Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thương mại điện tử và sự phát triển của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.2 KB, 18 trang )

ĐỀ TÀI: SỰ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
MỤC LỤC
A.Lời mở đầu
B. Tìm hiểu chung về thương mại điện tử
1)Khái niệm thương mại điện tử
2)Lợi ích của thương mại điện tử
3)Các đặc trưng của thương mại điện tử
4)Các hình thức hoạt động của thương mại điện tử
5)Các nhân tố ảnh hưởng đến thương mại điện tử
C.Sự phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam
1)Ảnh hưởng của thương mại điện tử đến phát triển kinh tế ở Việt Nam
2)Hạn chế của thương mại điện tử
3)Thực trạng và giải pháp thúc đẩy thương mại điện tử phát triển
D.Kết luận


A.LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay cùng với sự phát triễn mạnh mẽ của khoa học kỷ thuật và đặc biệt là sự
phát triễn của công nghệ thông tin, Thương mại điện tử cũng ra đời và phát triễn nhanh
chóng. Hiện nay Thương mại điện tử đang phát triễn nhanh chóng trên toàn thế giới
mà trong đó có Việt Nam, và nó được xem như là sự phát triễn tất yếu của nền “kinh tế
số hoá” và “xã hội thông tin”. Thương mại điện tử bao trùm phạm vi rộng lớn các hoạt
động kinh tế - xã hội,Thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích và đồng thời cũng
mang đến thách thức cho người sử dụng.Thương mại điện tử đang phát triển nhanh
chóng trên toàn cầu, nhất là ở các nước công nghiệp phát triễn,những nước có nền kinh
tế đang phát triễn cũng đã và đang tham gia phát triễn Thương mại điện tử.Thương
mại điện tử mang lại lợi ích tiềm tàng giúp người tham gia thu được thông tin phong
phú về thị trường và đối tác,giảm được chi phí, mở rộng quy mô doanh nghiệp, rút
ngắn chu kỳ kinh doanh…Việt Nam về cơ sở hạ tầng cho Thương mại điện tử đang
hình thành và hoàn thiện, song cùng với xu hướng hội nhập, chung ta đã là thành viên
chính thức của WTO và với sự phát triễn mạnh mẽ của các doangh nghiệp,cửa


hàng,siêu thị…thì việc bán hàng qua mạng sẽ đem lại nhiều tiện lợi và thu được kết
quả cao.Nhận thức được vai trò và tiện ích của Thương mại điện tử với sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, trong điều kiện thực tế ở Việt Nam có nhiều điều
kiện thuận lợi cho thương mại điện tử phát triễn, em xin nghiên cứu đề tài : Thương
mại điện tử và sự phát triển của việt nam.


B.TÌM HIỂU CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm thương mại điện tử
Là quá trình tiến hành một phần hay toàn bộ hoạt động thương mại thông qua những
phương tiện điện tử hiện đại. Về bản chất, thương mại điện tử giống như thương mại
truyền thống thông qua khái niệm “mua bán”. Tuy nhiên, bằng các phương tiện điện tử
mới, các hoạt động giao dịch, quảng bá, thậm chí là thanh toán được thực hiện nhanh
chóng, hiệu quả hơn, giúp tiết kiệm chi phí và mở rộng phạm vi kinh doanh.
2.Lợi ích của thương mại điện tử
- Mở rộng thị trường: Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều so với thương mại truyền
thống, các công ty có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận người cung cấp,
khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Việc mở rộng mạng lưới nhà cung cấp, khách
hàng cũng cho phép các tổ chức có thể mua với giá thấp hơn và bán được nhiêu sản
phẩm hơn.
- Giảm chi phí sản xuất: Giảm chi phí giấy tờ, giảm chi phí chia xẻ thông tin, chi phí in
ấn, gửi văn bản truyền thống.
- Cải thiện hệ thống phân phối: Giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong phân phối
hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các
showroom trên mạng, ví dụ ngành sản xuất ô tô (Ví dụ như Ford Motor) tiết kiệm
được chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí lưu kho.
- Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua Web và Internet
giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không mất thêm nhiều chi phí
biến đổi.
- Sản xuất hàng theo yêu cầu: Còn được biết đến dưới tên gọi “Chiến lược kéo”, lôi

kéo khách hàng đến với doanh nghiệp bằng khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của khách
hàng. Một ví dụ thành công điển hình là Dell Computer Corp.
- Mô hình kinh doanh mới: Các mô hình kinh doanh mới với những lợi thế và giá trị
mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon. com, mua hàng theo nhóm hay đấu giá
nông sản qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của những thành công này.


- Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường: Với lợi thế về thông tin và khả năng phối
hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời gian tung sản
phẩm ra thị trường.
- Giảm chi phí thông tin liên lạc:
- Giảm chi phí mua sắm: Thông qua giảm các chi phí quản lý hành chính (80%); giảm
giá mua hàng (5-15%)
- Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua mạng, quan hệ
với trung gian và khách hàng được củng cố dễ dàng hơn. Đồng thời việc cá biệt hóa
sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với khách hàng và củng cố lòng
trung thành.
- Thông tin cập nhật: Mọi thông tin trên web như sản phẩm, dịch vụ, giá cả... đều có
thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời.
- Chi phí đăng ký kinh doanh: Một số nước và khu vực khuyến khích bằng cách giảm
hoặc không thu phí đăng ký kinh doanh qua mạng. Thực tế, việc thu nếu triển khai
cũng gặp rất nhiều khó khăn do đặc thù của Internet.
- Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, hình ảnh doanh nghiệp; cải thiện chất lượng dịch vụ
khách hàng; đối tác kinh doanh mới; đơn giản hóa và chuẩn hóa các quy trình giao dịch; tăng
năng suất, giảm chi phí giấy tờ; tăng khả năng tiếp cận thông tin và giảm chi phí vận chuyển;
tăng sự linh hoạt trong giao dịch và hoạt động kinh doanh.
3. Các đặc trưng của thương mại điện tử :

1) Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không tiếp xúc trực tiếp với
nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.

Trong thương mại truyền thống, các bên thương gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành
giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vât lý như chuyển
tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như: fax, telex, ..
chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương
tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực
tiếp

giữa

hai

đối

tác

của

cùng

một

giao

dịch.

Thương mại điện tử cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh


đến các khu vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi đều có
cơ hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không đòi hỏi nhất

thiết

phải



mối

quen

biết

với

nhau.

2) Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của khái niệm
biên giới quốc gia, còn thương mại điện tử được thực hiện trong một thị trường không
có biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu). Thương mại điện tử trực tiếp tác động tới
môi

trường

cạnh

tranh

toàn

cầu.


Thương mại điện tử càng phát triển, thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ cho doanh
nghiệp hướng ra thị trường trên khắp thế giới. Với thương mại điện tử, một doanh
nhân dù mới thành lập đã có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức và Chilê …, mà không
hề phải bước ra khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều năm.
3) Trong hoạt động giao dịch thương mại điện tử đều có sự tham ra của ít nhất ba chủ
thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ mạng, các cơ
quan

chứng

thực.

Trong thương mại điện tử, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như
giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà cung cấp
dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực… là những người tạo môi trường cho các giao
dịch thương mại điện tử. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm
vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại điện
tử, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch thương mại
điện

tử.

4) Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao
đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính là thị trường.
Thông qua thương mại điện tử, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành. Ví
dụ: các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành nên các nhà trung gian
ảo làm các dịch vụ môi giới cho giới kinh doanh và tiêu dùng; các siêu thị ảo được
hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính.
Các trang Web khá nổi tiếng như Yahoo! America Online hay Google đóng vai trò

quan trọng cung cấp thông tin trên mạng. Các trang Web này đã trở thành các “khu
chợ” khổng lồ trên Internet. Với mỗi lần nhấn chuột, khách hàng có khả năng truy cập
vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào hàng ngàn các cửa hàng


ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua hàng là rất cao. Người tiêu dùng
đã bắt đầu mua trên mạng một số các loại hàng trước đây được coi là khó bán trên
mạng. Nhiều người sẵn sàng trả thêm một chút tiền còn hơn là phải đi tới tận cửa hàng.
Một số công ty đã mời khách may đo quần áo trên mạng, tức là khách hàng chọn kiểu,
gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa hàng (qua Internet) rồi sau một thời gian nhất định
nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu của mình. Điều tưởng như không thể thực
hiện

được

này

cũng



rất

nhiều

người

hưởng

ứng.


Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang đua nhau đưa thông tin lên Web
để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên Web bằng cách mở cửa hàng ảo.
4. Các hình thức hoạt động của thương mại điện tử :
1).

Thư

điện

tử

(

Email)

Email là phương thức dễ dàng nhất để doanh nghiệp làm quen và tiếp cận với thương
mại điện tử. Việc sử dụng email giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm chi phí trong khi vẫn
đạt được mục tiêu truyền gửi thông tin một cách nhanh nhất. Về mặt chức năng, email
có thể thay thế hoàn toàn cho fax. Một địa chỉ email tốt phải đáp ứng các yêu cầu càng
ngắn càng tốt, gắn với địa chỉ website và thương hiệu của doanh nghiệp.Địa chỉ email
cần ngắn gọn để đối tác có thể dễ nhớ và tránh khả năng gõ nhầm trên bàn phím vì khi
gõ địa chỉ email chỉ cần sai một ký tự là coi như sai cả địa chỉ và thư gửi sẽ không đến
nơi. Địa chỉ email cần gắn với địa chỉ website và thương hiệu vì như vậy chỉ cần đọc
địa chỉ email là đối tác có thể nhận biết tên doanh nghiệp của bạn cũng như địa chỉ
website của bạn. Ví dụ, khi nhận được email từ là người ta dễ dàng đoán ra được đây
là email từ công ty IBM và Website của công ty này là . Dựa trên nguyên tắc địa chỉ
website gắn liền với tên thương hiệu, trong nhiều trường hợp có thể đoán ra địa chỉ
website của doanh nghiệp một cách dễ dàng. Tuyệt đại đa số website của doanh nghiệp
đều có phần đầu là www. và phần sau là .com hoặc .com.vn. Chúng ta chỉ cần đặt tên

thương hiệu của doanh nghiệp vào giữa hai phần trên là xong. Để tăng tính đồng nhất
giữa địa chỉ website và địa chỉ email, doanh nghiệp cần lấy ngay địa chỉ website làm
phần gốc (phần sau dấu @). Rất nhiều doanh nghiệp hiện đã có website, nhưng không
biết là họ có quyền dùng địa chỉ website đó cho địa chỉ email của mình nên vẫn phải
dùng địa chỉ email đăng ký tại các nhà cung cấp dịch vụ Internet như VDC, FPT ...
2). Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI)


Trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange - EDI) là việc trao đổi trực tiếp
các dữ liệu dưới dạng "có cấu trúc" (structured form) từ máy tính điện tử này sang máy
tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo
cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người. Trao đổi dữ
liệu điện tử có vai trò quan trọng đối với giao dịch thương mại điện tử quy mô lớn giữa
doanh nghiệp với doanh nghiệp. Với việc hình thành những hệ thống ứng dụng thương
mại điện tử kỹ thuật cao như mạng giá trị gia tăng (VAN), hệ thống quản lý dây
chuyền cung ứng (SCM), mạng của các nhà cung cấp dịch vụ trung gian …, có sự
tham gia của nhiều doanh nghiệp sử dụng dịch vụ áp dụng những tiêu chuẩn trao đổi
dữ liệu thống nhất tạo thuận lợi cho các giao dịch thương mại điện tử. Sử dụng EDI,
doanh nghiệp sẽ giảm được lỗi sai sót do con người gây nên, giảm thời gian xử lý
thông tin trong các giao dịch kinh doanh, tiết kiệm thời gian và chi phí trao đổi dữ liệu.
Hiện nay, sự xuất hiện của các ngôn ngữ lập trình hiện đại như XML làm cho EDI trở
nên dễ thiết kế và dễ sử dụng hơn, do đó EDI được ứng dụng rất phổ biến trong nhiều
ngành trên thế giới.
3). Quảng cáo trực tuyến:
Có nhiều hình thức để tiến hành quảng cáo trực tuyến. Doanh nghiệp có thể hình
thành một website riêng, đặt đường dẫn website của mình tại những trang web có
nhiều người xem, đăng hình quảng cáo tại những trang web thông tin lớn hay trực tiếp
gửi thư điện tử tới từng khách hàng, đối tác tiềm năng... Chi phí quảng cáo trên các
trang web rất thấp so với việc quảng cáo trên các phương tiện truyền hình, đài phát
thanh. Vì vậy, việc tiến hành quảng cáo trên những website có số lượng truy cập lớn

cũng đang trở thành một chiến lược quan trọng của nhiều doanh nghiệp. Những công
ty có trang web riêng hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, từ sản xuất hàng hoá,
dịch vụ công nghiệp tới những sản phẩm tiêu dùng hàng ngày. Nhiều doanh nghiệp đã
tận dụng chi phí thấp của các hình thức quảng cáo bằng thư điện tử bằng cách mua
hoặc liệt kê danh sách khách hàng tiềm năng có địa chỉ email từ những nhà cung cấp
dịch vụ Interner như FPT, VDC ... rồi gửi thư điện tử quảng cáo. Ví dụ về các loại
quảng cáo trực tuyến trên website là samer, popup, contest/quizz
4). Bán hàng qua mạng :


Website bán lẻ là hình thức doanh nghiệp sử dụng website để trưng bày hình ảnh
hàng hoá giao dịch và bán hàng hoá cho người tiêu dùng. Đây chính là sự thể hiện của
phương thức giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng. Mặc dù không phải
phương thức có trị giá giao dịch lớn nhất trong thương mại điện tử, nhưng khi nói đến
thương mại điện tử người ta hay nghĩ đến website bán lẻ với các mô hình nổi tiếng như
, . Website bán lẻ có ưu thế trong việc kinh doanh những món hàng có giá trị nhỏ và
vừa, những mặt hàng tiêu dùng thường gặp trong đời sống hàng ngày. Bên cạnh những
hàng hoá hữu hình, hàng hoá có thể số hoá và dịch vụ cũng là đối tượng của website
bán lẻ. Phần mềm, trò chơi, phim là những mặt hàng số hoá có doanh số phân phối qua
mạng cao. Các dịch vụ giải trí, du lịch, giao thông, tư vấn ... cũng là những lĩnh vực
tiềm

năng

cho
5).

các
Thanh


website
toán

bán
điện

lẻ.
tử

:

Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc thanh toán tiền thông qua bức thư
điện tử (electronic message) ví dụ, trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài
khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng v.v.. thực chất đều là dạng
thanh toán điện tử. Ngày nay, với sự phát triển của TMĐT, thanh toán điện tử đã mở
rộng

sang

các

lĩnh

vực

mới

đó

là:


a. Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange, gọi
tắt là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch với
nhau

bằng

điện

tử.

b. Tiền lẻ điện tử (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành (ngân
hàng hoặc một tổ chức tín dụng nào đó), sau đó được chuyển đổi tự do sang các đồng
tiền khác thông qua Internet, áp dụng trong cả phạm vi một nước cũng như giữa các
quốc gia; tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hóa, vì thế tiền mặt này còn có tên
gọi là “tiền mặt số hóa” (digital cash. Tiền lẻ điện tửđang trên đà phát triển nhanh, nó


