Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tieu luan Duong loi chinh sach doi ngoai (in)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.67 KB, 20 trang )

1

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................2
I. NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG VỀ THỜI ĐẠI, XU THẾ VẬN
ĐỘNG CỦA THẾ GIỚI VÀ QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA .................2
1. Khái quát về thời đại ngày nay ................................................................... 2
2. Những đặc điểm chính trong giai đoạn hiện nay của thời đại .................... 3
3. Những mâu thuẫn trong giai đoạn hiện nay của thời đại............................. 4
II. QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ ĐƯỜNG
LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỔI NGOẠI .............................................................. 6
1. Sự chuyển biến giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế ......................... 6
2. Sự chuyển biến từ cặp phạm trù hợp tác/đấu tranh đến cặp phạm trù
đối tác/đối tượng .............................................................................................8
3. Sự thay đổi trong tư duy tập hợp lực lượng ................................................9
III. ĐƯỜNG LỐI CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 1986
ĐẾN NAY.
1. Bối cảnh…………………………………………………………………11
2. Mục tiêu và nhiệm vụ……………………………………………………12
3. Đổi mới đường lối đối ngoại từ năm 1986 đến nay của Đảng Cộng sản Việt
Nam………………………………………………………………………13

4. Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân……………………………..16
KẾT LUẬN ........................................................................................................19


2


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 20

LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (121986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, cùng với đổi mới kinh tế là đổi mới chính trị và các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội. Để đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trước hết phải đối mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Đây là tiền đề nhận thức
của đổi mới. Hình thành nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những hoàn cảnh, điều kiện mới của tình hình
trong nước và thế giới là điểm cốt lõi, căn bản nhất của lý luận đổi mới ở nước ta
tư giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX cho đến nay. Thực tiễn xã hội đã khách quan hóa vai
trò và tầm quan trọng đặc biệt của lý luận và tư duy lý luận đối với sự phát triển
của đất nước và dân tộc ta. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng, do đó là vấn đề cấp
bách, bức xúc đối với sự lãnh đạo của Đảng đồng thời là vấn đề cơ bản, lâu dài, có
ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Nói đến đổi mới tư duy về đối
ngoại, trước hết là việc đổi mới công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá những
chuyển biến của tình hình thế giới và quan hệ quốc tế; thứ hai là đổi mới tư duy về
các cặp quan hệ như: lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế; sự chuyển biến từ cặp
phạm trù hợp tác/đấu tranh đến cặp phạm trù đối tác/đối tượng; đổi mới tư duy về
tập hợp lực lượng, từ đó xác định chủ trương, đường lối và chính sách đối ngoại
thích hợp.
Bài viết dưới đây trình bày về “Quá trình chuyển biến tư duy của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về đường lối, chính sách đối ngoại từ 1986 đến nay”. Khuôn
khổ bài viết tập trung trả lời ba câu hỏi: 1. Đường lối chính sách đối ngoại Việt
Nam đổi mới như thế nào từ năm 1986 đến nay, 2. Xu thế vận động của thế giới và
quá trình toàn cầu hóa đã tác động như thế nào đối với sự phát triển và trưởng
thành về năng lực tư duy lý luận của Đảng? 3. Trong quá trình thay đổi tư duy đối
ngoại của Đảng từ 1986 đến nay, sự chuyển biến nào là mấu chốt? Tại sao?
I. NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG VỀ THỜI ĐẠI, XU THẾ VẬN
ĐỘNG CỦA THẾ GIỚI VÀ QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA.

1. Khái quát về thời đại ngày nay
Trước những diễn biến vô cùng phức tạp của thế giới sau sự khủng hoảng và
sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, vấn đề thời đại tiếp tục


3

trở thành một trong những tiêu điểm nóng bỏng, gay gắt của cuộc đấu tranh tư
tưởng – lý luận. Dựa trên quan điểm mácxít về thời đại, Đảng ta tiếp tục khẳng
định, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi năm 1917
đã đánh dấu bước đột phá vĩ đại mở đầu thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cao trào cách mạng
giải phóng dân tộc từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai liên tiếp giành thắng lợi, làm
sụp đổ hệ thống thuộc địa, khai sinh một thực thể quốc tế mới, bao gồm hơn một
trăm quốc gia độc lập. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân sinh, dân chủ và tiến
bộ xã hội cũng được đẩy mạnh trên toàn thế giới. Trước sức tiến công của các lực
lượng cách mạng này vào chủ nghĩa tư bản, sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội của thời
đại ngày nay được kiểm chứng về mặt lịch sử như những bước vận động hiện thực.
Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc liên tục bị tấn công từ nhiều phía, phải chịu
nhiều thất bại nặng nề và đã hơn một lần lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Dù đã có
những điều chỉnh mạnh mẽ không chỉ cơ cấu sản xuất, cơ chế bóc lột và công
nghệ, song chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn gay gắt
vốn có trong lòng nó. Bởi vậy, ngay cả khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
Liên Xô không còn nữa, từ trong lòng các nước tư bản, hàng loạt học giả liên tiếp
đưa ra các luận cứ, sự kiện bác bỏ tính trường tồn của chủ nghĩa tư bản.
Thời đại là cả một thời gian lịch sử dài hàng trăm năm. Quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử lâu dài, gồm nhiều thời kỳ vận động
phức tạp. Văn kiện Đại hội IX của Đảng ta khẳng định: “ Chủ nghĩa xã hội trên thế
giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh
của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật

tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, gắn với bối cảnh cụ thể của từng nước, nên
không đồng nghĩa với sự thất bại của toàn bộ chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, vẫn
còn nhiều nước xã hội chủ nghĩa khắc phục được khủng hoảng, từng bước cải
cách, đổi mới và phát triển.
Tóm lại, mặc dù thế giới đã trải qua những biến động rất sâu sắc sau thất bại
lớn tạm thời của chủ nghĩa xã hội, nhưng tính chất và nội dung của thời đại ngày
nay không hề thay đổi. Vận động trong những điều kiện lịch sử mới, với những đặc
điểm mới khác về cơ bản so với trước năm 1991, thời đại chúng ta hiện vẫn hướng
tới mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, gắn liền với cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất – kỹ
thuật ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội.
2. Những đặc điểm chính trong giai đoạn hiện nay của thời đại


4

Một là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, đạt nhiều kỳ tích, đã và đang tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời
sống mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế trong thời đại ngày nay.
Hai là, toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, nhưng đang bị chủ nghĩa tư
bản và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối.
Ba là, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn ra gay gắt.
Bốn là, nhân loại đang đứng trước những vấn đề toàn cầu hết sức bức xúc
đòi hỏi phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết, trong khi đó, vì lợi ích quốc
gia, các nước chưa thật sự tích cực hợp tác với nhau.
Năm là, quan hệ giữa các nước lớn ngày càng trở thành nhân tố rất quan
trọng đối với sự phát triển của tình hình thế giới.
3. Những mâu thuẫn trong giai đoạn hiện nay của thời đại

a/ Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn cơ
bản xuyên suốt của thời đại trong tiến trình vận động của lịch sử nhân loại, xét
cả từ góc độ lý luận và góc độ thực tiễn.
Chủ nghĩa xã hội dù bị đổ vỡ một bộ phận, không còn là một hệ thống,
nhưng vẫn còn tồn tại các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa vẫn còn tồn tại trong niềm tin của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên thế giới.
Câu hỏi đặt ra: Tại sao vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản vẫn là vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh hiện nay trên thế giới?
Bởi vì: Sau sự sụp đổ một mảng lớn các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu năm 1991, các chiến lược gia tư sản đang ra sức chứng minh rằng chủ
nghĩa tư bản là giai đoạn phát triển cao nhất, giai đoạn cuối cùng của thời đại ngày
nay. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang ngày
càng lớn mạnh, ngoài các nước xã hội chủ nghĩa đang có bước phát triển bền vững,
có ảnh hưởng lớn trong phong trào cộng sản và công nhân, ở một số nước đã từng
là xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản dần dần lấy lại được vị thế của mình. Điều
quan trọng nhất là cả đảng cộng sản và quần chúng nhân dân đã dần dần nhận rõ
những sai lầm cần sửa chữa, cái giá phải trả cho những ngộ nhận ở một thời điểm
nào đó trong quá khứ. Phong trào xã hội chủ nghĩa là một xu thế, một lực lượng
chính trong sự phát triển của xã hội loài người. Nó đã và vẫn là mối đe dọa, là đối
thủ chính của chủ nghĩa đế quốc trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” hiện nay. Chủ
nghĩa đế quốc sẵn sàng gác lại mâu thuẫn nội bộ để tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Có
thể nói, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn là cuộc đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản, trung tâm của thời đại ngày nay.


5

b/ Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và nhân dân
lao động vẫn là mâu thuẫn cơ bản, xuyên suốt hiện nay. Mặc dù chủ nghĩa tư bản

