Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.61 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
------

TRẦN THỊ QUẾ CHÂU

CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ CỬA”
CỦA TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES
TỪ CUỐI THẾ KỈ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 62 22 03 11

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HUẾ - NĂM 2018


Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế.
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Văn Chương
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế
tại ........................................................................................................
Vào hồi: .......... giờ..........ngày..........tháng..........năm........................
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
- Thư viện Quốc Gia Việt Nam



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................... 4
4. Các nguồn tài liệu ................................................................................................. 5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu................................................. 5
6. Đóng góp của luận án........................................................................................... 6
7. Kết cấu luận án ..................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nước ..................................................... 7
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ngoài ..................................................... 8
1.3. Nhận xét về kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho luận án........12
CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” CỦA TÂY BAN
NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES (1593-1762) ...................... 13
2.1. Cơ sở hình thành và bối cảnh Tây Ban Nha thực thi chính sách “đóng cửa”.... 13
2.1.1. Quá trình xác lập quyền cai trị của Tây Ban Nha ở
Philippines (1521-1571) ................................................................ 13
2.1.2. Chính sách thương mại của Tây Ban Nha ở thuộc địa
Philippines trong những thập niên đầu cai trị (1571-1593) ........... 13
2.1.3. Sự gia tăng những mối đe dọa an ninh chính trị và sức ép
cạnh tranh thương mại từ bên ngoài .............................................. 13
2.1.4. Truyền thống độc quyền thương mại của nhà nước Tây Ban
Nha và ảnh hưởng của “Chủ nghĩa trọng thương”......................... 14
2.2. Nội dung và quá trình triển khai thực hiện chính sách “đóng cửa”. ............14
2.2.1. Chính sách hạn chế, độc quyền thương mại ........................ 14
2.2.2. Chính sách hạn chế nhập cư, kiểm soát chặt chẽ đối với di trú
của người nước ngoài .................................................................... 15
CHƯƠNG 3. TỪ NỚI LỎNG “ĐÓNG CỬA” ĐẾN CHÍNH
SÁCH “MỞ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA

PHILIPPINES (1764-1898)............................................................ 16
3.1. Nhân tố tác động đến sự thay đổi chính sách “đóng cửa” sang “mở cửa” 16
3.1.1. Sự kém hiệu quả trong quản lí độc quyền và sự suy yếu của
đế chế Tây Ban Nha trong thế kỷ XVIII, XIX ............................... 16
3.1.2. Sự ra đời của tư tưởng kinh tế chính trị mới ở châu Âu vào
thế kỷ XVIII................................................................................... 17


3.1.3. Anh xâm chiếm Manila (1762-1764) và nhu cầu phục hồi
thương mại quốc tế, duy trì quyền cai trị của Tây Ban Nha ở
Philippines ..................................................................................... 17
3.2. Nội dung và quá trình triển khai thực hiện của chính sách “mở cửa” .........17
3.2.1. Chính sách nới lỏng “đóng cửa” (1764-1789) ..................... 17
3.2.1. Chính sách “mở cửa hạn chế” (1789-1833) ........................ 18
3.2.2. Chính sách “mở cửa rộng rãi” (1834-1898) ........................ 19
CHƯƠNG 4. NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA”
VÀ “MỞ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA
PHILIPPINES................................................................................. 20
4.1. Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” là kết quả của tác động nội tại với bối
cảnh quốc tế, khu vực .............................................................................................20
4.2. Tây Ban Nha đã chú trọng mục tiêu chính trị, tôn giáo hơn lợi ích kinh tế
trong quá trình thực thi chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở Philippines....20
4.3. Khoảng cách lớn giữa ban hành và thực thi chính sách “đóng cửa” ở thuộc
địa Philippines.........................................................................................................20
4.4. Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở thuộc địa Philippines nằm trong
“quỹ đạo” chung của đế chế Tây Ban Nha...........................................................21
4.5. Tác động...........................................................................................................21
4.5.1. Đối với Philippines .............................................................. 21
4.5.2. Đối với Tây Ban Nha ........................................................... 21
KẾT LUẬN ..................................................................................... 22

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................................


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có lẽ nhiều người sẽ ngạc nhiên khi biết rằng châu Âu vào đầu thế
kỉ XV là một vùng trì trệ và khốn khổ, khi họ đang phục hồi sau những
thiệt hại của Cái Chết Đen- đại dịch đã làm giảm một nửa dân số. Cuộc
chiến tranh trăm năm (1337-1453) giữa Anh và Pháp đang tiếp diễn.
Một số vương quốc trên bán đảo Iberia vẫn chịu sự cai trị của tín đồ Hồi
giáo. Các vùng phồn thịnh nhất của châu Âu thực sự chỉ còn những thành
bang Bắc Italy là Florence, Genoa, Pisa, và Venice. Những người giàu trí
tưởng tượng nhất cũng không thể nghĩ rằng châu Âu sẽ vươn lên thống trị
thế giới trong bốn thế kỉ tiếp theo. Bằng cách nào châu Âu có thể chinh
phục được các đế chế phương Đông vĩ đại, thần phục châu Phi, châu Mĩ
và châu Úc? Nhà khoa học người Mỹ Jared Diamond trong bài tiểu luận
mang tựa đề How to get Rich năm 1999 đã lý giải như sau: “trên bình
nguyên phía Đông của lục địa Âu Á, các đế chế phương Đông vững như
bàn thạch đã bóp nghẹt mọi canh tân; trong khi đó tại rìa phía Tây trập
trùng đồi núi và bị chia cắt bởi những con sông, nhiều nền quân chủ và
các thành bang đều tham gia vào hoạt động cạnh tranh và giao lưu đầy
sáng tạo”1. Hẳn là đó là một câu trả lời chưa đầy đủ về vấn đề lớn của
lịch sử nhưng phải thừa nhận đó là căn nguyên sâu xa nhất.
Sự cạnh tranh đưa đến sự xác lập vị trí thống trị của châu Âu được
mở đầu bằng sự ganh đua quyết liệt giữa hai quốc gia trên bán đảo Iberia
trong “kỉ nguyên khám phá” (Age of Discovery) vào cuối thế kỉ XV.
Với người châu Âu, việc tìm ra tuyến đường biển mới không chỉ là sự

“phô trương quyền thế” mà còn để vượt trước các đối thủ khác cả về
kinh tế, lẫn về chính trị. Nó là một cuộc tranh giành không gian hoặc
đúng hơn là cuộc tranh giành vàng, gia vị và hương liệu giữa các nước
châu Âu. Mặc dù nằm ở vùng Viễn Đông xa xôi, Đông Nam Á vẫn bị
lôi cuốn vào vòng xoáy của sự tranh giành thương mại và sự thiết lập
thuộc địa của các đế chế thực dân với những người tiên phong Bồ Đào
Nha và Tây Ban Nha.
Trên chuyến hành trình hướng về phương Đông nhằm tìm kiếm con
đường đến quần đảo hương liệu Moluccas, Magellan đã đặt chân đến
quần đảo Philippines vào năm 1521. Sau 43 năm phát hiện và khám phá,
Tây Ban Nha chính thức tiến hành xâm lược và thôn tính Philippines
Dẫn theo Furguson, Nail (2017), Văn minh phương Tây và phần còn lại
của thế giới, Nxb Hồng Đức, tr.51
1