ưu

điểm

nổi

bật

sau:

+ Dùng để thanh toán những món hàng giá trị nhỏ, thậm chí ngay cả tiền mua báo
(vì


phí

giao

dịch

mua

hàng



chuyển

tiền

rất

thấp);

+ Có thể tiến hàng giữa hai con người hoặc hai công ty bất kỳ, các thanh toán là vô
danh;
+ Tiền mặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được tiền giả


c. Ví điện tử (electronic purse); là nơi để tiền mặt Internet, chủ yếu là thẻ thông
minh (smart card), còn gọi là thẻ giữ tiền (stored value card), tiền được trả cho bất kỳ
ai đọc được thẻ đó; kỹ thuật của túi tiền điện tử tương tự như kỹ thuật áp dụng cho
“tiền lẻ điện tử”. Thẻ thông minh, nhìn bề ngoài như thẻ tín dụng, nhưng ở mặt sau của

thẻ, có một chíp máy tính điện tử có một bộ nhớ để lưu trữ tiền số hóa, tiền ấy chỉ
được “chi trả” khi sử dụng hoặc thư yêu cầu (như xác nhận thanh toán hóa đơn) được
xác

thực





đúng”

d. Giao dịch điện tử của ngân hàng (digital banking). Hệ thống thanh toán điện tử
của

ngân

hàng



một

hệ

thống

lớn

gồm


nhiều

hệ

thống

nhỏ:

(1) Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng qua điện thoại, tại các điểm bán lẻ, các
kiôt, giao dịch cá nhân tại các gia đình, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua
Internet,

chuyển

tiền

điện

tử,

thẻ

tín

dụng,

thông

tin


hỏi

đáp…,

(2) Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị…,)
(3)

Thanh

toán

nội

bộ

một

hệ

thống

ngân

hàng

(4) Thanh toán liên ngân hàng

.5. Các yếu tố tác động đến sự phát triển của thương mại điện tử
Yếu tố

Công nghệ

Tiêu chí đo lường
- Hạ tầng viễn thông: mạng trục quốc gia, cấu trúc
mạng viễn thông, số đơn vị cung cấp dịch vụ, giá cả
dịch vụ, tính cạnh tranh của thị trường
- Khả năng tiếp cận công nghệ mới
- Băng thông
- Tốc độ phát triển và triển khai công nghệ của các

Chính trị

ngành công nghiệp
- Số lượng và loại chương trình phát triển thương mại
điện tử mà chính phủ áp dụng
- Luật, nghị định, thông tư, quy định mà nhà nước ban
hành
- Chính sách hỗ trợ phát triển thương mại điện tử: đào

Xã hội

tạo nguồn nhân lực, miễn giảm thuế…
- Nguồn nhân lực
- Số lượng người dùng internet


- Số máy tính bình quân hộ dân
- Trình độ và kỹ năng công nghệ thông tin của người
dùng
Kinh tế


- Văn hóa chuộng công nghệ..
- Tăng trưởng kinh tế
- Thu nhập bình quân
- Chi phí cho công nghệ
- Sự phát triển của dịch vụ hạ tầng: thanh toán, dịch vụ
hỗ trợ phát triển kinh doanh

- Các mô hình kinh doanh mới
C.SỰ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
1.Ảnh hưởng của TMĐT đến sự phát triển kinh tế ở Việt Nam
Trong thế kỷ 21, trên Thế giới, khái niệm internet và thương mại điện tử đang dần
trở nên quen thuộc đối với cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng nói chung và
Việt Nam nói riêng. Với tỷ lệ 96% số lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế, Internet
và thương mại điện tử đã có ảnh hường như thế nào tới hoạt động của DNVVN Việt
Nam?
Ngày 28/7/2015 đã diễn ra buổi tọa đàm khoa học với nội dung: “Ảnh hưởng của
Internet và thương mại điện tử đến hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam”
do Viện nghiên cứu phát triển bền vững Vùng thuộc Viện Hàn lâm khoa học Xã hội
Việt Nam chủ trì. Tại đây, các nhà nghiên cứu khoa học cùng với những đơn vị liên
quan tới DNVVN của Việt Nam như Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Cục
thương mại điện tử và công nghệ thông tin, Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam...
đã có những trao đổi, thảo luận rất hữu ích về vấn đề này.
Tại buổi tọa đàm, các nhà Khoa học đã nêu dẫn chứng rất cụ thể của những doanh
nghiệp Việt Nam đã và đang tận dụng rất tốt sức mạnh của internet để quảng bá cho
hình ảnh, sản phẩm của doanh nghiệp, đồng thời xây dựng được kênh bán hàng thông
qua internet một cách hiệu quả. Tuy nhiên theo thống kê , internet và thương mại điện
tử đang có sự mất cân bằng giữa các vùng/địa phương, giữa nông thôn/thành thị, giữa
các lĩnh vực Công nghiệp – Xây dựng - Thương mại - Nông ,lâm, thủy sản... Thương
mại điện tử ở Việt Nam còn ở dưới mức tiềm năng, giá trị thương mại điện tử mới

bằng 0,3% tổng giá trị bán lẻ trên tỷ lệ 92% người dùng internet hàng ngày.


