Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm môn tâp đọc lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.34 KB, 16 trang )

---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
“ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai ” chắc hẳn trong mỗi chúng ta ai cũng
đã từng một lần nghe câu nói trên. Câu nói, nói về tầm quan trọng không hề nhỏ
của một thế hệ, thế hệ có một địa vị không hề nhỏ trong xã hội, thế hệ có được
mọi sự quan tâm, ưu ái, thế hệ tương lai của đất nước sau này.
Như chúng ta đã biết: Đất nước ta đã và đang trong thời kì hội nhập và phát
triển nền kinh tế nhằm mục đích đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn,
kém phát triển. Để đạt được mục tiêu trên thì ngành giáo dục và đào tạo phải
gánh vác một trách nhiệm vô cùng to lớn đó là phải đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ
tương lai của đất nước trở thành một đội ngũ nhân lực hùng hậu có sức, có tài,
có đầy đủ phẩm chất của người chủ đất nước …đó là điều mà tất cả những người
làm công tác trong ngành giáo dục nói chung và bản thân tôi nói riêng cũng rất
trăn trở và suy nghĩ luôn đặt ra cho mình một câu hỏi: “ Làm thế nào để nâng
cao chất lượng học tập của học sinh, giúp các em nắm được kiến thức cơ bản
ngay từ khi bước vào lớp Một” bởi vì lớp Một là nền móng cho sự phát triển của
các em sau này ở các lớp kế tiếp, người ta coi quá trình giáo dục như quá trình
xây dựng một ngôi nhà mà ở đó “ Cấp một là nền, lớp một là móng” nền có
vững thì móng phải chắc.
Bước vào lớp Một ,lớp đầu tiên của bậc Tiểu học các em bắt đầu học đọc,
học viết ,học làm tính và các môm học khác nên các em lớp Một còn nhiều bơ
ngơ và tiếp thu kiến thức thật khó khăn, một số em chưa nắm vững các chữ cái.
Nếu không được sự quan tâm, rèn luyện của giáo viên và phụ huynh thì chất
lượng học tập của các em không cao. Theo tôi để rèn kỹ năng đọc cho học sinh
lớp một phải giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản ngay từ ngày đầu năm
học. Bởi đây là nền móng cho sự phát triển của học sinh sau này. Với học sinh
lớp Một điều quan trọng nhất là đọc, viết được bởi có đọc thông thi mới viết
thạo viết thạo ,có đọc được tốt học sinh mới hiểu được nội dung văn bản và lên
lớp trên mới học tốt được các môn học khác. Mà đa số các em học yếu đều do


chưa thuộc kĩ âm, vần, chưa đọc thông viết thạo cho nên việc giúp học sinh yếu
học tốt môn Học vần- tập dọc rất quan trọng. Mà đây là nhiệm vụ trọng tâm của
mỗi lớpnhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung. Đó là lí do tôi chọn đề tài
“Rèn kỹ năng đọc cho học lớp Một” để nghiên cứu và áp dụng vào thực tế lớp
tôi chủ nhiệm, mong muốn các em đều đọc, viết tốt, có nền móng cơ bản để học
tốt ở các lớp trên.

1/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng giờ học vần và tập đọc cho học sinh lớp Một
giúp giáo viên dạy lớp Một có thêm các phương pháp dạy học vần - tập đọc cho
học sinh. Từ đó nâng cao chất lượng kỹ năng đọc của học sinh nhằm đáp ứng
với mục tiêu yêu cầu đào tạo hiện nay.
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới tâm lí của học sinh lớp Một. Tác động
của lời khen đối với sự hưng phấn học tập của của học sinh. Nghiên cứu các
phương pháp
dạy học cá biệt hóa, dạy học lấy học sinh làm trung tâm để vận dụng trong
việc dạy học vần – tập đọc cho học sinh lớp Một.
Tìm hiểu kỹ năng đọc, các lỗi sai mà học sinh hay mắc phải trong quá trình
đọc từ đó giúp học sinh đọc đúng, đọc nhanh, đọc lưu loát và đọc diễn cảm.
3. Đối tượng nghiên cứu
Dựa vào thực trạng cụ thể đối tương học sinh của lớp đầu năm và điều dạy
học cụ thể cùng với những yêu cầu cần đạt trong từng giai đoạn về tốc độ đọc
qui định của học sinh lớp một .Do đó tôi đã sử dụng biện pháp “Rèn kỹ năng
đọc cho học sinh Lớp Một” do tôi trực tiếp giảng dạy.
4. Đối tượng khảo sát

Học sinh lớp 1A.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp hỏi đáp.
- Phương pháp học nhóm.
- Phương pháp luyện tập.
- Phương pháp động viên khen thưởng.
6. Phạm vi, kế hoạch nghiên cứu của đề tài
- Đề tài được thực hiện trong một năm học đối với môn Tiếng Việt lớp
Một, bắt đầu từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017.
- Kế hoạch nghiên cứu :
Tháng
Nội dung công việc
Ghi chú
Từ
- Điều tra, khảo sát chất lượng học sinh đầu năm.
9/2016
- Dạy các nét cơ bản, âm và các dấu thanh.
đến
- Nghiên cứu tài liệu, tổng hợp kinh nghiệm dạy
10/2016 học vần - tập đọc của các năm trước.
Từ

- Dạy các vần, các từ, câu ứng dụng.
2/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------


11/2016
đến
2/2017
Từ
3/2017
đến
5/2017

- Triển khai và áp dụng đề tài.

