Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

XEM XÉT LẠI HÌNH ẢNH THỨ HAI: CÁC NGUỒN LỰC TRONG NƯỚC CỦA CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 22 trang )

TÀI LIỆU DỊCH TLD-22

XEM XÉT LẠI HÌNH ẢNH THỨ HAI:
CÁC NGUỒN LỰC TRONG NƯỚC CỦA CHÍNH SÁCH
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TRUNG QUỐC*
LỜI GIỚI THIỆU

Andreas Nölke

Một ấn phẩm của VEPR


© 2016 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES)

Tài liệu dịch TLD-22

Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Xem xét lại hình ảnh thứ hai:
Các nguồn lực trong nước của chính sách
kinh tế đối ngoại Trung Quốc*
Lời giới thiệu

1

Andreas Nölke2
Biên dịch: Vũ Hoàng Tuấn Anh3

Hiệu đính: Nguyễn Thị Thanh Tú4


Quan điểm được trình bày trong bài viết này là của (các) tác giả và không nhất thiết
phản ánh quan điểm của dịch giả hoặc VEPR và VCES.

1 Nguồn: Second Image Revisited: The Domestic Sources of China's Foreign Economic Policies, Special issue,
International Politics Vol. 52, 6, 657–665
truy cập tháng 11 năm 2015, />2 Giáo sư Khoa học Chính trị, đặc biệt về lĩnh vực quan hệ quốc tế và kinh tế chính trị quốc tế tại Đại học Goethe
Frankfurt
3 Cộng tác viên Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES)
4 Nghiên cứu viên Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES)

ii


TLD-22

Tóm tắt:
Sự trỗi dậy của những nền kinh tế mới nổi và những tác động có thể có của nó tới
trật tự thế giới là một trong những chủ đề thú vị nhất của Quan hệ quốc tế hiện
nay. Trong số các thị trường mới nổi, Trung Quốc được coi như một trường hợp
đặc biệt thú vị đối với việc nghiên cứu soạn thảo công pháp quốc tế trong tương
lai nhằm trao quyền lực kinh tế và chính trị cho các quốc gia (Cohen và Chiu,
2013). Chính vì vậy, câu hỏi được đặt ra là liệu sự trỗi dậy mạnh mẽ hơn nữa của
Trung Quốc sẽ mang tính hòa bình hay bạo lực và các kết luận chính sách tương
ứng đã trở thành chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất trong suốt một thập kỉ qua.
Những thảo luận gần đây về vấn đề này đã làm dấy lên tranh cãi giữa một bên là
các phỏng đoán về số lượng xung đột sẽ ngày một gia tăng với một bên là giả
định về sự hội nhập hài hòa của Trung Quốc vào trật tự toàn cầu hiện có.
International Politics (2015) 52, 657-665.doi: 10:10.1057/ip.2015.13;
Được công bố trực tuyến 17/07/2015.
Từ khóa: Quan hệ quốc tế, xây dựng luật, trật tự thế giới, thị trường mới nổi, sự

trỗi dậy của Trung Quốc, xung đột.

1


TLD-22

Sự trỗi dậy của những nền kinh tế mới nổi và những tác động có thể có của nó tới
trật tự thế giới là một trong những chủ đề thú vị nhất của Quan hệ quốc tế hiện
nay. Trong số các thị trường mới nổi, Trung Quốc được coi như một trường hợp
đặc biệt thú vị đối với việc nghiên cứu soạn thảo công pháp quốc tế trong tương
lai nhằm trao quyền lực kinh tế và chính trị cho các quốc gia (Cohen và Chiu,
2013). Chính vì vậy, câu hỏi được đặt ra là liệu sự trỗi dậy mạnh mẽ hơn nữa của
Trung Quốc sẽ mang tính hòa bình hay bạo lực và các kết luận chính sách tương
ứng đã trở thành chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất trong suốt một thập kỉ qua.
Những thảo luận gần đây về vấn đề này đã làm dấy lên tranh cãi giữa một bên là
các phỏng đoán về số lượng xung đột sẽ ngày một gia tăng với một bên là giả
định về sự hội nhập hài hòa của Trung Quốc vào trật tự toàn cầu hiện có.
Lộ trình đầu tiên được thực hiện theo "lý thuyết chuyển đổi quyền lực" và
"lý thuyết hiện thực tấn công”. Xây dựng trên công trình nghiên cứu của Organski
(1968), các nhà lý luận theo thuyết chuyển đổi quyền lực đang vô cùng lo lắng về
sự trỗi dậy không ngừng của Trung Quốc có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh
với Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ này, họ dự đoán rằng có nhiều khả năng khiến xung
đột xảy ra khi một cường quốc đang lên tiếp cận gần hơn về mặt quyền lực với
một cường quốc thống trị và không hài lòng với hiện trạng (Tammen và Kugler,
2006; Levy, 2008; Lai, 2011; xem trong nghiên cứu Chan, 2007). Lý thuyết hiện
thực tấn công - gọi theo cách này bởi không phải tất cả các hệ thống luận điểm
của chủ nghỉa hiện thực đều chia sẻ quan điểm này - được thể hiện nổi bật nhất
trong các ấn phẩm của Mearsheimer (2001, 2010). Mearsheimer lập luận rằng sự
trỗi dậy của Trung Quốc sẽ không thể bình yên và nên được làm chậm lại bởi Hoa