2

thông qua cuộc viễn chinh của Lopez de Legazpi năm 1564, đến năm
1571 về cơ bản Tây Ban Nha đã chinh phục được Philippines (trừ các
quốc gia Hồi giáo ở phía Nam).
Song song với quá trình xâm chiếm, Tây Ban Nha bắt đầu thiết lập
bộ máy chính quyền và thâu tóm toàn bộ quan hệ đối ngoại của
Philippines. Vào thời kì đầu của sự thống trị, để cạnh tranh với “người
láng giềng” Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha theo đuổi chính sách khuyến
khích thương mại, thu hút các nhà buôn châu Á đến Philippines. Trong
môi trường buôn bán tự do, Manila phát triển thịnh vượng, trở thành
trung tâm của các hoạt động thương mại giữa châu Á và châu Mĩ, được
mệnh danh là “hòn ngọc phương Đông”.
Từ cuối thế kỷ XVI, Tây Ban Nha chuyển sang chính sách “đóng

cửa”, cô lập thuộc địa Philippines. Chính sách này được thực hiện một
cách nghiêm ngặt thông qua các biện pháp như hạn chế hoạt động ngoại
thương của Philippines với các nước, độc quyền sản xuất và tiêu thụ
nhiều mặt hàng công nghiệp, ngăn cấm người nước ngoài sinh sống ở
Philippines. Từ nửa sau thế kỷ XVIII, Tây Ban Nha dần từ bỏ “đường
lối cô lập” chuyển sang “đường lối cởi mở” trong quan hệ với các quốc
gia. Việc “mở cửa” đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế Philippines, xuất
khẩu tăng lên và những sản phẩm sản xuất trong nước đã dần thay thế
hàng hóa nước ngoài. Vậy, tại sao Tây Ban Nha lại thực hiện hai chính
sách khác nhau trong quá trình cai trị Philippines? Chính sách “đóngmở” cửa thuộc địa Philippines có phải chỉ do ý muốn chủ quan của thực
dân Tây Ban Nha hay còn do những nhân tố khách quan tác động? Mục
đích của Tây Ban Nha khi thực hiện những chính sách này là gì? Đó là
vì lợi ích kinh tế hay chính trị, tôn giáo? Các phương diện và mức độ
thực hiện các chính sách đó như thế nào? Và chính sách đó đã tác động
ra sao đến Philippines và Tây Ban Nha? Làm sáng tỏ những câu hỏi này
luận án sẽ có những đóng góp về cả phương diện khoa học và thực tiễn.
Về góc độ khoa học, nghiên cứu chính sách “đóng cửa” và “mở
cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines chúng ta sẽ góp phần lí
giải sâu sắc hơn những chính sách của Tây Ban Nha đối với thuộc địa
Philippines dưới tác động của các nhân tố nội tại (Tây Ban Nha và
Philippines) và quốc tế. Qua đó, giúp chúng ta rút ra những đặc điểm và
tác động của chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” đối với Tây Ban Nha
và Philippines. Đồng thời, nghiên cứu đề tài này chúng ta có cơ sở để
nhìn nhận khách quan hơn những tương đồng và khác biệt trong chính


3

sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở các nước Đông Nam Á từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XIX.

Về góc độ thực tiễn, làm rõ chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của
Tây Ban Nha ở Philippines thời thuộc địa là góp phần làm phong phú
thêm bức tranh “đóng cửa” – “mở cửa” ở thời đại châu Á phải đối mặt
với sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Đó là việc một
nước thực dân là chủ thể thực hiện chính sách “đóng cửa” và “mở cửa”
ở một nước thuộc địa.
Từ những lý do nói trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Chính sách
“đóng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối
thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX” làm đề tài luận án tiến sĩ thuộc Chuyên
ngành Lịch sử thế giới, mã số 62.22.03.11 nhằm làm rõ tính đặc thù và bản
chất chính sách thuộc địa của Tây Ban Nha ở Philippines nói chung, chính
sách đối ngoại nói riêng, từ đó góp phần nhận diện, so sánh các chính sách
thuộc địa của Phương Tây ở Đông Nam Á cũng như trên thế giới thế kỷ
XVI-XIX.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của
Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ
XIX, luận án sẽ làm rõ bức tranh toàn cảnh cũng như chỉ ra bản chất của
chính sách cai trị và tác động của nó đối với Tây Ban Nha và
Philippines.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành những mục tiêu trên, chúng tôi sẽ thực hiện các
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phân tích bối cảnh lịch sử và nguyên nhân chủ yếu đưa đến việc
Tây Ban Nha chinh phục Philippines và thực hiện chính sách “đóng
cửa” và “mở cửa” tại thuộc địa này.
- Làm rõ những nội dung cơ bản chính sách “đóng cửa” và “mở
cửa” của Tây Ban Nha ở Philippines (cuối thế kỷ XVI – cuối thế kỷ
XIX) trên hai phương diện chủ yếu là chính sách thương mại và chính

sách đối với vấn đề di trú của người nước ngoài.
- Rút ra những đặc điểm trong chính sách “đóng cửa” và “mở
cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines.
- Phân tích những tác động, hệ quả của những chính sách này đối
với Tây Ban Nha và Philippines trong giai đoạn nghiên cứu


4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về chính sách “đóng cửa” và “mở
cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines trong ba thế kỷ (từ cuối
thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XIX). Vì vậy, để xác định rõ đối tượng
nghiên cứu, trước hết chúng ta phải làm rõ nội hàm hai khái niệm cơ bản
của luận án đó là “đóng cửa” và “mở cửa”.
Chính sách “đóng cửa” (closed-door policy) có nghĩa là các chủ thể
chính trị hạn chế (limit/restrict) quan hệ thương mại, ngoại giao với bên
ngoài, kiểm soát gắt gao vấn đề di trú quốc tế và thực hiện công việc
quốc gia một cách bí mật. Khi đề cập đến khái niệm chính sách đóng
cửa của một quốc gia, chúng ta hiểu đó không phải là một chính sách cụ
thể vào một thời điểm lịch sử nào đó, mà là một nội dung bao quát toàn
bộ quan hệ đối ngoại của cả một thời kì.
Chính sách “mở cửa” (open-door policy) có nội hàm trái ngược với
khái niệm chính sách “đóng cửa” nói trên. Đó là các chủ thể chính trị
khuyến khích những quốc gia khác thiết lập quan hệ ngoại giao, thương
mại và đầu tư với quốc gia của mình và mọi người được tự do đến sống
và làm việc tại quốc gia đó.
Từ những khái niệm và cách hiểu trên, để làm rõ chính sách “đóng
cửa” và “mở cửa”, luận án tập trung vào hai phương diện nghiên cứu

chủ yếu đó là chính sách thương mại và chính sách di trú đối với người
nước ngoài của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối XVI đến
cuối XIX.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi thời gian, luận án nghiên cứu gần như trọn vẹn thời
kì thống trị của Tây Ban Nha ở Philippines từ cuối thế kỷ XVI đến
cuối thế kỷ XIX. Trong đó chúng tôi tập trung vào những mốc thời
gian quan trọng như sau: Năm 1593: mốc khởi đầu của chính sách
“đóng cửa” thuộc địa Philippines. Năm 1764: mốc khởi đầu cho sự
chuyển biến từ nới lỏng “đóng cửa” sang chính sách “mở cửa” của
Tây Ban Nha ở Philippines. Năm 1789: mốc khởi đầu cho chính sách
“mở cửa” thuộc địa.
- Về phạm vi không gian, tập trung chủ yếu trên lãnh thổ quần đảo
Philippines (trừ vùng Hồi giáo ở phía Nam không chịu sự thống trị của
người Tây Ban Nha). Ngoài ra, vì đây là đề tài nghiên cứu có liên quan
đến vấn đề đối ngoại, nên chúng tôi luôn đặt thuộc địa Philippines trong


