Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu thành phần loài và đặc trưng phân bố của giáp xác nước ngọt (Crustacea) ở khu vực vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.45 KB, 27 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------

LÊ DANH MINH

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI VÀ ĐẶC TRƢNG PHÂN BỐ
CỦA GIÁP XÁC NƢỚC NGỌT (CRUSTACEA) Ở KHU VỰC
VƢỜN QUỐC GIA PHONG NHA - KẺ BÀNG
Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 9.42.01.03

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC

HÀ NỘI – 2018


2
Công trình được hoàn thành tại Học viện Khoa học và Công nghệ
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học 1: PGS.TS. Hồ Thanh Hải
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học 2: TS. Trần Đức Lương

Phản biện 1: …
Phản biện 2: …


Phản biện 3: ….

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ, họp tại Học
viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam vào hồi … giờ ..’, ngày … tháng … năm 201….

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ
- Thư viện Quốc gia Việt Nam


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáp xác nước ngọt thuộc các taxon Decapoda, Copepoda, Cladocera,
Ostracoda, là những đối tượng phổ biến trong nhóm giáp xác ở các thủy
vực nước ngọt nói chung và các thủy vực vùng núi đá vôi nói riêng. Đặc
tính về đa dạng sinh vật của nhóm này thể hiện ở sự phong phú cả về
thành phần loài, số lượng cá thể và tính chất phân bố trong quần xã.
Chúng đóng vai trò lớn trong chuỗi thức ăn và lưới thức ăn của thủy vực,
nhiều loài là đối tượng khai thác có giá trị kinh tế.
Trên thế giới, khu hệ động vật nói chung, nhóm giáp xác nước ngọt
nói riêng ở các thủy vực vùng núi đá vôi, bao gồm cả các thủy vực ngầm
trong hang động đã được nghiên cứu từ khá sớm và thu được nhiều kết
quả, trong đó nhiều giống và loài mới đã được ghi nhận cho khoa học.
Việt Nam, các vùng núi đá vôi nói chung và vùng núi đá vôi khu
vựcVQG Phong Nha - K Bàng t nh Quảng Bình nói riêng, đặc biệt là đối
với các thủy vực nước ngầm trong hang động, hầu như có rất ít những
nghiên cứu về đặc điểm đa dạng sinh học, thành phần loài của khu hệ thủy
sinh vật nói chung và nhóm giáp xác nói riêng.

Những nghiên cứu trước đây về môi trường và thủy sinh vật tại khu
vực vùng núi đá vôi thuộc VQG Phong Nha - K Bàng đã ghi nhận có 33
loài giáp xác nước ngọt, trong đó có 12 loài thấy ở sông trong động Phong
Nha. Trong số các loài thấy ở sông trong động Phong Nha, có 2 loài giáp
xác Calanoida mới cho khoa học được mô tả. Các loài và giống mới này
hiện nay đều được xem là đặc hữu của Việt Nam
Với những kết quả trên, ch c ch n chưa phản ánh được đầy đủ về
thành phần loài và đặc trưng phân bố của giáp xác nước ngọt ở vùng núi
đá vôi đặc biệt là các thủy vực ngầm trong hang động Phong Nha-K
Bàng. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu:"Nghiên cứu thành
phần loài và đặc trưng phân bố của giáp xác nước ngọt (Crustacea) ở
khu vực vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng"

2. Mục tiêu của luận án
- Có được các dẫn liệu về thành phần loài giáp xác nước ngọt ở các
thuỷ vực Vườn quốc gia Phong Nha-K Bàng.
- Xác định được các đặc trưng phân bố số lượng của giáp xác nước
ngọt ở các thuỷ vực nghiên cứu cùng với những biến động của nhóm này
theo không gian và mùa khí hậu.


2
- Đề xuất được các giải pháp bảo tồn các kiểu ĐNN đặc thù, quan
trọng ở vùng núi đá vôi thuộc VQG Phong Nha - Quảng Bình.
3. Nội dung nghiên cứu
3.1. Xác định thành phần loài giáp xác nước ngọt thuộc các bộ
Calanoida, Cyclopoida, Harpacticoida (Copepoda), Diplostraca
(Cladocera), Podocopida (Ostracoda), Amphipoda, Isopoda và Decapoda
ở các thuỷ vực nghiên cứu.
3.2. So sánh số lượng loài và cấu trúc thành phần loài ở các loại hình

thuỷ vực khác nhau, đặc biệt là các thủy vực trên mặt đất và thủy vực
ngầm trong hang động.
- 3.3. Xác định số lượng cá thể của các đối tượng nghiên cứu ở các
thuỷ vực, đồng thời xem xét biến động động về mật độ của chúng ở mỗi
loại hình thuỷ vực theo không gian và mùa khí hậu.
3.4. Nghiên cứu mối quan hệ giữa các đặc tính môi trường nước cơ
bản (to, pH, DO, độ muối…) của thuỷ vực với một số ch số sinh học của
quần xã giáp xác nước ngọt.
3.5. Đề xuất các giải pháp bảo tồn và s dụng bền vững các kiểu
ĐNN và quần xã giáp xác nước ngọt tại khu vực nghiên cứu.
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các nghiên cứu về giáp ác nƣớc ngọt ở trên th giới
1.1.1. Các nghiên cứu v phân lo i các nh m giáp xác nước ngọt
1.1.1.1.
da)
Các tác giả Müller (1776), Jurine (1820), Milne-Edwards (1840),
Brady (1883) đã có các nghiên cứu về phân loại học đối với nhóm giáp xác
chân chèo nước ngọt (Copepoda) dựa trên các đặc điểm hình thái.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 24.000 loài thuộc 2.400 giống và
210 họ đã được mô tả. Trong số đó, có khoảng 2.800 loài sống ở các thuỷ
vực nước ngọt nội địa (Boxshall và Halsey, 2004; Boxshall và Defaye,
2010).
các nước như Malaysia và Indonesia với các công trình của
Douwe (1901, 1907), Daday (1906) ở Java và Sumatra; và Fernando
(1978) về khu hệ Copepoda ở Malaysia.
Brehm (1951, 1954), nghiên cứu về thành phần loài ở Campuchia.
Thái Lan có các nghiên cứu của Boonsom (1984), Chullasorn et al.
(2008).... Trung Quốc, Shen và Tai (1962, 1963, 1964). Theo
Shen(1979) et al. có 206 loài giáp xác Copepoda trong các thuỷ vực nội
địa Trung Quốc.