Kỳ (xem trong nghiên cứu Kirshner, 2012), phản ánh quan điểm phổ biến hơn về
“mối đe dọa Trung Quốc” (Roy, 1996) và bao gồm cả sự mở rộng "Chúng ta sẽ
chống lại Trung Quốc như thế nào” (Kaplan, 2005).
Các phe trái chiều tranh luận về khả năng Trung Quốc sẽ trỗi dậy trong hòa
bình. Lại một lần nữa, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau đằng sau các dự đoán
2


TLD-22

ấy. Một luồng tranh cãi hướng đến sự phụ thuộc lẫn nhau vô cùng lớn giữa Trung
Quốc và phương Tây trong lĩnh vực kinh tế và chính việc này sẽ ngăn chặn một
cuộc xung đột tầm cỡ gây nên những thiệt hại nghiêm trọng tiềm tàng cho cả hai
bên. Luồng tranh cãi khác nêu bật lên tầm quan trọng của các quá trình tiếp thu
và xã hội hóa liên tục của giới lãnh đạo Trung Quốc. Trên nền tảng của chủ nghĩa
kiến tạo, luận điểm này hướng đến việc tập trung các ứng xử với bộ quy tắc toàn
cầu đã được thiết lập. (Johnston, 2003, 2008; Legro, 2005; Kent, 2007).
Tuy nhiên, vẫn còn mơ hồ rằng liệu những động thái của các quốc gia mới
nổi chỉ có thể được giải thích bằng những dòng tư tưởng điển hình đối lập và khá
chung chung đó. Vì vậy, nhiều nhà quan sát đã quay lại hướng các nghiên cứu
chủ yếu mô tả về sự tham gia gần đây của Trung Quốc vào lãnh đạo toàn cầu (ví
dụ, Kennedy và Cheng, 2011; Chan và cộng sự, 2012; Shambaugh, 2013), trong
quan hệ song phương với Hoa Kỳ (Foot và Walter, 2011) hoặc với Liên minh
châu Âu (EU) (Wouters và cộng sự, 2012). Tuy nhiên điều này cũng có phần
không thỏa đáng, giống như hầu hết các nhà quan sát đều nhất trí rằng vấn đề này
không chỉ xoay quanh một cuộc xung đột lớn trong vài năm tới, mà còn - nếu có
thể - trong vài thập kỷ tới. Những nghiên cứu mô tả về động thái ngoại giao hiện
nay của Trung Quốc không nói cho chúng ta biết nhiều về sự phát triển sắp tới.
Đối với một giả định cung cấp thông tin về tương lai, chúng ta cần một lý thuyết
tốt nhất là đã chứng minh được giá trị của nó trong quá khứ.

Những đóng góp của chuyên đề này là đưa ra một quan điểm lý thuyết thứ
ba, cụ thể là hành động ngoại giao Trung Quốc có thể được giải thích rõ ràng nhất
bằng cách nhìn vào các cấu trúc nội địa và nền chính trị của nó. Trong thuật ngữ
của Waltz (1959), đây là một "hình ảnh thứ hai", với sự giải thích nhấn mạnh yếu
tố chính trị nội bộ ở cấp độ một quốc gia là nguồn gốc của cả xung đột và hợp
tác, nó trái ngược với cấp độ đầu tiên (bản chất con người) và cấp độ thứ ba (cấu