5

bối cảnh quốc tế, khu vực và cả chính quốc, đặc biệt là sự tranh giành
độc quyền thương mại giữa Tây Ban Nha với các nước Bồ Đào Nha, Hà
Lan, Anh, Mĩ ở Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
- Phạm vi nội dung: Trong suốt hơn ba thế kỉ (1571-1898) cai trị ở
Philippines, về phương diện đối ngoại, chính sách của Tây Ban Nha ở
thuộc địa Philippines có thể chia thành hai giai đoạn lớn: (1)1593-1762
chính sách “đóng cửa”, cô lập Philippines; và (2) 1789-1898 chính sách
“mở cửa” Philippines. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi
nhận thấy rằng việc chuyển từ chính sách “đóng cửa” sang “mở cửa”
thực chất nó còn phải trải qua một giai đoạn “chuyển tiếp” (Transition

period) từ 1764 đến 1789. Vì thế, chúng tôi sẽ trình bày nội dung này
vào trong giai đoạn trước khi Tây Ban Nha chính thức đưa ra chính sách
“mở cửa” thuộc địa Philippines vào năm 1789.
4. Các nguồn tài liệu
Để hoàn thành luận án này chúng tôi đã khai thác và sử dụng các
nguồn tài liệu chủ yếu sau đây:
- Tài liệu gốc
+ Các sắc lệnh của Hoàng gia Tây Ban Nha, thư từ trao đổi giữa vua
Tây Ban Nha với quan chức ở Philippines về các vấn đề thuộc địa;
những ghi chép của những nhà du hành châu Âu về tình trạng Nhà nước,
cư dân, thương nhân ở Philippines, những ghi chép của Tổng đốc
Antonio de Morga về quan hệ của quần đảo Philippines với các nước
trong khu vực; sắc lệnh thành lập công ty Hoàng gia Philippines năm
1785 và mở cửa cảng Manila đối với các nước châu Á của vua Charles
III (1759-1788).
- Tài liệu nghiên cứu thứ cấp
Đó là nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu Tây Ban Nha,
Philippines, Anh, Hà Lan (đa phần đã được dịch sang tiếng Anh). Đó là
các sách chuyên khảo, bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành (chủ
yếu là PhilippineStudies), báo cáo tham luận tại các cuộc hội thảo khoa
học của các nhà nghiên cứu đã công bố. Ngoài ra, còn có các luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đã bảo vệ thành công trong và ngoài nước.
- Tài liệu internet: chủ yếu các website đăng tải sách, bài báo điện
tử chuyên về Philippines thời kì Tây Ban Nha.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
- Quán triệt quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của


6


Chủ nghĩa Mác – Lênin trong phân tích, đánh giá các nội dung, đặc
điểm, tính chất và tác động của các sự kiện lịch sử.
- Do thuộc địa Philippines thời kì Tây Ban Nha vừa tham gia vừa
chịu sự tác động của những chuyển biến quốc tế và sự xáo trộn trong quan
hệ truyền thống giữa các nước trong khu vực nên chúng tôi vận dụng
quan điểm hệ thống luôn để soi xét các vấn đề trình bày trong luận án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Là một đề tài lịch sử, mặc nhiên phương pháp lịch sử, phân tích
mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử cả đồng đại và lịch đại luôn là dòng
mạch chính trong luận án. Trong chừng mực nhất định, những phương
pháp nghiên cứu khác như: phương pháp so sánh, phương pháp thống
kê, phương pháp sơ đồ hóa cũng được vận dụng.
- Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” là một hệ thống, được tập
hợp bởi nhiều bộ phận kinh tế, chính trị, xã hội cấu thành, luận án không
chỉ tập trung phân tích các chính sách trên các lĩnh vực cụ thể mà còn đi
sâu xem xét sự tác động tương hỗ giữa các thành tố.
6. Đóng góp của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu về chính sách cai trị của Tây Ban
Nha ở thuộc địa Philippines nói chung và chính sách đối ngoại nói riêng với
một cách tiếp cận mới qua hai giai đoạn chính “đóng cửa” và “mở cửa”.
- Luận án đã chỉ ra và phân tích các sự kiện lịch sử cơ bản liên quan
đến ba vấn đề chủ yếu: (1) những nguyên nhân dẫn đến chính sách
“đóng cửa”, “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines; (2)
Những chính sách cụ thể đối với vấn đề ngoại thương và vấn đề người
nước ngoài ở Philippines; (3) Những đặc điểm và tác động của những
chính sách đó đối với Philippines và Tây Ban Nha.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án được chia làm 4 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chương 2. Chính sách “đóng cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa
Philippines (1593-1762)
Chương 3. Từ nới lỏng “đóng cửa” đến chính sách “mở cửa” của
Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines (1764-1898)
Chương 4. Nhận xét về chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của
Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines


7

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nước
Lịch sử Philippines nói chung và chính sách cai trị của Tây Ban
Nha ở Philippines nói riêng từ lâu đã nhận được sự quan tâm nghiên
cứu của các học giả Việt Nam. Kết quả của những công trình nghiên
cứu có thể phân thành ba nhóm chính:
Nhóm thứ nhất: Những công trình viết về lịch sử - văn hóa
Philippines
Cuốn Lịch sử Philippines: từ thế kỷ XV-XVI đến những năm
1980 (1993) của Huỳnh Văn Tòng; cuốn Lịch sử Philippines (2007) của
Cao Minh Chơng, cuốn Tìm hiểu lịch sử văn hóa Philippines, tập 1
(1996) của Đức Ninh chủ biên và cuốn Tìm hiểu lịch sử văn hóa
Philippines, tập 2 (2001) của Trung tâm KHXH & NVQG - Viện Đông
Nam Á. Đây là những công trình nghiên cứu về lịch sử và văn hóa của
Philippines viết theo lối thông sử nên có ưu điểm là mang tính hệ thống,
đề cập đến tình hình Philippines từ thời tiền Tây Ban Nha, quá trình xâm
lược đến chính sách cai trị của Tây Ban Nha. Tuy vậy do khai thác nguồn
tài liệu còn ít ỏi nên mỗi vấn đề chỉ được trình bày trong những trang viết
ngắn, mang tính sơ lược.

Nhóm thứ hai: Những công trình viết về chính sách cai trị của
Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines
Trên tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, trong những năm trở lại
đây, rải rác có một số bài viết mang tính gợi mở một số khía cạnh liên
quan trực tiếp đến đề tài. Bài viết So sánh chế độ cai trị của của Tây
Ban Nha và Mỹ ở Philippines dưới thời thuộc địa của Trần Khánh;
Chính sách hạn chế thương mại của Tây Ban Nha ở thuộc địa
Philippines (1593-1834) của Đặng Văn Chương – Hà Thị Thơm; Tranh
giành thương mại và thiết lập chế độ cai trị thuộc địa của Tây Ban
Nha ở Philipin thế kỷ XVI-XIX của Bùi Văn Hào – Trần Khánh;
Thương cảng Manila (Philippines) thế kỷ XVII; Người Hoa ở
Philippines dưới thời thuộc Tây Ban Nha (1565-1898) của Dương Văn
Huy; Manila và dòng chảy bạc Tân thế giới thế kỷ XVI-XVIII của
Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Minh Nguyệt. Những bài viết này góp phần
làm sáng tỏ vị trí của Manila trong thương mại Philippines và thương
mại thế giới vào thế kỷ XVI, XVIII. Các tác giả đã chỉ ra rằng, trong
suốt thời kỳ này, Manila chính là trạm trung chuyển hàng hóa giữa hai
thị trường Đông Á và thuộc địa châu Mĩ thông qua thương mại thuyền