3
1.1.1.2.
Giáp xác râu ch (Cladocera) được các tác giả Muller (1776, 1777,
1785), nghiên cứu với một số giống đầu tiên được công bố. Có thể nói
công trình nghiên cứu của Lilljeborg (1901) đã mô tả và vẽ hình minh hoạ
của 102 loài cùng với một hệ thống các taxon trong bộ Cladocera thành
công nhất lúc bấy giờ.
Theo Martin & Davis, (2001) đã biết khoảng 620 loài giáp xác râu
ch (Cladocera) sống ở nước ngọt xếp trong 4 thứ bộ: Anomopoda (537
loài), Ctenopoda (50 loài), Haplopoda (1 loài) và Onychopoda (32 loài).
Khu vực Đông Nam Á có các công trình tiêu biểu như: Richard
(1891, 1895, 1896), Johnson (1956) được nghiên cứu ở Indonexia.
Malaysia, có các công trình nghiên cứu của các tác giả Johnson (1962,
1963, 1965, 1975), Idris (1983)....
Thái Lan có các nghiên cứu của
Boonsom (1984), Sanoamuang et al. (2001), Maiphae et al. (2005).
Chiang và Du (1979) đã thống kê được 136 loài trong 45 giống và 10 họ ở
Trung Quốc.
1.1.1.3.
Những năm 1777 và 1778, Muller đã có những nghiên cứu về phân
loại học nhóm giáp xác Ostracoda. Theo thống kê của Martens et al.
(2008), có 2.000 loài giáp xác Ostracoda nước ngọt nội địa đã được ghi
nhận trên toàn thế giới, hầu hết chúng có đời sống tự do, ch có khoảng 12
loài sống bán ký sinh, tất cả đều thuộc bộ Podocopida.
Theo Fernando (1982), có 87 loài thuộc 26 giống được ghi nhận ở
Malaysia, Indonesia và Philippin. Theo Savatenalinton & Martens (2010),
đã có những nghiên cứu khá đầy đủ về thành phần loài của phân họ
Cypricercinae và mô tả 6 loài mới cho khu vực này.

1.1.1.4. Tôm, cua (Decapoda)
Từ những năm giữa thế kỷ XIX, những nghiên cứu về tôm, cua nước
ngọt thế giới đã được tiến hành các nước ở Châu Âu và Châu Á.
Theo De Grave et all. (2008), hiện có khoảng 2.500 loài tôm nhóm
Caridea thuộc 31 họ, sống ở cả nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Trong
đó, có khoảng 655 loài nước ngọt. Cumberlidge et al. (2009), có 1.476
loài cua nước ngọt đã biết trên thế giới được phân bố ở mọi vùng địa lý
động vật, trong đó có 1.306 loài thuần tuý nước ngọt. Hai họ có thành
phần loài đông nhất là Potamidae (505 loài và 95 giống) và họ
Gecarcinucidae (344 loài và 59 giống), các loài này chủ yếu tập trung ở
vùng Đông Nam Á và Nam Á.


4
Theo Cumberlidge et al. (2009), 10 nước có số loài cua nước ngọt
phong phú nhất, trong đó có 8 nước ở Châu Á, đó là: Trung Quốc (224
loài), Thái Lan (101 loài), Malaysia (92 loài), Ấn Độ (78 loài), Srilanka
(50 loài). Các nước khác, tuy việc thống kê cho tới nay còn chưa thật đầy
đủ song cũng đã ghi nhận được số loài khá lớn, như: Indonesia (83 loài),
Philippin (42 loài), Việt Nam (40 loài).
Các nghiên cứu v m i trường sống và sự phân chia các
nhóm loài sinh thái sống trong thủy vực vùng núi đá v i.
1.1.2.1.
ủy ự ù
ú đ ô.
Dựa vào các đặc điểm về địa hình, thủy văn và môi trường nước, các
thủy vực ở vùng núi đá vôi có thể chia thành 3 nhóm lớn, bao gồm: thủy
vực nước chảy trên mặt đất (Lotic Environments), thủy vực nước đứng
(Lentic Environments) và thủy vực nước ngầm (Underground Aquatic
Environments)

