với các em thì tôi đề xuất với nhà trường sắp xếp lại cho phù hợp.
III/ BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP
1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Các biện pháp và giải pháp đưa ra nhằm góp phần nâng cao kết quả trong dạy
tập viết và việc rèn chữ của các em, giúp cho chữ viết của các em ngày càng đẹp
hơn, rõ ràng hơn . Qua đó cùng góp phần rèn tính cẩn thận và bồi dưỡng óc thẩm
mĩ cho các em, đồng thời hình thành cho các em những nhân cách của con người
Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp , biện pháp:
Bước vào tiếp xúc với chương trình lớp 2, điều mà tôi đã suy nghĩ rất nhiều
là làm thế nào để rèn luyện cho các em viết chữ cẩn thận, đúng và đẹp . Vì vậy tôi
6


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

đã nghiên cứu, học hỏi đồng nghiệp để đưa ra những biện pháp giúp học sinh viết
chữ đẹp. Sau đây là một số suy nghĩ và việc mà tôi đã làm:

a . Những điều kiện về cơ sở vật chất:
-Ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế của học sinh:
Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc viết chữ và sức khỏe của
học sinh. Hiện nay hầu hết các trường Tiểu học trong nội thành đều đảm bảo các
yêu cầu cơ bản về ánh sáng, nhất là đối với trường tôi – một trường đã đạt chuẩn
quốc gia. Ánh sáng theo tiêu chuẩn học đường có bảng chống lóa, có dòng kẻ rõ
ràng, bàn ghế đúng kích cỡ tiêu chuẩn đối với học sinh lớp 2.
-Đồ dùng học tập của học sinh:
Từ loại bút và mực thích hợp đến cách chọn vở, chọn bảng và phấn viết
cũng được tôi lưu tâm đến. Ngay từ ngày đầu nhận lớp, tôi đã hướng dẫn học sinh,
phụ huynh tìm mua cho các em những quyển vở có đường kẻ tin đều, rõ ràng và
khi viết không bị nhòe mực. Tôi cũng đã nhắc học sinh trước khi viết bài vào vở
phải lau sạch tay, phải có giấy lót tay để tránh một số em tay ra mồ hôi làm nhòe
chữ.
Thực tế dạy viết hiện nay cho thấy việc sử dụng bảng con trong việc rèn chữ
cho học sinh, đặc biệt học sinh lớp 1, lớp 2 vẫn là tối ưu nhất. Bảng của học sinh
làm bằng chất liệu meca, mặt trước màu trắng, dùng bút dạ viết bảng còn mặt sau
màu đen dùng để viết phấn rất thuận tiện nhưng cũng có hạn chế: bảng con có loại
kẻ ô to, nhưng có loại thì kẻ ô nhỏ gây khó khăn khi hướng dẫn học sinh viết cho
nên trong buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đưa ra những quyển vở, bút chì, bút
mực để phụ huynh tham khảo. Riêng bảng con,để tránh tình trạng như tôi nêu ở
trên thì ngay từ đầu năm học tôi đã thống nhất với phụ huynh và học sinh chỉ sử
dụng một loại bảng Thiên Long có 5 dòng kẻ như trong vở viết của các em để tiện
hướng dẫn các em viết. Tôi cũng quy định sử dụng bút dạ loại nhỏ, vừa tay cầm
của học sinh để các em dễ điều khiển bút khi viết chữ.
b. .Sử dụng các đồ dùng trực quan khi dạy tập viết:
*.Những đồ dùng dạy tập viết hiện nay:
Trong luyện viết cho học sinh thì đồ dùng trực quan có tác dụng không nhỏ,
nó hỗ trợ và là phương tiện giúpcho việc luyện viết của học sinh. Những đồ dùng
này nhằm mục đích là giúp học sinh khắc sâu những biểu tượng về chữ viết, có ý