đã có những điều chỉnh mới trong phương thức thống trị và trong bóc lột giá trị
thặng dư, nhưng những mâu thuẫn giữa công nhân và tư bản không giảm sút hoặc
đã mất đi. Lợi dụng việc nắm giữ những tiến bộ của khoa học và công nghệ, lợi
dụng toàn cầu hóa và nắm giữ nguồn tài chính khổng lồ, các nhà nước tư bản câu
kết nhau thành lập những công ty xuyên quốc gia khống chế, bóc lột giai cấp công
nhân tinh vi hơn, khó nhận thấy trực tiếp hơn so với trước đây.
Toàn cầu hóa kinh tế càng làm cho quá trình xâm nhập tư bản vào các nước
đang và chậm phát triển tăng lên. Sự chênh lệch giàu nghèo càng tăng làm cho
quần chúng lao động các nước ngày càng nhận rõ mặt trái của toàn cầu hóa và kiên
quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa.
c/ Mâu thuẫn giữa các nước đang phát triển và chậm phát triển với các
nước đế quốc có nguy cơ ngày càng trở nên gay gắt.
Lợi dụng những khó khăn của phong trào xã hội chủ nghĩa, Mỹ đang mưu
toan sắp đặt lại trật tự thế giới với mưu đồ Mỹ làm bá chủ. Đặc biệt, sau sự kiện
ngày 11-9-2001, lợi dụng vấn đề chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, một mặt đế
quốc Mỹ tăng cường việc tập hợp các nước trên cơ sở hợp tác chống khủng bổ, mặt
khác tiến hành điều chỉnh chiến lược, tự cho phép “đánh đòn phủ đầu” những quốc
gia dân tộc nào không theo cái gậy chỉ huy của Mỹ.
Quan hệ quốc tế dựa trên những nguyên tắc đã được thiết lập nhiều năm
trước đây đã bị phá vỡ do hành động của chủ nghĩa đế quốc. Hòa bình, độc lập dân
tộc, không can thiệp vào nội bộ vì sự phát triển của các quốc gia đã bị xâm phạm.
Các nước tư bản đang hợp sức thông qua các công ty tư bản xuyên quốc gia lũng
đoạn thế giới, đặt các dân tộc trước nguy cơ mất độc lập về kinh tế và do đó mất
độc lập về chính trị, quân sự và văn hóa.
d/ Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau trong giai đoạn hiện nay
vẫn là mâu thuẫn cơ bản đang tồn tại hiện hữu.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ mưu toan làm bá chủ thế giới bất chấp
luật pháp quốc tế, làm cho các nước đế quốc khác bất bình. Việc Mỹ phát động
cuộc chiến chống Ápganixtan và Irắc đã đe dọa quyền lợi kinh tế, các vị trí chiến
lược của các nước tư bản phát triển ở châu Âu. Mỹ đứng sau các thế lực hiếu chiến

ở Ixraen gây ra tình hình mất ổn định ở Trung Đông. Cuộc chiến trong kinh tế,
thương mại giữa các trung tâm Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản thường xuyên bộc lộ những
mâu thuẫn, tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. Đặc biệt, chủ trương “đánh đòn phủ
đầu” của Mỹ không chỉ đe dọa độc lập dân tộc của các nước đang phát triển, mà
còn đe dọa chính các nước tư bản phát triển khác.


6

Trong giai đoạn hiện nay của thời đại, song hành với những mâu thuẫn cơ
bản vẫn còn nguyên, hiện đang nổi lên một mâu thuẫn hết sức gay gắt như là mâu
thuẫn chủ yếu của thời đại chúng ta – đó là mâu thuẫn giữa một bên là các lực
lượng đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, ổn định, phát triển bền
vững với một bên là các thế lực đế quốc hiếu chiến, đứng đầu là đế quốc Mỹ, đang
thực thi chính sách ngông cuồng, ngạo mạn, áp đặt, đe dọa nhân loại tiến bộ toàn
thế giới.
Thực tiễn sự vận động của lịch sử mười năm cuối của thế kỷ XX và những
năm đầu của thế kỷ XXI vẫn chỉ rõ bốn mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay
vẫn còn nguyên, cho dù đã có những thay đổi trong từng mặt đối lập cấu thành
mâu thuẫn, trong hình thức biểu hiện và mức độ gay gắt của nó.
Quá trình chuyển biến của xu thế vận động của thế giới và quá trình toàn cầu
hóa đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc và trực tiếp đến sự chuyển biến trong tư duy lý
đối ngoại của Đảng. Hơn 8 thập niên đã trôi qua, mặc dù thế giới luôn vận động
thăng trầm phức tạp, song lý tưởng và con đường Cách mạng Tháng Mười vẫn
ngời sáng, định hướng cuộc đấu tranh của phong trào cộng sản quốc tế, của các dân
tộc vì những mục tiêu cao cả mang tính thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Đảng ta luôn kiên trì quan diểm mácxít về thời đại, nhận ra
rằng quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử lâu
dài, gồm nhiều thời kỳ vận động phức tạp. Vì thế, không được ảo tưởng giản đơn,
nóng vội, chủ quan, đồng thời cũng không được hoài nghi, dao động, bi quan trước

những biến động xấu, đổ vỡ và bước thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xã hội hiện
nay.
II. QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ ĐƯỜNG
LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
1. Sự chuyển biến giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế
Trước năm 1986, với tư duy mang nặng tính ý thức hệ, nước ta đã xem trọng
vấn đề nghĩa vụ quốc tế hơn lợi ích dân tộc, xem vấn đề này là ưu tiên hàng đầu
trong chính sách của đất nước. Trong khi đó, tình hình thực tế là đất nước ta vừa
thoát khỏi chiến tranh, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, yêu cầu về phát triển
thực sự cấp thiết. Vấn đề an ninh được đặt lên hàng đầu so với vấn đề phát triển và
ảnh hưởng, mặc dù xu hướng thế giới sau chiến tranh đã chuyển dần sang vừa hợp
tác vừa đấu tranh. Những sai lầm trong tư duy này đã dẫn đến hậu quả không nhỏ:
sa lầy trong chiến tranh Campuchia, bị bao vây cô lập, bị đồng minh cũ Trung
Quốc gây chiến tranh biên giới và luôn đe dọa “dạy bài học” lần 2, tình hình trong
nước vô cùng phức tạp. Những hậu quả này buộc chúng ta phải xem xét, hoạch
định lại chính sách để phù hợp hơn.