1.1.2.2. Sự phân chia các nhóm loài sinh thái sống trong thủy vực ngầm
Hiện nay, trong nghiên cứu về khu hệ động vật trong hang động, hệ
thống phân chia của Schiner-Racovitza về nhóm loài sinh vật ngầm dưới
lòng đất được chấp nhận và s dụng rộng rãi:“T
” gồm những
loài đi lạc hoặc lai vãng vào hang động, chúng bị thu hút bởi độ m hoặc
nguồn thức ăn trong hang, nhưng chúng không luôn luôn sống ở môi
trường này và không sinh sản ở đây.“T
” gồm những động vật
sống thường xuyên trong môi trường ngầm dưới lòng đất, thường ở những
khu vực nông và c a hang; chúng cũng thường xuyên sinh sản ở đây. Tuy
nhiên, những loài này cũng có thể được tìm thấy ở môi trường trên mặt
đất. “T
b ” gồm những động vật sống chính thức trong môi trường
bóng tối trong lớp đất sâu hoặc trong hang động. Chúng biến đổi sâu s c
các đặc điểm sinh học, sinh thái thích nghi với môi trường trong bóng tối,
toàn bộ vòng đời của chúng diễn ra trong khu vực này và không thể tìm
thấy chúng ở trên mặt đất.
1.1
hành phần loài giáp xác các thủ vực nước ngọt vùng núi đá v i.
khu vực Đông nam Á, có các công trình của các tác giả Ng (1988,
1991, 1992, 1996); Ng & Naiyanetr (1993). Camacho (2005) đã mô tả 2
giống mới với 2 loài mới (Paraeobathynella vietnamensis, Sketinella
trontelji.) ở Việt Nam; Camacho et al (2011) mô tả 1 giống mới với 1 loài
mới (Siambathynella laorsriae) ở Thái Lan. Victor & Fernando (1981) mô
tả 1 phân họ mới, 1 loài mới thuộc giáp xác Ostracoda từ hang Batu,
Malaysia. Trong nhóm giáp xác Copepoda, có các nghiên cứu của Menzel
(1926), Chappuis (1931); Bruno & Cottarelli (1999), Pesce & Apostolov
(1985); Brancelj et al. (2010) và Watiroyram et al. (2012). Theo Stoch &



5
Galassi (2010), đã ghi nhận được 4.775 loài động vật không xương sống
tại các thủy vực trong hang động trên thế giới, trong đó số lượng loài giáp
xác chiếm phần lớn số lượng loài đã biết, bao gồm: 3.400 loài, chiếm
71,2 tổng số loài với các thành phần loài cụ thể như: nhóm Copepoda có
khoảng 1.000 loài, nhóm Ostracoda có khoảng 300 loài, nhóm
Amphipoda có khoảng 950 loài, Bathynellacea có khoảng 200 loài và
nhóm Decapoda có khoảng 130 loài.
Theo Bracelj et al. (2013), ở Đông Nam Á đã ghi nhận được 102 loài
giáp xác nước ngọt trong các thủy vực nước ngầm, trong đó nhiều nhất là
nhóm Decapoda có 34 loài, Copepoda (23 loài), Isopoda (21 loài),
Amphipoda (13 loài), Syncarida (5 loài), Thermosbaenacea (3 loài) và
Ostracoda 1 loài. Qua thống kê, Philippines có số lượng loài nhiều nhất
với 34 loài, Thái Lan (24 loài), Indonesia (17 loài), Malaysia (14 loài),
Việt Nam (9 loài), Căm Pu Chia (3 loài), Laos (1 loài) và Myanmar chưa
ghi nhận thấy loài nào trong nhóm giáp xác này.
Từ năm 2013 – 2016, các tác giả tiếp tục nghiên cứu và đã công bố
thêm 10 loài giáp xác mới ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam:
3 loài tôm, cua thuộc bộ Decapoda (Do & Nguyen, 2014; Ng &
Vidthayanon, 2013; Cai & Vidthayanon, 2016), 6 loài giáp xác chân chèo
thuộc bộ Copepoda (Tran & Chang, 2014; Tran &Hołyńska, 2015,
Boonyanusith et al., 2013; Watiroyram et al., 2015a, 2015b, 2016), 1 loài
giáp xác thuộc bộ Thermosbaenacea (Rogers & Sanoamuang L, 2016).
1.2. Các nghiên cứu về giáp ác nƣớc ngọt ở Việt Nam
1.2.1. Các nghiên cứu v phân lo i học.
1.2.1.1.
Trước năm 1945, các nghiên cứu về thành phần loài giáp xác nhỏ
(GXN) sống nổi ở Việt nam chủ yếu được thực hiện bởi các tác giả nước
ngoài. Từ năm 1960 đến nay, có các công trình của Đặng Ngọc Thanh

(1965, 1977, 1980); Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải (1991, 1992, 2001).
Năm 2001, Đặng Ngọc Thanh và Hồ Thanh Hải đã mô tả định loại 50 loài
Cladocera và 31 loài Copepoda.
Sau đó, có các nghiên cứu của các tác giả như Reid và Kay (1992),
Hołyńska và Vũ Sinh Nam (2000), Trần Đức Lương và Hołyńska (2015).
Hồ Thanh Hải, Trần Đức Lương (2007, 2008, 2009). Trần Đức Lương
(2012) đã ghi nhận 105 loài giáp xác chân chèo (Copepoda) thuộc 45
giống, 13 họ, trong 3 bộ Calanoida, Cyclopoida và Harpacticoida.Trong
đó, bộ Calanoida có 39 loài, bộ Cyclopoida có 29 loài, bộ Harpacticoida
có 37 loài ở các thủy vực nội địa Việt nam.