- Dạy các bài tập đọc.
- Kết thúc thực hiện, đánh giá tác động của đề tài
tới việc rèn đọc cho học sinh. Thống kê, so sánh số
liệu đối chứng.

II. BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Những nội dung lý luận, cơ sở lý luận
a. Cơ sở tâm lí học
Đối với học sinh lớp 1 việc đi học và làm quen với môi trường học tập là
một bước ngoặt quan trọng đối với trẻ. Bởi các em phải chuyển từ hoạt động
chủ đạo là hoạt động vui chơi ở giai đoạn mẫu giáo chuyển sang loại hoạt động
chủ đạo mới là hoạt động học tập – Lớp đầu tiên của bậc Tiểu học vì vậy việc
thay đổi trạng thái các hoạt động chủ đạo trong môi trường học tập có ảnh
hướng lớn đến tâm lý của trẻ. Những hiểu biết về tâm sinh lý của trẻ lớp Một đã
hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu, là những tín hiệu thay thế ngữ âm. Ở
độ 6 - 7 tuổi khả năng phân tích, tổng hợp ở trẻ khá hoàn chỉnh, từ đây các em
có khả năng tập tách từ thành tiếng, thành âm và chữ.
b. Cơ sở lý luận
Một trong những mục tiêu quan trọng mà môn Tiếng Việt ở Tiểu học cần
phải hướng đến là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng hoạt động

ngôn ngữ như: nghe, nói, đọc, viết. Đó là những kĩ năng cơ bản, nền tảng, có
tính chất công cụ giúp các em học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học
khác trong nhà trường phổ thông. “Đối với Tiểu học, Tiếng Việt là tất cả !”Đọc
thông, viết thạo là một trong những kĩ năng cơ bản của học sinh Tiểu học nói
chung và của học sinh lớp 1 nói riêng. Học sinh đọc thông, viết thạo nếu có sự
giúp đơ, động viên, khen ngợi và sửa sai kịp thời của giáo viên với phụ huynh
thì kết quả học tập sẽ tốt hơn. Ngoài ra còn giúp các em giao tiếp tốt trong cuộc
sống, có vốn từ tiếng Việt phong phú góp phần hoàn thiện nhân cách của các em.
Kiến thức trong phần Học vần mà các em cần nắm là những hiểu biết ban
đầu về các nét cơ bản , âm và chữ cái, thanh và các dấu thanh, cấu tạo vần, tiếng
câu, từ, đoạn văn,khổ thơ, nắm thêm từ 200 đến 300 từ, nhận biết cách dùng
dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, làm quen các dạng văn vần, văn xuôi, các
câu chuyện kể. Và ưu tiên hình thành và phát triển nhiều ở 2 kĩ năng đọc, viết ở
3/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

giai đoạn này để giúp học sinh cuối lớp Một có thể đọc thông, viết thạo môn
Tiếng Việt.
c. Cơ sở nghiên cứu
Tôi thường nghiên cứu các Giáo trình Phương pháp Dạy học Tiếng Việt lớp
Một. Các tài liệu liên quan: sách giáo viên, sách giáo khoa, các sách tham khảo
dạy học vần cho học sinh lớp Một, các ấn phẩm: Để học tốt, dạy tốt môn Tiếng
việt lớp Một và các tài liệu liên quan tới việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp
Một,….
d.Cơ sở thực tiễn
- Cơ sở vật chất của nhà trường còn hạn chế , đồ dùng dạy học còn thiếu .
- Phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của con em mình .
- Học sinh chưa thực sự ham học.

2. Thực trạng nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài phạm vi với đối tượng là học sinh lớp1A,
về cơ sở vật chất trường học và tình hình địa phương nơi công tác, tôi gặp một
số những thuận lợi và khó khăn sau:
a. Thuận lợi
+ Về phía giáo viên:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của phòng giáo dục, ban giám hiệu nhà
trường, tổ chuyên môn thường xuyên tổ chức bồi dương cho giáo viên nhiều
chuyên đề mới chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh tiểu học v v… cung cấp đủ
tài liệu, phương tiện nghiên cứu, giảng dạy.
- Đội ngũ giáo viên của Nhà trường có tay nghề vững lâu năm trong công
tác, có nhiều kinh nghiệm dạy ở một khối lớp, có ý thức tốt về trách nhiệm
người giáo viên và sẵn sàng giúp đơ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp
nhau tháo gơ những khó khăn và xử lý các tính huống trong giảng dạy.
+ Về phía học sinh:
- 100% số học sinh của lớp đi học đúng độ tuổi. Các em đa số rất ngoan,
biết lễ phép vâng lời thầy cô giáo,
b. Khó khăn
Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số
khó khăn sau:
+ Giáo viên:
- Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên
còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sự sinh động cho tiết dạy, nên còn mất
thời gian đầu tư.
4/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