8

buồm lớn Manila galleon. Ngoài ra, những bài viết này còn bước đầu đề
cập đến chính sách “đóng cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa
Philippines, rõ ràng nhất là chính sách hạn chế thương mại và chính
sách phân biệt đối xử với người Hoa.
Nhóm thứ ba: Các công trình đề cập đến lịch sử Philippines thời
kì Tây Ban Nha trong tổng thể khu vực Đông Nam Á.
Cuốn Lịch sử Đông Nam Á (2005) của Lương Ninh (cb) – Đỗ Thanh
Bình – Trần Thị Vinh; Cuốn Đông Nam Á trong thời kì thuộc địa và

phong trào giải phóng dân tộc” (từ đầu thế kỉ XVI đến 1945) của Trần
Khánh (cb) nằm trong bộ sách Thông sử Đông Nam Á. Hai công trình
này cũng đã bước đầu trình bày về quá trình xâm chiếm, sự thiết lập chế
độ cai trị và tình hình Philippines dưới sự thống trị của Tây Ban Nha trong
tổng thể khu vực Đông Nam Á.
Nếu hai công trình kể trên lấy lịch sử các quốc gia Đông Nam Á làm
đối tượng nghiên cứu chủ yếu thì công trình Quan hệ của Nhật Bản với
Đông Nam Á thế kỷ XV-XVII (2003) của Nguyễn Văn Kim lại đặt các
nước ở Đông Nam Á thời Trung-Cận đại trong quan hệ với Nhật Bản.
Trong công trình này có bài viết Quan hệ của Nhật Bản với Phillipin
thế kỷ XVI – XVII. Đây là một trong những bài viết hiếm hoi nghiên
cứu về quan hệ của Philippines với các nước trong khu vực thời thuộc
Tây Ban Nha.
Quá trình thực dân hóa của Tây Ban Nha ở Philippines trong vòng 3
thế kỷ còn chứng kiến sự cạnh tranh quyết liệt với các thế lực Phương Tây
khác (Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp). Điều này có thể nhận thấy qua
một số bài viết của tác giả Lê Thanh Thủy Tiếp xúc và hội nhập thương
mại ở Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX (2007); Sự hình thành
đế chế Anh ở phương Đông và vai trò của Công ty Đông Ấn Anh thế kỷ
XVII – XIX (2009); Về sự thành lập công ty Đông Ấn Anh năm 1600
(2011). Đối với tác giả, những công trình nghiên cứu trên không chỉ là
nguồn tài liệu tham khảo cần thiết mà nó còn mở ra những hướng và
phương pháp tiếp hệ thống trong việc phân tích những vấn đề đặt ra của
luận án.
1.2.Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ngoài
Sự hiện diện của Tây Ban Nha ở quần đảo Philippines nói chung và
chính sách đối ngoại của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines nói riêng
đã được nhiều nhà sử học châu Á, Âu, Mĩ quan tâm nghiên cứu qua
nhiều giai đoạn dưới nhiều góc độ khác nhau.



9

Nhóm thứ nhất: Các công trình đề cập đến công cuộc xâm chiếm
thuộc địa và tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của Đế chế Tây Ban
Nha trong bối cảnh châu Âu từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX
Trước hết, phải kể đến những công trình “nhập môn” về Lịch sử
Tây Ban Nha như “Spain, A Modern History”) của Rhea Marsh Smith,
(1965) và “A History of Spain” của Charles E. Chapman, (1966) hay
cuốn “Tây Ban Nha –ba ngàn năm lịch sử” của nhà nghiên cứu lịch sử
Tây Ban Nha Antonio Dominguez Ortiz, được Nxb thế giới ấn hành
năm 2009. Bên cạnh khái quát toàn bộ lịch sử Tây Ban Nha theo biên
niên sử, các công trình này đã tập trung phân tích tình hình Tây Ban Nha
dưới triều đại Charles I (1516-1556), Philip II (1556-1598), thời kì
khủng hoảng và suy vong (1598-1700) và tình hình Tây Ban Nha trong
thế kỉ XVIII.
Tiếp đến là những công trình về lịch sử Tây Ban Nha thời kì Đế chế
như cuốn “Imperial Spain 1469-1716” của J.H.Elliot; Cuốn “Golden
Age Spain” của Henry Kamen đã trình bày một cách khái quát về quá
trình ra đời Chế độ chuyên chế Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ XV và sự
hình thành của Đế chế Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ XVI. Trong đó, tác
giả đã tập trung lý giải những nguyên nhân đưa đến sự suy tàn của Đế
chế Tây Ban Nha vào nửa sau thế kỷ XVII.
Công trình “Lịch sử ngoại giao cận đại (thê kỷ XVI-XVIII)” của
V.P.Pochemkin (2001) và công trình “Lịch sử chủ nghĩa tư bản từ
1500 đến 2000” của Michel Beard (2002) (cb), đã có nhìn nhận vĩ mô
về sự phát triển của các nước tư bản, tác giả cho rằng từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XIX các nước châu Âu đều bị chi phối bởi hai tư tưởng kinh tế
chính trị đó là Chủ nghĩa trọng thương (mercantilism) và Chủ nghĩa tự
do (Liberalism). Công trình còn dừng lại phân tích những biểu hiện suy

tàn của Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ XVI, nửa đầu thế kỷ XVII. Thế kỉ
XVII, XVIII là thời kỳ suy tàn của đế chế Tây Ban Nha đánh dấu bằng
sự kiện cuộc chiến tranh kế vị Tây Ban Nha, đồng thời là thời kỳ mạnh
lên của chủ nghĩa tư bản Anh và sự tranh giành của Anh và Pháp trong
việc giành quyền thống trị châu Âu.
Nhóm thứ hai: Các công trình đề cập đến Lịch sử Philippines và
quan hệ Philippines với các nước trong khu vực thời kỳ thuộc địa Tây
Ban Nha
Cho đến nửa sau thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI mới bắt đầu có nhiều
công trình nghiên cứu của các học giả Philippines được xuất bản. Tiêu


10

biểu là các tác giả Conrado, Benitez (1954), History of Philippines;
Zaide; Alip, Eufronio.M (1964), Political and Cultural History of the
Philippines; Zaide, Soria.M (1999), The Philippines – A Unique
Nation; Zulueta, Francisco.M – Nebres, A. Briel (2003), Philippine
History and Government through the Year; Zaide, Gregorio.F – Zaide,
Sonia (2004), Philippine History and Government; Agoncillo,
Teodoro.A (2006), History of the Filipino People; Costa, Horacio de la,
S.J. (1992), Readings in Philippine History. Hầu hết những công trình
này nghiên cứu lịch sử Philipines một cách hệ thống từ thời tiền sơ sử
đến thời kì hiện đại. Trên cơ sở khai thác nhiều nguồn tài liệu phong phú
về thời kì thuộc địa, các tác giả đã phần nào tái dựng lại một cách đầy đủ
và sâu sắc lịch sử và xã hội Philippines từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
Trong công trình “History of Philippines”, tác giả Conrado Benitez
đã đề cập đến những mối quan hệ giữa thuộc địa Philppines với bên
ngoài (outside relations) như Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan và cuộc
xâm chiếm Manila của Anh năm 1762. Trên cơ sở phân tích về hoạt