3


TLD-22

trúc của hệ thống quốc tế)1. Trong khi chính Waltz rõ ràng ủng hộ quan điểm thứ
ba, cách tiếp cận-hình ảnh thứ hai chủ yếu được nghiên cứu bởi Katzenstein (1976,
1978, 1985). Ngược lại với các luồng tranh cãi trước đây của giả thuyết, cách tiếp
cận-hình ảnh thứ hai không đưa ra những dự đoán xuất phát từ sự phân chia ảnh
hưởng trong hệ thống quốc tế hoặc các ảnh hưởng của các tổ chức toàn cầu, mà
là từ sự nghiên cứu cẩn thận những đặc trưng nội tại của các quốc gia. Vì khuôn
khổ của chúng, cách tiếp cận này đặc biệt hữu ích cho việc nghiên cứu Trung
Quốc và những nền kinh tế lớn mới nổi khác. Các cường quốc vốn thể hiện một
khuynh hướng đối nội mạnh mẽ và đòi hỏi các công cụ phân tích có khả năng
tổng hợp những thế mạnh trong nước trong việc nghiên cứu những ưu tiên chính
sách kinh tế đối ngoại. Tương tự, cách tiếp cận-hình ảnh thứ hai thực sự phù hợp
làm phương pháp phân tích các nước này (các nước mới nổi) hơn so với các nước
nhỏ chủ yếu được phân tích bởi Katzenstein (1985). Gần đây nhất, cách tiếp cận
từ cấp độ chính trị trong nước đã được áp dụng cho Trung Quốc trong công trình
tập hợp nghiên cứu rộng lớn về việc quốc tế hóa đồng nhân dân tệ (Helleiner và
Kirshner, 2014).
Trái ngược với những nghiên cứu hiện hữu trong góc nhìn-hình ảnh thứ
hai, các phần đóng góp cho chuyên đề này không tập trung vào các khái niệm dựa

trên các nhân tố cấu thành theo hướng tiếp cận xã hội tự do như các nhóm lợi ích
và đảng phái chính trị (Moravcsik, 1997; Helleiner và Malkin, 2012; Schirm,
2013) cũng không tập trung vào cách tiếp cận trò chơi hai cấp độ vốn được sử
dụng rộng rãi (Putnam, 1988; Conceição-Heldt, 2013), hay tập hợp trong chương
trình nghiên cứu nền chính trị kinh tế mở đang được sử dụng rộng rãi (Lake,
2009). Các phương pháp tiếp cận sau này đã được phát triển cho việc nghiên cứu

1

Trong cuốn sách “Con người, Nhà nước và Chiến tranh” (Man, the State, and War) xuất bản năm 1959,

Keneth Waltz đã đưa ra mô hình lý thuyết quan hệ quốc tế. Theo đó, chính trị quốc tế chịu tác động ở ba cấp độ:
(1) các cá nhân lãnh đạo (được Waltz gọi là hình ảnh thứ nhất), (2) chính trị nội bộ của các quốc gia (hình ảnh thứ
hai), và (3) tính chất của hệ thống quốc tế (hình ảnh thứ ba) – H.đ

4


TLD-22

của các nền dân chủ phương Tây. Thay vào đó, hầu hết các đóng góp của chúng
tôi được lập luận dựa trên lý thuyết thay thế đưa ra trong tài liệu kinh tế chính trị
học so sánh, thường được đặt dưới tiêu đề "Chủ nghĩa tư bản so sánh” (Jackson
và Deeg, 2006). Các cách tiếp cận của chủ nghĩa tư bản so sánh nhấn mạnh tầm
quan trọng của lĩnh vực thể chế và sự bổ sung lẫn nhau của chúng cho sự phát
triển của các mô hình đặc trưng của chủ nghĩa tư bản, xuất phát từ nghiên cứu
mang tính bước ngoặt của Hall và Soskice (2001). Việc tiếp tục sử dụng các phạm
trù của chủ nghĩa tư bản so sánh như là một cơ sở cho cách tiếp cận-hình ảnh thứ
hai, đó là, để giải thích sự lựa chọn trong chính sách kinh tế đối ngoại, đã được
Fioretos tiên phong nghiên cứu về EU (2001, 2010, 2011). Chuyên đề này góp

phần vào chương trình nghiên cứu “hình ảnh thứ hai của IPE” (Kalinowski, trong
chuyên đề này) đang được phát triển hiện nay.
Gần đây hơn, việc áp dụng chủ nghĩa tư bản so sánh đã được mở rộng từ
sự gây dựng trung tâm cốt lõi của nền kinh tế thế giới đến các thị trường lớn mới
nổi. Điểm sau đã được mô tả như là "nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước” (Nölke, 2012 và vấn đề này; Nölke và cộng sự, 2014), được đưa ra trước
sự thống trị của mạng lưới chặt chẽ giữa các cơ quan công quyền và vốn tư nhân
trong nước. Việc áp dụng nổi bật nhất quan điểm của chủ nghĩa tư bản so sánh
vào chính sách kinh tế đối ngoại của Trung Quốc đã được phát triển bởi McNally
(năm 2012 và trong chuyên đề này). Nghiên cứu về “chủ nghĩa tư bản kiểu Trung
Hoa" của ông nhấn mạnh tầm quan trọng của mạng lưới kinh doanh không chính
thức và vai trò lãnh đạo của nhà nước Trung Quốc đối với sự tích lũy tư bản và
hoạch định chính sách kinh tế đối ngoại. Bằng cách mở rộng lập luận của mình
về chủ nghĩa tư bản kiểu Trung Quốc hướng tới các tác động của sự nổi lên của
chủ nghĩa tư bản kiểu Trung Quốc trong nền kinh tế chính trị toàn cầu, McNally
nêu bật những mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản nhà nước của Trung Quốc và trật
tự tự do đã được thiết lập. Vị trí kề nhau này phản ánh các khái niệm cũ từ các tài

