Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.42 KB, 65 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH NEU

1, Khấu hao vừa là chi phí vừa là chi của doanh nghiệp
1*, VAT vừa là doanh thu vừa là chi phí của DN
2, Doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho càng cao thì càng tốt
3, Trong đầu tư rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn( đây phải là lợi nhuận kì vọng thì
mới đúng)
4, Vai trò duy nhất của lợi nhuận giữ lại là để tiền tái đầu tư, mở rộng sản xuất
(CHƯA CÓ ĐÁP ÁN)
5, Đối với DN, càng hạn chế rủi ro, lợi nhuận càng giảm”. Phân tích những điều kiện
để hạn chế rủi ro của doanh nghiệp ?
6, Bình luận “phát hành cổ phiếu luôn là giải pháp tối ưu để huy động vốn”
8, Một doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ cao chắc chắn sẽ đảm bảo chi trả tốt
10, Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, tỷ trọng nợ càng lớn thì ROE càng lớn”
9, Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính quan trọng nhất
11, Mục tiêu cuối cùng của DN là tối đa hóa lợi nhuận
12, Một DN có lợi nhuận cao vẫn có thể bị phá sản
1


13, NH cho DN vay khi DN có tình hình tài chính tốt
13* Câu hỏi: nêu ưu nhược điểm của IRR và NPV
7. Có ý kiến cho rằng, chi phí vốn chủ sở hữu luôn thấp hơn chi phí nợ vay. Bình luận ý
kiến trên? Tại sao các doanh nghiệp niêm yết của Việt Nam lại ưa thích phát hành cổ
phiếu hơn là phát hành trái phiếu để tăng vốn?
8. Một doanh nghiệp sử dụng càng nhiều nợ thì càng có lợi? Hãy bình luận ý kiến trên
và liên hệ tình hình thực tế ở Việt Nam hiện nay?

2



TRẢ LỜI:
1, Khấu hao vừa là chi phí vừa là chi của doanh nghiệp
Khấu hao là việc định giá, tính toán, phân bổ một cách có hệ thống giá trị của tài sản do
sự hao mòn tài sản sau một khoảng thời gian sử dụng. Khấu hao tài sản cố định được
tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong suốt thời gian sử dụng tài sản cố định. Khấu
hao tài sản cố định liên quan đến việc hao mòn tài sản, đó là sự giảm dần về giá trị và
giá trị sử dụng do tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, do hao mòn tự nhiên
hoặc do tiến bộ khoa học công nghệ.
Khấu hao là chi phí số tiền đã thực chi bỏ ra lúc mua tài sản cố định nếu đưa hết giá trị
vào chi phí tại thời điểm đó thì nó ko phản ảnh hết được bản chất ý nghĩa của giá trị sử
dụng của tài sản vì tài sản nó có tuổi sử dụng và vòng đời của nó sẽ được trích khấu hao
phân bổ dần giá trị TSCD vào sản phẩm để tính chi phí giá thành , hoặc chi phí kinh
doanh mà không thực sự là chi ra một khoản tiền để chi trả và khoản chi phí này không
hiện hữu bằng tiền mặt thực chi nên ko thể gọi là xuất quỹ được. và nó được phân bổ
cho đến hết vòng đời của tài sản khi ko còn sử dụng được nữa thì giá trị khấu hao hay
vòng đời của nó sẽ kết thúc chi phí trên sẽ ko được đưa vào chi phí hợp lý để giảm 25%
thuế TNDN nữa
1*, VAT vừa là doanh thu vừa là chi phí của DN
VAT là thuế gián thu. Người đóng thuế và người nộp thuế không cùng là một và đây là
loại thuế chỉ đánh vào người tiêu dùng cuối nên nó là chi phí của doanh nghiệp khi
doanh nghiệp là người tiêu dùng cuối cùng. Còn khi doanh nghiệp không phải là người
tiêu dùng cuối cùng thì VATcpn = VAT thu hộ - VAT nộp hộ. Khi VATcpn > 0 theo luật
tthì doanh nghiêp phải nộp vào quý sau nhưng trong thực tế doanh nghiệp có thể chiếm
dụng số VAT đó để đi đầu tư thu lợi nhuận nên đó là doanh thu của doanh nghiệp. Khi
VATcpn < 0 thì đó là chi phí của doanh nghiệp. Vì vậy phải căn cứ vào từng trường hợp
cụ thể mới có thể kết luận chính xác được.
3


2,Doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho càng cao thì càng tốt


Hệ số vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các năm để đánh giá năng lực
quản trị hàng tồn kho là tốt hay xấu qua từng năm. Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay
vòng của hàng hóa trong kho là nhanh và ngược lại, nếu hệ số này nhỏ thì tốc độ quay
vòng hàng tồn kho thấp. Cần lưu ý, hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành nghề kinh
doanh nên không phải cứ mức tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu.
Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng nhanh và
hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Có nghĩa là doanh nghiệp sẽ ít rủi ro hơn nếu
khoản mục hàng tồn kho trong báo cáo tài chính có giá trị giảm qua các năm.
Tuy nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là lượng hàng dự trữ
trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì rất có khả năng doanh
nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần. Hơn nữa, dự trữ
nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không đủ có thể khiến dây chuyền
sản xuất bị ngưng trệ. Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để đảm bảo
mức độ sản xuất và đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
3, Trong đầu tư rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn( đây phải là lợi nhuận kì
vọng thì mới đúng)
Lợi nhuận thực tế phàn ánh kết quả hoạt động kinh doanh đã thực hiện,trong khi đó,lợi
nhuận kỳ vọng cho biết mong đợi của nhà đầu tư về lợi nhuận trong tương lai.

4


Rủi ro là một xác suất, một khả năng xảy ra tổn thất đối với nhà đầu tư hay doanh
nghiệp. Khi xảy ra,các tổn thất này sẽ làm cho lợi nhuận thực tế khác xa so với lợi
nhuận kỳ vọng
DN có thể lựa chọn những phương án đầu tư, sản xuất, kinh doanh khác nhau tùy thuộc
mức độ rủi ro mà họ chấp nhận và lợi nhuận kỳ vọng mà họ mong muốn.Khi bỏ tiền
vào những dự án có mức độ rủi ro cao,họ hy vọng dự án đó đem lại lợi nhuận kỳ vọng
cao.