Để thúc đẩy sự phát triển của internet và thương mại điện tử nhằm mục đích tăng
trưởng doanh thu, giúp DNVVN tiếp cận khách hàng trực tiếp và nhanh chóng; Giảm
chi phí kinh doanh... Chính phủ đã và đang có những kênh thông tin, chính sách hỗ trợ
về thương mại điện tử giúp doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng và tốt nhất. Trước nhu
cầu cấp thiết của DNVVV hiện nay, Cục thương mại điển tử và Công nghệ thông tin
và những đơn vị thực thi các chính sách của Nhà nước cần có những hoạt động phổ
biến cung cấp thông tin đến doanh nghiệp đẩy mạnh hơn nữa để doanh nghiệp Việt
Nam có cơ hội nắm bắt và phát triển, xóa bỏ được khoảng cách giữa các vùng miền,
các lĩnh vực – ngành nghề.
Có rất nhiều các loai sản phẩm và dịch vụ khác nhau được cung cấp khi bạn mua
hàng trực tuyến. Từ những sản phẩm cá nhân cho đến những mặt hàng có giá trị như
xe máy, xe hơi hay các dịch vụ đi kèm đều được nhà cung cấp thỏa mãn bạn, ngay cả
khi

bạn

không

cần

đến

cửa

hàng.

Bên cạnh đó, thói quen mua hàng, đặt hàng giúp các nhà cung cấp nói riêng và thị

trường hàng hóa nói chung tránh bị tồn kho nhiều hơn trong truyền thống. Với nhiều
mặt hàng và dịch vụ, bạn muốn mua cần phải đặt hàng mới mua được, điều này cũng
làm cho tính cá nhân hóa khi mua hàng được đẩy mạnh. Ngoài ra, mua hàng ocông
nghệ, thương mại điện tử và toàn cầu hóa trở nên gắn bó với nhau hơn, người mua và
người bán đang gia tăng khả năng kết nối, do đó việc mua bán, giao dịch sẽ rất nhanh.
Vì vậy, trong khi môi trường kinh doanh đầy biến động, các nhà quản lý chuỗi cung
ứng cần phải xem xét các chiến lược phát triển mới để đối phó với những thay đổi
nhanh chóng mà do tăng trưởng thương mại điện tử mang lại trong thị trường toàn cầu.
2.Hạn chế của TMĐT ở Việt Nam
Có hai loại hạn chế của thương mại điện tử: một nhóm mang tính kỹ thuật và một
nhóm mang tính thương mại.
1).

Hạn chế về kỹ thuật

-

Chưa có tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn và độ tin cậy

-

Tốc độ đường truyền Internet vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người
dùng, nhất là trong TMĐT


-

Các công cụ xây dựng phần mềm vẫn trong giai đoạn đang phát triển

-


Khó khăn khi kết hợp các phần mềm TMĐT với các phần mềm ứng dụng
và các cơ sở dữ liệu truyền thống

-

Cần có các máy chủ thương mại điện tử đặc biệt (công suất, an toàn) đòi
hỏi thêm chi phí đầu tư

-

Chi phí truy cập Internet vẫn còn cao

-

Thực hiện các đơn đặt hàng trong thương mại điện tử B2C đòi hỏi hệ thống
kho hàng tự động lớn

2).

Hạn chế về thương mại

-

An ninh và riêng tư là hai cản trở về tâm lý đối với người tham gia TMĐT

-

Thiếu lòng tin và TMĐT và người bán hàng trong TMĐT do không được
gặp trực tiếp


-

Nhiều vấn đề về luật, chính sách, thuế chưa được làm rõ

-

Một số chính sách chưa thực sự hỗ trợ tạo điều kiện để TMĐT phát triển

-

Các phương pháp đánh giá hiệu quả của TMĐT còn chưa đầy đủ, hoàn
thiện

-

Chuyển đổi thói quen tiêu dùng từ thực đến ảo cần thời gian

-

Sự tin cậy đối với môi trường kinh doanh không giấy tờ, không tiếp xúc
trực tiếp, giao dịch điện tử cần thời gian

-

Số lượng người tham gia chưa đủ lớn để đạt lợi thế về quy mô (hoà vốn và
có lãi)

-


Số lượng gian lận ngày càng tăng do đặc thù của TMĐT

-

Thu hút vốn đầu tư mạo hiểm khó khăn hơn sau sự sụp đổ hàng loạt của các
công ty dot.com

3) Thực trạng phát triển TMĐT ở Việt Nam
1)Thực trạng


Sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và thực thi chính sách “ mở cửa
“ , mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác kinh tế quốc tế đã khiến nền kinh tế Việt Nam
từng bước hòa nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cùng đó bước đầu tiếp cận và
triển khai thương mại điện tử từng bước nhất định. Nhưng Việt Nam số lượng người
sử dụng internet tham gia giao dịch TMĐT vẫn còn hạn chế. Có thể khẳng định một
thực tế rằng quy mô thị trường TMĐT ở Việt Nam vẫn còn ở quy mô rất nhỏ do các
nguyên nhân khác nhau làm hạn chế phát triển TMĐT:
-

Trình độ nhận thức và sự tiếp cận, tham gia TMĐT của các doanh nghiệp Việt
Nam còn sơ khai. Các doanh nghiệp đã biết lập các website bán hàng qua mạng
nhưng các giao dịch qua web bán hàng qua mạng đó chưa phải là TMĐT thực
sự và đầy đủ. Vì các hình thức thanh toán vẫn theo phương thức trả tiền mặt
khi nhận hàng, vi phạm giao dịch, chưa ra khỏi phạm vi biên giới Việt Nam.
Mới chỉ cơ bản mang tính tiếp cận làm quen chưa phải là bản TMĐT đầy đủ.