6
1.2.1.2. Giáp xác có v (Ostracoda)
Việt Nam, các kết quả nghiên cứu về nhóm giáp xác có vỏ
Ostracoda còn rất ít. Ch ghi nhận 1 loài trong nghiên cứu của Brehm
(1952) ở vùng Hải Dương. Đặng Ngọc Thanh và cs (1980) mô tả phân
loại học của 8 loài thuộc họ Cypridae ở các thuỷ vực nước ngọt B c Việt
Nam.
1.2.1.3. Tôm, cua (Decapoda)
Nhóm tôm cua nước ngọt (Decapoda) ở Việt Nam được Edwardo tiến
hành nghiên cứu từ những năm 1869.
Về tôm nước ngọt, có các công trình của Bouvier (1904, 1920, 1925),
Sollaud (1914) ch ghi nhận có 5 loài có ở Việt Nam bao gồm: 2 loài
Coutierella tonkinensis và Leander mani và 3 loài tôm thuộc họ Atyidae:
Caridina nilotica typica, C.weberi sumatrensis và C. tonkiensis. Giai đoạn
từ sau năm 1945 tới trước 1975, ở miền B c Việt Nam có các nghiên cứu
của Đặng Ngọc Thanh (1961, 1967), Đặng Ngọc Thanh và Nguyễn Huy
Yết (1972). Năm 1975, Đặng Ngọc Thanh, đưa ra một danh lục gồm 27
loài tôm, cua đã thấy trong các thuỷ vực B c Việt Nam. Năm 1980, Đặng

Ngọc Thanh và cs đã ghi nhhể/m3).
3.3.2. Nhóm giáp xác sống đá
Qua kết quả nghiên cứu, mật độ nhóm giáp xác sống đáy dao động từ
3-70 cá thể/m2 ở các thủy vực, giá trị trung bình từ 20,2 - 40,9 cá thể/m2.
Trong đó bộ Cyclopoida, Harpacticoida (Copeopoda) hoàn toàn chiếm ưu


17
thế (chiếm từ 31,5 – 100,0 mật độ). Qua phân tích, ch có 3 bộ
Cyclopoida, Harpacticoida (Copeopoda), Podocopida (Ostracoda) cùng có
mặt ở các mẫu định lượng cả tầng nổi và tầng đáy.
Mật độ nhóm giáp xác sống đáy với trung bình 29,1± 4,9 cá thể/m2 ở
các thủy vực lộ thiên và ở các thủy vực trong hang là 32,9 ± 5,7 cá thể/m2.
Thành phần loài giáp xác sống đáy ở các thủy vực lộ thiên trên mặt
đất: bao gồm 3 bộ: Cyclopoida, Harpacticoida và Decapoda. Tuy vậy, các
mẫu định lượng giáp xác sống đáy ở các thủy vực trong hang động có sự
xuất hiện của các nhóm loài thuộc bộ Podocopida, Thermosbaenacea,
Amphipoda, là các loài sống điển hình trong hang động. các thủy vực
trên mặt đất, mật độtrung bình nhóm giáp xác sống đáy ở sông 28,9 ± 6,2
cá thể/m2, suối 27,5 ± 4,9 cá thể/m2 và hồ chứa 31,7 ± 2,9 cá thể/m2. Sự
biến thiên mật độ giáp xác sống đáy có xu hướng tăng theo chiều dòng
chảy ở các thủy vực.
Sự biến thiên mật độ nhóm giáp xác sống đáy theo mùa: quy luật biến
thiên theo mùa ở các thủy vực trên mặt đất thể hiện rõ hơn so với các thủy
vực trong hang động.
Các thủy vực trong hang, sự dao động theo mùa thường không lớn, ở
hang Va, hang 35, hang Thiên Đường vào mùa mưa mật độ cao hơn so
với mùa khô, tuy nhiên mức độ sai khác là không lớn. Nhưng hang E:
thủy vực dạng sông suối trong hang động có nguồn nước chảy vào thường
xuyên và dao động lớn về dòng chảy giữa mùa mưa và mùa khô vì thế mật

độ GXSĐ vào mùa khô (trung bình 26,9 ± 11,8 cá thể/m2) cao hơn hẳn so
với mùa mưa (15,0 ± 2 cá thể/m2). Đối với các thủy vực như: sông, suối
trên mặt đất, mật độ giáp xác sống đáy vào mùa khô (31,3 ± 8 cá thể/m2)
cao hơn so với mùa mưa (25,5 ± 6 cá thể/m2). Sự biến thiên về mật độ ở
hồ chứa cũng có sự chênh lệch về mật độ trung bình vào mùa khô là 35,9
± 5,8 cá thể/m2 cao hơn mùa mưa với mật độ là 29,6 ± 3,9 cá thể/m2.
3.4. Mức độ đa dạng sinh học quần ã giáp ác nƣớc ngọt.
3.4 Nh m giáp xác sống nổi.
3.4.1.1. Chỉ số phong phú Margalef (d)
Ch số phong phú d của nhóm giáp xác nước ngọt sống nổi ở các thủy
vực từ 0,80 – 2,51. Trong đó, thấp nhất là ở các suối (1,47± 0,21), các
thủy vực trong hang động (1,68 ± 0,25); ở hồ chứa (1,83 ± 0,11) và cao
nhất là ở sông (1,91 ± 0,21).
Đối với các thủy vực trong hang động: Ch số phong phú loài dao
động từ 0,80 -2,29. Một số hang có ch số phong phú cao như hang Tú
Làn (d trung bình đạt 1,94 ± 0,10), hang Tối (1,84 ± 0,08), hang Phong


18
Nha (1,83 ± 0,15) và hang E (1,77 ± 0,24) do những thủy vực này có mức
độ trao đổi nước thường xuyên với các thủy vực lộ thiên bên ngoài. Các
thủy vực còn lại có độ phong phú thấp hơn như: hang Va (1,21 ± 0,16),
hang Thiên Đường (1,33 ± 0,26) và hang Yên Hợp (1,64 ± 0,03) do các
hang này n m sâu trong hang động, mức độ kết nối nguồn nước với các
thủy vực lộ thiên bị hạn chế
Đối với các thủy vực lộ thiên: Ch số phong phú loài ở 2 hồ chứa
trung bình đạt 1,83 ± 0,11, mức độ sai khác về độ phong phú loài giáp xác
nước ngọt là không lớn, ch số d từ 1,39 – 2,19. Đối với các suối, ch số
phong phú loài thấp (1,47 ± 0,21) và dao động khá lớn, từ 1,12 – 1,95.
Các suối n m trong vùng lõi VQG Phong Nha - K Bàng như suối Thiên