động thương mại, tác giả đã bước đầu phân chia lịch sử Philippines
thành hai thời kỳ, “thời kỳ hạn chế” (period of restrictions) và “thời kỳ
tự do thương mại và cải cách chính trị” (period of commercial liberty
and political reforms). Có thể nói, cách tiếp cận của Conrado Benitez đã
gợi mở nhiều ý tưởng quan trọng cho vấn đề luận án đang nghiên cứu.
Nghiên cứu về lịch sử Philippines trọn vẹn trong thời kỳ Tây Ban
Nha phải kể đến công trình “Spain in the Philippines” của Cushner,
Nicholas P., SJ (1971). Trong đó, tác giả đã dành hai chương để trình
bày về thương mại của Tây Ban Nha ở Philippines, chương 6 với tiêu đề
“Trade and Finance” và chương 9 “Bourbon Reform and Foreign
Merchants”. Qua cách phân chia và lý giải của tác giả, chúng ta có thể
thấy rằng vào nửa sau thế kỷ XVIII, chính sách thương mại của Tây Ban
Nha ở các thuộc địa Philippines có những bước chuyển tích cực.
Trong khi các công trình chuyên khảo về lịch sử Philippines còn hạn
chế thì việc tiếp cận nguồn tài liệu các công trình nghiên cứu tổng thể về
lịch sử khu vực Đông Nam Á là hết sức cần thiết. Công trình In Search
of Southeast Asia – A Mordern History của nhóm tác giả Chandler,
David. P; Roff, William.R; Smail, Jonh.R.W;…(1985), phần II với tựa
đề New Challenges to Old Authority, đã phân tích những thách thức
mới mà các chính quyền thuộc địa ở Đông Nam Á gặp phải thế kỷ
XVIII, XIX, trong đó có chính quyền Tây Ban Nha ở thuộc địa
Philippines.


11

Về quan hệ giữa Philippines với các nước trong khu vực, Tổng
đốc Antonio de Morga (1559 - 1636) với tư cách là quan chức Tây
Ban Nha ở thuộc địa Philippines, đồng thời là người viết sử đã xuất
bản cuốn “Sucesos de las islas Filippinas” năm 1609 tại Mexico.

Nội dung chính của cuốn sách đã đề cập đến lịch sử Philippines trong
mối quan hệ với Moluccas, Xiêm, Campuchia, Nhật Bản và Trung
Quốc vào cuối thế kỷ XVI.
Nhà sử học Tây Ban Nha Florentino Rodao Garcia công bố nhiều
bài viết liên quan đến thời kì Tây Ban Nha ở Philippines: The
Castilians discover Siam: Changing Visions and Self-Discovery,
The Journal of the Siam Society (JSS), 95/2007; Departure from
Asia: Spain in the Philippines and East Asia in the Nineteenth and
Twentieth Centuries in trong sách Nation and Conflict in
Modern Spain: Essays in Honour of Stanley G. Payne (2008). Những
bài viết này đã bổ sung tài liệu về sự thống trị của Tây Ban Nha ở
Philippines vào giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX.
Các nhà nghiên cứu người Hà Lan, Mỹ, và một số nước khác cũng
có những bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí liên quan đến quan hệ
Philippines – Hà Lan, Philippines – Nhật Bản, người Trung Quốc ở
Philippines thời kì thuộc Tây Ban Nha: Laarhoven, Ruurdje and
Pinowittermans (1985), “From Blockade to Trade: early Dutch
Relations with Manila, 1600-1750”, Philippine Studies vol.33, no.4;
Arensmeyer, Elliott C (1970); Chan, Albert (1978), “ChinesePhilippine Relations in the Late Sixteenth Century and to 1603”,
Philippine Studies vol 26, no.1-2.
Nhóm thứ ba: Các công trình viết về tình hình kinh tế Philippines
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX
Dưới góc nhìn của nhà kinh tế học, công trình After the Galleons
của Benito J. Legarda, Jr. tái bản vào năm 1999 đã phân tích sâu sắc sự
phát triển ngoại thương, chuyển biến kinh tế và kinh doanh ở
Philippines vào thế kỷ XIX, sau khi thương mại thuyền buồm chấm dứt.
Trong công trình của mình ông chỉ ra rằng “khác với các nước ở khu
vực Đông Nam Á, động cơ đằng sau thúc đẩy sự phát triển thương mại
Philippines không phải do chính quyền mà đến từ việc kinh doanh và
vốn nhập khẩu thông qua hệ thống giá cả linh hoạt”. Có thể nói giáo sư

Legarda đã nêu bật đặc điểm mang tính bản chất của quá trình “mở cửa”
và hội nhập kinh tế của Philippines vào nửa sau thế kỷ XIX.
Nhà sử học Tây Ban Nha, Maria Lourdres Diaz-Trechuelo với
series bài viết về kinh tế Philippines thế kỷ XVIII đăng trên tạp chí


12

Philippines Studies: Diaz-Trechuelo, Maria Lourdres (1963), “The
Economic Development of the Philippines in the Second Half of the
Eighteenth Century”, Philippine Studies vol.11, no2; Diaz-Trechuelo,
Maria Lourdres (1966) “Eighteenth century Philippine economy:
Commerce”, Philippine Studies vol.14, no2. Trong bài nghiên cứu về
thương mại Philippines thế kỷ XVIII, Diaz-Trechuelo đã phân tích
chính sách hạn chế và độc quyền thương mại của Tây Ban Nha ở thuộc
địa Philippines đối với các nước Phương Đông, Tân Tây Ban Nha và sự
ra đời của Công ty Hoàng gia Philippines.
1.3.Nhận xét về kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho luận án
Trên cơ sở trình bày một cách tổng quan tình hình nghiên cứu về
vấn đề Chính sách “đóng cửa” và “”mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc
địa Philippines, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất, ở trong nước số lượng công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề này còn quá ít ỏi: một số sách, bài viết nghiên cứu chính
sách cai trị tổng thể của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines. Chính
sách đối ngoại của Philippines thời kì thuộc Tây Ban Nha chưa được
chú ý nghiên cứu.
Thứ hai, ở nước ngoài số lượng công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề này khá phong phú, nhưng còn ít công trình có hướng tiếp
cận gần với đề tài luận án.
Thứ ba, những công trình của các tác giả trong và ngoài nước là

chất liệu quan trọng để chúng tôi thực hiện đề tài. Song để có thể giải
quyết trọn vẹn vấn đề nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy cần tập trung
những nội dung sau đây: (1) Bối cảnh lịch sử hình thành chính sách
“đóng cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối thế kỉ XVI
đến năm 1762. (2) Những nhân tố tác động đến sự thay đổi từ chính sách
“đóng cửa” sang “mở cửa” vào nửa sau thế kỉ XVIII. (3) Hệ thống hóa
và phân tích những chính sách của Tây Ban Nha ở Philippines trên hai
lĩnh vực thương mại và di trú của người nước ngoài. Từ nội dung nghiên
cứu, chúng tôi sẽ rút ra những đặc điểm và đánh giá một cách toàn diện
và khách quan về hệ quả của chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của
Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines.