7


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

thức viết đúng mẫu và tạo không khí sôi nổi, phấn chấn trong quá trình dạy viết
chữ theo hướng “Đổi mới phương pháp dạy học”. Đồ dùng trực quan có thể sử
dụng trong quá trình dạy bài mới, luyện tập hoặc củng cố bài học.
Mẫu chữ trong khung chữ phóng to theo bảng mẫu chữ hiện hành treo trên
lớp. Bảng mẫu chữ cần cố định thường xuyên để giáo viên có thể chủ động sử
dụng khi cần thiết không chỉ trong giờ tập viết mà ngay trong cả những môn học
khác khi có học sinh viết chưa đúng mẫu chữ.
Bộ mẫu chữ in theo quy định cho giáo viên.
* .Đồ dùng tự làm đạt hiệu quả trong việc dạy – học Tập viết:
Để việc dạy tập viết có hiệu quả, giáo viên có thể nghiên cứu tự làm các loại
đồ dùng trực quan rất hữu ích cho việc dạy Tập viết như: chữ mẫu phần từ úng
dụng để học sinh nhìn rõ cách viết, điểm đặt bút từ đâu đến đâu để viết cho liền
mạch và giúp cho thao tác của giáo viên được nhanh hơn. Hay loại đồ dùng tự làm
cũng rất tiện lợi cho các loại bảng con có đính nam châm ở sau để viết trực tiếp lên
bảng cho học sinh lên viết, học sinh ngồi dưới cũng dễ dàng nhận xét.
c. Tư thế ngồi và cách cầm bút:
Để giúp các em viết được những nét chữ, đúng mẫu,đẹp tôi đã hướng dẫn cả
lớp tư thế ngồi viết : “ Các em phải ngồi tư thế ngay ngắn, lưng thẳng, không được
tì ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, mắt cách trang giấy khoảng 25 – 30 cm”. Tư thế
ngồi viết không ngay ngắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết. Ngồi nghiêng vẹo sẽ
kéo theo chữ viết không thẳng, bị lệch dòng. Không những thế còn có hại cho sức
khỏe, sẽ bị cận nếu cúi sát vở, vẹo cột sống, gù lưng, phổi bị ảnh hưởng…nếu ngồi
viết không ngay ngắn. Trước mỗi giờ viết bài, đặc biệt là giờ học Tập viết tôi

thường yêu cầu các em nhắc lại tư thế ngồi viết bằng câu hỏi “ Muốn viết đẹp các
em phải ngồi thế nào?”. Dần dần các em sẽ có thói quen ngồi đúng tư thế.
Một việc hết sức quan trọng giúp cho việc viết chữ đẹp là cách cầm bút và
cách đặt vở trên bàn. Điều này các em được tôi hướng dẫn kĩ càng: “ Khi viết, các
em cần cầm bút bằng ba ngón tay ( ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa)của bàn tay phải,
đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón giữa phía bên trái, phía bên phải của đầu bút
tựa vào đầu đốt giữa ngón tay giữa”. Tôi cũng lưu ý các em cầm bút vừa phải. Vì
nếu cầm bút sát ngòi hoặc quá xa ngòi bút thì việc điều khiển bút khi viết sẽ khó
khăn, làm cho chữ xấu mà mực dễ bị giây ra tay, ra vở. Không cầm bút quá chặt vì
8


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

như vậy đưa nét bút rất khó, nhất là khi vòng các nét cong. Cầm bút chặt quá còn
làm cho các em chóng mỏi tay nên chữ sẽ xấu. Trước khi viết bài, tôi cũng luôn
hỏi học sinh cách đặt vở để các em có thói quen đặt vở cho đúng. Những yếu tố
tưởng chừng nhỏ nhặt, không quan trọng nhưng thực chất đã góp phần tích cực vào
việc rèn chữ cho học sinh.
d. Rèn kỹ năng viết cho học sinh:
Trong quá trình dạy tập viết và trong cách hướng dẫn học sinh, tôi sẽ củng cố,
nhắc lại và khắc sâu cho các em nhớ lại cách viết từ những ngày đầu các em cầm
bút ở lớp 1.
- Trước tiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhớ các đường kẻ trong bảng
con và trong vở Tập viết. Việc này góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng dạy viết chữ.
Vở tập viết của các em đã có sẵn đường kẻ, giáo viên cần hướng dẫn để các
em nắm được một số quy ước về cách gọi như dòng kẻ, đường kẻ….