- Đèn chiếu, máy tính trang bị trong phòng học chưa có, mỗi lần dạy phải

chuẩn bị, kết nối mất nhiều thời gian .
+ Học sinh:
- Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát lớp mình đang dạy lớp 1. Kết
quả như sau: 21/21 em đều qua lớp mẫu giáo. Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện
chữ cái đã học trong trường mầm non thì có 10 em nhận diện hết bảng chữ cái;
11 em biết 5 – 10 chữ cái. Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn
chính xác bảng chữ cái quá thấp dẫn đến kết quả học chưa cao.
- Do khả năng tiếp thu của các em không đồng đều, một số em vào lớp 1
mà rất yếu về thể chấtvà nhận biết về kiến thức. Đặc điểm trẻ lớp Một mau nhớ
chóng quên, tư duy bằng hình ảnh trực quan sinh động mới hấp dẫn các em. Một
trong những lí do dễ thấy là các em chưa được sự quan tâm của gia đình, cha
mẹ bận rộn với công việc, nhiều phụ huynh đi làm ăn xa gửi con cho ông bà ở
nhà chưa chú ý đến việc học tập của con vì vậy chưa giúp các em học ở nhà,
còn có tư tưởng ỷ lại cho cô giáo và nhà trường. Có em chưa có động cơ học tập
đúng đắn, chưa chăm học. Một số em người còn nhút nhát, hoàn cảnh gia đình
khó khăn chưa đủ điều kiện học tập. Các em học yếu Tiếng việt do không nhớ
được cách đọc, viết các chữ cái, chữ ghép, các vần nên không thể ghép thành
tiếng, từ, dẫn đến không hiểu các văn bản khác. Cho nên giúp các em còn yếu
môn Học vần ngay từ lớp Một rất quan trọng. Nhận thấy rõ được những khó
khăn cơ bản tôi đã thực hiện một số biện pháp: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh
còn yếu môn học vần- tập đọc để giúp các em học tốt hơn.
- Đa số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, một
số phụ huynh chưa có ý thức trách nhiệm kết hợp cùng với giáo viên trong việc
học tập của con em mình như việc chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập và nhắc
nhở con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
c. Khảo sát số liệu đầu năm
Ngay từ những tuần đầu của năm học tôi đã theo dõi và kiểm tra chất
lượng về đọc của học sinh trong lớp kết quả như sau:
Đọc
Chưa

được 29 chữ đọc được 29
Lớp
Sĩ số
cái
chữ cái
SL
%
SL
%
1A
21
10
47,6
11
52,4

5/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

- Phân tích số liệu:
* Số lượng học sinh đọc sai và ngọng: âm – vần – dấu tương đối nhiều.
* Các lỗi sai của học sinh:
- Đa phần sai ở âm “l – n, s – x, r – d, p – q,ph,p,tr,ch…”
- Về dấu: đọc ngọng các dấu “?, ~”,
- Về vần: ngọng vần “anh, inh, ênh, ươu, ưu, uơ, uông, ương,ich,êch…”
III. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để đạt được mục đích yêu cầu dạy học vần - tập đọc cho học sinh lớp Một
và khắc phục được những nhược điểm đã nêu tôi đồng thời thực hiện các biện

pháp cụ thể sau:
1. Biện pháp tác động giáo dục
Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đề nghị
và yêu cầu thống nhất trang bị đủ sách vở đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn
học. Phối hợp với phụ huynh nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và ôn bài ở nhà
của học sinh. Mượn đồ dùng học tập, sách cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Ngoài những đồ dùng sẵn có của trường, tôi cũng thường xuyên làm đồ dùng
dạy học phục vụ bài dạy.
Sau đợt kiểm tra giữa kì 1, tôi tiến hành xây dựng cho lớp những đôi bạn:
giỏi – yếu kèm cặp nhau và chia ra thành các nhóm để tiện việc các em giúp đơ
nhau trong học tập . Những ngày đầu, tôi trực tiếp kiểm tra học sinh giỏi, biết
được các em đã đọc, viết tốt, lưu loát rồi thì cho em kiểm tra lại bạn yếu. Từ
những điều học sinh giỏi tiếp thu được các em sẽ ghi nhớ rất sâu và truyền thụ
lại cho bạn một cách dễ tiếp thu hơn, cũng khích lệ các em yếu phải cố gắng học
để không thua kém bạn. Tuy nhiên, tôi vẫn thường xuyên kiểm tra và kèm cặp
học sinh yếu nhằm củng cố kiến thức cho các em một cách vững vàng hơn trong
các tiết học buổi chiều, cuối mỗi buổi học từ 30 - 40 phút. Cuối tháng tôi ra đề
kiểm tra, xem các em tiến bộ đến mức nào và tiếp tục rèn để các em nắm chắc
hơn.
Theo tôi, giáo viên cần luôn quan tâm đến các đối tượng học sinh trong lớp,
nhất là các em còn yếu so với các bạn. Nên tuyên dương động viên các em dù sự
tiến bộ rất nhỏ, không được chê các em. Sự thân thiện, nhiệt tình của thầy cô
giáo giúp các em thấy gần gũi, mạnh dạn trao đổi với thầy, cô, đó cũng là cách
thu hút các em đến lớp học chuyên cần, vì có đi học đầy đủ các em mới tiến bộ.
2. Giúp học sinh nắm chắc các nét cơ bản trong phần Học vần
Ngay bài học đầu tiên về các nét cơ bản, tôi dạy thật kỹ tên gọi và cách viết
các nét chữ đó nhằm giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ để mà học tốt các bài sau. Để
thực hiện hoạt động giới thiệu những nét cơ bản, tôi phân loại các nét có tên gọi
6/16