Nhưng chấp nhận rủi ro cao hoàn toàn không đảm bảo rằng sẽ có được lợi nhuận thực tế
trong tương lai cao. Chấp nhận rủi ro cao là điều kiện cần, chứ hoàn toàn không phải
điều kiện đủ để có được lợi nhuận thực tế cao. Lợi nhuận thực tế cao hay thấp còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.
Do đó phải phát biểu là đối với Dn,rủi ro càng cao thì lợi nhuận kì vọng sẽ cao
4, Vai trò duy nhất của lợi nhuận giữ lại là để tiền tái đầu tư, mở rộng sản xuất
5, Đối với DN, càng hạn chế rủi ro, lợi nhuận càng giảm”. Phân tích những điều
kiện để hạn chế rủi ro của doanh nghiệp ?
Rủi ro chỉ phát sinh khi có sự không chắc chắn về mất mát xảy ra. Điều này có nghĩa là
nếu xác suất mất mát là 0 hoặc 1 thì không có rủi ro hay tóm lại rủi ro là nguy cơ xảy ra
tổn thất. Vậy việc doanh nghiệp hạn chế rủi ro không có nghĩa là doanh nghiệp hạn chế
lợi nhuận của mình, mà hạn chế rủi cũng chính là việc doanh nghiệp hạn chế những tổn
thất cho doanh nghiệp mình.
Ví dụ: Một ngân hàng cho vay nợ, và khi ngân hàng cho vay một khoản tiền càng lớn
với khoảng thời gian càng dài thì ngân hàng sẽ được hưởng lãi suất càng cao. Tuy nhiên
việc ngân hàng cho vay khoản tiền lớn với thời gian dài cũng đồng nghĩa với việc ngân
hàng đang mạo hiểm chấp nhận rủi ro, đó là khả năng không đòi được nợ. Vậy việc
ngân hàng đưa ra các điều kiện tín dụng như vật bảo đảm, thế chấp hay cân nhắc tình
5


hình tc của đối tượng cho vay cũng nhằm mục đích hạn chế những khả năng không đòi
được nợ. Chúng ta hãy thử hình dung: nếu ngân hàng không có các biện pháp phòng
ngừa rủi ro thì điều gì sẽ xảy ra, nguy cơ tổn thất cho các khoản cho vay của ngân hàng
càng lớn...→” càng hạn chể rủi ro thì lợi nhuận kỳ vọng càng giảm”
Những điều kiện hạn chế RR


RR kinh doanh: (xuất phát từ tình trạng hoạt động của công ty, có thể sẽ bị sút giảm
lợi nhuận và cổ tức.) xây dựng kế hoạch kinh doanh chi tiết, cụ thể, đa dạng hóa danh

mục dự án đầu tư, trích lập các Quỹ dự phòng (Dự phòng giảm giá HTK, Dự phòng Nợ
phải thu khó đòi…)



RR thanh toán: có kế hoạch xác định cơ cấu vốn tối ưu, sử dụng Nợ + VCSH hợp lý,
cũng như hợp lý hóa các khoản phải thu, đảm bảo dự trự tiền mặt để DN đủ khả năng
thanh toán



RR thị trường: (xảy ra khi hàng hóa, dịch vụ không đạt được ưa chuộng như dự kiến):
Điều tra thị trường cẩn trọng, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ



RR đạo đức: Có chế độ đãi ngộ hợp lý với nhân viên, cán bộ, chế độ chia trả cổ tức
hợp lý, quy định rõ ràng về quyền hạn và nghĩa vụ của cá nhân khi tham gia vào DN
6, Bình luận “phát hành cổ phiếu luôn là giải pháp tối ưu để huy động vốn”
(trình bày ưu, nhược điểm của phát hành cổ phiếu)
Ngoài những ưu điểm của Cp: Dn có thể huy động vốn mà ko phải bắt buộc trả lãi suất
nhất định, tùy vào tình hình kinh doanh và chính sách của DN mà có phương án chia cổ
tức hợp lý
Thì Nhược điểm của hình thức này là



nếu huy động vốn qua TTCK liên tục thì EPS (earning per share) sẽ ngày càng bị chia
nhỏ, do đó áp lực trả cổ tức hợp lý trên 1 cổ phiếu là rất lớn. Nếu ko hợp lý cổ đông sẽ
ko tin tưởng vào khả năng của DN và bán tháo CP đó, làm cho mất tính thanh khoản và

các lần sau sẽ rất khó để huy động vốn.

6




Một nhược điểm khác khi huy động vốn bẳng cách phát hành cổ phiếu là DN phải thực
hiện những điều kiện nhất định như phải công khai tài chính, làm ảnh hưởng đến các
chiến lược kinh doanh khi đối thủ nắm giữ được điều này.



Ngoài ra nếu so sánh với các hình thức phát hành trái phiếu, thì chi phí vốn chủ sở hữu
lớn hơn chi phí vốn nợ. Vì chi phí này là chi phí sau thuế, tức là phần lãi cổ phần trả
cho cô đông là khoản lợi nhuận sau thuế. Nếu sử dụng hình thức phát hành trái phiếu,
DN sẽ tiết kiệm được 1 khoản thuế. Do thứ tự ưu tiên thanh toán nên phần lãi vay trả
cho trái chủ sẽ được thực hiện trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Do những nhược điểm trên của việc phát hành cổ phiếu nên cổ phiếu ko phải luôn là
giải pháp tối ưu để huy động vốn. Tùy từng điều kiện KTXH, điều kiện của Dn, chiến
lược phát triển kinh doanh mà DN lựa chọn cho mình giải pháp tối ưu để huy động
vốn.
8, Một doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ cao chắc chắn sẽ đảm bảo chi trả tốt
Một doanh nghiệp có mức lợi nhuận trong kỳ cao thì chưa chắc doanh nghiệp luôn có
khả năng thanh toán tốt trong kì đó vì khả năng thanh toán của một doanh nghiệp phụ
thuộc vào dòng tiền mặt của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận nhiều dưới dạng tài sản cố
định hoặc các dạng tài sản không thể chuyển hóa thành tiền mặt thì khả năng thanh toán
sẽ không tốt
Lợi nhuận= Tổng doanh thu- Tổng chi phí
Doanh thu là tổng giá trị bằng tiền của hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ. Quá trình

tiêu thụ hàng hoá dịch vụ của DN đc coi là hoàn thành khi DN đc chấp nhận trả tiền của
bên mua hàng.
Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí lao động vật hoá và lao động
sống cần thiết mà DN đã phải bỏ ra để thực hiện sán xuất kinh doanh.
Doanh thu đc xác nhận khi DN đc chấp nhận trả tiền mà chưa biết phương án trả tiền
của khách hàng là tiền mặt, thanh toán qua ngân hàng hay sẽ trở thành khoản phải thu
7


đối với DN, nó quyết định đến dòng tiền nhập quỹ của DN, ảnh hưởng khả năng thanh
toán của DN. Một khi số tiền bán hàng của DN bị khách hàng chiếm dụng chưa đến
thời đ’ thanh toán mà DN cấn xuất 1 khoản tiền để chi trả chi phí phát sinh ngoài dự
tính của DN, làm cho DN mất khả năng thanh toán, nếu số tiền là lớn hoàn toàn có thể
làm DN phá sản. Đặc biệt đvs các ngân hàng, nhu cầu chi trả hàng ngày là rất lớn, do
vậy hệ thống ngân hàng cần đảm bảo đc nhu cầu tiền mặt đẻ đáp ứng nhu cầu rút tiền
của các đối tượng không kì hạn. ngân hàng hầu hết đều làm ăn có lãi trên sổ sách tuy
nhiên vẫn có thể phá sản kho không thể đáp ứng nhu cầu rút tiền hàng loạt của khách
hàng nhất lá khi có thông tin không tốt đối với ngân hàng
Chi phí chỉ phản ánh được lượng mà dn phải bỏ ra để thực hiện các hđ kinh doanh tròn
thời kì nhất định nó không thể phản ánh chính xác dòng tiền mà dn phải chi trả trong
kì . chi trả trong kì bao gồm chi trả tiền vật tư trong kì , chi trả nợ đén hạn ,trả trước để
có thể mua hàng kì sau… như vậy khoản chi lớn hơn rất nhiều chi phí của dn, làm giảm
lượng tiền mặt trong dn, làm giảm khả năng tự chủ của dn
Kết quả của 1 bên là thu thì quá ít và chi thì quá lớn làm thâm hụt ngân quỹ. Có trường
hợp dn có lợi nhuận cao nhưng ngân quỹ lại không thể đáp ứng nhu cầu chi trả của dn.
10, Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, tỷ trọng nợ càng lớn thì ROE càng lớn”
Sai. Xét ví dụ sau:
Chỉ tiêu