- Giúp học sinh củng cố, nhớ lại và nắm chắc các nét cơ bản:
Từ những nét cơ bản này, các chữ cái sẽ được tạo thành. Với một số kinh
nghiệm bản thân cùng với sự trao đổi, học hỏi đồng nghiệp, tôi nhận thấy: Nếu học
sinh viết các nét cơ bản không đúng, không đẹp, thì việc viết xấu, viết sai là điều
không tránh khỏi. Vì vậy tôi sẽ củng cố lại cho các em cách viết các nét cơ bản.
Chú ý điểm đặt bút, dừng bút.
Chẳng hạn với nét khuyết xuôi, nét khuyết ngược, học sinh không rèn viết ngay
từ đầu thì dễ viết lệch, xấu sẽ dẫn đến những chữ được tạo bởi hai nét đó như: h, k,
g, y…cũng không được đẹp và đây cũng là hai nét khó mà học sinh thường lúng
túng khi viết.
Chú ý: Nét khuyết phải tròn, thon đều, không to quá, cũng không nhỏ quá
hoặc không bị vuông đầu và đặc biệt điểm gặp nhau của hai nét phải ở đường kẻ 2
từ dưới lên ( với nét khuyết xuôi), đường kẻ 1 ( với nét khuyết ngược).
Không chỉ vậy, muốn học sinh viết đẹp thì với những chữ khó viết, tôi thường
cho các em luyện viết lên bảng nhiều lần, đến khi nào học sinh viết tương đối đồng
đều thì lúc đó mới viết vào vở. Những học sinh nào viết bảng xấu, chậm, tôi
thường xuyên xuống tận nơi cầm tay uốn nắn cho các em viết đúng.
- Phân loại chữ cái theo nhóm:
9


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

Để thuận tiện cho công việc giảng dạy và học sinh dễ dàng hơn trong Tập viết,
tôi đã phân loại chữ cái theo các nhóm để các em dễ dàng ghi nhớ.
* Đối với chữ viết thường ,tôi phân thành 5 nhóm .
Nhóm 1: gồm các chữ có nét khuyết như : h, l, k,b, g, y. Các chữ trong nhóm
này đều có độ cao 2,5 ô li

Nhóm 2 : gồm các chữ : s, r .độ cao của chữ trong nhóm này là 1,25 ô li
Nhóm 3 : gồm sác chữ d, đ, p,q có độ cao 2 ôli
Nhóm 4 : gồm các chữ có độ cao 1 ô li như a, ă, â, c, e, ê, i, m, n, o, ô, ơ,u, ư, v,
x
Nhóm 5:là chữ t , có độ cao1,5 ô li
*Đối với chữ viết hoa, tôi phân thành 6 nhóm như sau:
Nhóm 1 gồm các chữ: U, Ư, X, Y
Nhóm 2 gồm các chữ: A, Ă, Â, M, N
Nhóm 3 gồm các chữ: P, R, B, D, Đ
Nhóm 4 gồm các chữ: I, K, H, V
Nhóm 5 gồm các chữ: C, E, Ê, G, L, S, T
Nhóm 6 gồm các chữ: O, Ô, Ơ, Q
Việc chia nhóm như vậy sẽ giúp học sinh so sánh được cách viết các chữ, tìm ra
những điểm giống nhau và khác nhau. Từ đó học sinh nắm chắc được cách viết và
các em sẽ viết được chuẩn hơn, đẹp hơn. Chính vì thế nên ngoài giờ tập viết theo
chương trình , tôi thường cho các em luyện thêm cách viết theo nhóm trong các tiết
luyện viết để các em viết các chữ một cách thành thạo hơn .
- Hướng dẫn viết nối nét:
Khi học sinh đã viết các con chữ đúng mẫu, thì việc hướng dẫn nối chữ cũng
rất quan trọng. Học sinh biết cách nối chữ thì bài viết mới rõ ràng đều và đẹp , mới
đảm bảo được tốc độ viết ở những lớp trên.
Tôi hướng dẫn kỹ học sinh cách điều tiết điểm dừng bút của chữ đứng trước
sao cho hợp lý.Ví dụ chữ “u” cần điều tiết điểm dừng bút của nét móc ngược thứ
nhất nằm ở giữa dòng kẻ thứ nhất, sau đó lia bút lên đường kẻ thứ hai để viết nét
móc ngược thứ hai. Còn khi nối từ chữ “ u” sang chữ “i” thì kéo cao nét móc
ngược thứ hai của con chữ “u” lên tận đường kẻ thứ hai rồi mới viết nét móc của
chữ i để tạo khe chữ cho rõ ràng . Ngoài ra giáo viên phải lưu tâm nhắc nhở học
10



Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

sinh viết khoảng cách giữa các chữ bằng một con chữ o, viết sát quá hoặc xa quá
đều không được.
- Viết dấu phụ, dấu thanh:
Đa số học sinh khi viết chữ thường hay dừng nét bút để đánh dấu phụ.
VD: Khi viết chữ “ trường” các em dừng bút đến 4 lần. Lần đầu các em nhấc
bút đánh dấu gạch ngang của chữ t. Lần thứ 2 các em lại dừng bút để bỏ dấu phụ
của chữ ư. Lần thứ 3 các em dừng bút để bỏ dấu phụ của chư ơ, rồi sau đó các em
mới viết tiếp con chữ n và con chữ g. Cuối cùng các em lại nhấc bút để đánh dấu
thanh để được chữ “ trường”. Như vậy tốc độ viết của các em sẽ chậm đi rất nhiều
mà chữ lại không liền nét nên không đẹp. Chính vì vậy, tôi hướng dẫn cho học sinh
phải viết liền mạch, sau đó mới đặt dấu phụ, cuối cùng mới đánh dấu thanh.
Dấu thanh không được viết to quá, bé quá và phải viết đúng vị trí. Thực tế
trong những năm dạy Tiếng Việt lớp 2 tôi thấy học sinh thường mắc tình trạng các
dấu thanh viết cao quá, ảnh hưởng lớn đến chất lượng chữ viết. Tôi luôn nhắc học
sinh dấu thanh viết vừa phải không quá đường kẻ thứ 3 kể từ dưới lên trong ô vở.
Dấu thanh được đánh gần chữ nhưng không được dính vào chữ.
Và đặc biệt lưu tâm đến những em hay viết dấu sai vị trí thường gọi lên bảng
viết nhiều lần để các bạn nhận xét.
Với học sinh tiểu học, nhất là học sinh đầu cấp, thường hiếu động, thiếu kiên
trì nên nhiều em không tự giác khi viết bài. Các em muốn viết thật nhanh chóng
cho hết bài để chơi. Để khắc phục điều này, tôi có quy định với học sinh: Viết từng
dòng theo hiệu lệnh của cô. Nhờ vậy, tránh được tình trạng viết nhanh, viết ẩu
trong quá trình viết của học sinh. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học
rất thích được khen ngợi. Vì vậy, đối với những em viết đẹp, có nhiều cố gắng thì
tôi sẽ động viên, tuyên dương trước lớp để các em khác học tập và noi theo.
Việc củng cố bài của giáo viên cũng góp phần rất quan trọng để tạo hứng thú

cho học sinh, giáo viên có thể tiến hành theo cách sau để thu hút học sinh đến với
các giờ tập viết:
+ Cho học sinh nhận xét bài viết của bạn và bài viết của chính mình để các
em nhận ra những điểm được và chưa được để sửa chữa.
+ Cho học sinh luyện viết lại những chữ chưa đạt yêu cầu.
11