5


TLD-22

liệu kinh tế chính trị quốc tế để phân biệt giữa “trung tâm” tự do và “các nước đối
đầu” theo chủ nghĩa nhà nước (van der Pijl, 1998).
Trong chuyên đề này, vị trí kề nhau giữa chủ nghĩa tư bản mang màu sắc
cộng sản Trung Quốc và chủ nghĩa tư bản tự do kiểu phương Tây được thử
nghiệm để hiểu rõ lập trường của Trung Quốc về một loạt các vấn đề pháp lý
quốc tế. Cho rằng vị thế của Trung Quốc về các vấn đề thương mại đã được bao
phủ rộng rãi ở những nơi còn lại (Holbig và Ash, 2002; Feng, 2006), chúng tôi

tập trung vào các chủ đề cốt lõi về tiền tệ, tài chính và đầu tư. Cụ thể hơn, chuyên
đề này bao gồm các quy định ngân hàng, quốc tế hóa đồng nhân dân tệ, kiểm soát
vốn, hợp tác kinh tế vĩ mô quốc tế, quy chế tài chính toàn cầu và đầu tư nước
ngoài trực tiếp của quốc gia khác (OFDI). Bằng cách đó, đóng góp của chuyên
đề này là tìm cách khắc phục một thiếu sót thứ hai của cuộc tranh luận hiện nay
về tác động của sự trỗi dậy của các nền kinh tế mới nổi, đó là, sự không quan tâm
của các quốc gia này trong việc lựa chọn chính sách. Ảnh hưởng đáng kể của các
thị trường mới nổi đến nội dung chính sách không quá nổi bật trong các cuộc thảo
luận hiện nay về sự tham gia của chúng vào các tổ chức quốc tế. Những thảo luận
gần đây về vai trò của các thị trường mới nổi trong các tổ chức quốc tế thường
tập trung vào các vấn đề tình trạng như mức độ tham gia của chúng vào G20,
Ngân hàng Thế giới, IMF hoặc Hội đồng Bảo an (Lesage và cộng sự, 2013;
Vestergaard và Wade, 2013). Tuy nhiên, ít nhất là từ góc độ kinh tế chính trị quốc
tế, câu hỏi thú vị nhất là liệu tầm quan trọng ngày càng tăng của Trung Quốc có
dẫn đến một mô hình khác theo chủ nghĩa nhà nước trong sự điều chỉnh tư bản
toàn cầu, nếu so sánh với mô hình tự do hiện nay. Cho đến nay, câu hỏi này chỉ
được giải quyết bởi một số phương pháp suy đoán phổ biến (Choate, 2009;
Bremmer, 2010), trong khi các nghiên cứu thực nghiệm chỉ vừa mới bắt đầu
(McNally, 2012; Nölke và cộng sự, 2014).
Sự đóng góp của Ten Brink trong bài “Chinese Firms ‘Going Global’:
Recent OFDI Trends, Policy Support, and International Implications” (tạm dịch
6


TLD-22

là: Doanh nghiệp Trung Quốc “vươn ra toàn cầu”: Xu hướng đầu tư ra nước ngoài
hiện nay, hỗ trợ về chính sách và các hệ quả quốc tế) tập trung vào tầm quan trọng
ngày càng tăng của OFDI Trung Quốc. Ten Brink nhấn mạnh cách quá trình này
gần đây đã khởi sắc như thế nào, với khoản đầu tư tăng đáng kể cho các nền kinh