Doanh nghiệp A

Doanh nghiệp B
Nền kinh tế Nền kinh tế Nền kinh tế Nền kinh tế

ổn định
Nợ dài hạn / 100tr

suy thoái
/ 100tr / 100tr

ổn định
150tr / 50tr

suy thoái
150tr / 50tr

VCSH
100tr
EBIT
30 tr
Lãi vay (lãi suất 12 tr

20 tr
12 tr

30 tr
18 tr

20 tr
18 tr


12%)
LNTT
18 tr
LNST(thuế suất 13,5 tr

8 tr
6 tr

12 tr
9 tr

2 tr
1,5 tr
8


thuế TNDN =
25%)
ROA = EBIT/TS 15%
ROE
= 13,5%

10%
6%

15%
18%

10%
3%


LNST/VCSH
Nhìn vào ví dụ trên, dễ dàng nhận thấy không phải lúc nào dùng nhiều nợ cũng tốt,
công ty B là công ty tích cực sử dụng nợ, trong điều kiện nền kinh tế ổn định, Công ty B
có ROE cao hơn, nhưng trong trường hợp nền kinh tế suy thoái, công ty B lại có ROE
thấp hơn. (Các bạn tự bịa cho phần phân tích này nó dài hơn một chút nhé ).Một trong
những ưu điểm lớn nhất của việc dùng nợ thay cho vốn chủ sỡ hữu đó là lãi suất mà
doanh nghiệp phải trả trên nợ được miễn thuế. Tong khi đó thì cổ tức hay các hình thức
thưởng khác cho chủ sỡ hữu phải bị đánh thuế. Trên nguyên tắc mà nói, nếu chúng ta
thay vốn chủ sở hữu bằng nợ thì sẽ giảm được thuế doanh nghiệp phải trả, và vì thế tăng
giá trị của doanh nghiệp lên Tuy vậy doanh nghiệp không thể tăng nợ lên mức quá cao
so với chủ sỡ hữu. Khi đó công ty sẽ rơi vào tình trạng tài chánh không lành mạnh, và
dẫn đến những rủi ro
Đối với một công ty được kỳ vọng làm ăn tốt thì tài trợ nợ có thể được sử dụng thường
xuyên với mức chi phí thấp hơn so với tài trợ bằng vốn cổ phần. Tuy nhiên, nếu giai
đoạn nào công ty không thể vận hành tốt để tạo ra tiền lượng tiền mặt đủ lớn, thì chi phí
lãi vay lúc này có thể là một gánh nặng. Đây chính là mặt trái của việc tài trợ hoạt động
doanh nghiệp bằng nợ.
Dễ thấy, các doanh nghiệp không bao giờ có thể chắc chắn 100% về lượng thu nhập
trong tương lai (mặc dù họ có thể có những dự đoán hợp lý) và khi thu nhập tương lai
của các doanh nghiệp càng không ổn định thì rủi ro càng tăng lên. Do đó, các doanh
nghiệp trong ngành có rủi ro kinh doanh thấp, có dòng tiền ổn định thường sử dụng nợ
nhiều hơn là các doanh nghiệp trong các ngành nhiều rủi ro hơn. Các doanh nghiệp nhỏ
hoặc mới bắt đầu hoạt động, đang trong giai đoạn khởi nghiệp cũng sử dụng nợ rất ít,
9


nếu không muốn nói là không có sử dụng nợ. Các doanh nghiệp mới với sự không chắc
chắn cao có thể phải trải qua một thời gian đầy khó khăn để tìm được tài trợ bằng nợ
vay, nên thường thì các hoạt động của chúng hầu hết được tài trợ bằng vốn cổ phần.

9, Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính quan trọng nhất
Báo cáo tài chính là một hệ thống các số liệu và phân tích cho ta biết tình hình tài sản và
nguồn vốn, luồng tiền và hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Báo cáo tài
chính có 4 loại: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính. Mỗi loại báo cáo tài chính có 1 vai trò riêng
hỗ trợ nhau trong quá trình phân tích tài chính do vậy không thể nói BCKQKD là quan
trọng nhất vì
_ BCKQKD cho biết thu nhập, chi phí phát sinh để tính kết quả lãi, lỗ trong 1 kỳ kinh
doanh nhưng lại không phản ánh luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài
trợ, đầu tư bằng tiền của DN trogn từng thời kỳ mà BCLCTT phản ánh cho nên ko dự
đoán được dòng tiền trong tương lai, khả năng thanh toán nợ vay, khả ăng trả lãi cổ
phần bằng tiền và những biến động liên quan tới dòng tiền trong DN và ko phản ánh dc
khả năng thanh toán của DN tại thời điểm nhất định
_ Bảng cân đối kế toán hay còn gọi là báo cáo tình hình hay báo cáo vị thế tài
chính, cho biết tình trạng tài sản của công ty, nợ và vốn cổ đông vào một thời điểm
ấn định, thường là lúc cuối tháng. Đây là một cách để xem xét một công ty kinh
doanh dưới dạng một khối vốn (tài sản) được bố trí dựa trên nguồn của vốn đó (nợ
và vốn cổ đông) cái mà BCKQKD ko thể phản ánh. BCDKT là một ảnh chụp
(tĩnh) chứ không phải là một cuốn phim (động) và phải được phân tích dựa trên sự
so sánh với các bản cân đối kế toán trước đây và các báo cáo hoạt động khác.
11, Mục tiêu cuối cùng của DN là tối đa hóa lợi nhuận

10


Mục tiêu cuối cùng của DN phải là tối đa hóa giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Vì lợi
nhuận: Là khoản tài chính mà doanh nghiệp nhận được sau một chu kỳ hoạt động, được
xác định bằng cách lấy toàn bộ doanh thu trừ cho chi phí. Giá trị công ty là thước đo về
quy mô, về nguồn lực, về sự phát triển của một doanh nghiệp, và được xác định bởi:
nguồn lực tài chính, đội ngũ nhân viên, khả năng phát triển trong tương lai, các phát