7

Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước đột phá trong tư duy đối ngoại.
Trong bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa đều nhận thấy phải cải tổ, cải cách, mở
cửa để đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã nhận rõ phải mở cửa và hội nhập với thế
giới trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau. Trở lại với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thêm bạn bớt thù,
Đảng ta khẳng định phải quan hệ rộng rãi với các nước, không phân biệt chính kiến
chính trị, lý tưởng, thậm chí với cả các nước trước đây có lúc là kẻ thù trực tiếp của
nhân dân ta.
Để hội nhập với thế giới, Đảng ta nhận rõ, trước hết phải phá thế bao vây,
cấm vận của chủ nghĩa đế quốc và làm cho thế giới hiểu rõ thiện chí, trách nhiệm

của nhân dân ta trong việc giúp giải phóng nhân dân Campuchia khỏi thảm họa
diệt chủng của Pôn Pốt. Việc rút toàn bộ quân đội khỏi Campuchia năm 1989 đã
loại bỏ một rào cản lớn mà các nước đế quốc lợi dụng để bao vây, cấm vận Việt
Nam. Có thể thấy rõ sự thay đổi trong tư duy về lợi ích quốc gia sau năm 1986
trước hết ở Nghị quyết 13 BCT/5 – 1988: “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân
ta sau khi giải phóng miền Nam, cả nước thống nhất, đi lên Chủ nghĩa xã hội là
phải củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế”.
Từ đó, Đảng chủ trương: mở rộng cửa quan hệ với tất cả các nước để hội nhập
quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa
đủ mạnh, với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta càng có nhiều khả
năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”,
NQ13BCT/5-1988.
Như vậy, Đảng đã khẳng định: sức mạnh kinh tế, lực lượng quân sự và quan
hệ đối ngoại là ba nhân tố liên quan đến độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, đem đến lợi ích quốc gia.
Bên cạnh đó, Đảng cũng nhận thức được rằng: xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, phát triển nhanh về kinh
tế, làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh…cũng là một
cách để Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế, là đóng góp quan trọng vào cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và phát triển.
Đổi mới tư duy về lợi ích quốc gia từ năm 1996 cho đến nay, chính sách đối
ngoại chủ yếu của ta trong thời gian này là “Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển”, giờ đây chúng ta đã sẵn sàng là bạn với tất cả các nước bên ngoài cho dù họ
có muốn hay không.
Sự hình thành ngày càng rõ nét hơn về hoàn thiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa.


8


Đại hội Đảng lần thứ VIII “quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội” hòa
nhập nền kinh tế của chúng ta vào nền kinh tế thế giới, mở cửa thị trường và nhằm
nâng cao đời sống cộng đồng. Ta cũng thấy bắt đầu xuất hiện các vấn đề toàn cầu
như ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh… những vấn đề này ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi ích từng quốc gia. Do đó, đòi hỏi các quốc gia phải có sự hợp tác để
cùng nhau ngăn chặn và bảo vệ.
Đại hội Đảng lần thứ IX cho ta thấy sự thay đổi rất rõ trong tư duy về việc
phân biệt đối tác và đối tượng, có rất nhiều nước sẵn sàng là bạn với chúng ta
nhưng chỉ một số nước mới có thể trở thành đối tác, đây là tiêu chí hàng đầu để
phát triển kinh tế. Còn trong đại hội X chính sách đối ngoại Việt Nam có nhiều đổi
mới, đặt mục tiêu ảnh hưởng bằng mục tiêu phát triển để đảm bảo an ninh. Năm
2007 có thể được gọi là năm ngoại giao về kinh tế vì liều lượng kinh tế trong hoạt
động ngoại giao ngày càng tăng lên rất nhiều. Qua đó cho ta thấy chính sách đối
ngoại Việt Nam ngày càng hoàn thiện cả lý thuyết và thực tiễn, che chắn được
nhiều khuyết điểm của chúng ta. Lợi ích quốc gia dân tộc ở đây là lợi ích tối
thượng và được thể hiện qua ba mục tiêu chính đó là an ninh, ảnh hưởng và phát
triển và các mục tiêu này được thực hiện thông qua ba công cụ chính đó là kinh tế,
quân sự và ngoại giao. Ba mục tiêu và ba công cụ này luôn hỗ trợ và bổ xung cho
nhau phục vụ trong suốt quá trình hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước ta,
nhưng cũng có lúc ta chú trọng mục tiêu hay công cụ này hơn các mục tiêu và công
cụ còn lại hay lấy mục tiêu, công cụ này phục vụ cho các mục tiêu, công cụ còn lại
để bảo vệ lợi ích quốc gia. Do đó, mà buộc các nhà làm hoạch định chính sách phải
linh hoạt và nhạy bén tùy từng thời điểm và hoàn cảnh khác nhau mà ta sử dụng
thích hợp mục tiêu và công cụ nào cao hơn. Sự thay đổi tư duy về lợi ích quốc gia
đóng vai trò quan trọng trong đối nội cũng như đối ngoại. Chúng ta phải có sự thay
đổi tư duy thích hợp với hoàn cảnh, tình hình trong nước và thế giới theo phương
châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” và theo từng thời điểm khác nhau nhằm phục vụ
tối đa lợi ích dân tộc.
Có thể thấy, một nguyên tắc nhất quán là Đảng luôn lấy lợi ích quốc gia, lợi