---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm, để các em dễ nhận biết và so sánh.
Các nét chữ cơ bản và tên gọi đã được phân loại như sau:

Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Nhóm 4

Nét sổ thẳng
Nét ngang
Nét xiên phải (giống dấu thanh
huyền)
Nét xiên trái (giống dấu thanh sắc)
Nét móc xuôi (chữ l)
Nét móc ngược (chữ n, m)
Nét móc hai đầu (chữ h, p, ph)
Nét cong hở phải (chữ c)
Nét cong hở trái (chữ x)
Nét cong kín (chữ o, ô, ơ)
Nét khuyết trên (chữ h, l, b,k)
Nét khuyết dưới (chữ g, y)
Nét thắt (chữ b, v, r)
Nét khuyết, có nét thắt ở giữa (chữ
k)


Tôi chuẩn bị những đoạn dây dù đủ màu sắc làm hình nét chữ để giới thiệu
và khuyến khích học sinh cùng làm theo, giúp các em dễ thuộc các nét hơn vì đã
được trải nghiệm. Cho học sinh đọc tên gọi các nét nối tiếp nhau, đọc xuôi đọc
ngược nhiều lần để các em nhớ. Để khai thác vốn hiểu biết sẵn có và khắc sâu
kiến thức của các em bằng cách tổ chức trò chơi:” Đoán nét chữ” trong hoạt
động củng cố. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ
cái và thu hút các em tập trung hơn. Ví dụ: Đố con, chữ a gồm có nét gì? Chữ a:
nét cong kín và nét móc. Đố con, chữ gì có nét cong kín? Chữ o (ô,ơ). Tôi đã
tuyên dương các em trả lời tốt bằng những bông hoa hay tràng pháo tay thật to.
Vì các em rất thích được cô, thầy khen dưới mọi hình thức khi trả lời đúng, nhất
là các em còn yếu đó là sự khích lệ rất lớn với các em. Đây là bài học đầu tiên
trong phần Học vần nên cần tạo cho các em tâm thế học tập thoải mái, gần gũi,
gây sự hứng thú.
Sau khi học sinh đã học thuộc tên gọi và cấu tạo các nét cơ bản một cách
vững vàng thì tiếp theo là phần học âm. Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô
cùng quan trọng. Các em có nắm chắc từng chữ cái thì mới ghép được thành
vần, tiếng, các tiếng ghép lại với nhau tạo thành từ và câu. Trong giai đoạn này,
7/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

tôi chú ý cho các em phân tích từng nét chữ cơ bản của từng chữ cái vì một số
em chưa nhớ mặt chữ. Để học sinh đọc được chữ và ghi được con chữ, tôi cho
các em phân biệt chữ in thường trong sách giáo khoa với chữ viết thường để các
em khỏi lúng túng.
3.Giai đoạn học chữ
Đây là những từ ,ngữ ,câu ngắn,đoạn ngắn, các thánh ngữ ,tục ngữ, ca
dao… phù hợp với yêu cầu học chữ và rèn kỹ năng. Ngữ liệu phù hợp với lứa

tuổi của học sinh, có tác dụng giáo dục và mở rộng sự hiểu biết.
Giai đoạn sau học chữ: là những câu ,đoạn nói về thiên nhiên,gia đình
,trường học ,thiếu nhi. Ngữ liệu có cách diễn đạt trong sáng, dễ hiểu, có tác dụng
giáo dục giá trị nhân văn và cung cấp cho học sinh những hiểu biết về cuộc
sống. Chú ý thích dáng đến các văn bản phản ánh đặc điểm “thiên nhiênđời sống
văn hóa,xã hội …’’ của các địa phương trên đất nước ta.
4. Thường xuyên ôn âm, vần trong tiết học
Để tránh tình trạng các em đọc mà chưa hiểu và giúp các em còn yếu nhớ
mặt chữ,ở trong các bài ôn tập tôi thường gọi các em đọc nhiều lần, trong phần
học các vần, sau khi cho học sinh phân tích vần, tôi gọi các em yếu đọc các âm
ghép thành vần sao cho mỗi em được đọc từ 4 - 5 lượt để nắm vững các âm đã
học.
Khi cài từ ứng dụng lên bảng, không đọc mẫu mà chỉ định học sinh đồng
thanh không theo thứ tự, để tất cả học sinh đều tập trung chú ý ở bảng và các em
còn yếu có thời gian nhớ lại các chữ đã học và tôi cũng có thời gian quay xuống
quan sát miệng học sinh yếu. Sau khi phát hiện em nào “nhắp miệng” thì chỉ
định em đó đọc lại âm, tiếng rồi cho các em đọc trơn đồng thanh lại từ ứng
dụng. Để áp dụng phương pháp này hình thành thói quen và rèn nề nếp của lớp,
tôi qui định tiếng gõ thước cụ thể như sau: Gõ một tiếng: học sinh chú ý lên
bảng. Gõ hai tiếng: học sinh đọc đồng thanh. Trong hoạt động này, tôi thường
dùng các phương tiện học tập gồm: sách giáo khoa và bảng cài ghép âm, vần.
Trong các tiết ôn Học vần, tôi gọi học sinh yếu lên gắn trên bảng cài chữ các
vần, tiếng, từ khóa đã học để tôi vừa kiểm tra các em có thuộc các chữ cái không
và khi các em luyện đọc tôi dễ theo dõi, sửa sai kịp thời. Sau khi các em đọc
đúng âm, vần vừa học, tôi cho các em rèn chữ viết trên bảng con. Tôi nhận thấy
đa số các em yếu không nhớ kĩ cách đọc, viết các âm ghép. Cho nên vào các tiết
ôn buổi chiều, tôi cho các em sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một
nhóm, để các em dễ phân biệt sự giống nhau và khác nhau của các âm đó.