13

CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” CỦA
TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES (1593-1762)
2.1. Cơ sở hình thành và bối cảnh Tây Ban Nha thực thi chính sách “đóng
cửa”
2.1.1. Quá trình xác lập quyền cai trị của Tây Ban Nha ở Philippines
(1521-1571)
Sau khi hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước vào cuối thế
kỷ XV, tận dụng những ưu thế về vị trí địa lý, những tiến bộ về mặt
khoa học kỹ thuật hàng hải và đặc biệt là nhằm cạnh tranh với người
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đã đẩy mạnh công cuộc khám phá địa lý
nhằm tìm kiếm những vùng đất mới, trong đó có Philippines.
Sau nhiều chuyến viễn chinh đến Philippines nhưng không thành
công, đến năm 1564, Tây Ban Nha mới chính thức tiến hành xâm
lược Philippines thông qua cuộc viễn chinh của Lopez de Legazpi,
đến năm 1571 về cơ bản Tây Ban Nha đã bình định xong phần lớn

lãnh thổ của quần đảo Philippines (trừ vùng Hồi giáo phía Nam).
2.1.2. Chính sách thương mại của Tây Ban Nha ở thuộc địa
Philippines trong những thập niên đầu cai trị (1571-1593)
Trong khoảng ba thập niên đầu của chế độ cai trị, để khai thác
nguồn lợi của thuộc địa và nhằm cạnh tranh với người láng giềng Bồ
Đào Nha, Tây Ban Nha đã chủ động xúc tiến quan hệ thương mại của
Philippines với các thuộc địa của họ ở châu Mĩ cũng như với một số
nước trong khu vực. Chính sách đó một mặt đã biến Manila thành hải
cảng phát triển thịnh vượng ở khu vực ĐNA “Manila như cái kho và
trung tâm phân phối về thương mại ở Viễn Đông và tạo ra những cơ
hội to lớn”, mặc khác lại tập trung sự chú ý của các nước đối với vị
trí của quần đảo này, đặc biệt là thủ đô Manila.
2.1.3. Sự gia tăng những mối đe dọa an ninh chính trị và sức ép cạnh
tranh thương mại từ bên ngoài
Chỉ 3 năm sau khi Tây Ban Nha hoàn thành công cuộc bình định
Philippines, năm 1574, hải tặc Trung Quốc là Lim – Ah – Hong đã
tấn công Manila. Lực lượng của họ đã giết chết chỉ huy người Tây
Ban Nha là Marshal Martin de Goiti, đốt cháy thành phố và thậm chí
xây dựng căn cứ địa ở ngay cửa sông Agno. Bên cạnh cuộc xâm
chiếm của Lim- Ah- Hong, sự gia tăng nhanh chóng của số lượng người
Hoa ở Philippines cũng khiến cho chính quyền Tây Ban Nha bắt đầu e
sợ. Về phía chính quyền Nhật Bản, do lo sợ việc gia tăng sự hiện diện


14

của thực dân Tây Ban Nha ở phương Đông, tháng 5-1592, Hideyoshi đã
phái sứ giả đến Manila yêu cầu người Tây Ban Nha phải cống nạp và
thần phục, nếu không ông sẽ đánh chiếm Philippines.
Sang thế kỉ XVII và thế kỉ XVIII, Tây Ban Nha không chỉ ứng

phó với mối đe dọa an ninh chính trị từ Trung Quốc, Nhật Bản mà
còn sức ép cạnh tranh thương mại với người Hà Lan và người Anh.
Không chỉ cạnh tranh thương mại, người Anh còn là thế lực đầu
tiên lật đổ sự thống trị chính quyền Tây Ban Nha ở Manila thông
qua cuộc chiến tranh năm 1762.
2.1.4. Truyền thống độc quyền thương mại của nhà nước Tây Ban
Nha và ảnh hưởng của “Chủ nghĩa trọng thương”
Từ năm 1503 một hệ thống thương mại độc quyền của Tây Ban
Nha với Tân thế giới hình thành và kéo dài trong suốt hai thế kỷ. Toàn
bộ việc buôn bán ở thuộc địa phải chịu sự kiểm soát của Sở thương mại
ở Seville đặt dưới quyền Hội đồng thuộc địa. Việc buôn bán trực tiếp
giữa Mexico và Peru hay các thuộc địa khác đều bị cấm.
Sự ra đời và phát triển hoàn chỉnh của học thuyết trọng thương
càng củng cố thêm chính sách độc quyền thương mại của Tây Ban Nha
bởi vì tư tưởng này cho rằng chính sách ngoại thương phải hướng tới
mục tiêu làm thế nào để mang được khối lượng lớn nhất có thể các kim
loại quý về nước và hạn chế tối đa xuất khẩu chúng.
Sự phát triển hưng thịnh của thương mại thuyền buồm Manila
galleon trong khoảng hai thập niên đầu thế kỷ XVI đã khiến cho hàng
hóa của các nước phương Đông, đặc biệt là tơ lụa Trung Quốc đến
Châu Mĩ và rất được ưa chuộng đồng thời tuyến thương mại này đã
làm cho một số lượng lớn bạc trắng từ Châu Mĩ chảy sang Phương
Đông, đặc biệt là vào thị trường Trung Quốc. Do vậy, để bảo vệ công
nghiệp tơ lụa và tầng lớp thương nhân độc quyền trong việc buôn bán
với thị trường châu Mĩ, Tây Ban Nha buộc phải đi đến chính sách hạn
chế thương mại ở thuộc địa Philippines.
2.2. Nội dung và quá trình triển khai thực hiện chính sách “đóng cửa”.
2.2.1. Chính sách hạn chế, độc quyền thương mại
2.2.1.1. Với thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mĩ
Để hạn chế hàng hóa phương Đông tràn ngập thị trường châu Mĩ,

bảo vệ công nghiệp và ngoại thương chính quốc, hoàng gia Tây Ban
Nha đã ban hành các sắc lệnh liên quan đến hoạt động Manila galleon
từ việc giới hạn trọng tải, giá trị và hàng hóa của các galleon đến hạn


15

chế thành phần tham gia vào Manila galleon. Điều này cho thấy về bản
chất thương mại Manila galleon là độc quyền của chính quyền Tây Ban
Nha ở Philippines và Mexico, được tiến hành bởi quan chức hoàng gia
và lợi nhuận thu được dồn vào tay người Tây Ban Nha gồm quan chức,
quân đội, tăng lữ và thương nhân độc quyền. Người Philippines, người
nước ngoài không tham gia trực tiếp vào buôn bán giữa ManilaAcapulco.
2.2.1.2. Với các nước châu Á
Do người Tây Ban Nha không được phép buôn bán trực tiếp với
các nước châu Á, họ buộc phải phụ thuộc vào các thương nhân châu Á
(Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á) mang hàng hóa đến Manila. Để
đảm bảo sự độc quyền trong việc mua hàng hóa, Tây Ban Nha đưa ra
những qui tắc kĩ lưỡng khống chế việc buôn bán: (1) Mở một cảng duy
nhất là Manila để trao đổi hàng hóa. (2) Kiểm soát giá cả thông qua hệ
thống mua sĩ hàng hóa (Pancada). Mục đích của việc sử dụng hệ thống
Pancada là nhằm hạn chế việc bán lẻ hàng hóa cũng như việc tăng giá
bán một cách tùy tiện khi hàng hóa được nhập vào Manila. Đồng thời
với biện pháp này, những thương nhân châu Á không thể tham gia trực
tiếp vào thương mại Manila galleon cũng như nội thương Philippines
mà chỉ đóng vai trò là những người cung cấp hàng hóa.
2.2.1.3.Với thương nhân châu Âu
Từ cuối thế kỷ XVI đến năm 1789, Tây Ban Nha dùng mọi biện
pháp để ngăn chặn sự xâm nhập của người châu Âu vào các thuộc địa
Philippines dưới mọi hình thức. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XVII đến