minh, sáng chế mà họ đang nắm giữ....Vậy tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu để cho
doanh nghiệp thu về một khoản lợi nhuận cao nhất còn tối đa hóa giá trị công ty là để
công ty phát triển theo hướng tốt nhất. Để một doanh nghiệp phát triển bền vững, nâng
cao giá trị của mình thì đương nhiên mục tiêu cao nhất là lợi nhuận nhưng đó không
phải là mục tiêu duy nhất. Và vì lẽ đó, đương nhiên tối đa hóa giá trị công ty là mục tiêu
quan trọng hơn. Kinh doanh, không ai là không muốn lợi nhuận, tuy nhiên, chỉ chăm
chăm vào lợi nhuận sẽ chỉ là lối kinh doanh “mì ăn liền” và không thích hợp với xu
hướng thời đại, để có bước phát triển ổn định thật sự ta phải có chiến lược lâu dài để
nâng cao giá trị doanh nghiệp. Nếu chỉ thiêng về lợi nhuận, và dựa theo lí thuyết tạo
doanh thu cao nhất với mức chi phí nhỏ nhất. Đúng là ở hiện tại, doanh nghiệp đó sẽ thu
về khoản lợi cao nhất đó, nhưng ở tương lai thì sao? Hãy nhìn vào bài học của Toyota,
công ty cũng cố gắng đẩy mạnh doanh thu, và khi doanh số toàn cầu tăng thì chất lượng
đã ko theo kịp, tại thị trường Mỹ, Trung Quốc và châu Âu, tổng số xe Toyota bị thu hồi
xấp xỉ 8 triệu chiếc vì sự cố kĩ thuật ở ga và phanh. Thương hiệu về chất lượng của
Toyota như đứng trước nguy cơ sụp đổ. Rõ ràng trước đó doanh thu của Toyota đã tăng
rất mạnh đấy thôi, nhưng do sự tăng ồ ạt này đã làm cho công ty không quản lý nỗi chất
lượng và dẫn đến sự khủng hoảng kể trên.Rõ ràng từ những thực tế trên, mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận nếu không được xem xét cẩn thận, đi kèm cùng những mục tiêu khác rất
có thể sẽ đẩy tình hình doanh nghiệp vào tình trạng tồi tệ. Để đem đến sự phát triển,
chúng ta cần tối đa hóa giá trị công ty chứ không phải là lợi nhuận. Nghĩa là phải có
những biện pháp phát triển theo hướng lâu dài, lợi nhuận là quan trọng nhưng không là
tất cả. lợi nhuận là quan trong, rất quan trọng, bởi tình hình tài chính mà không ổn định
thi doanh nghiệp không thể vận hành trơn tru guồng máy của mình nhưng để guồng
11


máy đó hoạt động lâu dài thì lợi nhuận không phải là tất cả. Các hoạt động vạch ra cần
phải đặt sự phát triển dài lâu lên hàng đâu chứ không phải là lợi nhuận.
12, Một DN có lợi nhuận cao vẫn có thể bị phá sản
-DN lâm vào tình trạng phá sản là DN không có khả năng thanh toán được các

khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Một doanh nghiệp có mức lợi nhuận trong kỳ
cao thì chưa chắc doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán tốt trong kì đó vì khả năng
thanh toán của một doanh nghiệp phụ thuộc vào dòng tiền mặt của doanh nghiệp. Nếu
lợi nhuận nhiều dưới dạng tài sản cố định hoặc các dạng tài sản không thể chuyển hóa
thành tiền mặt thì khả năng thanh toán sẽ không tốt . Nên dù doanh nghiệp có lợi nhuận
cao thì vẫn có thể bị phá sản do tình hình tài chính ko tốt
13, NH cho DN vay khi DN có tình hình tài chính tốt
NH sẽ cho DN vay khi
Có mục đích vay vốn hợp pháp
Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết Đối với doanh nghiệp
,ngân hàng sẽ xem xét tiêu chí này thông qua báo cáo tài chính thể hiện kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp trong ít nhất 1 năm trở lạ
Có phương án, dự án kinh doanh khả thi và hiệu quả Đây là yêu cầu quan trọng đồi với
hồ sơ vay của khách hàng doanh nghiệp.Vì thông qua phương án kinh doanh ,ngân hàng
sẽ thẩm định cụ thể hơn về khả năng trả nợ của bạn sau khi dự án kết thúc.Đa số ngân
hàng sẽ yêu cầu vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án tối thiểu là 30% nhu
cầu vốn của dự án. Nếu phương án bạn đưa ra không được ngân hàng chấp nhận đồng
nghĩa với việc sẽ chẳng có khoản vay nào được kí kết
Có tài sản đảm bảo. Có lẽ đây là điều kiện tiên quyết khi ngân hàng xét cho khách hàng
vay. Trên thực tế hầu như bất kì một khoản vay nào cũng đòi hỏi phải có tài sản đảm
bảo. Thứ nhất nó giúp ngân hàng giảm thiểu được ruỉ ro khi KH không trả được nợ bởi
12


lẽ tài sản đảm bảo lúc nào cũng có giá trị hơn khoản vay rât nhiều. Thứ hai , việc thế
chấp TSĐB cho ngân hàng sẽ làm cho doanh nghiệp có trách nhiệm hơn trong nghĩa vụ
trả nợ,doanh nghiệp sẽ không ỷ lại mà phải cố gắng kinh doanh để hoàn thành nghĩa vụ
trả nợ đúng thời hạn.tuy nhiên để TSĐB được ngân hàng chấp nhận còn phải qua nhiều
bước xem xét khác nhau.


13* Câu hỏi: nêu ưu nhược điểm của IRR và NPV
IRR:
ưu điểm là dễ tính toán vì không phụ thuộc chi phí vốn, rất thuận tiện cho việc so sánh
cơ hội đầu tư vì cho biết khả năng sinh lời dưới dạng %. Ý nghĩa cốt lõi của IRR là cho
nhà đầu tư biết được chi phí sử dụng vốn cao nhất có thể chấp nhận được. Nếu vượt quá
thì kém hiệu quả sử dụng vốn.; đánh giá mức sinh lời của dự án có tính đến yếu tố giá
trị thời gian của tiền; so sánh mức sinh lời của dự án với chi phí sử dụng vốn; đánh giá
khả năngbù đắp chi phí sd vốn của dự án
Nhược điểm của IRR là không được tính toán trên cơ sở chi phí sử dụng vốn do đó sẽ
có thể dẫn tới nhận định sai về khả năng sinh lời của dự án. Nhà đầu tư sẽ không biết
được mình có bao nhiêu tiền trong tay.; không chú trọng đến quy mô vốn đầu tư
NPV:
- có tính tới hiệu quả kt của dự án, tính đến yếu tố thời gian của tiền
Cho phép đo lường trực tiếp giá trị tăng thêm do vốn đầu tư tạo ra giúp cho việc đánh
giá và lựa chon dự án phù hợp với mục tiêu tối đa hóa lơi nhuân của DN
Có thể tính được giá trị hiện tại thuần của dự án đầu tư kết hợp bằng cách cộng giá trị
hiện tại thuần của các dự án với nhau
Nhược:
13


Không phản ánh mức sinh lời của đồng vốn đầu tư
Không cho thấy mối liên hệ giữa mức sinh lời của vốn đầu tư với WACC
Không thể đưa ra các kết luân lựa chon khi các dự án không đồng nhất về mặt thời gian
cũng như xếp hạng ưu tiên khi nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bị giới hạn
PI
Đánhgiá khả năng sinh lời của dự án đầu tư có tinh tói yếu tố thời gian của tiền
Cho thấy mới quan tâm giauc các dự án có số vốn đầu tư khác nhau để thấy đươc được
mức sinh lời giũa các dự án
Trong trường hợp nguồn vốn bị giới han phương pháp này tỏ ra hữu hiêu hơn cả