8/16



---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

Ví dụ :

ch – c
ph – p
th – t
gh – g
nh – n
ngh – ng
kh – k
Sau khi học xong phần đọc, tôi còn giúp các em nhớ các âm ghép bằng
cách cho viết bảng con đưa vào ngữ cảnh: tôi đưa hình ảnh hoặc nêu tên gọi các
con vật, đồ vật gần gũi với các em bắt đầu bằng các âm ghép.
Ví dụ: ch (chó), nh (nhà), th (thỏ), kh (khỉ), gh (ghế), ph (phở), ngh (nghệ),
ng (ngủ), gi (giỏ),…
Sau đó, tôi trang trí ngay góc học tập các hình ảnh có gắn với các âm ghép
để các em nhìn, đọc hàng ngày.
Để các em yếu phát âm và phân biệt: ch – tr, ng – ngh, c – k, g – gh, s – x,
… tôi đọc cho các em viết bảng con rồi sau đó cho luyện tập theo nhóm đôi:
luân phiên nhau một em đọc rồi cả hai viết bảng con, với cách làm này để phát
huy vai trò các em giỏi hỗ trợ giáo viên giúp đơ các em yếu.
Để kiểm tra mức độ nắm bài của các em, trong các tiết ôn buổi chiều có thể
tổ chức trò chơi: Viết ra phiếu chỉ là một từ, một câu văn không lấy trong sách
giáo khoa. Cho học sinh lên bốc thăm rồi đọc to lên, nếu học sinh không đọc
được thì giáo viên rèn đọc tiếp. Hay tiếp tục cho học sinh thi tìm tiếng, từ có vần
âm, vần mới học, các em rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi nổi nhiệt tình.
Khuyến khích các còn yếu nêu tiếng, từ và chỉ ra âm, vần đã học có trong tiếng

từ đó. Đến khi học sinh viết vào bảng con, tôi cũng không đọc cho học sinh viết
những tiếng và từ đã có sẵn trong bài mà cho các em viết từ tìm được vào bảng.
Để củng cố và khắc sâu kiến thức về âm, vần cho học sinh, hàng ngày tôi
thường cho các em đọc ở bảng âm vần, nhất là học sinh yếu cho đọc nhiều lần
không theo thứ tự, để giúp các em nhớ một cách chắc chắn. Ngoài bảng âm, vần
trang trí tại góc học tập tôi còn in cho các em yếu một bảng để học ở nhà.
Trong số các âm, vần đã học, học sinh trong lớp chưa được học do vắng học
hoặc chưa nắm chắc thì mới ôn âm vần đó. Điều này yêu cầu tôi phải thường
xuyên theo dõi sát từng đối tượng học sinh, để xác định âm vần nào cần ôn chứ
không ôn tập tràn lan.
Ví dụ 1: Khi dạy âm t - th: Lớp tôi có em : Minh, Hà Giang, Nhung chưa
thuộc âm th, hôm sau học bài âm u - ư có tiếng thư, thu, thứ, tôi gọi các em đó
9/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

đánh vần lại tiếng “thư”, tiếng “thu” trong từ “cá thu”, tiếng ‘thứ” trong từ “thứ
tự” để học sinh nắm được âm th.
Ví dụ 2: Khi dạy bài âm ph - nh: em Hoàng Hà Linh, Thu Phương chưa
thuộc âm nh, cho các em đó đánh vần lại ở bài học sau, tiếng “nhà” trong từ
“nhà ga”, tiếng “nhớ” trong từ “ghi nhớ” để học sinh nắm vững âm nh.
5. Dạy phần tập đọc: Đây là giai đoạn sau học chữ
- Sau khi học sinh hoàn thành xong chương trình phần học vần các em sẽ
chuyển sang phần tập đọc.
- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh đặc biệt là học sinh trung
bình, yếu. Học sinh khá- giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần khi
chuyển sang phần tập đọc các em chỉ nhìn vào bài là đọc được ngay tiếng, từ
hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn đối với học sinh trung bình,
yếu các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên việc ghép tiếng