đầu thế kỷ XVIII, do những nhu cầu về trao đổi thương mại, nhiều toàn
quyền Philippines đã “cho phép” đi lại và “buôn bán ngầm” của người
Hà Lan, Anh đến Manila. Một trong những thỏa thuận ngầm là việc
kiềm chế sử dụng cờ châu Âu khi buôn bán với Manila. Ngoài ra,
người châu Á thường xuyên thay thế như là người dẫn đầu của việc
kinh doanh, trong khi những thương nhân châu Âu đóng vai trò như là
những người áp tải hàng hóa hoặc người phiên dịch, hoặc đơn giản tiếp
thu tên gọi của người châu Á.
2.2.2. Chính sách hạn chế nhập cư, kiểm soát chặt chẽ đối với di trú
của người nước ngoài
2.2.2.1 Trường hợp người Hoa
Trong số tất cả những người nước ngoài có mặt ở Philippines,
người Hoa chiếm số lượng đông đảo và có vai trò quan trọng đối với sự


16

phát triển của quần đảo nhưng họ cũng đồng thời mang đến những mối
đe dọa thường trực cho an ninh thuộc địa. Vì thế, chính quyền Tây Ban
Nha vẫn không hoàn toàn ngăn cấm người Hoa di trú đến Philippines,
thay vào đó họ có những biện pháp để kiểm soát chặt chẽ : (1) Áp dụng
hệ thống thuế riêng đối với người Hoa; (2) Hạn chế nhập cư; (3) Cải đạo
người Hoa sang Công giáo; và thậm chí là trục xuất và thảm sát nếu
người Hoa nổi dậy chống đối.
2.2.2.2. Trường hợp người Nhật
Do những thăng trầm trong quan hệ giữa hai chính quyền, người
Nhật ở Philippines cũng bị kiểm soát rất gắt gao. Đặc biệt từ năm 1639
cho đến 1868, do Nhật Bản thực thi chính sách đóng cửa, sự tiếp xúc
giữa Philippines và Nhật Bản là rất ít và chỉ được giới hạn đối với những
người Nhật bị đắm tàu hoặc mắc cạn. Người Nhật ở Philippines không

thể trở về nước tiếp tục mở những cửa hàng của họ ở Dailao, San
Miguel, San Roque gần Cavite và bị chính quyền Philippines giám sát
chặt chẽ, một số người Nhật cũng định cư ở Cebu và thành phố Vịnh ở
Laguna.
CHƯƠNG 3. TỪ NỚI LỎNG “ĐÓNG CỬA” ĐẾN CHÍNH SÁCH
“MỞ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES
(1764-1898)
3.1.Nhân tố tác động đến sự thay đổi chính sách “đóng cửa” sang “mở
cửa”
3.1.1. Sự kém hiệu quả trong quản lí độc quyền và sự suy yếu của
đế chế Tây Ban Nha trong thế kỷ XVIII, XIX
Với tư cách là quốc gia tiên phong trong công cuộc thám hiểm thế
giới và bành trướng thuộc địa, Tây Ban Nha trở thành cường quốc số
một ở châu Âu và thế giới trong thế kỉ XVI. Tuy vậy, từ thế kỉ XVII,
Tây Ban Nha bắt đầu bước vào thời kì “suy thoái” và khủng hoảng chính
trị - kinh tế kéo dài, quá trình này tiếp diễn trong thế kỉ XVIII, XIX. Hệ
quả của tình trạng này là việc Tây Ban Nha bất lực trong việc duy trì độc
quyền thương mại trong nội bộ đế chế của mình, buộc họ phải dựa vào
Pháp. Khi cuộc chiến tranh kế vị Tây Ban Nha kết thúc, với hiệp ước
Utrech, Tây Ban Nha thậm chí không thể ngăn chặn sự có mặt chính
thức của Anh đối với thương mại của Tây Ban Nha ở chính quốc và
thuộc địa.


17

3.1.2. Sự ra đời của tư tưởng kinh tế chính trị mới ở châu Âu vào thế
kỷ XVIII
Vào đầu thế kỷ XVIII, ở nhiều nước châu Âu, chủ nghĩa trọng
thương trọng kim dần bị thay thế bởi chủ nghĩa “thặng dư thương

mại” và sau đó là “tự do thương mại”. Ở Tây Ban Nha, nhiều ý tưởng
về cải cách kinh tế đã ra đời – thường gọi là trường phái “phản trọng
thương”. Trong xu thế đó, các Toàn quyền Tây Ban Nha ở Philippines,
đặc biệt là Basco y Vargas (1778-1787) bắt đầu tạo dựng những quy tắc
mới phù hợp với xu thế của thế giới, tập trung vào phát triển tài nguyên
thiên nhiên và nỗ lực tạo ra sự tác động có lợi cho sự phát triển của
nông nghiệp và công nghiệp thay vì chỉ tập trung vào thương mại trong
suốt 200 năm trước đó.
3.1.3. Anh xâm chiếm Manila (1762-1764) và nhu cầu phục hồi
thương mại quốc tế, duy trì quyền cai trị của Tây Ban Nha ở
Philippines
Trong lúc những thay đổi về chính sách kinh tế ở Philippines đang
được thúc đẩy thì một sự kiện chấn động xảy đến đó là cuộc tấn công
Manila của nước Anh năm 1762. Do thiếu thông tin và sự phòng bị,
chính quyền Tây Ban Nha ở Manila nhanh chóng thất thủ và Manila bị
người Anh chiếm đóng trong vòng 2 năm (5-10-1762 đến 31-5-1764).
Anh trao trả Manila lại cho Tây Ban Nha do hiệp ước Paris kết thúc
cuộc Chiến tranh Bảy năm được kí vào ngày 10-2-1763. Mặc dầu vậy,
sự rút đi của họ đã để lại cho chính quyền Tây Ban Nha những thách
thức lớn đòi hỏi họ phải có những đối sách phù hợp để tiếp tục duy trì sự
hiện diện ở tiền đồn Philppines.
3.2. Nội dung và quá trình triển khai thực hiện của chính sách “mở cửa”
3.2.1. Chính sách nới lỏng “đóng cửa” (1764-1789)
3.2.1.1. Trong thương mại
Bên cạnh việc tăng cường khả năng tự phòng thủ để đảm bảo an
toàn thuộc địa, đối mặt với vấn đề tái thiết thuộc địa sau chiến tranh,
dưới thời của Toàn quyền Francisco de la Torre (1764-1765), phụ trách
tài chính của Manila là Francisco Leandro de Viana đã đề nghị kế hoạch
phát triển kinh tế ở thuộc địa Philippines thông qua hai dự án lớn đó là
kết nối thương mại trực tiếp giữa Philippines với chính quốc và kế hoạch

phục hồi thương mại Philippines với các nước châu Á.


18

3.2.1.2. Trong chính sách đối với người Hoa
Để phục vụ cho “Kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế Philippines”,
Toàn quyền Basco y Vargas đã được nhà vua chỉ dẫn cho phép số lượng
nhỏ người Hoa vào Philippines, chủ yếu là nông dân và thợ thủ công.
Chính quyền Tây Ban Nha đã kêu gọi “số lượng giới hạn” 4000 người
Hoa Thiên Chúa giáo định cư ở Philippines để lấp đầy những khoảng
trống mà những người bị trục xuất trước đó bỏ lại, đặc biệt là thợ sản
xuất gốm, thợ nhuộm, thợ đúc, thợ rèn, thợ mỏ, thợ mộc giỏi, nông dân
trồng dâu, dệt lụa. Chính sách dưới thời Toàn quyền Basco đã thu hẹp
khoảng cách giữa chính quyền Tây Ban Nha và những người Hoa có
tiềm năng nhập cư vào Manila.
3.2.1. Chính sách “mở cửa hạn chế” (1789-1833)
3.2.1.1. Đối với thương mại
Trong sự chuyển động của công cuộc cải cách thương mại của đế
chế Tây Ban Nha từ năm 1765, đến năm 1789, Tây Ban Nha ban hành
sắc lệnh “tự do thương mại” đối với Philippines. Nội dung quy định
“thuyền của bất cứ quốc gia nào đều được cho phép buôn bán với
Manila miễn là không mang hàng hóa từ châu Âu. Sắc lệnh này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tự do buôn bán đối với những hàng hóa
châu Á ở Philippines.
Vào đầu thế kỷ XIX, chính sách mở cửa thương mại được thúc đẩy
mạnh mẽ dưới sự tác động của những yếu tố cả trong lẫn ngoài đế chế
Tây Ban Nha. Thứ nhất, sự can dự của Anh và Pháp ở Đông Nam Á,
phản ánh một tham vọng thương mại và hàng hải mới dưới tác động của
cuộc cách mạng công nghiệp. Thứ hai, vào thời điểm này, phong trào