tế đang và đã phát triển. Tuy nhiên, mô hình đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc
có sự khác biệt đáng kể so với những gì mọi người chứng kiến tại các nền kinh tế
phát triển. Đồng thời, nó dẫn đến sự gia tăng căng thẳng với các chính phủ phương
Tây. Ten Brink giải thích những khác biệt này bằng cách nêu bật các đặc trưng
cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước bao gồm tầm quan trọng của sự hỗ trợ của
nhà nước trong chiến lược “toàn cầu hóa" của Trung Quốc.
Một yếu tố quan trọng của chiến lược “toàn cầu hóa" này là vấn đề quốc tế
hóa đồng nhân dân tệ. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã cảnh báo các nhà
chức trách Trung Quốc về các lỗ hổng bắt nguồn từ sự phụ thuộc vào đồng USD
trong các hoạt động kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, đóng góp của Otero-Iglesias và
Vermeiren trong bài “China’s State-Permeated Market Economy and Its
Constraints to the Internationalization of the Renminbi” (tạm dịch là “Nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN của Trung Quốc và những hạn chế của nó đối
với việc quốc tế hóa của đồng Nhân dân tệ") đã chỉ ra những căng thẳng nghiêm
trọng giữa các bước cần thiết cho việc quốc tế hóa đồng nhân dân tệ và cách tổ
chức hiện tại của nền kinh tế Trung Quốc. Các tổ chức kinh tế-chính trị trong
nước của nền kinh tế thị trường mang màu sắc cộng sản Trung Quốc đã được cho
là rất có lợi trong việc củng cố một chế độ tăng trưởng dựa vào đầu tư đã nhanh
chóng biến Trung Quốc từ một quốc gia thu nhập có thu nhập thấp lên trung bình.
Tuy nhiên, sự thành công của một chiến lược quốc tế như vậy sẽ phụ thuộc vào
một cuộc cải tổ đến tận gốc rễ của các tổ chức kinh tế-chính trị trong nước, tương
tự như việc nó đã đặt nền móng cho chế độ tăng trưởng dựa vào đầu tư của nó.
Bằng cách công bố các cải cách cần thiết động chạm tới các doanh nghiệp nhà

7


TLD-22

nước trong nước, bài viết cho thấy nhiều mâu thuẫn nội bộ trong chiến lược quốc

tế của Trung Quốc.
Những triển vọng về việc nhân dân tệ trở thành đồng tiền quốc tế cũng là
trọng tâm nghiên cứu của McNally trong “The Political Economic Logic of RMB
Internationalization: A Study in Sino-Capitalism” (tạm dịch là “Lý luận kinh tế
chính trị của việc quốc tế hóa đồng nhân dân tệ: Một nghiên cứu về chủ nghĩa tư
bản kiểu Trung Quốc". Ông đã lần theo những lý luận trong nước về chủ nghĩa
tư bản kiểu Trung Quốc, sau đó làm nổi bật các khía cạnh quan trọng của hệ thống
trong nước và quá trình quốc tế hóa đồng nhân dân tệ. Bài viết kết thúc bằng việc
cho rằng có tồn tại các cơ chế ưu đãi cơ bản và lập trường chính trị của chủ nghĩa
tư bản kiểu Trung Quốc. Điều này cản trở việc thực hiện toàn diện các biện pháp
tự do hóa, đặc biệt là tự do hóa tài khoản vốn của Trung Quốc trong tương lai gần.
Tuy nhiên, những lý luận của chủ nghĩa tư bản kiểu Trung Quốc sẽ mở ra con
đường mới mà Trung Quốc vẫn có thể từng bước phát triển một đồng tiền quốc
tế.
Vấn đề tự do hóa tài khoản vốn cũng chiếm vị trí quan trọng ở đóng góp
của Dierckx trong “China’s Capital Controls: Between Contender State and
Integration into the Heartland” (tạm dịch là “Kiểm soát vốn của Trung Quốc:
Giữa cạnh tranh quốc gia và hội nhập vào khu vực trung tâm”). Kiểm soát vốn
chặt chẽ cho phép giới cầm quyền Trung Quốc sắp xếp để giữ vững quyền lực và
duy trì sự đầu tư của nó và chế độ tích lũy dựa vào xuất khẩu dựa trên một khối
di tích lịch sử của vốn sản xuất trong nước (chủ yếu thuộc sở hữu nhà nước), vốn
ngân hàng quốc nội (ngân hàng nhà nước) và vốn sản xuất nước ngoài. Quan
trọng hơn, khối tài sản lịch sử này loại trừ vốn tài chính (nước ngoài) theo định
hướng truyền thống, vốn là phần chủ đạo trong cấu trúc lịch sử tân tự do toàn cầu.
Dẫu vậy, ngay từ trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cách thức vận hành
của các lực lượng xã hội Trung Quốc đã có dấu hiệu kiệt sức. Sau khủng hoảng,
việc tháo gỡ những thứ bá quyền có tính lịch sử của Trung Quốc đã tăng tốc, đi
8