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

+ Tổ chức một số trò chơi để tránh căng thẳng, mệt mỏi cho học sinh: thi
viết chữ đẹp, thi viết nhanh…
+ Sau khi học sinh viết xong bài giáo viên cần chấm ,nhận xét ngay một số
vở, sửa lỗi sai cho học sinh: Tuyên dương những bài viết tốt.
Với những bài viết chưa đẹp, viết ẩu thì ngoài việc kèm thêm ở lớp, tôi còn
trực tiếp gặp gỡ phụ huynh của em đó trao đổi và cùng đề ra hướng giải quyết hay
thống nhất cách dạy. Chính từ việc làm này cùng với sự chỉ bảo của giáo viên ở
trên lớp mà những em viết xấu, viết ẩu ở lớp tôi hiện nay cũng tiến bộ nhiều.
Ngoài những biện pháp nêu trên ,tôi còn thường xuyên cho học sinh xem
những bài viết đẹp của học sinh những năm trước mà tôi vẫn còn lưu giữ, hoặc kể
cho các em những câu chuyện, các tấm gương về luyện chữ viết như “ Thần Siêu
luyện chữ”, “Bàn chân kì diệu”… cho các em nghe và học tập.
3. Điều kiện thực hiện biện pháp, giải pháp:
Điều kiện tốt nhất để thực hiện các biện pháp, giải pháp đã đưa ra trong quá
trình dạy tập viết và rèn chữ cho học sinh là phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa
giáo viên, học sinh và phụ huynh. Phải làm sao cho học sinh và phụ huynh thấy
được học tập viết không chỉ là nhìn chữ mẫu để viết mà là cả một quá trình rèn cả
về chữ viết, óc thẩm mĩ và nhân cách sống cho các em.Trong quá trình rèn luyện

đó, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn cho các em trong mọi hoạt
động học tập . Chính vì vậy mà người giáo viên phải nắm chắc các phương pháp,
phải có hiểu biết sâu rộng về cấu tạo các con chữ, các loại nét chữ và các vấn đề
có liên quan; chữ viết của giáo viên cũng phải đúng mẫu hiện hành và đẹp nữa lại
càng tốt. Còn về phần học sinh cũng phải có những hứng thú với môn tập viết và
việc rèn chữ viết; phải kiên trì chịu khó thì việc học mới có kết quả. Phụ huynh
phải thực sự quan tâm đế việc rèn chữ của con em họ và phải là người theo dõi,
giám sát sự tiến bộ của các em.
4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Các giải pháp và biện pháp trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho
nhau. Các em quan sát mẫu tốt thì các em mới nắm được cấu tạo các con chữ,
luyện viết trên bảng con thành thạo thì viết trong vở sẽ đúng và đẹp hơn. Bàn ghế
vừa tầm với các em sẽ tạo cho các em tư thế ngồi thoải mái khi viết, ánh sáng đầy
đủ giúp cho các em nhìn rõ các dòng kẻ viết chữ sẽ đều hơn. Các em mắm chắc
12


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

được các nhóm chữ thì khi viết sẽ thuần thục hơn, đều hơn. Thông qua những tấm
gương về luyện chữ mà giáo viên đã cung cấp, học sinh sẽ cố gắng hơn trong việc
rèn chữ vì tâm lý của các em học sinh nhỏ tuổi rất thích được khen ngợi. Các em
đánh dấu thanh , dấu phụ đúng vị trí trông chữ viết sẽ gọn và đẹp hơn…
5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của đề tài:
Trong thời gian thử nghiệm đề tài ,tôi đã tiến hành khảo nghiệm trong 3 năm
học gần đây nhất ,với đối tượng là học sinh lớp 2. Tôi nhận thấy, học sinh có nhiều
chuyển biến trong việc rèn chữ viết . Chất lượng chữ viết của học sinh cuối năm so
với đầu năm học có sự ttay đổi rõ rệt ; năm học sau tiến bộ hơn năm học trước.Cụ

thể là:
NĂM HỌC

ĐẦU NĂM
Loại A
SL

%

CUỐI NĂM
Loại B

Loại C

Loại A

Loại B

SL

SL

SL

%

SL

%


%

%

Loại C
SL

%

2011- 2012

8

28,6 12 42,8 8

28,6 17

60,7

9

32,2 2

7,1

2012 - 2013

12

33,3 15 41,7 9


25,0 24

66,6

10

27,8 2

5,6

2013 - 2014

13

35,2 14 37,8 10

27,0 25

67,6

10

27,0 2

5,4

* Theo khảo sát từ tháng 9/ 2014 đến thời điểm cuối tháng 11/2014 kết quả cho
thấy học sinh đã có chuyển biến rất rõ trong việc giữ vở sach, viết chữ đẹp
Thời gian