Nhược:không phản ánh trực tiếp giá trị tăng thêm của dự án đầu tư nên có thể dẫn đế
những quyết định sai lầm
2. Đánh giá dự án: NPV hay IRR
Nói chung, nhìn IRR thì dễ hình dung vì số % cụ thể, nhìn NPV bằng tiền rất khó diễn
dịch. Vì vậy người ta dùng cả 2 cách để đánh giá.
Trước hết nếu xem xét hai chỉ số này trong cùng điều kiện thì tỉ suất hoàn vốn nội bộ
và giá trị hiện tại thuần đều cho cùng một kết quả. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp
thì IRR lại không hiệu quả bằng NPV trong việc tính toán và chiết khấu dòng tiền. Hạn
chế lớn nhất của IRR cũng chính là ưu điểm của nó: chỉ sử dụng một tỷ lệ chiết khấu
duy nhất để đánh giá tất cả các kế hoạch đầu tư. Mặc dù việc sử dụng một tỉ lệ chiết
khấu duy nhất giúp đơn giản hóa quy trình tính toán, nhưng trong nhiều trường hợp điều
đó lại dẫn đến những sai lệch. Nếu một tiến hành đánh giá hai dự án đầu tư, cả hai dự án
cùng sử dụng chung một tỉ lệ chiết khấu, cùng dòng tiền tương lai, cùng mức độ rủi ro,
và cùng có thời gian thực hiện ngắn, IRR là một cách đánh giá hiệu quả. Tuy nhiên bản
thân tỉ lệ chiết khấu lại là một nhân tố động, nó luôn biến đổi theo thời gian. Nếu quy
14


ước sử dụng lãi suất trái phiếu chính phủ làm lãi suất chiết khấu, lãi suất này có thể thay
đổi từ 1% đến 20% trong vòng 20 năm, từ đó làm cho tỉ lệ chiết khấu cũng biến động
theo. Nếu không có sự điều chỉnh, tức là IRR không tính đến sự thay đổi của tỉ lệ chiết
khấu, phương pháp này sẽ không phù hợp với các dự án dài hạn.
Một kiểu dự án khác mà việc áp dụng IRR sẽ không hiệu quả đó là các dự án có sự đan
xen của dòng tiền dương và dòng tiền âm. Ví dụ một dự án yêu cầu phải có kinh phí ban
đầu là -50,000USD (dòng tiền âm) trong năm đầu tiên. Dự án này sẽ tạo ra 115,000
USD (dòng tiền dương) trong năm tiếp theo, sau đó cần tiếp chi phí đầu tư -66,000USD
trong năm thứ 3 vì có sự điều chỉnh lại dự án. Như vậy thì áp dụng một tỉ lệ IRR duy
nhất là không phù hợp.
Một hạn chế nữa trong việc áp dụng IRR là phải biết được tỉ lệ chiết khấu của dự án. Để
tiến hành đánh giá dự án thông qua IRR thì ta phải so sánh nó với tỉ lệ chiết khấu. Nếu

IRR cao hơn tỉ lệ chiết khấu thì dự án là khả thi. Không biết tỉ lệ chiết khấu hoặc tỉ lệ
chiết khấu vì lý do nào đó không thể áp dụng cho dự án thì phương pháp IRR sẽ không
còn giá trị.
Để khắc phục những hạn chế của phương pháp IRR ta có thể sử dụng NPV.
Ưu điểm của việc sử dụng NPV đó là phương pháp này cho phép sử dụng các tỉ lệ chiết
khấu khác nhau mà không dẫn đến sai lệch. Đồng thời cũng không cần phải so sánh
NPV với chỉ số nào khác, nếu như NPV lớn hơn 0 có nghĩa là dự án là khả thi về mặt tài
chính.
Vậy thì tại sao IRR vẫn được sử dụng phổ biến hơn trong việc tính toán phân bổ nguồn
vốn? Có lẽ phương pháp này được ưa thích hơn chỉ vì quy trình tính toán của nó rất đơn
giản. Phương pháp IRR đơn giản hoá dự án thành một con số duy nhất từ đó nhà quản
lý có thể xác định được liệu dự án này có kinh tế, có khả năng đem lại lợi nhuận hay
không. Nhìn chung thì IRR là phương pháp đơn giản nhưng đối với các dự án dài hạn
có dòng tiền khác nhau và tỉ lệ chiết khấu khác nhau, các dự án có dòng tiền không ổn
định, thì IRR không phải là chỉ số tốt mà NPV mới chính là sự lựa chọn đúng đắn.
15


Một ví dụ minh hoạ là các dự án giao thông vận tải hoặc khai thác khoáng sản, rõ ràng
là sẽ có IRR thấp hơn các dự án trong lĩnh vực dịch vụ, chẳng hạn dự án mở một cửa
hàng đồ ăn nhanh, trong khi NPV chắc chắc sẽ cao hơn. Tuy nhiên, NPV cao hơn không
có nghĩa là dự án khai thác khoáng sản tốt hơn, vì chắc chắn lượng vốn ban đầu bỏ ra
của dự án này cao hơn dự án trong lĩnh vực dịch vụ rất nhiều. Một lần nữa chúng ta
thấy rằng IRR và NPV là những công cụ rất tốt nhưng có những điều kiện áp dụng nhất
định như đã trình bày ở trên. Vì vậy, khi so sánh hiệu quả của các dự án, cần xem xét
bản chất của ngành nghề kinh doanh và chi phí vốn bỏ ra ban đầu để có những so sánh
kết luận chính xác.
3. Kết luận
Khi phân tích đánh giá dự án, cần lưu ý rằng, các chỉ số trên là chỉ tiêu đánh giá tài
chính. Hiện nay, những người làm dự án còn quan tâm đến NPV, IRR Kinh tế. Có

nghĩa là lượng hoá các đại lượng kinh tế để tính hiệu quả của dự án đối với nền kinh tế.
Ví dụ như đầu tư 1 ngôi trường có thể lỗ về mặt tài chính nhưng nếu tính toán các giá trị
kinh tế khác có được từ ngôi trường vào thì NPV kinh tế đáng giá. Hoặc dự án đầu tư
vào một nhà máy công nghiệp chế tạo có lãi về mặt tài chính nhưng lại làm ô nhiễm
môi trường thì NPV kinh tế có thể lại không đáng giá.
Trong nền kinh tế hiện đại, để đảm bảo công bằng và bảo vệ môi trường, xu hướng
chung là tất cả các chủ thể hoạt động trong nền kinh tế sẽ phải trả cho các tác động
ngoai lai mà họ gây ra với chủ thể khác. Một ví dụ là công cụ kinh tế giấy phép xả thải.
Theo đó, các công ty xả thải phải chịu một khoản chi phí nhất định cho việc làm ô
nhiễm môi trường chung. Tuy nhiên, để đánh giá NPV hay IRR kinh tế, cần các điều tra
xã hôi học và kinh tế rộng lớn, trong đó có xem xét tới các tác động ngoại lai gây ra bởi
các tất cả các chủ thể. Tác giả xin được phân tích và đi sâu về các khái niệm và ý nghĩa
của các chỉ số trên trong một bài viết khác.
7. Có ý kiến cho rằng, chi phí vốn chủ sở hữu luôn thấp hơn chi phí nợ
vay. Bình luận ý kiến trên? Tại sao các doanh nghiệp niêm yết của Việt Nam lại
ưa thích phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái phiếu để tăng vốn?
16