Đường (1,72 ± 0,09), Khe Dát (1,69 ± 0,21), Rào Con (1,45 ± 0,06) cao
hơn các suối n m ở khu vực vùng đệm, suối Phú Nhiêu (1,30 ± 0,23), suối
Chà Nòi (1,29 ± 0,12), suối Yên Hợp (1,39 ± 0,06) và các suối n m gần
khu dân cư, Khe Rinh (1,46 ± 0,12), suối Tân Hóa (1,25 ± 0,07).
Bế
ê
ỉ ố
ú

ủy ự
theo mùa:
các thủy vực sông, suối lộ thiên trên mặt đất, mức độ phong phú
loài giáp xác sống nổi vào các tháng mùa khô (trung bình đạt 2,04 ± 0,11
ở sông và 1,80 ± 0,19 ở suối) cao hơn so với các tháng mùa mưa (1,54 ±
0,14 ở sông và 1,38 ± 0,15 ở suối). Đối với các thủy vực ngầm trong hang
động có ch số phong phú với các đợt khảo sát vào mùa mưa (1,69 ± 0,22)
cao hơn so với mùa khô (đạt 1,65 ± 0,24). các hồ chứa sự sai khác về
ch số phong phú giữa hai mùa là tương đương nhau, trung bình đạt 1,83 ±
0,07 trong mùa khô và 1,84 ± 0,09 trong mùa mưa.
3.4.1.2. Chỉ số đ ạng Shannon-W
H’
Ch số đa dạng loài H’ của nhóm giáp xác nước ngọt sống nổi ở các
thủy vực dao động từ 1,18 – 2,80. Trong đó, thấp nhất là ở các suối (1,63
± 0,24), các thủy vực trong hang động (1,95 ± 0,01) và cao nhất là ở hồ
(2,09 ± 0,12) và ở sông (2,10 ± 0,25). Các thủy vực trong hang động, ch
số đa dạng loài H’dao động từ 1,32 – 2,31, giá trị trung bình giữa các thủy
vực dao động từ 1,79 – 2,06.
Kết quả biến thiên ch số đa dạng loài giáp xác nước ngọt ở các thủy
vực theo mùa: ở các thủy vực sông, suối lộ thiên trên mặt đất, mức độ đa
dạng loài giáp xác sống nổi của các tháng mùa mưa (2,04 ± 0,22 ở sông và

1,54 ± 0,16 ở suối) thấp hơn so với các tháng vào mùa khô (2,21 ± 0,13 ở
sông và 1,71 ± 0,16 ở suối) (với p > 0,05).
Đối với các thủy vực ngầm trong hang động, sự sai khác về mức độ
đa dạng loài theo mùa là không đáng kể: H’ trung bình đạt 1,96 vào mùa


19
mưa cao hơn vào mùa khô (1,92 ± 0,09). các thủy vực dạng hồ chứa có
chiều hướng biến thiên tương tự theo mùa của ch số đa dạng H’ vào mùa
mưa (2,11 ± 0,09) có xu hướng cao hơn so với các tháng mùa khô (2,04 ±
0,10).
3.4.2. Nhóm giáp xác sống đá
3.4.2.1. Chỉ số phong phú Margalef (d)
Ch số phong phú (d) của nhóm giáp xác nước ngọt sống đáy dao
động từ 0,54 – 2,07. Trong đó, có mức độ phong phú loài lớn nhất là ở
sông (1,52 ± 0,22), hồ chứa (1,27 ± 0,14), các thủy vực trong hang
động(1,11 ± 0,16), và suối(1,13 ± 0,22). Theo mùa khảo sát: sông, các
tháng mùa mưa (1,67 ± 0,22) cao hơn so với mùa khô (0,41 ± 0,08).
Trong khi đó, mức độ sai khác về độ phong phú loài giữa mùa khô và mùa
mưa là không đáng kể đối với các loại hình khác: ở suối (1,07 ± 0,21 vào
mùa khô và 1,10 ± 0,11 vào mùa mưa); hồ (1,12 ± 0,10 vào mùa khô và
1,32 ± 0,05 vào mùa mưa) và ở các thủy vực ngầm trong hang động là
(1,12 ± 0,19 vào mùa khô và 1,07 ± 0,17 vào mùa mưa). (với p > 0,05)
3.4.2.2. Chỉ số đ ạng Shannon-W
H’
Qua kết quả nghiên cứu ch số đa dạng loài (H’) dao động từ 0,76 –
2,27. Các điểm khảo sát ở suối với ch số đa dạng H’ thấp nhất, trung bình
đạt 1,31 ± 0,13, các thủy vực ngầm trong hang động (1,40 ± 0,19), các
thủy vực dạng hồ chứa (1,42 ± 0,11), Sông Son và sông Chày là những
thủy vực có ch số H’ cao nhất, H’ trung bình đạt 1,81 ± 0,24 ở sông Son

và ở sông Chày (1,57 ± 0,23).
Theo mùa khảo sát: mùa mưa thường cao hơn mùa khô ở hầu hết các
thủy vực: trung bình là 1,79 ± 0,25 vào mùa mưa và 1,62 ± 0,10 vào mùa
khô. Kết quả tương tự đối với từng loại thủy vực là ở hồ: (1,45 ± 0,09 vào
mùa mưa và 1,37 ± 0,07 vào mùa khô); (1,30 ± 0,08 và 1,27 ± 0,06) ở
suối và (1,41 ± 0,06 và 1,33 ± 0,15) ở các thủy vực ngầm trong hang
động. Thông qua các ch số đó cho thấy tính chất ổn định tương đối về
môi trường sống và quần xã sinh vật ở nền đáy các thủy vực.
3.5. Mối tƣơng quan giữa quần ã giáp ác nƣớc ngọt và các y u
tố môi trƣờng.
3.5. Chất lượng m i trường nước ở các thủ vực vùng núi đá v i
tỉnh Quảng Bình.
Qua kết quả phân tích 9 ch tiêu thủy lý, thủy hóa môi trường nước tại
các thủy vực vùng núi đá vôi Phong Nha – K Bàng, ta có thể có nhận xét
về hiện trạng môi trường nước ở đây:


20
- So sánh với tiêu chu n về môi trường nước mặt s dụng cho mục
đích sinh hoạt và bảo vệ đời sống thủy sinh vật; đa số các ch tiêu được
tiến hành khảo sát đều n m trong giới hạn cho phép (QCVN 08: 2015,
QCVN 09: 2015).
- Điều đáng chú ý là có sự sai khác về một số ch tiêu thủy lý, hóa
giữa các thủy vực lộ thiên với các thủy vực trong hang động. Sự sai khác
về môi trường nước này chủ yếu do chế độ thủy văn, cấu tạo nền đáy thủy
vực, dạng thủy vực, đặc biệt là chế độ chiếu sáng mặt trời (thủy vực ngầm
trong hang động không có ánh sáng mặt trời). Điều đó cho thấy mặc dù có
một số kết nối nhất định giữa sông bên trong và bên ngoài vào mùa mưa
nhưng môi trường sống giữa thủy vực ngầm trong hang động và thủy vực
lộ thiên ngoài là hoàn toàn khác nhau.

- Hiện nay với sự phát triển về du lịch và các hoạt động khác của con
người ở đây ít nhiều đã tác động đến môi trường hệ sinh thái tự nhiên ở
khu vực VQG Phong Nha – K Bàng, vì vậy cần phải có các giải pháp
quản lý tốt, nâng cao ý thức của người dân để bảo vệ, duy trì hiện trạng
môi trường nước ở các thủy vực này, đây cũng là cơ sở cho sự phát triển
bền vững, kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế.
3.5.2. Mối tương quan giữa các yếu tố m i trường và các chỉ số
sinh học của quần xã giáp xác.
Đối với các thủy vực lộ thiên trên mặt đất như sông, suối, hồ…. các
yếu tố vật lý như: nhiệt độ, ánh sáng, có tương quan rất yếu đên trung bình
đối với các ch số về loài, mật độ và ch số đa dạng. Các ch số như độ pH,
độ cứng và độ muối có tương quan yếu với đặc trưng về số loài, mật độ
của quần xã Giáp xác nước ngọt. Các ch số DO và hàm lượng NO3- có
tương quan trung bình (từ 0,12 – 0,35) và hàm lượng amoni (từ 0,35 –
0,56), photphat (từ 0,35 – 0,61) có tương quan chặt. Các yếu tố dinh
dưỡng từ muối amoni (NO3-) và photphat (PO43-) có mức độ biến thiên
liên quan chặt chẽ với sự thay đổi của ch số về loài, mật độ và ch số đa
dạng. Khi hàm lượng các muối dinh dưỡng tăng thì số lượng loài, mật độ,
độ đa dạng thường có xu hướng tăng. Kết quả này phản ánh đặc trưng,
phù hợp với kết quả phân tích các yếu tố vật lý, hóa học ở các thủy vực tại
đây: môi trường nghèo dinh dưỡng.
Đối với các thủy vực ngầm trong các hang động, các yếu tố môi
trường nước như nhiệt độ, độ cứng, pH có tương quan yếu với các ch số
về loài, mật độ và ch số đa dạng. Các ch số hóa học như DO, NH4+,
NO3-, PO43- ở các thủy vực nước ngầm có tương quan thuận và dao động
tương đối chặt chẽ với sự biến thiên về số loài (có hệ số tương quan r từ
0,58 – 0,73). Mật độ giáp xác có mối tương quan thuận và chặt chẽ với


21

các ch số NO3- (0,81); hàm lượng PO43-, NH4+, DO có mức tương quan
trung bình. Đối với các ch số phong phú (d) và ch số đa dạng (H’) hệ số
tương quan đối với các yếu tố môi trường nước như (DO, NH4+, NO3-,
PO43-) dao động từ trung bình đến tương đối thấp (từ 0,32 – 0,59).
3.6. Các giải pháp bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên giáp
ác nƣớc ngọt tại khu vực nghiên cứu.
3.6.1. Các áp lực đối với h sinh thái thủ vực và quần x giáp xác
ở Phong Nha – Kẻ Bàng.
Hiện nay, vấn đề suy giảm về nguồn lợi sinh vật tự nhiên nói chung
đang diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước. Với sự ảnh hưởng của
thiên tai và các hoạt động khác do con người gây ra, nguồn lợi giáp xác ở
khu vực vùng núi đá vôi VQG Phong Nha - K Bàng cũng đang bị đe dọa
nghiêm trọng như: ảnh hưởng của thời tiết, do biến đổi khí hậu; phá rừng
đầu nguồn, tình trạng khai thác quá mức nguồn lợi thủy sản. Đặc biệt hệ
sinh thái thủy vực ngầm và quần xã sinh vật trong hang động chưa được
chú ý bảo tồn
xuất m t số giải pháp bảo t n đa d ng sinh học h sinh
thái và quần x giáp xác trong hang đ ng ở Phong Nha - Kẻ Bàng.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và điều tra thực địa, 5 nhóm giải pháp
được đề xuất để bảo tồn và phát triển ĐDSH nói chung và nhóm giáp xác
nói riêng bao gồm: Quy hoạch phát triển du lịch bền vững, tuyên truyền
nâng cao nhận thức về giáo dục bảo tồn đa đạng thủy sinh học; Xây dựng
ý thức bảo vệ môi trường cho cộng đồng địa phương và du khách; Xây
dựng đề án nghiên cứu khoa học và quan tr c đa dạng sinh học; Kiểm soát
và phòng trừ các loài sinh vật ngoại lai xâm hại.