-

Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin: nhìn chung vẫn đang trong tình trạng lạc

hậu phát triển chậm thụt lùi so với nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á và
trên Thế giới chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của sự phát triển TMĐT

-

Nguồn nhân lực: Chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập. những người được coi
là biết sử dụng máy mới chỉ làm được và chỉ làm văn bản ở mức độ thấp, trình
độ ứng dụng công nghệ thông tin vào mục đích quản lý và kinh doanh nói
chung còn rất thấp, thậm chí hoàn toàn chưa có.

Xét cả về khía cạnh hạ tầng cơ sở công nghệ lẫn con người, có thể nói Việt nam vẫn là
một nước kém phát triển và bị tụt hậu khá xa so với các nước tiên tiến trên thế giới về
công nghệ tin học. Cho dù đã có nhiều cố gắng, nỗ lực nhưng đến nay, Việt nam vẫn
chưa có một ngành công nghiệp tin học thực sự.
-

Môi trường kinh tế - xã hội: do hàng loạt các đặc thù, các thế lực thù địch còn
tiếp tục các hoạt động chống phá mạnh mẽ, nhiều thứ chịu sự chế định của
hoàn cảnh lịch sử - xã hội, ta chưa thể mở tới mức độ như “kinh tế số hoá nói
chung” và “thương mại điện tử” nói riêng đòi hỏi hoặc mong muốn. Hoàn cảnh
đặc thù ấy chưa hoàn toàn thích hợp với “thương mại điện”, nhưng chưa thể


làm khác được vì đề phòng phá hoại chính trị còn phải quản lý Internet/Web để
chống lại tác hại của phim ảnh không lành mạnh.
-

Hệ thống thanh toán tự động: vẫn chưa thực sự phát triển vì “ hoạt động của các
ngân hàng thương mại còn yếu kém. Chất lượng tín dụng thấp, tỉ lệ nợ quá hạn
lớn, tình hình tài chính của một số ngân hàng thương mại còn khó khăn. Thị

trường vốn phát triển chậm, tỉ lệ sử dụng tiền mặt còn lớn, các loại dịch vụ tài
chính, ngân hàng còn chưa phát triển. Thị trường chứng khoán đã mở ra nhưng
vẫn còn lúng túng.”

-

An toàn và bảo mật: đây là vấn đề nhức nhối và cấp thiết hiện nay khi mà trình
độ công nghệ thông tin của Việt Nam vẫn còn yếu kém

Về mặt xã hội, cũng phải lưu ý tới nhận xét của nhiều học giả rằng: do lịch sử hàng
nghìn năm sống trong nền “văn minh làng xã”, đông đảo dân chúng Việt nam chưa xây
dựng được một tác phong “làm việc đồng đội” (teamwork) ở tầm toàn xã hội và tầm
quốc tế, cũng như chưa có được lối sống theo pháp luật chặt chẽ, theo kỷ luật lao động
công nghiệp tiêu chuẩn hoá, đều là những yếu tố mà “kinh tế số hoá” nói chung và
“thương mại điện tử” nói riêng đòi hỏi một cách nghiêm ngặt.
Tất cả các hạ tầng cơ sở nói trên đều cho thấy môi trường điển hình cho nền “kinh tế
số hoá” nói chung và “thương mại điện tử” nói riêng chưa hình thành đầy đủ ở Việt
nam, đòi hỏi nhất thiết phải có một quá trình chuẩn bị. Quá trình đó dài hay ngắn tuỳ
thuộc vào nhiều quan điểm chung, cách nhận thức vấn đề và cách triển khai thương
mại điện tử.
2, Giải pháp thúc đẩy phát triển thương mại điện tử
Thương mại điện tử chỉ có thể phát triển khi và chỉ khi các yếu tố nền tảng thiết yếu
như hạ tẩng CNTT, hạ tầng pháp lý, hạ tầng tính toán ...phát triển. Do đó việc hoàn
thiện các cơ sở hạ tầng này là điều kiện tiên quyết cho thương mại điện tử. Theo tiến
sỹ Chu Hảo, thứ trưởng Bộ KHCN&MT, Việt nam cần mở của đón làn sóng kinh tế
mới, tận dụng cơ hội “đi tắt, đón đầu”, đi thẳng vào những ngành công nghệ cao của
nền kinh tế tri thức. Có như vậy mới có cơ hội mở rộng không gian kinh tế, hiện đại
hoá các nghành sản xuất truyền thống, tăng sức cạnh tranh và tạo được thêm nhiều
ngành nghề mới.