Ở Vn hiện nay, thị trường trái phiếu công ty còn quá nhỏ và kém thanh khoản.
Nguyên nhân là hệ thống tài chính doanh nghiệp thiếu các hoạt động đánh giá tín
nhiệm đúng chuẩn và thường xuyên, hệ thống tài chính và giá trị đồng nội tệ thiếu
ổn định, dẫn đến không có đường cong lãi suất làm chuẩn.
Mặt khác, trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với 1 phần vốn nợ của công ty phát hành. Nhà phát hành có nghĩa
vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay. Nếu
công ty không hoàn trả được lãi cho trái phiếu, người ta sẽ xem xét vấn đề phá sản
của công ty.
Ngược lại, cổ phiếu là chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với 1 phần vốn cổ phần của công ty phát hành. Thứ nhất, phát hành cổ

phiếu doanh nghiệp không phải chịu gánh nặng nợ nần, không tạo áp lực với tính
thanh khoản của doanh nghiệp. Thứ 2, các chủ đầu tư có thể cung cấp cho doanh
nghiệp những hỗ trợ kinh doanh quan trọng mà daonh nghiệp không có. Cuối cùng,
phát hành cổ phiếu doanh nghiệp không phải thế chấp tài sản hay nhờ bảo lãnh bởi
vốn huy động là của chủ sở hữu.
=> doanh nghiệp niêm yết của Việt Nam lại ưa thích phát hành cổ phiếu hơn là
phát hành trái phiếu để tăng vốn
8. Một doanh nghiệp sử dụng càng nhiều nợ thì càng có lợi? Hãy bình luận ý
kiến trên và liên hệ tình hình thực tế ở Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
Thực tế, việc sử dụng nợ trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ giúp
doanh nghiệp có thêm nguồn vốn mạnh hơn trong quá trình đầu tư. Ngoài ra, đây
là một vấn đề mà CFO hoạch định một cấu trúc vốn mục tiêu với những lợi ích từ
tấm chắn thuế. Lãi từ chứng khoán nợ mà một công ty chi trả là một chi phí được
17


khấu trừ thuế. Khoản khấu trừ thuế của lãi từ chứng khoán nợ làm tăng tổng lợi
nhuận của doanh nghiệp. Theo lý thuyết cấu trúc vốn của Miller và Modigliani
(MM), một doanh nghiệp nên gia tăng tỷ lệ nợ cho đến khi giá trị hiện giá của tấm
chắn thuế từ lãi vay vừa đủ để bù trừ bằng gia tăng trong hiện giá của chi phí kiệt
quệ tài chính. Vì vậy, các nhà quản trị tài chính của doanh nghiệp phải phân tích và
đưa ra mức vay nợ bao nhiêu là có lợi cho doanh nghiệp mình, tránh trình trạng sử
dụng quá nhiều nợ sẽ dẫn đến chi phí kiệt quệ tài chính lớn hơn phần bù trừ tấm
chắn thuế, khi đó sẽ đưa doanh nghiệp đến những rủi ro về tài chính.
Theo định đề II của MM, khi nợ là phi rủi ro thì tỷ suất sinh lợi dự kiến từ cổ phần
thường của một doanh nghiệp có vay nợ tăng tương ứng với tỷ lệ nợ / vốn cổ phần,
tức là tỷ lệ nợ / vốn cổ phần càng nhiều thì tỷ suất sinh lợi từ cổ phiếu tăng có lợi
cho NĐT. Khi doanh nghiệp vay nợ nhiều hơn, rủi ro không thực hiện nghĩa vụ
tăng lên và doanh nghiệp buộc phải chịu lãi suất vay nợ cao hơn. MM dự báo rằng

khi điều này xảy ra, tỷ lệ gia tăng trong tỷ suất sinh lợi dự kiến từ vốn cổ phần
chậm lại. Doanh nghiệp càng có nhiều nợ, tỷ suất sinh lợi dự kiến càng ít nhạy cảm
với các khoản nợ vay thêm.
Khi nợ có rủi ro thì trái chủ gánh chịu một phần rủi ro kinh doanh của doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp vay nợ nhiều hơn, rủi ro này chuyển từ các cổ đông sang
các trái chủ. Vay nợ làm tăng tỷ suất sinh lợi dự kiến từ đầu tư của các cổ đông.
Nhưng nó cũng làm gia tăng rủi ro của các cổ phiếu của doanh nghiệp. MM cho
thấy rằng rủi ro gia tăng vừa đúng bù trừ cho gia tăng trong tỷ suất sinh lợi dự kiến,
nên những người nắm giữ cổ phiếu không được lợi mà cũng không bị thiệt.
Theo số liệu điều tra tại 108 Tổng công ty 90, 91 của Công ty tư vấn Mekong, số
nợ phải thu tồn đọng tính đến hết năm 2006 là 2.272 tỉ đồng, chiếm 4,7% tổng số
nợ phải thu. Nợ phải trả tồn đọng là 21.904 tỉ đồng, chiếm 13,7% tổng nợ phải trả.
Riêng trong hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước, nợ quá hạn (nợ xấu) lên tới
10.046 tỉ đồng. Nếu tính cả ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển,
tổng số nợ xấu lên đến 13.659 tỉ đồng. Còn theo số liệu ước tính của các tổ chức tài
18


chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, Ngân hàng Thế giới WB, nợ xấu của
các DN VN vào khoảng 6,2 tỉ USD, tức là chiếm hơn 13% GDP cả nước.
Cho đến cuối năm 2006, theo Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển DN, các DNNN
mới xử lý giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà
nước với tổng số tiền là 314,91 tỉ đồng; xử lý nợ đọng hơn 19 nghìn tỉ đồng, chủ
yếu bằng biện pháp thu hồi nợ, bán tài sản đảm bảo, sử dụng dự phòng rủi ro của
ngân hàng. Trong số DN đã CPH, có khoảng 2.000 DN có nợ và tài sản loại trừ
không tính vào giá trị DN.
Theo Cục Tài chính DN (Bộ Tài chính) thì số nợ phải trả của DNNN thường gấp
1,2 -1,5 lần vốn nhà nước tại DN, thậm chí có nhiều DN nợ gấp vài lần đến hàng
chục lần vốn chủ sở hữu. Số nợ phải thu cũng chiếm từ 50-60% vốn chủ sở hữu,
đặc biệt nợ khó đòi chiếm đến 15-20% lợi nhuận hàng năm, nhưng lại không được

ghi đầy đủ trong sổ sách kế toán DN. Đến thời điểm này, việc xử lý các khoản nợ
tồn đọng của khối DNNN mà Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước đưa ra biện pháp
vẫn chủ yếu là giãn nợ, khoanh nợ.
11. Sử dụng nợ luôn bất lợi cho DN?
Trả lời :
Trước tiên, ta so sánh việc sử dụng nờ và vốn chủ sở hữu cái nào tốn ít chi phí hơn,
“chi phí” được đề cập ở đây chính là chi phí có thể đo lường được cho việc huy
động vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Với nợ, đó chính là chi phí lãi
vay mà doanh nghiệp phải trả cho khoản vay của mình. Với vốn cổ phần, chi phí
sử dụng vốn được hiểu như là quyền đối với thu nhập phải đủ thỏa mãn được các
cổ đông khi họ quyết định góp vốn vào côngty.