TLD-22

đôi với củng cố một phần đáng kể những điều chỉnh của nhà nước Trung Quốc
trong việc tự do hóa hệ thống tài chính Trung Quốc một cách nhanh chóng và
triệt để hơn. Do đó, từng bước tự do hóa tài sản vốn của Trung Quốc đã được tiến
hành với tốc độ chóng mặt.
Sự đối đầu giữa các phân tầng khác nhau liên quan đến tương lai của nền
kinh tế chính trị của Trung Quốc và những tác động của sự đối đầu này đến trật
tự kinh tế toàn cầu cũng là trung tâm trong đóng góp của Nölke về "International
Financial Regulation and Domestic Coalitions in State-Permeated Capitalism:
China and Global Banking Rules” (tạm dịch là “Quy định tài chính quốc tế và
các liên minh trong nước trong chủ nghĩa tư bản định hướng XHCN: Trung Quốc
và Quy định Ngân hàng toàn cầu”). Quy định ngân hàng rõ ràng là những chủ đề
quan trọng nhất trong quy định tài chính của Trung Quốc, hệ thống tài chính của
Trung Quốc (vẫn) đang bị thống trị hoàn toàn bởi ngân hàng, với một vai trò hạn
chế hơn nhiều của trái phiếu và cổ phiếu. Theo một cách hơi khó hiểu, Trung
Quốc đóng một vai trò “chính thống” trong các cuộc đàm phán ngân hàng toàn
cầu và có thái độ không rõ ràng, khác với các thành phần nước ngoài chi phối (ví
dụ, Hoa Kỳ hoặc Vương quốc Anh). Để hiểu được lập trường của Trung Quốc về
quy định của ngân hàng quốc tế, chúng ta cần phải nhìn vào sự phát triển của các
điều lệ trong nước ở quốc gia này. Một phân tích về các thay đổi thể chế trong
quy định ngân hàng của Trung Quốc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của nhiều
thành phần kinh tế chính trị có sự ưu tiên khác nhau về vấn đề phân phối tiếp theo
các trường hợp khác nhau trong quá trình tài chính hóa các quy định ngân hàng.
Quan điểm-hình ảnh thứ hai không phải bị hạn chế khi giải thích lập trường
của một quốc gia, điều này đã được minh chứng bằng đóng góp của Kalinowski
trong bài viết “Second Image IPE: Global Economic Imbalances and the “Defects”
of the East Asian Development Model” (tạm dịch là “Hình ảnh thứ hai của IPE:
Mất cân bằng kinh tế toàn cầu và những "khiếm khuyết" của Mô hình phát triển
Đông Á”. Kalinowski tập trung vào vai trò ngày càng quan trọng của các thành

9


TLD-22

viên G20 đến từ Đông Á: Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc trong việc điều
hành nền kinh tế toàn cầu. Vai trò cụ thể của các nước này trong sự điều phối
kinh tế vĩ mô quốc tế được giải thích bởi hệ thống xã hội của các quốc gia phát
triển Đông Á trong mạng lưới chặt chẽ giữa các chính phủ và giới tư bản (công
nghiệp), trái ngược với giả định tự do về hội nhập ngày càng tăng của khu vực
vào các tổ chức kinh tế toàn cầu.
Quan điểm hình ảnh thứ hai của chúng tôi được tiếp tục mở rộng nhờ đóng
góp của Gottwald và Bersick. Đóng góp của họ trong bài “The Domestic Sources
of China’s New Role in Reforming Global Capitalism” (tạm dịch là “Nguồn lực
trong nước với vai trò cải cách chủ nghĩa tư bản toàn cầu của Trung Quốc") nêu
bật những căng thẳng giữa các nhu cầu trong nước và mong đợi ngoài nước đối
với vai trò của Trung Quốc trong G20. Bằng cách nghiên cứu các lĩnh vực khác
nhau của vấn đề quản trị tài chính toàn cầu thông qua một cách tiếp cận gắn những
hành vi đời thường vào những nhóm xã hội xác định, các tác giả đã chứng minh
rằng Trung Quốc đã có trách nhiệm hơn trong quản trị toàn cầu mà không thúc
đẩy một bản kế hoạch chi tiết dọc theo các lộ trình của Trung Quốc. Quan sát này
được giải thích bởi các cuộc tranh luận chưa có hồi kết trong nước về quan niệm
vai trò quốc gia mới.
Bằng cách nhìn sâu vào các lập trường chính của chính phủ Trung Quốc
và hai nước láng giềng Nhật Bản và Hàn Quốc trong điều tiết kinh tế toàn cầu và
giải thích quan điểm này bằng cách tham chiếu đến nền kinh tế chính trị nội bộ
của các quốc gia đó, vấn đề đặc biệt này mong muốn đóng góp vào cuộc tranh
luận hiện nay về tác động của sự gia tăng các nền kinh tế mới nổi. Đồng thời, tìm
cách để trẻ hóa một trong những xu hướng quan trọng nhất của lý thuyết quan hệ
quốc tế, bằng cách xem xét lại quan điểm “hình ảnh thứ hai” nêu bật tầm quan

trọng của cấu trúc và chính sách nội bộ quốc gia. Trên cơ sở các quan điểm lý
thuyết này, chuyên đề không đứng cùng phe với quan điểm đối đầu về những
cuộc đụng độ sắp tới giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, và cũng không có cùng quan
10