ích dân tộc làm yếu tố hàng đầu trong việc hoạch định chính sách đối ngoại, lợi ích
quốc gia là tối thượng và phải được đặt lên trên hết tất cả các nhóm lợi ích riêng
biệt, bên cạnh đó kết hợp hài ḥa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế, với lợi ích
chính đáng của các đối tác, từ đó tt́m mẫu số chung để hợp tác tốt nhất. Đó chính là
điểm mấu chốt trong quá trình đổi mới tư duy đối ngoại từ 1986 đến nay. Đưa
đến lợi ích quốc gia của chúng ta hiện nay là xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội.
2. Sự chuyển biến từ cặp phạm trù hợp tác/đấu tranh đến cặp phạm trù
đối tác/đối tượng


9

Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đứng trước những thách thức và thời cơ
mới. Công cuộc đổi mới và phát triển đất nước đã bước sang một giai đoạn mới
sau khi đã khắc phục được đình đốn sản xuất và thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã
hội. Từ chỗ tuyên bố “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển (Đại Hội VII 1992)” đến
Đại Hội IX (1998) thì tuyên bố đó đã được đẩy lên tầm cao mới khi ta khẳng định
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Phát triển thêm một bước trong
việc mở rộng quan hệ, tranh thủ thêm bạn bè, Hội nghị Trung ương VIII (8/2003)
nêu ra nhận thức mới về đối tượng và đối tác. Trên thực tế, cụm từ “đối tượng” đã
xuất hiện trong các văn kiện Đảng từ năm 1992, và thuật ngữ “đối tác” cũng đã
được đưa vào các văn kiện quốc tế của Việt Nam song chủ yếu trong các văn bản
kinh tế từ năm 1996. Ở đây, trong văn kiện Đảng, “đối tác” nhấn mạnh công cụ
kinh tế và mục tiêu phát triển.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, có điểm mới so với hai kỳ Đại hội
trước đó là đã không còn tồn tại danh sách thứ tự ưu tiên đối với từng đối tượng
hay nhóm đối tượng cụ thể nữa. Đây là kết quả của việc đổi mới tư duy về đối

tượng và đối tác. Cũng từ
Đại hội X, trong quan hệ quốc tế, chúng ta không phân định “thù và bạn”
một cách đơn giản, mà nhận định một cách biện chứng và linh hoạt hơn; những ai
chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam, thiết lập và mở rộng quan
hệ hợp tác, hữu nghị, bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của Việt
Nam. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hoạt động chống phá sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đều là đối tượng đấu tranh của nhân dân
Việt Nam. Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ hợp tác, trong một số đối
tác vẫn có mặt khác biệt mâu thuẫn với lợi ích cần phải đấu tranh. Tuỳ từng đối
tượng, từng đối tác và tuỳ hoàn cảnh cụ thể, thời điểm cụ thể mà hợp tác hay đấu
tranh, và không thể hợp tác hay đấu tranh một chiều với một đối tác hay đối tượng.
Có thể thấy rằng cặp phạm trù đối tác - đối tượng là một dạng biến đổi từ cặp phạm
trù hợp tác - đấu tranh, ở mức độ cao hơn và khi nói đối tác - đối tượng, ta thấy rõ
phương châm ứng phó với mọi tình huống chính trị và mọi chủ thể tham gia vào
quan hệ quốc tế. Từ đó đi đến hội nhập đầy đủ hơn, toàn diện hơn với thế giới,
khẳng định hơn nữa vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
3. Sự thay đổi trong tư duy tập hợp lực lượng
Tư duy đối ngoại của Đảng ta được hình thành rõ hơn, được thể hiện hoàn
chỉnh hơn tại Đại hội VII của Đảng. Đến Đại hội VII, vấn đề hội nhập được Đảng
cụ thể hóa bằng chủ trương “đa dạng hóa, đa phương hóa” quan hệ quốc tế. Quan
hệ quốc tế của Việt Nam là với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị,


10

trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau. Quan hệ với các nước bao gồm nhiều hình thức: quan hệ đối ngoại về đảng,
quan hệ ngoại giao nhà nước, quan hệ giữa các tổ chức, các đoàn thể chính trị, các
hội…, cả song phương và đa phương. Đặc biệt, tại Đại hội VII, Đảng khẳng định
trở lại tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và