Chúng ta phải đầu tư hết sức để mở con đường Internet trong khi không thể xem nhẹ
các con đường tự nhiên là đường bộ, đường không, đường thuỷ. Tìm mợi cách thu hút
hàng hoá cuồn cuộn chảy trên những con đường đó cả trên những con đường physical
lẫn những con đường electronic” (Trích báo cáo tại hội thảo tuần lễ CNTT lần 5 tại
TP.HCM). Phát triển thương mại điện tử trong điều kiện Việt nam hiện nay sẽ tập
trung vào ngoại thương điện tử, thông qua thương mại điện tử nâng cao ưu thế cạnh
tranh của hàng hoá Việt nam trên trường quốc tế. Quá trình phát triển thương mại là
một quá trình lâu dài trong thời kỳ nền kinh tế nước ta quá độ lên nền kinh tế mới, do
đó cần tránh sự quá nóng vội trong phát triển thương mại điện tử dẫn đến ảnh hưởng
xấu đến nền kinh tế. Phát triển thương mại điện tử không đơn thuần chỉ là việc dùng
phương tiện điện tử truyền thông để thực hiện các hành vi buôn bán truyền thông mà
nên hiểu rằng khi chấp nhận và áp dụng thương mại điện tử thì toàn bộ hình thái hoạt
động của một đất nước sẽ thay đổi, cả hệ thống giáo dục, cả tập quán làm việc và sinh
hoạt hàng ngày cũng sẽ thay đổi theo. Do đó cần phải nghiên cứu toàn diện mọi khía
cạnh của thương mại điện tử (mặt phải và mặt trái của thương mại điện tử) để có
những chính sách phù hợp nhất. Phát triển thương mại điện tử phải dựa trên phát huy
tối đa lợi thế so sánh từng vùng, từng địa phương nhằm mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá ra thị trường thế giới. Phát triển thương mại điện tử phải gắn liền với quá
trình tự do hoá thương mại - toàn cầu hoá trên phạm vi quốc tế ngày càng được đẩy
mạnh. Nền kinh tế Việt nam không nằm ngoài xu thế này, do đó Việt nam cần tranh thủ
vận dụng xu thế này để phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của mình. Các doanh
nghiệp cũng cần có chiến lược cụ thể, toàn diện để có thể tận dụng, phát huy lợi ích
của thương mại điện tử.
Để làm được điều này, Việt nam cần phải xây dựng cho mình một nền công nghiệp
điện năng vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định và có mức giá hợp
lý. Theo đó cần sớm xây dựng được nhà máy điện nguyên tử để phục vụ tốt hơn cho
sự phát triển của công nghệ thông tin, Internet, thương mại điện tử.
+ Về việc nâng cao nhận thức: Theo báo cáo gần đây của Liên hợp quốc, vấn đề chính
gây trở ngại cho tiến trình phát triển thương mại điện tử tại các nước đang phát triển

lại nằm ở vấn đề nhận thức của các doanh nghiệp và người dân.
+ Xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ thương mại điện tử.


+ Nhà nước cần sớm xây dựng hạ tầng thanh toán điện tử (đẩy nhanh áp dụng các
phương tiện thanh toán hiện đại vào hoạt động ngân hàng như: thẻ thông minh (smart
card), chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng...). Phương tiện thanh toán điện tử phải mang
đặc tính dễ sử dụng và phải an toàn
+ Nhà nước, thông qua Hội đồng quốc gia thương mại điện tử sớm ban hành các văn
bản pháp lý: Về cơ bản nội dung của văn bản pháp lý cần phải:
. Thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch thương mại điện tử (thông qua mạng
Internet).
. Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử (electronic signature-chữ ký dưới dạng
đặt vào một thông điệp dữ liệu (data message) và chữ ký số hoá (digital signature - tức
là biện pháp biến đổi nội dung thông điệp dữ liệu, khi dùng mã khoá để giải mã mới
thu được nội dung thật của thông điệp dữ liệu).
. Bảo vệ pháp lý các Hợp đồng thương mại điện tử.
. Bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử (bao gồm cả việc pháp chế hoá các cơ quan
phát hành các thể thanh toán).
. Bộ tài chính cần có các văn bản pháp lý qui định những vấn đề liên quan tới tài chính
và thuế trong hoạt động thương mại điện tử.
. Quy định pháp lý đối với các dữ liệu xuất xứ từ nhà nước (các cơ quan Chính phủ và
Trung ương), chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước (trong đó có vấn đề
phải giải quyết như: Nhà nước có phải là chủ nhân các thông tin có quyền được công
khai hoá và các thông tin phải giữ bí mật hay không? Người dân có quyên đòi công
khai hoá các số liệu của chính quyền hay không? Khi công khai hoá thì việc phổ biến
các dữ liệu đó có được xem là một nguồn thu cho ngân sách hay không? ...v..v..)
. Bảo vệ pháp lý đối với sở hữu trí tuệ (bao gồm cả bản quyền tác giả) liên quan đến
mọi hình thức giao dịch điện tử.
. Bảo vệ bí mật riêng tư một cách thích đáng (để ngăn cản các bí mật đời tư bị đưa lên