19


Ví dụ, nếu bạn điều hành một doanh nghiệp nhỏ và cần tài trợ khoảng $40,000, bạn
có thể hoặc là đi vay ở ngân hàng số tiền $40,000 với lãi suất 10% hoặc bạn có thể
bán 25% cổ phần doanh nghiệp cho người hàng xóm với giá $40,000.
Giả sử trong năm sau đó, doanh nghiệp của bạn có thể tạo ra được lợi nhuận hoạt
động là $20,000. Nếu ban đầu bạn quyết định đi vay ở ngân hàng với chi phí lãi
vay (hay còn gọi là chi phí tài trợ của nợ) sẽ là $4,000, bạn còn lại lợi nhuận
$16,000. Ngược lại, nếu bạn đã sử dụng tài trợ vốn cổ phần, nghĩa là bạn không hề
có nợ và dĩ nhiên là không có chi phí lãi vay nhưng bạn chỉ được nắm giữ 75% lợi
nhuận của doanh nghiệp thôi (25% khác thuộc sở hữu của người hàng xóm nhà
bạn). Do đó, lợi nhuận của bạn bây giờ chỉ có $15,000 (tức 75%*$20,000)
Từ ví dụ này, bạn có thể thấy nợ rẻ hơn vốn cổ phần là như thế nào, do đó cũng rất
dễ hiểu khi các cổ đông sáng lập của công ty quyết định lựa chọn phát hành nợ chứ
không phải vốn cổ phần. Thuế cũng là một yếu tố giúp cho tình huống phát hành
nợ trở nên tốt hơn. Nếu doanh nghiệp của bạn sử dụng nợ, bởi vì chi phí lãi vay
được khấu trừ ra khỏi thu nhập hoạt động trước khi thu nhập bị đánh thuế, do đó

chính hành động đã đem đến cho doanh nghiệp lợi ích tấm chắn thuế từ nợ.
Dĩ nhiên, lợi ích của tài trợ nợ với lãi suất cố định đôi khi lại có thể là điểm bất lợi.
Bởi vì nợ được xem chi phí tài chính cố định, dù doanh nghiệp của bạn có hoạt
động ra sao, thu nhập nhiều hay thậm chí đang thua lỗ thì doanh nghiệp vẫn phải
đảm bảo việc trả lãi vay đúng kỳ hạn và trả nợ gốc khi đáo hạn, do vậy một sự gia
tăng nợ của doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc gia tăng thêm rủi ro tài chính.
Quay trở lại ví dụ trên, giả sử trong năm sau, công ty của bạn chỉ tạo ra được có
$5,000. Với tài trợ nợ, bạn có thể vẫn có cùng $4,000 lãi vay phải trả và vì vậy lợi
nhuận của bạn chỉ còn lại $1,000 ($5,000 -$4,000). Trong trường hợp tài trợ hoàn
toàn bằng vốn cổ phần, tức là bạn không hề phải trả một đồng lãi vay nào hết, thì
20


bạn vẫn có 75% lợi nhuân tương đương với $3,750 (75% x $5,000).
Do vậy, đối với một công ty được kỳ vọng làm ăn tốt thì tài trợ nợ có thể được sử
dụng thường xuyên với mức chi phí thấp hơn so với tài trợ bằng vốn cổ phần. Tuy
nhiên, nếu giai đoạn nào công ty không thể vận hành tốt để tạo ra tiền lượng tiền
mặt đủ lớn, thì chi phí lãi vay lúc này có thể là một gánh nặng. Đây chính là mặt
trái của việc tài trợ hoạt động doanh nghiệp bằng nợ. Từ đây có thể thấy, dù nợ có
chi phí rẻ hơn vốn cổ phần, doanh nghiệp nào cũng có thể hiểu được điều này,
nhưng thời điểm nào thì sử dụng nợ là hợp lý? Hợp lý ở đây có nghĩa là tận dụng
được tối đa lợi ích của nợ, tận dụng tối đa lợi ích từ đòn bẩy tài chính từ nợ.
Dễ thấy, các doanh nghiệp không bao giờ có thể chắc chắn 100% về lượng thu
nhập trong tương lai (mặc dù họ có thể có những dự đoán hợp lý) và khi thu nhập
tương lai của các doanh nghiệp càng không ổn định thì rủi ro càng tăng lên. Do đó,
các doanh nghiệp trong ngành có rủi ro kinh doanh thấp, có dòng tiền ổn định
thường sử dụng nợ nhiều hơn là các doanh nghiệp trong các ngành nhiều rủi ro
hơn. Các doanh nghiệp nhỏ hoặc mới bắt đầu hoạt động, đang trong giai đoạn khởi
nghiệp cũng sử dụng nợ rất ít, nếu không muốn nói là không có sử dụng nợ. Các
doanh nghiệp mới với sự không chắc chắn cao có thể phải trải qua một thời gian

đầy khó khăn để tìm được tài trợ bằng nợ vay, nên thường thì các hoạt động của
chúng hầu hết được tài trợ bằng vốn cổ phần.
Ở Việt Nam, nhắc đến nợ, người ta thường có tâm lý e dè, nhất là đối với các
doanh nghiệp đang trong thời kỳ “sung mãn”, lượng tiền mặt vô cùng dư thừa thì
dường như họ lại càng không quan tâm đến nợ. “Tiền tôi có, tại sao phải vay?”
Cũng vậy, sau 7 năm TTCKVN ra đời, đi vào hoạt động và đạt được sự phát triển
như hôm nay thì để giải quyết bài toán thiếu vốn, doanh nghiệp niêm yết thường
chọn giải pháp vốn cổ phần chứ không mấy mặn mà với việc sử dụng tài trợ bằng
nợ. Các doanh nghiệp dường như đã quên đi lợi ích từ việc sử dụng đòn bẩy tài
21


chính. Hi vọng trong tương lai không xa, vấn đề tài trợ bằng nợ sẽ được các doanh
nghiệp Việt Nam quan tâm thỏa đáng và đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc sử
dụng nợ. Cũng cần nhắc lại là, phát hành trái phiếu doanh nghiệp cũng là một hình
thức vay nợ của doanh nghiệp.
16. Trả cổ tức bằng tiền tốt or không? Chính sách cổ tức
- Trong đk nền kinh tế tốt, ko tìm kiếm đc cơ hội đầu tư nên trả cổ tức = tiền => kế
hoạch mở rộng dài hạn của cty có thể có vấn đề => giá trị VCSH có thể giảm
- Không trả cổ tức = tiền vẫn có thể tạo niềm tin cho nhà đtư do giá trị TS nắm giữ
vẫn đang tăng dần
- Mở rộng quy mô DN => chính sách trả cổ tức = cổ phiếu có thể làm tăng giá trị
TS của CSH.)
Cổ tức là một trong những chính sách quan trọng của bất cứ công ty cổ phần đại
chúng nào trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Lãnh đạo doanh nghiệp luôn cân
nhắc thận trọng về chính sách này vì nó phải đáp ứng đồng thời 3 mục tiêu: làm hài
lòng các cổ đông qua việc trả cổ tức định kỳ, đảm bảo luôn có tái đầu tư để phát
triển doanh nghiệp, mức trả cổ tức phải ổn định để dự phòng cho cả những năm
kinh doanh không như mong đợi (vì một khi đã trả cổ tức cao trong 1 hay vài năm
trước, doanh nghiệp sẽ “khó ăn nói” với cổ đông nếu năm sau hạ mức cổ tức

xuống). Trong 3 mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai là quan trọng nhất.
Bản thân doanh nghiệp, hay nói cách khác là ban lãnh đạo doanh nghiệp – hơn ai
hết hiểu rõ những lợi thế và khó khăn của mình. Họ biết lúc nào công ty cần vốn và
cần giữ lại lợi nhuận để bổ sung cho nguồn vốn của mình, cũng như lúc nào mới
bắt đầu tăng thêm cổ tức cho cổ đông.
Do đó, nếu doanh nghiệp đang làm ăn tốt, thì nên giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư.
Bản thân cổ đông cũng sẽ được hưởng lợi ích cho dù không nhận cổ tức, vì khoản