22
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN

1. Qua kết quả nghiên cứu, 93 loài giáp xác đã được xác định ở các
thủy vực vùng núi đá vôi thuộc VQG Phong Nha–K Bàng, thuộc 61
giống, 27 họ, 10 bộ. Trong đó, có một loài (Halicyclops songsonensis
Tran, Le & Ho) đã được phát hiện mới cho khoa học.
Lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ giáp xác nước ngọt Việt Nam 2 bộ
(Thermosbaenacea và Bathynellacea), 5 họ (Notodromadidae,
Candonidae, Halosbaenidae, Parabathynellidae, Bogidiellidae), 11 giống
(Acanthocyclops, Nitocrella, Brancelia, Bryocyclops, Graeteriella,
Rybocyclops,
Notodromas,
Meridiescandona,
Theosbaena,
Siambathynella, Bogidiella). Ngoài ra, có 14 loài và dạng loài chưa được
định danh có nhiều đặc điểm sai khác với các loài hiện biết. Đây có thể là
những loài mới cho khoa học, tuy nhiên vẫn cần thêm mẫu vật, thông tin
để đảm bảo tính chính xác khi mô tả loài.
2. Đã xác định được đặc điểm phân bố về số lượng loài và cấu trúc
thành phần loài theo loại hình thủy vực, theo tầng nước và theo mùa.
Trong đó, các suối có số loài nhiều nhất (55 loài, chiếm 59,1 tổng số
loài), sông (52 loài, chiếm 55,9 ), thủy vực ngầm trong hang động (49
loài, chiếm 53,7 ) và hồ chứa (41 loài, chiếm 44,1 ). Tầng nước mặt của
thủy vực có số loài nhiều hơn tầng đáy (tương ứng đạt 65 và 39 loài); mùa
khô ghi nhận được số loài cao hơn mùa mưa (80 loài so với 70 loài).
Theo đặc tính phân bố của giáp xác nước ngọt, nhóm loài điển hình ở
các thủy vực ngầm trong hang động (24 loài, chiếm 25,8 ), nhóm loài
hang động không chính thức (25 loài, chiếm 26,9 ) và nhóm loài điển
hình ở các thủy vực trên mặt đất (44 loài, chiếm 47,3 ).
3. Mật độ giáp xác ở các thủy vực vùng núi đá vôi khu vực VQG
Phong Nha - K Bàng dao động từ 3 - 70 cá thể/m2 ở nhóm sống đáy và ở
nhóm sống nổi từ 22 - 2.131 cá thể/m3. Đặc trưng về phân bố mật giáp xác

nước ngọt thể hiện theo loại hình thủy vực lộ thiên trên mặt đất (sông,
suối, hồ chứa) và thủy vực ngầm trong hang động (sông ngầm, vũng nước,
hồ siphon ngầm). các thủy vực lộ thiên, các thủy vực hồ chứa thường có
mật độ giáp xác lớn nhất (từ 380,7 – 1440 cá thể/m3). Đối với các thủy
vực ngầm trong hang động, hồ nước ngầm dạng siphon có mật độ lớn nhất
và ở các vũng nước nhỏ ngập nước tạm thời theo mùa có mật độ thấp nhất
(từ 46,3 – 63,3 cá thể/m3).


23
4. Ch số phong phú (d) và ch số đa dạng loài (H’) nhóm giáp xác ở
các thủy vực vùng núi đá vôi VQG Phong Nha–K Bàng ở mức trung
bình, đối với nhóm sống nổi dao động từ 0,80–2,51 (ch số d) và 1,18–
2,80 (H’) và đối với nhóm sống đáy từ 0,54–2,07 (d) và 0,76–2,27 (H’).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ch số phong phú và ch số đa dạng ở các
thủy vực ngầm ngang b ng hoặc cao hơn so với các thủy vực ở suối.
5. Hiện trạng môi trường nước các thủy vực vùng núi đá vôi VQG
Phong Nha–K Bàng bao gồm cả thủy vực lộ thiên trên mặt đất và thủy
vực ngầm trong hang động đều ở tình trạng tốt; các ch số lý hóa đều n m
trong giới hạn cho phép so với Quy chu n Việt Nam.
hầu hết các thủy vực vùng núi đá vôi VQG Phong Nha - K Bàng,
các đặc trưng của quần xã giáp xác nước ngọt (số loài, mật độ, d, H’) có
tương quan yếu với các ch số vật lý như nhiệt độ, pH, độ cứng, trong khi
đó chúng lại có tương quan thuận, dao động từ mức trung bình đến chặt
với các ch số hóa học như DO, muối amoni, nitrat, photphat trong môi
trường nước.
6. Đã xác định sự phát triển du lịch quá nhanh ở VQG Phong Nha K Bàng là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hệ sinh thái hang động và quần
xã GXNN ở đây. Trên cơ sở đó, đã đề xuất được 5 giải pháp để bảo tồn hệ
sinh thái hang động và các loài giáp xác đặc hữu trong thủy vực ngầm của
VQG Phong Nha–K Bàng.