không gây thù oán với một ai”3, coi đó là tư tưởng chỉ đạo đối ngoại Việt Nam.
Đại hội chỉ rõ: Việt Nam là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển. Đường lối đối ngoại của Đảng ta
trong quan hệ với các nước được khẳng định rõ là: “Giữ vững hòa bình, mở rộng
quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”.
Với chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa trong mở cửa, Việt Nam đã hội
nhập đầy đủ hơn, toàn diện hơn với thế giới. Nhân dân yêu chuộng hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ hiểu rõ hơn đất nước, con người và những đóng góp
của Việt Nam cho tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã bổ sung và phát triển chiến lược đối ngoại mới.
Tư duy chính trị của Đảng thể hiện rõ nét nhất ở chỗ Đảng thấy rõ vị trí của công
tác đối ngoại trong tổng thể chiến lược phát triển đất nước. Đường lối đối ngoại
phải góp phần giải quyết 3 vấn đề lớn: một là, củng cố, giữ vững môi trường hòa
bình; hai là, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần trực tiếp vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; và ba là, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến bộ đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ. Trong bối cảnh trật tự thế giới đã có sự thay đổi căn bản
trong tương quan lực lượng, Mỹ đang nổi lên như một siêu cường duy nhất đang
thực thi một chính sách hiếu chiến, ngạo mạn, áp đặt đồi với các quan hệ quốc tế,
vấn đề giữ vững môi trường hòa bình để phát triển là một quyết sách đúng đắn.
Không có hòa bình, không có ổn định thì không thể khắc phục những nguy cơ mà
chúng ta phải đương đầu.
Tư duy đối ngoại của Đảng được phát triển và hoàn thiện hơn ở Đại hội IX.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế sau sự kiện 11-9, trước việc
chính quyền Mỹ công bố chiến lược “đánh đòn phủ đầu” đối với các nước mà Mỹ
cho rằng đe dọa đến an ninh của nước Mỹ, Đảng ta đã đề ra những chủ trương mới
trong quan hệ với các nước. Trên cơ sở kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh, Đảng đã chỉ rõ hướng ưu tiên trong quan hệ với các nước theo
trật tự: coi trọng quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước
láng giềng; tiếp tục mở rộng hợp tác với các bạn bè truyền thống, các nước đang
phát triển trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ,


11

gia nhập các tổ chức khu vực ASEAN, APEC, WTO... trên quan điểm bình đẳng,
cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Giữ vững độc lập tự chủ là vấn đề có tính nguyên tắc. Tuy nhiên, trong bối
cảnh
quốc tế hiện đại cần phải chủ động hội nhập, đi tắt đón đầu để phát triển. Tư duy về
chủ động hội nhập được Đảng nêu cụ thể: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi
đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đổi mới là hai nét mới thể hiện sự phát
triển trong tư duy đối ngoại của Đảng trong những năm qua.
III. ĐƯỜNG LỐI CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM TỪ NĂM
1986 ĐẾN NAY.
1. Bối cảnh.
a. Tình hình thế giới và khu vực
* Những chuyển biến về kinh tế quốc tế:
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục
phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân
tộc.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang
phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cương liên kết, hợp tác với các nước
phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh

nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.
Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế
cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào thế mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp,
trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.
Xu thế toàn cầu hoá và tác động của nó: Dưới góc độ kinh tế, toàn cầu hoá là
quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các rào
cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan toả ra phạm vi toàn cầu, trong đó hàng
hoá, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động... vận động thông thoáng; sự phân công lao
động mang tính quốc tế; quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau,
hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều.
Những tác động tích cực của toàn cầu hoá: trên cơ sở thị trường được mở
rộng, trao đổi hàng hoá tăng mạnh đã thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước;
nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư,
hợp tác mang lại lợi ích cho các bên tham gia hợp tác. Mặt khác toàn cầu hoá làm


12

tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho
việc xây dựng môi trường hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước.
Thực tế cho thấy rằng, các nước muốn thoát khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt
hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia vào qúa trình toàn cầu hoá,
đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các yếu tố bất lợi để vượt
qua.
Tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương, từ những năm 1990, có nhiều
chuyển biến mới: Trước hết trong khu vực tuy vẫn tồn tại những bất ổn, như vấn đề
hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh hải thuộc vùng biển Đông và việc một số nước
trong khu vực tăng cường vũ trang, nhưng châu Á – Thái Bình Dương vẫn được
đánh giá là khu vực ổn định ; hai là, châu Á – Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và
năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hoà bình và hợp tác trong khu vực phát

triển mạnh.
* Tình hình chính trị quốc tế:
Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng khoảng sâu sắc. Đến đầu những
năm 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to
lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thê giới
thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế giới
hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới.
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp
vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển.
Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh
chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thê giới.
* Tình hình trong nước
Thứ nhất, đất nước ta đang trong tình trạng bị bao vây cô lập về chính trị,
cấm vận về kinh tế, do vậy đất nước ta đang đứng trước bờ khủng hoảng kinh tế xã hội.
Thứ hai, nước ta vừa phải khắc phục hậu quả của chiến tranh, vừa phải đối
phó với chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.
Thứ ba, các thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn nham hiểm chống phá
cách mạng Việt Nam. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần V nhận định: “Nước ta
đang ở trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với kiểu chiến tranh phá
hoại nhiều mặt”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ


13

Sự bao vây chống phá của các thế lực thù địch từ nửa cuối thập kỷ 70 thế kỷ
XX tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định trong khu vực và gây khó khăn cản
trở đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, là một trong những nguyên nhân
dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta. Vì vậy, vấn đề giải tỏa tình

trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới mở rộng quan hệ hợp
tác với các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế là
nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta.
Do hậu quả nặng nề của chiến tranh và các khuyết điểm chủ quan, nền kinh
tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
là một trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu
chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt. Để thu hẹp khoảng cách, ngoài việc phát
huy tối đa nguồn lực trong nước, cần tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó,
mở rộng và tăng cường hợp tác kinh tế, tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và hoạch định chủ
trương, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới.
3. Đổi mới đường lối đối ngoại giai đoạn 1986 đến nay của Đảng Cộng
sản Việt Nam như thế nào?
3.1 Giai đoạn 1986-1991: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở
rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.
* Thứ nhất, đổi mới trong đánh giá tình hình quốc tế:
- Hòa bình và xu thế đối thoại là tất yếu, là một mặt của QHQT (ĐH VI).
+ Đại hội VI của Đảng ( 12 /1986) trên cơ sở nhận thức đặc điểm nổi bật của
thế giới là cuộc cách mạng khoa - học kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh
quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định: “ xu thế mở rộng
phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế – xã hội khác
nhau,cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta”. Từ đó Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác
kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp
phát triển, các tổ chức và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có
lợi.
- Phát triển kinh tế xu thế chung của thời đại và là lựa chọn của quốc gia.

* Thứ hai, đổi mới trong xác định lợi ích quốc gia trong quan hệ quốc tế:


14

- “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân sau khi giải phóng Miền Nam, cả
nước thống nhất đi lên xã hội chủ nghĩa là phải củng cố và giữ vững hòa bình để
tập trung xây dựng và phát triển kinh tế” Nghị quyết TW 13BCT/5-1988.
- “Với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ có khả năng giữ vững độc lập và xây
dựng thành công xã hội chủ nghĩa hơn” Nghị quyết TW 13BCT/5-1988.
* Chính sách đối ngoại:
- Chuyển từ đối đầu sang đối thoại
- Thêm bạn bớt thù
+ Đại hội VII của Đảng ( 6/1991) đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng và
cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị – xã hôi khác
nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”, với phương châm “Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển”.
- Rộng mở đa phương hóa, đa dạng hóa
- Sẵn sằng làm bạn với tất cả các nước
- Giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế
- Nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế
+ Triển khai chủ trương của Đảng, tháng 12-1987, luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam được ban hành. Đây là lần đầu tiên Nhà nước ta tạo cơ sở pháp lý cho
các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – mở cửa để thu hút nguồn
vốn, thiết bị và kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh và phục vụ công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
+ Tháng 5-1988, Bộ chính trị ra nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình tình mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất

của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giư vững hoà bình để tập trung sức xây
dựng và phát triển kinh tế. Bộ chính trị đề ra chủ trương kiên quyết chủ động
chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng
tồn tại hoà bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học – kỹ thuật và xu
thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công
lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại.
Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chủ trương xoá bỏ tình
trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. So với chủ trương
của Đại hội V “ Nhà nước độc quyền ngoại thương và Trung ương thống nhất quản


15

lý công tác ngoại thương”, thì đây là bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế
đối ngoại của Việt Nam.
3.2 Giai đoạn 1991 -1995
- Bốn phương châm mới
Thứ nhất, Bảo đảm lợi ích dt chân chính kết hợp nhuần nhuyến chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Thứ hai, giữ vững độc lập tự chủ tự lực tự cường đẩy mạnh đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại.
Thứ ba, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
Thứ tư, Tích cực tham gia hợp tác khu vực, mở rộng quan hệ quốc tế với tất
cả các nước, đặc biệt các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn.
- Chính sách đối ngoại
+ Các Hội nghị Trung ương (khoá VII) tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của
Đại hội VII về lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khoá VII (tháng 6-1992) nhấn mạnh yêu cầu đa dạng hoá, đa phương
hoá quan hệ quốc tê. Mở rộng cửa để tiếp thu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý

của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới, trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia,
bảo vệ tài nguyên, môi trường, hạn chế đến mức tối thiểu những mặt tiêu cực phát
sinh trong quá trình mở cửa.
+ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ
và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ , mở rộng, đa dạng hoá và đa
phương hoá quan hệ đối ngoại, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là: giữ vững nguyên tắc
độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội đồng thời phải rất sang tạo, năng động, linh
hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam cũng như diễn
biến của tình hình thế giới và khu vực. Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới vì hòa bình độc lập và phát triển.
3.3 Giai đoạn 1996 - nay:
Bổ sung và phát triển đương lối đối ngoại theo phương châm chủ động, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan
hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu
vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở và “đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngọai với các nhóm đối tác như:
ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức


16

ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi
trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới;
đoàn kết với các nước đang phát ttriển, với phong trào không liên kết; tham gia tích
cực và đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế.
+ Đại hội IX của Đảng (4/2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ động
hộinhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Lần đầu
tiên, Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” “Xây dựng

nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách,
đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải
đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất
nước”.
Cảm nhận đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội
IX đã phát triển phương châm của Đại Hội VII là: “Việt Nam muốn làm bạn với
các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”
thành “ Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Chủ trương xây dựng quan
hệ đối tác được đề ra ở Đại hội IX đánh dấu bước phát triển về chất tiến trình quan
hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4. Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân.
4.1. Thành tựu và ý nghĩa
Hơn 30 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh
tế quốc tế, nước ta đã đạt được những kết quả:
Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi
trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc tham gia ký Hiệp định Pari (ngày 23-10-1991) về một giải pháp toàn
diện cho vấn đề Campuchia, đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với
khu vực và cộng đồng quốc tế.
Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (ngày 10-11-1991);
tháng 11-1992 Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viên trợ ODA cho Việt Nam;
bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (ngày 11-7-1995).
Tháng 7-1995 Việt Nam ra nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nước ta
với khu vực Đông Nam Á.
Hai là, giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các
nước liên quan.