mạng một cách phi pháp, không chỉ tên tuổi, dung mạo mà còn cả bí mật khác liên
quan đến sức khoẻ, tôn giáo, quan điểm chính trị, giới tính, tình dục...).
. Bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập với các mục đích
bất hợp pháp như thu thập tin tức mật, thay đổi các thông tin trên các trang Web, thâm
nhập vào các dữ liệu, sao chép trộm các phần mềm, truyền virus phá hoại....; Tới nay


từng nước đã có thể có luật về các tội này, vấn đề là sẽ phải đưa vào bộ luật hình sự,
một khi kinh tế số hoá được thừa nhận trên tầm quốc gia. Mọi cố gắng xây dựng hệ
thống thương mại điện tử sẽ trở nên vô nghĩa, thậm chí còn tác động xấu tới nền kinh
tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng nếu các thông tin không được bảo mật.
Bên cạnh đó ngày càng có nhiều nước áp dụng các luật ngăn cản không cho dữ liệu
được truyền gửi tới các nước không có phương tiện thích đáng để bảo vệ thông tin,
nhằm trách rò rỉ (nhất là các thông tin liên quan đến an ninh quốc gia, vũ khí giết
người hàng loạt...). Vì vậy, nếu không có các phương tiện thích đáng để bảo vệ thông
tin thì một nước rất có thể bị cách ly khỏi hoạt động thương mại điện tử quốc tế.
- Đẩy mạnh sự phát triển của nghành công nghiệp phần mềm Công nghiệp phần mềm
như đã phân tích đóng một đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển
thương mại điện tử ở Việt Nam
Do đó, ở Việt nam trong thời gian tới Chính phủ cần khẳng định “niềm tin’ cho các
doanh nghiệp bằng việc tích cực hơn nữa trong việc tham gia vào các hoạt động mua
sắm điện tử (e-procuroment) đồng thời phát triển dịch vụ công cộng qua mạng (như
trong ngành hải quan, thuế vụ, điện lực...)
Thời gian không chở đợi một ai. Những doanh nghiệp nào nhanh chân tận dụng những
thành tựu mà công nghệ thông tin mang lại sẽ nhanh chóng bứt lên phía trước. Các
doanh nghiệp thờ ơ với những thành tựu mà công nghệ thông tin mang lại sẽ bị tụt lại
và phải gánh chịu những hậu quả đáng tiếc. Thương mại điện tử ra đời là cơ hội lớn
cho Việt nam sau gần 200 năm. Cơ hội đầu tiên đã bị Việt nam bở lỡ vào cuối thế kỷ
18, đầu thế kỷ 19 khi triều đình nhà Nguyễn từ chối mở cửa đất nước tiếp cận với cuộc
cách mạng công nghiệp từ Châu Âu và Nhật Bản. Liệu Việt nam có bỏ lỡ cơ hội lần

hai? Lời giải đáp cho câu hỏi trên nằm ở thái độ và lòng quyết tâm của Chính phủ và
các doanh nghiệp Việt nam.
D.KẾT LUẬN
Sự phát triển của TMĐT là một trong những xu thế lôi cuốn và có tác động mạnh mẽ
đến các quốc gia, tạo ra những thay đổi căn bản không chỉ trong đời sống kinh tế mà
còn trong các lĩnh vực khác trog cuộc sống trong phạm vi toàn cầu.
Thương mại điện tử thực sự đã đem lại những lợi ích to lớn cho toàn xã hội. Không
một quốc gia nào phủ nhận tầm quan trọng của thương mại điện tử, các nước ngày


càng đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử trong việc phát triển nền kinh tế quốc
gia.Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam là một tất yếu khách quan trong bối cảnh
Việt Nam ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Để thương mại điện tử phát triển cần phải có sự hỗ trợ, định hướng, giám sát từ phía
Nhà nước, Chính phủ trong việc xây dựng hành lang pháp lý cho các hoạt động thương
mại điện tử, đẩy mạnh phát triển hạ tầng thanh toán, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông
tin, hạ tầng nhân lực...
Bản thân các doanh nghiệp trong nước cũng cần phải nhận thức được tầm quan trọng
của thương mại điện tử. Tận dụng những cơ hội mà thương mại điện tử đem lại, vượt
qua các khó khăn thách thức để có thể đứng vững và vượt lên trong bối cảnh cạnh
tranh kinh tế ngày một gay gắt.
Thương mại điện tử không chỉ tác động đến khía cạnh thương mại mà còn tác động
lên toàn bộ các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá...Do đó, Nhà nước và
Chính phủ cần thiết phải có một hệ thống chính sách toàn diện để phát huy những mặt
tích cực của thương mại điện tử và đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của nó
lên nền kinh tế.
Với một nước đang phát triển như Việt Nam cần cẩn trọng không thể vội vã tiến hành
TMĐT nếu như thiếu các yếu tố cần thiết, nhưng cũng không phải nhất thiết đầy đủ
các yếu tố để có thể triển khai TMĐT dựa theo tình hình phát triển của các yếu tố mà
triển khai. Bản thân sự phát triển và hoàn thiện mỗi nhân tố trong TMĐT cũng là một

quá trình cần nhiều giai đoạn, cần phải phù hợp với thực tế.



×