cũng rất chậm, từ việc ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó
khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức
kiên nhẫn, dành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến
khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại
dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo viên nên
hướng dẫn cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong
đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc
trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
VD 1: Dạy bài tập đọc Đầm sen ( SGK- 91- Tiếng Việt 1/ tập 2)
* Bước 1: Hướng dẫn học sinh luyện đọc tiếng, từ:
- Giáo viên cho học sinh tìm tiếng, từ khó trong bài:( thanh khiết,ngan
ngát,xanh thẫm…..)
- Giáo viên: Từ thanh khiết được tạo thành từ mấy tiếng? Là những tiếng
nào? Nêu vị trí?
- Học sinh: Từ thanh khiết được tạo thành từ 2 tiếng: tiếng thanh đứng
trước, tiếng khiết đứng sau.
Giáo viên: Khi đánh vần từ thanh khiết ta cần chú ý những gì?
Học sinh: Tiếng đứng trước đánh vần trước, tiếng đứng sau đánh vần
sau.
Giáo viên: Vậy đánh vần từ thanh khiết thế nào?
Học sinh: thờ - anh - thanh , khờ - iết - khiết - sắc - khiết
Giáo viên: Đọc trơn tiếng này thế nào?
Học sinh: thanh khiết
10/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

Sau đó cho học sinh luyện đọc từ khó theo các hình thức: cá nhân, bàn,
nhóm

* Bước 2: Hướng dẫn học sinh luyện đọc câu.
- Giáo viên cho học sinh tìm hiểu số câu trong bài đọc.
- Giáo viên cho học sinh đọc nối tiếp từng câu.( nên tạo điều kiện cho tất
cả học sinh đều được đọc)
- Trong khi học sinh đọc nối tiếp, giáo viên cần theo dõi hướng dẫn sửa lỗi
phát âm cho học sinh ngay.
* Bước 3: Hướng dẫn học sinh đọc đoạn bài.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh chia bài đọc thành 3 đoạn.( sau mỗi dấu
chấm xuống dòng là 1 đoạn)
- Giáo viên gọi các nhóm, mỗi nhóm 3 học sinh lên đọc nối tiếp từng
đoạn.
- Giáo viên theo dõi sửa sai cho học sinh.
- Giáo viên gọi 2, 3 học sinh lên đọc toàn bài.
- Giáo viên nhận xét, sửa lỗi cho học sinh.
- Giáo viên cho học sinh đọc đồng thanh toàn bài.
VD 2: Bài tập đọc: Bàn tay mẹ tôi chú ý hướng dẫn cách đọc ngắt, nghỉ
hơi và dòng ký hiệu/ sau dấu phẩy.// sau dấu chấm câu. Cụ thể như sau:
Hằng ngày,/ đôi bàn tay của mẹ,/ phải làm biết bao nhiêu là việc.//
Hoặc nghỉ hơi sau mỗi dòng thơ.
VD 3:
Cái bống là cái bống bang.//
Khéo sảy,/ khéo sàng cho mẹ nấu cơm.//
Nhờ sự uốn nắn tỉ mỉ với từng đối tượng học sinh trong lớp qua phần rèn
đọc nên kết quả rèn đọc ở lớp tôi tăng lên rõ rệt. Các em đọc đúng ngữ điệu của
bài văn, bài thơ, giọng đọc to rõ ràng, lưu loát . Tiết học đạt hiệu quả cao.
6. Uốn nắn học sinh tư thế và cách đọc
Học sinh: Cần chú ý tư thế ngồi học, biết các cách cầm sách đọc đúng tư
thế, đọc trơn tiếng, đọc liền từ, đọc cụm từ và câu, tập ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ,
biết đọc nối các từ , câu, đọc diễn cảm các đoạn văn các khổ thơ, ý thức tự giác
tự rèn đọc, viết bài ở nhà và thường xuyên ôn bài trong 15 phút đầu giờ.

Giáo viên: Phải chuẩn bị cài chữ mẫu trước khi lên lớp. Để có bài giảng tốt,
luôn sưu tầm tài liệu, sách tham khảo về cách rèn phát âm cho học sinh, rèn đọc
cho học sinh và phải làm thường xuyên, liên tục trong mọi tiết học. Và cần phải
nâng cao yêu cầu lên từng bài, từng giai đoạn để học sinh tiến bộ.
Việc rèn cho học sinh yếu môn Học vần không chỉ tập trung ở những giờ
Học vần trên lớp mà phải thường xuyên đọc bài ở nhà, đặc biệt là phải chuẩn bị
11/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