17

Đàm phán thành công với Malaixia về giải pháp “gác tranh chấp, cùng khai
thác” ở vùng biển chồng lấn giữa hai nước. Thu hẹp diện tranh chấp vùng biển
giữa ta và các nước ASEAN. Đã ký với Trung Quốc. Hiệp ước về phân định biên
giới trên bộ, Hiệp định phân Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác về nghề cá.
Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá.
Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các
nước lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tất
cả các nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á.
Đã ký Hiệp định khung về hợp tác với EU (năm 1995); năm 1999 ký thoả
thuận với Trung Quốc khung khổ quan hệ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác tòan diện,
ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”; tháng 5-2008 thiết lập quan hệ đối tác hợp
tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc; ngày 13-7-2001, ký kết Hiệp
định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ; tuyên bố về quan hệ đối tác tin
cậy và ổn định lâu dài với Nhật bản (năm 2002).
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 169 nước trong tổng số hơn
200 nước trên thế giới.
Tháng 10-2007, Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm uỷ viên
không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009.
Bốn là, tham gia các tổ chức quốc tế.
Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thê giới (WB), Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB); sau khi gia nhập ASEAN (tháng 7-1995) ViệtNam đã tham
gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tháng 3-1996, tham gia Diễn đàn
hợp tác kinh tế Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; tháng 11-1998,
gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC);
ngày 11-1-2007, Việt Nam được kết nạp là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO).
Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiêp thu khoa học

công nghệ và kỹ năng quản lý.
Về mở rộng thị trường : Nước ta đã tạo dựng được quan hệ kinh tế thương
mại với trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 74 nước áp dụng qui chế
tối huệ quốc ; thiết lập và ký kết hiệp định thương mại hai chiều với gần 90 nước
và vùng lãnh thổ. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 789 triệu USD, đến
năm 2007 đạt 48 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng 62,9 tỷ USD.


18

Việt Nam đã thủ hút được khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Năm 2007, thu
hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng 65 tỷ
USD.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện
đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới
trong các ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua các dự án lien doanh hợp tác với
nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản
lý sản xuất hiện đại.
Sáu là: từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào
môi trường cạnh tranh.
Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi
mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh
tranh để tồn tại và phát triển.
Tư duy làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội
ngũ các doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo, có kiến thức quản lý đang hình
thành.
Những kết quả trên đây có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các
nguồn lực bên ngoài kết hợp với các nguồn lực trong nước hình thành sức mạnh
tổng hợp, góp phần đưa đến những thành tựu to lớn. Góp phần giữ vững và củng

cố độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và bản
sắc văn hoá dân tộc; nâng cao vị thế và phát huy vai trò nước ta trên trường quốc
tế.
4.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ những hạn chế:
- Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lung túng,
bị động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau với các
nước.
- Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu
mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn
chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ
chức kinh tế quốc tế.
- Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế
và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.


19

- Doanh nghiệp nước ta hầu hết qui mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công
nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ, trang thiết bị lạc hậu; kết cấu
hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát
triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực.
- Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu
cả về số lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc
tế, về kỹ thuật kinh doanh.

KẾT LUẬN
Quá trình chuyển biến của xu thế vận động của thế giới và quá trình toàn cầu
hóa đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc và trực tiếp đến sự đổi mới trong tư duy lý luận

của Đảng, đặc biệt là trên lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Đảng luôn lấy lợi ích quốc
gia, lợi ích dân tộc làm yếu tố hàng đầu trong việc hoạch định chính sách đối
ngoại, lợi ích quốc gia là tối thượng và phải được đặt lên trên hết tất cả các nhóm
lợi ích riêng biệt, bên cạnh đó kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc
tế, với lợi ích chính đáng của các đối tác, từ đó tìm mẫu số chung để hợp tác tốt
nhất. Đó chính là điểm mấu chốt trong quá trình đổi mới tư duy đối ngoại từ 1986
đến nay.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI (năm
1986) đến nay đã trải qua hơn 20 năm. Thành tựu trong giai đoạn đổi mới là vô
cùng to lớn và có ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Thực tiễn phát triển đất nước và những
bài học kinh nghiệm tổng kết cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng ta, trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là hoàn toàn đúng đắn và
sáng tạo, chứng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng ta là phù hợp
với hoàn cảnh thực tế Việt Nam.
Nhận thấy, vấn đề và nội dung đề tài đưa ra là phức tạp và rộng lớn, thời
gian chuẩn bị không dài, trình độ của bản thân lại có hạn. Bởi vậy, dù em đã hết
sức cố gắng song bài viết chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót.
Em mong thầy, cô góp ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn.


20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Vũ Dương Huân, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới
(1975 – 2002), Học viện quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2002.
2. Ths. Vũ Đoàn Kết, Chính sách đối ngoại Việt Nam tập II (1975-2006), Học
viện quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2007.
3. Quá trình đổi mới tư duy ly luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008, 2016




×