TLD-22

điểm khuyến khích về sự hội nhập suôn sẻ của Trung Quốc vào các cấu trúc quyền
lực toàn cầu hiện có. Thay vào đó, nó tiếp tục phát triển một quan điểm lập luận
rằng Trung Quốc sẽ tìm cách thay đổi các quy tắc toàn cầu hiện có theo hướng có
lợi cho việc bảo vệ “không gian phát triển” cần thiết (Wade, 2003) cho mô hình
trong nước. Cùng với một số nghiên cứu gần đây (Chin và Thakur, 2010; Breslin,
2011; Strange, 2011), nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng mô hình thay thế này
đã trở thành một biến thể mới của "nhà nước phúc lợi" (Ten Brink và Nölke, 2013;
Nölke, năm 2014). Sự phát triển này càng trở nên khả thi hơn khi chúng tôi xem
xét các thị trường mới nổi khác như là Ấn Độ có cùng các đặc trưng tương tự liên
quan đến vai trò kinh tế nổi bật của nhà nước và có thể tạo thuận lợi hơn nữa để
dịch chuyển thế giới đi theo một hướng tương tự (Dahlman, 2012). Các thảo luận
về một “thế giới hậu Mỹ” (Zakaria, 2009; Clark và Hoque, 2012; Stephens, 2014)
cho thấy cần chú ý đặc biệt đến đặc trưng trong nước theo hướng chủ nghĩa nhà
nước của các nền kinh tế lớn mới nổi như Trung Quốc.

11


TLD-22

Giới thiệu về tác giả
Kể từ năm 2007, Andreas Nölke là giáo sư khoa học chính trị, đặc biệt về lĩnh

vực quan hệ quốc tế và kinh tế chính trị quốc tế, tại Đại học Goethe Frankfurt.
Ông đã đạt được học vị tiến sĩ khoa học chính trị (với sự đặc cách) tại trường Đại
học Konstanz (1993) và nhận được học vị Habilitation2 từ Đại học Leipzig (2004).
Trước đây ông đã dạy Quan hệ Quốc tế, Kinh tế Chính trị và Nghiên cứu Phát
triển tại các trường Đại học Konstanz, Leipzig, Amsterdam (VU) và Utrecht
(UCU). Ấn phẩm gần đây của ông bao gồm “Multinational Corporations from
Emerging Markets: State Capitalism 3.0” (tạm dịch là "Những tập đoàn đa quốc
gia từ thị trường mới nổi: chủ nghĩa tư bản nhà nước 3.0”, Palgrave Macmillan,
2014) và “Brazilian Corporations, the State and Transnational Activity” (tạm dịch
là "Các tập đoàn của Brazil, Nhà nước và hoạt động xuyên quốc gia”, số đặc biệt,
Critical Perspectives on International Business, 2014).
Liên hệ:
Andreas Nölke
Campus Westend – PEG Fachbereich 03 Institut für Politikwissenschaft,
Goethe-Universität Frankfurt,
Hauspostfach 20, Grüneburgplatz 1, Frankfurt 60323, Germany.
E-mail:

2

Học vị cao nhất được đặt ra, dành cho những người đã có học vị Tiến sĩ, có cống hiến xuất sắc trong khoa

học, có những công trình nghiên cứu và bản luận văn có giá trị được quốc tế công nhận. Ở Việt Nam gọi là Tiến
sĩ khoa học-H.đ.

12


TLD-22


Tài liệu tham khảo
Bremmer, I. (2010) The End of the Free Market: Who Wins the War
Between States and Corporations? New York: Portfolio.
Breslin, S. (2011) The China model and the global crisis: From Friedrich
List to a Chinese mode of governance? International Affairs 87(6): 1323–1343.
Chan, G., Lee, P.K. and Chan, L.-H. (2012) China Engages Global
Governance: A New World Order in the Making? London and New York:
Routledge.
Chan, S. (2007) China, the US, and Power Transition Theory: A Critique.
London and New York: Routledge.
Chin, G. and Thakur, R. (2010) Will China change the rules of global order?
The Washington Quarterly 33(4): 119–138.
Choate, P. (2009) Saving Capitalism: Keeping America Strong. New York:
Portfolio.
Clark, S. and Hoque, S. (eds.) (2012) Debating a Post-American World:
What Lies Ahead? London and New York: Routledge.
Cohen, B.J. and Chiu, E. (eds.) (2013) Power in a Changing World
Economy: Lessons from East Asia.London and New York: Routledge.
Conceição-Heldt, E. (2013) Two-level games and trade cooperation: What
do we now know? International Politics 50(4): 579–599.
Dahlman, C.J. (2012) The World Under Pressure: How China and India
Are Influencing the Global Economy and Environment. Stanford, CA: Stanford
University Press.
Feng, H. (2006) The Politics of China’s Accession to the World Trade
Organisation: The Dragon Goes Global. London and New York: Routledge.
13