22


lợi nhuận giữ lại đó sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội tại của doanh nghiệp,
và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai.
Có hai phương thức chia cổ tức chính : cổ tức tiền mặt và cổ tức cổ phần.
Cổ tức tiền mặt là dạng cổ tức mà công ty lấy ra từ lợi nhuận có được chia cho nhà
đầu tư dưới dạng tiền mặt ( hoặc chuyển khoản). Cổ tức tiền mặt làm chuyển giao
giá trị kinh tế từ công ty sang cho các cổ đông thay vì công ty sử dụng tiền đó cho
hoạt động của mình. Tuy nhiên, điều này cũng gây ra một sự giảm mạnh trong giá
cổ phần của công ty một lượng đúng bằng cổ tức được chia.
Cổ tức cổ phần được cho là tốt hơn so với cổ tức tiền mặt nếu chúng không đi kèm
với quyền chọn cổ tức tiền mặt. Điều này đơn giản chỉ bởi chúng ta đang so sánh
giữa cổ tức cổ phần và cổ tức tiền mặt. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là cổ
tức tiền mặt không tốt, đơn giản là cổ tức tiền mặt không có sự lựa chọn nào ngoài
việc bạn phải nhận tiền mặt. Cổ đông vẫn có thể tái đầu tư từ cổ tức tiền mặt vào
công ty thông qua các dự án tái đầu tư từ cổ tức. Ưu điểm lớn nhất của tiền mặt là
tính thanh khoản rất cao, cầm tiền mặt trong tay bao giờ cũng chắc chắn hơn là bạn
cầm cổ phiếu trong tay. Hơn nữa, việc đánh thuế trên cổ tức tiền mặt được nhận
vẫn chưa được thực hiện tại Việt Nam. Nếu bạn là nhà đâu tư ngại rủi ro và muốn
chắc chắn thì có lẽ bạn sẽ yêu thích cổ tức tiền mặt hơn, vì giá trị của chúng rất
chắc chắn. Và các doanh nghiệp chi trả cổ tức bằng tiền mặt có thể là một sự lựa

chọn của bạn.
Nếu phải trả cổ tức trong khi thực tế doanh nghiệp lại đang rất cần vốn, công ty có
thể trả cổ tức bằng cổ phiếu thay cho tiền mặt. Bản chất của việc trả cổ tức bằng cổ
phiếu là một cam kết tái đầu tư của cổ đông để sau đó chính cổ đông sẽ thu được
nhiều hơn nữa lợi nhuận trong tương lai.

23


Trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng làm giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán được
điều chỉnh giảm xuống và trở nên “rẻ hơn nữa” trong con mắt của nhà đầu tư, đặc
biệt khi thị trường đang lên.
Tóm lại, chia cổ tức bằng lợi nhuận cho dù dưới hình thức tiền mặt hay cổ phiếu
đều không làm thay đổi giá trị của cổ phiếu, DN nên có những pt đúng đắn để đưa
ra chính sách trả cổ tức phù hợp…..
17. Việc tăng thuế TNDN trong khi các yếu tố khác ko đổi chắc chắn làm giảm
tỷ lệ nợ trong cơ cấu vốn
Khi tăng thuế TNDN => DN ưu tiên sử dụng nợ ( đưa ra VD về lá chắn thuế), tuy
nhiên còn phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của nhà quản lý tài chính.
VD lá chắn thuế là lãi vay:
Chúng ta có 2 dự án xem xét:
Dự án 1: Doanh nghiệp không vay tiền để đầu tư mà chỉ sử dụng nguồn vốn nội tại
của mình.
Dự án 2: Doanh nghiệp đi vay để đầu tư. Vay 400.000 $, lãi vay 10%.
Thuế thu nhập doanh nghiệp cho cả hai dự án đều là 35%.
Ta xem xét bảng sau:
Dự án 1

Dự án 2


EBIT

100

100

Lãi vay

0

40

LNTT

100

60

Thuế (35%)

35

21

LNST

65

39


TN cho cổ đông, chủ nợ

65

79 ( =39+40)

Trong đó:
EBIT là thu nhập trước thuế và lãi vay của doanh nghiệp, lúc này cả hai dự án
doanh nghiệp đều có thể thu về 100.000$.

24


18, doanh nghiệp bán chịu với mục đích duy nhất là mở rộng thị phần
Sai . việc bán chịu ngày càng phổ biến không chỉ với mục đích mở rộng thị phần
mà còn do hy vọng tăng giá trị cổ phiếu doanh nghiệp trên thị trường niêm yết và
thu hút khách hàng
Hy vọng tăng giá trị cổ phiếu: chi phí đầu vào cho các sản phẩm, dịch vụ ngày
càng tăng lượng hàng hóa bán chịu cho khách hàng với hy vọng làm tăng giá tri cổ
phiếu
Mong muốn thu hút khách hàng : đây cũng là một trong những chiến lược dài hạn
trong canh tranh bán hàng, nhất là các khách hàng mới. bạn bán hàng với các chính
sách đãi ngộ hấp dẫn về thanh toán và nợ chắc chắn khách hàng sẽ để tâm đến bạn
hơn là các đối thủ khác
19, sử dụng nợ luôn bất lợi cho doanh nghiêpj
Chưa chính xác
Có thể bất kì doanh nghiệp nào cũng luôn mong muốn và hướng tới xây dựng một
cơ cấu vốn mục tiêu, nhằm đạt được mục đích là gia tăng giá trị tài sản của vốn
chỉ sở hữu
Việc sử dụng nợ là có lợi hay bất lợi , phải tùy thuộc vào tình hình hoạt động sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như phụ thuộc vào tình hình kinh tế
Việc sử dụng nhiều nợ khiến cho rủi ro của dn tăng lên nhưng không phải vậy mà
sử dụng nợ luôn bất lợi. cụ thể sủ dụng nợ đồng nghĩa với việc tồn tai đòn bẩy làm
tăng EPS với tốc độ nhanh hơn tốc độ gia tăng của doanh số. điều này là có lợi
20, việc tăng thuế thu nhập doanh nghiệp trong khi các yếu tố khac không tay đổi
chắc chắn làm giame tỷ lệ nợ trong cơ cấu vốn
Sai
25


×