KIẾN NGHỊ.
1. Trong thời gian tới, cần có những nghiên cứu, thu thập thêm các
mẫu vật, đối với những loài giáp xác trong hang động chưa được định
danh (14 loài) và đặc biệt là đối với 5 dạng loài đã có hình vẽ và mô tả.
Bên cạnh đó, cần mở rộng các nghiên cứu trên các đối tượng thủy sinh vật
khác (thân mềm, cá, giun tròn...) nh m phục vụ cho công tác quản lý bảo
tồn đa dạng dạng sinh học thủy vực ngầm hang động.
2. Qua kết quả nghiên cứu của đề tài luận án này thấy ánh sáng là yếu
tố môi trường quyết định các đặc tính sinh thái của nhóm giáp xác ch
sống trong hang động. Bởi vậy, cần định hướng nghiên cứu th nghiệm
sinh học nh m xác định ngưỡng cường độ ánh sáng tác động tới tập tính
và môi trường sống của nhóm sinh thái này. Các kết quả nghiên cứu sẽ là
cơ sở góp phần xác định sinh vật ch thị môi trường thủy vực ngầm trong
hang động.


24
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Qua kết quả nghiên cứu của luận án đã cung cấp các dẫn liệu đồng
bộ và đầy đủ nhất cho đến nay về thành phần loài giáp xác nước ngọt ở
khu vực vùng núi đá vôi VQG Phong Nha-K Bàng, bao gồm 93 loài, 61
giống, 27 họ thuộc 10 bộ.
- Một loài mới cho khoa học (Halicyclops songsonensis Tran, Le & Ho) do
tác giả của luận án và cộng sự trực tiếp mô tả và công bố; cung cấp số liệu, mẫu vật
để mô tả và công bố 3 loài mới cho khoa học: Mesocyclops sondoongensis,
Nannodiaptomus haii và Macrobrachium phongnhaense. Kết quả nghiên cứu đã
bổ sung cho khu hệ giáp xác nước ngọt Việt Nam 2 bộ (Thermosbaenacea và
Bathynellacea), 5 họ (Notodromadidae, Candonidae, Halosbaenidae,
Parabathynellidae, Bogidiellidae) và 11 giống (Acanthocyclops, Nitocrella,
Brancelia,

Bryocyclops,
Graeteriella,
Rybocyclops,
Notodromas,
Meridiescandona, Theosbaena, Siambathynella, Bogidiella). Hầu hết những taxon
này đều là những đại diện có đời sống chính thức ở các thủy vực trong hang động.
- Đặc trưng phân bố về cấu trúc thành phần loài, mật độ của quần xã
giáp xác nước ngọt ở các thủy vực vùng núi đá vôi Phong Nha-K Bàng
đã được phân tích, đánh giá chi tiết theo các loại hình thủy vực (49 loài ở
các thủy vực ngầm, 55 loài ở suối, 52 loài ở sông, 41 loài ở các hồ chứa),
theo tầng nước (65 loài sống tầng nổi và 39 loài sống tầng đáy) và theo
mùa khí hậu (80 loài vào mùa khô và 70 loài ở mùa mưa). Phân chia các
nhóm loài dựa trên đặc tính sinh thái, phân bố theo các loại hình thủy vực
đặc trưng trong khu vực nghiên cứu (24 loài hang động điển hình, 25 loài
hang động không chính thức và 44 loài điển hình trên mặt đất). Đây là
những dẫn liệu mới có giá trị về khoa học và thực tiễn trong công tác
nghiên cứu và quản lý đa dạng sinh học và bảo tồn các loài thủy sinh vật
vùng núi đá vôi ở Phong Nha - K Bàng.
- Xác định mức độ đa dạng loài nhóm giáp xác nước ngọt ở các thủy
vực vùng núi đá vôi Phong Nha - K Bàng, gồm sông, suối, hồ chứa và
các thủy vực ngầm trong hang động. Kết quả cho thấy ch số phong phú
và ch số đa dạng ở các thủy vực ngầm trong hang động b ng hoặc cao
hơn so với các thủy vực ở suối.
- Bước đầu tìm hiểu mối tương quan giữa quần xã giáp xác nước ngọt
với một số yếu tố môi trường nước cơ bản nh m tìm hiểu khả năng thích
ứng của quần xã giáp xác với môi trường sống các thủy vực vùng núi đá
vôi. Dẫn liệu có được sẽ là tiền đề cho các nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng
của yếu tố môi trường đến quần xã thủy sinh vật vùng núi đá vôi cũng như
khả năng ch thị thị sinh học của các loài giáp xác nước ngọt phục vụ cho
công tác sinh giám môi trường nước.



25
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Trần Đức Lương, Lê Danh Minh, Hồ Thanh Hải, A new species of
the genus Halicyclops (Copepoda, Cyclopoida, Cyclopidae) from
freshwater in Central Vietnam. Tạp chí sinh học, 2016, 38 (4), trang 449–
457.
2. Trần Đức Lương, Hồ Thanh Hải, Lê Danh Minh, Đ ạ

ủy ự
đ
VQ P
g Nha- K B
Tỉ Q ả Bì . Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên
sinh vật lần thứ 6, 2015, trang 665–670.
3. Nguyễn Tống Cường, Đỗ Văn Tứ, Lê Danh Minh, Đặng Văn
Đông, T

đặ đ ể
bố ủ ô ,

VQG Phong Nha - K B
Tỉ Q ả Bì . Hội nghị khoa học toàn
quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 6, 2015, trang 493-497.
4. Trần Đức Lương, Hồ Thanh Hải, Lê Danh Minh, ố
L
B
zky, 1926

:H
ở Vệ N .
Tạp chí sinh học, 2013, 35(1), trang 9-17.



×