Loại A
SL

Loại B

Loại C

%

SL

%

SL

%

55,6

4

10,4

2

5,7

0


0

Tháng 9/2014

12

34,0

20

Tháng 10/2014

16

44,4

18

Tháng 11/2014

21

58,3

15

41,7

* Trong 3 năm học liên tục gần đây nhất, trong các cuộc thi chữ viết đẹp các
cấp, lớp mà tôi trực tiếp dạy đã đạt được kết quả về chữ viết như sau:

- Năm học 2011- 2012, lớp có 8 em đạt chữ viết đẹp cấp trường. Có 3 em đạt
chữ viết đẹp cấp thành phố.

13


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

- Năm học 2012- 2013, mặc dù phòng GD&ĐT không tổ chức thi viết chữ
đẹp cấp thành phố cho học sinh lớp 1,2 nhưng thi cấp trường lớp tôi có 11em tham
gia và được công nhận cả 11 em (trong đó có 2 giải nhì và 1 giải ba)
- Năm học 2013-2014, lớp tôi có 12 em dự thi cấp trường và đạt cả 12 em (
trong đó có 1 giải nhất, 1 giải ba và 4 giải khuyến khích )
VI/ KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM, GIÁ TRỊ KHOA HỌC
CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Do nắm được vai trò quan trọng của môn Tâp viết nên những việc làm
trên đã được tôi tiến hành một cách thường xuyên trong các giờ tập viết. nếu so với
đầu năm, nhiều em còn viết ẩu, viết xấu, thậm chí còn lệch dòng kẻ, sai cỡ chữ thì
đến hiện tại chữ viết của học sinh lớp tôi tương đối đều, bài viết sạch đẹp: tốc độ
viết của học sinh dần nhanh hơn, tỉ lệ viết đúng, viết đẹp của học sinh cũng đã
nâng lên.
Cụ thể là:
- Nhiều em viết chữ đúng chuẩn, đẹp, sạch.
- Một số em lúc đầu viết chữ thiếu nét, thiếu dấu, chữ viết chưa cẩn thận
nhưng một thời gian sau chữ của các em đã có nhiều tiến bộ .
- Chữ viết của các em tương đối đều, thẳng hàng, đúng mẫu chữ quy định và
đạt được tốc độ yêu cầu đối với học sinh lớp 2 theo từng giai đoạn và nhiều em đã
biết viết chữ viết nghiêng trông rất mềm mại.

- Vở viết của học sinh sạch và đẹp, không nhàu nát, bài viết cẩn thận.
Đề tài: “Kinh nghiệm dạy Tập viết lớp 2” đã được chính bản thân khảo nghiệm
qua thực tế giảng dạy và kết quả thu được là rất khả quan nên tôi đã nhân rộng và
áp dụng trong khối 2 và khối 3 bước đầu đã có kết quả tốt.

PHẦN III : KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
Muốn thành công trong việc rèn chữ viết cho học sinh , đòi hỏi mỗi giáo
viên phải thực sự yêu nghề, mến trẻ. Giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian nghiên
cứu, phải thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy cho phù hợp với học sinh.
Mỗi giáo viên luôn có ý thức rèn luyện và tận tâm trong giảng dạy thì chắc chắn
các em sẽ có những bài viết đẹp, sạch sẽ. Sau này, các em sẽ trở thành con người
14