độc lập của Mexico vào năm 1820 đã tác động trực tiếp đến sự suy tàn
của đế chế Tây Ban Nha bởi vì cho đến lúc đó, Manila phụ thuộc vào
Mexico cả tài chính và chính trị. Tình hình đó buộc Tây Ban Nha phải
đưa ra sự hủy bỏ những hạn chế còn lại trong thương mại thuộc địa.
3.2.1.2. Đối với vấn đề di trú của người nước ngoài
Từ năm 1789, khi Manila mở cửa đối với ngoại thương, nhiều
người nước ngoài với nhiều quốc tịch khác nhau bắt đầu ghé thăm và
lưu lại ở Philippines, trong số đó có cả những người không theo Thiên
Chúa giáo. Tuy nhiên, Tây Ban Nha vẫn cấm người nước ngoài bán lẻ
hoặc đi đến các tỉnh để tiến hành buôn bán bất cứ loại hàng hóa nào.


19

3.2.2. Chính sách “mở cửa rộng rãi” (1834-1898)
3.2.2.1. Chính sách mở cửa cảng biển và cho phép sự thiết lập của
Lãnh sự, công ty nước ngoài
Sự chấm dứt Manila galleon năm 1815, sự thất bại trong kinh
doanh của Công ty Hoàng gia Philippines chứng tỏ rằng những nỗ
lực của Tây Ban Nha trong việc giữ độc quyền thương mại ở
Philippines hoàn toàn thất bại. Từ năm 1834 đến năm 1873, Tây Ban
Nha tuyên bố mở cửa nhiều cảng biển Philippines đối với thương mại
thế giới. Và đi cùng với việc mở cửa các cảng biển khác ở Philippines
thì các công ty của người châu Âu, Mỹ cũng được thành lập ở đó. Lãnh
sự và các công ty nước ngoài đóng vai trò thúc đẩy sự trao đổi
thương mại của thuộc địa Philippines với các nước, nhờ vậy thương
mại Philippines có sự gia tăng một cách nhanh chóng.
3.2.2.2. Chính sách tự do đầu tư sản xuất và xuất-nhập khẩu
Các thương nhân nước ngoài được cho phép đầu tư vốn và công
nghệ hiện đại vào sản xuất các mặt hàng chủ yếu ở Philippines, đó là

mía đường, thuốc lá và gai dầu. Điều này đưa đến sự mở rộng diện
tích trồng trọt và tạo ra nguồn cung cấp hàng hóa xuất khẩu dồi dào.
3.2.2.3. Chính sách giảm thuế thương mại
Để khuyến khích mở rộng thương mại, Tây Ban Nha ban hành
nhiều sắc lệnh chủ yếu nhắm vào sự hủy bỏ đối với thuế xuất khẩu và
giảm thuế đối với những hàng hóa được chở bằng thuyền quốc gia.
3.2.2.4. Chính sách tự do đi lại, định cư và kinh doanh đối với người
nước ngoài
Xuất phát từ những nỗ lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
Philippines, từ cuối thế kỷ XVIII, chính sách của Tây Ban Nha đối với
người nước ngoài chuyển từ giới hạn sang khuyến khích nhập cư, tự do
đi lại, định cư, kinh doanh và sở hữu tài sản đã khuyến khích việc thu
hút nguồn lực từ nước ngoài. Đồng thời, việc áp dụng những yếu tố tiến
bộ của thời đại đã mở toang cánh cửa cho nền kinh tế Philippines hội
nhập vào dòng chảy thương mại thế giới.


20

CHƯƠNG 4. NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH
“ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA
Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES
4.1. Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” là kết quả của tác động nội tại
với bối cảnh quốc tế, khu vực
Qua phân tích cơ sở, bối cảnh và các nhân tố tác động đến việc thực
thi Chính sách “đóng cửa và “mở cửa” cho phép chúng tôi đi đến nhận
định rằng những chính sách đó không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan
của chính quyền Tây Ban Nha mà là kết quả của những tác động đan xen
phức tạp, trong đó nổi lên ba nhân tố chính: thứ nhất là ảnh hưởng của
các học thuyết kinh tế-chính trị châu Âu thế kỉ XVI-XIX. Thứ hai là địa

vị kinh tế, chính trị của Tây Ban Nha trong trật tự quốc tế. Và thứ ba là
quan hệ giữa chính quyền Tây Ban Nha với các nước trong khu vực, đặc
biệt là Trung Quốc, Nhật Bản.
4.2. Tây Ban Nha đã chú trọng mục tiêu chính trị, tôn giáo hơn lợi ích kinh
tế trong quá trình thực thi chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở
Philippines
Thông thường khi nói đến chính sách của một nước thực dân ở một
nước thuộc địa, chúng ta thường nhấn mạnh đến lợi ích kinh tế mà nó
mang lại cho chính quốc. Trong trường hợp Philippines, trong suốt thời
kì “đóng cửa”, thuộc địa này không những không mang lại lợi nhuận mà
còn trở thành gánh nặng tài chính đối với Tây Ban Nha. Rõ ràng, sự hiện
diện của Tây Ban Nha ở quần đảo này chính là muốn biến Philippines
thành phòng tuyến ngăn chặn dòng chảy bạc sang phương Đông, cũng
như dùng quần đảo này làm bàn đạp để chiếm các thị trường buôn bán ở
châu Á. Quan trọng hơn, Tây Ban Nha hướng đến sứ mệnh cao cả là
truyền bá đạo Thiên Chúa.
4.3. Khoảng cách lớn giữa ban hành và thực thi chính sách “đóng
cửa” ở thuộc địa Philippines
Nghiên cứu quá trình thực thi chính sách “đóng cửa” và “mở cửa”
của Tây Ban Nha ở Philippines cho thấy một đặc điểm rất rõ rệt đó là sự
mâu thuẫn giữa ban hành và thực thi chính sách. Điều này bị chi phối
bởi hai yếu tố, đó là Philippines chịu sự cai trị gián tiếp thông qua phó
vương Mexico và những quan chức thuộc địa đã đặt lợi ích riêng lên trên
các chính sách.


21

4.4. Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” ở thuộc địa Philippines nằm
trong “quỹ đạo” chung của đế chế Tây Ban Nha

Mặc dù là tiền đồn xa xôi của Tây Ban Nha ở Viễn Đông và có
những đặc điểm tất riêng nhưng những chính sách áp dụng ở Philippines
về cơ bản nằm trong bối cảnh chung của Đế chế Tây Ban Nha. Trên
phương diện vĩ mô, chính sách thương mại của Tây Ban Nha cũng chia
thành hai giai đoạn cơ bản là “độc quyền” (từ giữa thế kỉ XVI đến 1764)
và giai đoạn “tự do” (từ 1765 đến cuối thế kỉ XIX).
4.5. Tác động
4.5.1. Đối với Philippines
4.5.2. Đối với Tây Ban Nha


×