thật tốt bài cũ và bài mới trước khi đến lớp. Thế nhưng, đối với học sinh lớp Một
nề nếp tự học của các em ở nhà còn hạn chế, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, giúp đơ
và hướng dẫn thường xuyên của phụ huynh. Ngoài ra, phương pháp giảng dạy
và học tập ở phần Học vần lại có điểm mới. Vì vậy, cần thống nhất cách giảng
dạy giữa nhà trường và gia đình tạo điều kiện giúp các em học tốt, cụ thể là cách
đánh vần, cách đọc bài trong sách cũng như yêu cầu cần đạt của học sinh qua
từng bài học. Hướng dẫn học sinh đọc, viết ngay các âm, vần vừa học trong
ngày, đồng thời hướng dẫn các em chuẩn bị bài mới thật chu đáo.
Để nâng cao chất lượng học môn Học vần ở lớp 1 sử dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học, chú trọng phương pháp trực quan. Cho học sinh ghi nhận
âm, vần bằng con chữ qua hình ảnh trực quan. Có như vậy mới duy trì được sự
chú ý của học sinh, khai thác từ vốn hiểu biết sẵn có của các em thành kiến thức.
Cho nên đồ dùng trực quan phải khoa học, phù hợp nội dung và thực tế, khai
thác đúng lúc, đúng chỗ.
Giáo dục học sinh lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói
quen làm việc với sách cho học sinh. Mỗi tuần đọc cho các em nghe một câu
chuyện. Khuyến khích các em đọc sách tại góc thư viện lớp, thư viện trường
cũng giúp các em tăng vốn từ Tiếng việt.
Trong giờ học tôi thường quan tâm uốn nắn, giúp đơ và sửa chữa cho học

sinh khi “rèn đọc” kịp thời, học sinh đọc to, rõ ràng, lưu loát, đảm bảo tốc độ, tôi
cho cả lớp khen bằng những tràng pháo tay và những lời động viên, khích lệ kịp
thời. Đối với những học sinh đọc nhỏ, đọc ngọng, còn sai sót, nhầm lẫn it tôi
thường uốn nắn, sửa chữa luôn tại chỗ cho các em đọc lại. Bằng những lời nói
nhẹ nhàng, ân cần học sinh đã tự sửa chữa được về những lỗi mắc phải ở phần
luyện đọc của mình ngay tại lớp, về nhà tự đọc lại từ đó giúp các em cố gắng
hơn, học tốt môn tập đọc nói riêng và các môn học khác nói chung vì học sinh
lớp 1 có đọc thông thì mới viết thạo và mới hiểu được yêu cầu kiến thức của các
môn học khác.
7. Khen thưởng, động viên
Biện pháp động viên khen thưởng, động viên cũng là một phương pháp có
tác động không nhỏ đến tâm lí của học sinh. Trong học tập nếu các em nhận
được sự động viên an ủi của giáo viên sẽ giúp cho các em có ý thức phấn đấu
hơn trong học tập.
Vì vậy trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, rụt rè… để gọi
các em đọc bài thường xuyên. Đối với học sinh giỏi – khá tôi thường khích lệ,
khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối với học sinh trung bình – yếu tôi
nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Bài sau con cố gắng đọc tốt hơn ” , “ Cố lên con sẽ
12/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

đọc tôt hơn ”Trong quá trình học những em có ý thức tích cực hay những em có
biểu hiện tiến bộ tôi thường động viên, khích lệ, khen thưởng các em bằng
những lời khen và những tràng pháo tay.
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
1. Bảng số liệu khảo sát
* Bảng số liệu trước khi thực hiện đề tài.
Đọc được

Chưa đọc
Lớp
29 chữ cái
được 29 chữ cái
Sĩ số
1A
SL
%
SL
%
21
10
47,6
11
52,4
Để có đánh giá sự tiến bộ của các em học sinh lớp 1A dựa vào kết quả học
tập hàng ngày, bài kiểm tra môn Tiếng Việt tại các thời điểm cuối kì 1 và cuối kì
2 năm học 2016 - 2017. Kết quả như sau:
* Bảng số liệu sau khi thực hiện đề tài.
S Đọc to, rõ
Đọc diễn
Đọc
Đọc ngọng
Lớp Sĩ
ràng
cảm
chậm
số
SL
%

SL
%
SL %
SL
%

1A

21

16

76,2

3

19,0

1

4,8

0

0

- Phân tích số liệu :
Nhìn vào bảng số liệu kết quả trước khi thực hiện đề tài và sau khi
thực hiện đề tài tôi thấy các em có nhiều tiến bộ, cụ thể như sau:
+ Số lượng học sinh đọc sai không còn nữa.

+ Số lượng học sinh đọc chậm và đọc ngọng đã giảm đi rõ rệt.
+ Số lượng học sinh đọc to, rõ ràng và đọc diễn cảm đã tăng nhiều.
2. Những kết quả đạt được
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi nhận thấy về kỹ năng đọc của
học sinh đã tốt hơn hẳn, cụ thể :
- Học sinh đều đọc đúng, lưu loát, biết đọc diễn cảm.
- Không còn học sinh đọc ngọng về dấu, vần, âm như đầu năm học.
- Học sinh có tư thế cách cầm sách để đọc đúng theo quy định.
- Học sinh có hứng thú học tập đọc.
13/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