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

có tính cẩn thận, kiên trì, làm việc có khoa học, xứng đáng là những chủ nhân
tương lai của đất nước. Đối với mỗi giáo viên:
- Đòi hỏi đầu tiên theo tôi đó là sự tận tâm, nhiệt tình, yêu thương con trẻ.Trong
mỗi giờ dạy, người giáo viên phải tạo được sự say mê cho bản thân mình cũng như
hứng thú cho học sinh.
- Thường xuyên rèn luyện để có chữ viết mẫu chuẩn đẹp không chỉ trong giờ
Tập viết mà tất cả các môn học tôi đều cố gắng viết chữ thật đúng mẫu.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách cẩn thận, có chọn lọc và sáng tạo.
- Phải thật kiên trì, bền bỉ trong việc rèn chữ cho các em.
- Luôn tạo húng thú cho các em trong các giờ học băng nhiều hình thức như:
sưu tầm tranh ảnh, chữ mẫu đẹp để phục vụ bài học.

-Tuyên dương khen thưởng kịp thời những em có nhiều cố gắng, có tiến bộ
trong việc “Rèn chữ - Giữ vở”.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nho nhỏ mà tôi đã đúc kết trong quá trình
dạy học . Tôi đã mạnh dạn áp dụng và có hiệu quả trong những năm qua. Tuy
nhiên ,đây cũng chỉ là đề tài mang tính cá nhân không tránh khỏi những thiếu sót,
tôi rất mong được sự góp ý, bổ sung của Ban giám hiệu và các đồng chí trong Hội
đồng khoa học các cấp để đề tài này được hoàn thiện hơn.
2. KIẾN NGHỊ:
Để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, tôi xin có một vài đề xuất với
các cấp có thẩm quyền như sau:
Nên trang bị cho mỗi giáo viên bộ chữ hoa mẫu theo kiểu lật từng trang hiện
ra từng nét chữ để giúp học sinh có hình ảnh cụ thể, sinh động về chữ mẫu cần viết.
Vở tập viết của học sinh phải được sử dụng loại giấy tốt hơn, dày hơn. Bìa
vở phải cứng hơn để hạn chế bị rách bìa vở khi học sinh sử dụng.
Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm của các
đồng nghiệp, các trường có phong trào “ Vở sạch – Chữ đẹp” tiêu biểu.
Phải sắp xếp bàn ghế phù hợp với các em. Tốt nhất là sắp xếp ngồi bàn có 2
chỗ ngồi để giáo viên tiện đi lại uốn nắn, sửa chữ cho các em trong khi các em viết
bài.
Đẩy mạnh phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp”. Nhà trường nên lưu
lại những tập vở sạch, đẹp để các lớp học sinh sau được xem và học tập.
15


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

Buôn Ma Thuột, ngày 10 tháng 12 năm 2014
Người viết


Phạm Thị Hà

16


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tài liệu tham khảo

Tên tác giả

1

Dạy và học Tập viết ở Tiểu học

2

Yêu cầu cơ bản về chuẩn kiến thức kỹ năng
các lớp 1,2,3
SGV Tiếng Việt lớp 2
Thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 2
Phạm Văn Đồng “Dạy nét chữ nết người”

3

4
5

17

Trần Mạnh Cường- Phan Quang
Thân- Nguyễn Hữu Cao ( NXB
Giáo dục)
Bộ Giáo dục và Đào tạo
NXB Giáo dục
NXB Giáo dục
Báo Tiền Phong , số 1760, ra
ngày 18- 01- 1968


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

* NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
1. CẤP TRƯỜNG:
a. Nhận xét:
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………….......................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
......................................................................................
b. Xếp loại:
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………….
2. CẤP PHÒNG:
a. Nhận xét:
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
....................................................................
b. Xếp loại:
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………

18


Kinh nghiệm dạy tập viết lớp 2

Gv: Phạm Thị Hà

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG


PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Lý do chọn đề tài
2 / Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3 / Đối tượng nghiên cứu
4 / Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
5/ Phương pháp nghiên cứu

1
1
2
2
2

PHẦN II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I / Cơ sở lý luận
II / Thực trạng dạy và học môn Tập viết
III / Biện pháp thực hiện
IV / Kết quả nghiên cứu

3
3
3
6
14

PHẦN III : KẾT LUẬN –ĐỀ XUẤT
1 / Kết luận
2 / Đề xuất ý kiến


14
14
15

19



×