Đây là một kết quả đáng mừng, nó đã nói lên sự nỗ lực của cả giáo viên và
học sinh lớp 1A trong suốt quá trình rèn luyện.
3. Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình dạy học kỹ năng đọc của cho học sinh là kỹ năng vô cùng
quan trọng. Ở đó kỹ năng đọc không chỉ là đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu,
đoạn, bài …Khi đọc yêu cầu học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy, dấu chấm,
đọc còn yêu cầu các em phát âm chuẩn, chính xác các con chữ… để khi viết các
em sẽ viết đúng, không nhầm lẫn dẫn đến sai lỗi chính tả.
Vì vậy để phân môn tập đọc của học sinh lớp 1 có kết quả cao thì trong
từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho
học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Trong quá trình giảng dạy
giáo viên cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp với nội dung từng bài, vận
dụng việc đổi mới các phương pháp trong giảng dạy: lấy học sinh làm trung tâm,
phải tạo cho học sinh tính chủ động, sáng tạo, ham học, thích đọc bài, ham mê
đọc sách. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu vì vậy
giáo viên nên thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học. Ứng dụng công nghệ

thông tin trong việc giới thiệu tranh ảnh , trò chơi để học sinh hào hứng học tập .
Giáo viên chủ nhiêm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm lý của học sinh, phải
yêu thương học sinh như con đẻ của mình, nắm được mặt mạnh, mặt yếu của
học sinh để có biện pháp bồi dương, luyện tập cần thiết cho học sinh. Trong dạy
học giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các
em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Khi đọc
mẫu giáo viên nên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong
cách đọc tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh.
Tôi luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến bộ, sau 1 năm
học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. Để đạt được
mục đích này ngay từ đầu năm học tôi đã lập kế hoạch cho mình, quyết tâm giữ
vững tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với
các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, nhận xét sửa sai cho ngay khi
học sinh mắc lỗi, tập, hình thành cho các em những thói quen tốt: đọc đúng,
nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó vv… để tập cho các em nề nếp tốt trong
học tập ở hôm nay và mai sau.

14/16


---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Tóm lại, ở tất cả các trường hợp học sinh yếu đọc, viết thì sự quan tâm của
giáo viên đến từng học sinh và phương pháp giảng dạy sát đối tượng, kịp thời
khích lệ động viên, đáp ứng đúng những điều các em còn thiếu về kiến thức.
Trong quá trình giảng dạy, thực hiện các biện pháp trên, tôi nhận thấy rằng để
đạt hiệu quả cao, phải trải qua một quá trình luyện tập thường xuyên và lâu dài.
Ở trường Tiểu học, việc rèn đọc, viết cho học sinh phải được coi trọng ngay từ

lớp 1 để làm nền tảng cho các lớp sau. Muốn giúp học sinh học tốt thì nhà
trường và gia đình cần chuẩn bị những điều kiện thuận lợi ban đầu về cơ sở vật
chất để giúp các em được thoải mái khi học tập, đồng thời giáo viên cần phải kết
hợp và sử dụng các phương pháp một cách linh hoạt, có sự sáng tạo trong giảng
dạy và một điều kiện không thể thiếu với mỗi giáo viên đó là sự kiên trì, tính cẩn
thận và lòng yêu nghề mến trẻ.
2. Các đề xuất - khuyến nghị
Để cuối năm xóa hết được số học sinh đọc yếu tôi có một số khuyến nghị
như sau :
* Về phía nhà trường: cần tổ chức phụ đạo riêng số học sinh yếu đọc
ngay từ đầu năm học.Trang bị thêm tranh ảnh phục vụ dạy học môn Tiếng Việt.
* Về phía giáo viên: phải thực sự quan tâm yêu thương gần gũi và tạo
không khí vui để học giúp các em học yếu yêu thích môn học .Vận dụng linh
hoạt các hình thức , phương pháp dạy học tích cực để các em có cơ hội phát
triển kiến thức của mình.tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào trong
giảng dạy để tiết học có hiệu quả tốt .Cần tăng cường rèn kĩ năng sống cho học
sinh thông qua các hoạt động luyện nói .
* Về phía phụ huynh: cần quan tâm đến việc học của con em, ngay từ lớp
mầm non cần cho các em đi học đúng độ tuổi và chuyên cần. Lên lớp Một cần
chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập, sách vở để các em có điều kiện học tốt.Tạo
mọi điều kiện để con em đi học chuyên cần, thường xuyên trao đổi với giáo viên
chủ nhiệm để nắm bắt tình hình học tập của con em mình.
* Về phía học sinh: phải đi học chuyên cần , thực hiện tốt các yêu cầu của
cô giáo .
Trên đây là một số khuyến nghị của bản thân tôi. Rất mong các cấp lãnh
đạo quan tâm giúp đơ tạo điều kiện để giáo viên và học sinh lớp Một dạy và học
được tốt hơn.

15/16



---------------Tên đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.-------------

VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Phương pháp dạy môn Tiếng Việt lớp 1.
- Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học.
- Sách Tiếng Việt 1, tập một.
- Sách giáo viên Tiếng Việt 1, tập một.
- Sách Tiếng Việt 1, tập hai.
- Sách giáo viên Tiếng Việt 1, tập hai.
- Tài liệu tham khảo khác để dạy tốt môn Tiêng Việt.

Xin chân thành cảm ơn !

16/16



×