TLD-22


Fioretos, O. (2001) The domestic sources of multilateral preferences:
Varieties of capitalism in the European Community. In: P.A. Hall and D. Soskice
(eds.) Varieties of Capitalism: The Institutional Foundations of Comparative
Advantage. Oxford: Oxford University Press, pp. 213–244.
Fioretos, O. (2010) Capitalist diversity and the international regulation of
hedge funds. Review of International Political Economy 17(3): 696–723.
Fioretos, O. (2011) Creative Reconstructions: Multilateralism and
European Varieties of Capitalism after 1950. Ithaca, NY and London: Cornell
University Press.
Foot, R. and Walter, A. (2011) China, the United States and Global Order.
London and New York: Routledge.
Hall, P.A. and Soskice, D. (eds.) (2001) Varieties of Capitalism: The
Institutional Foundations of Comparative Advantage. Oxford: Oxford University
Press.
Helleiner, E. and Malkin, A. (2012) Sectoral interests and global money:
Renminbi, dollars and the domestic foundations of international currency policy.
Open Economy Review 23(1): 33–55.
Helleiner, E. and Kirshner, J. (eds.) (2014) The Great Wall of Money:
Power and Politics in China’s International Monetary Relations. Ithaca, NY:
Cornell University Press.
Holbig, H. and Ash, A. (2002) China’s Accession to the World Trade
Organization: National and International Perspectives. London and New York:
Routledge.
Ikenberry, G.J. (2008a) The rise of China and the future of the West: Can
the liberal system survive? Foreign Affairs 87(1): 23–37.

14


TLD-22


Ikenberrry, G.J. (2008b) The rise of China: Power, institutions and the
Western order. In: R.S. Ross and Z. Feng (eds.) China’s Ascent: Power, Security,
and the Future of International Politics. Ithaca, NY and London: Cornell
University Press, pp. 89–114.Jackson, G. and Deeg, R. (2006) How Many
Varieties of Capitalism? Comparing the Comparative Institutional Analyses of
Capitalist Diversity. Cologne, Germany: Max Planck Institute for the Study of
Societies. MPIfG Discussion Paper 06/2.
Johnston, A.I. (2003) Is China a status quo power? International Security
27(4): 5–56.
Johnston, A.I. (2008) Social States: China in International Institutions
1980–2000. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Kaplan, R.D. (2005) How we would fight China. The Atlantic 1 June.
Karabell, Z. (2009) Superfusion: How China and America Became One
Economy and Why the World’s Prosperity Depends on It. New York: Simon &
Schuster.
Katzenstein, P.J. (1976) International relations and domestic structures:
Foreign economic policies of advanced industrial states. International
Organization 30(1): 1–45.
Katzenstein, P.J. (ed.) (1978) Between Power and Plenty: Foreign
Economic Policies of Advanced Industrial States. Madison, WI: University of
Wisconsin Press.
Katzenstein, P.J. (1985) Small States in World Markets: Industrial Policy
in Europe. Ithaca, NY: Cornell University Press.
Kennedy, S. and Cheng, S. (2011) From Rule Takers to Rule Makers: The
Growing Role of Chinese in Global Governance. Bloomington, IN: Research
Center for Chinese Politics & Business, Indiana University.
15



TLD-22

Kent, A. (2007) Beyond Compliance: China, International Organizations,
and Global Security. Stanford, CA: Stanford University Press.
Kirshner, J. (2012) The tragedy of offensive realism: Classical realism and
the rise of China. European Journal of International Relations 18(1): 53–75.
Lai, D. (2011) The United States and China in Power Transition. Carlisle,
UK: Strategic Studies Institute.
Lake, D.A. (2009) Open economy politics: A critical review. Review of
International Organizations 4(3): 219–244.
Legro, J. (2005) What China will want: The future intentions of a rising
power. Perspectives on Politics 5(3): 515–534.
Lesage, D., Debaere, P., Dierckx, S. and Vermeiren, M. (2013) IMF reform
after the crisis. International Politics 50(4): 553–578.
Levy, J.S. (2008) Power-transition theory and the rise of China. In: R.S.
Ross and Z. Feng (eds.) China’s Ascent: Power, Security, and the Future of
International Politics. Ithaca, NY and London: Cornell University Press, pp. 11–
33.
Liang, W. (2007) China: Globalization and the emergence of a new status
quo power? Asian Perspectives 31(4): 125–149.
McNally, C.A. (2012) Sino-capitalism: China’s reemergence and the
international political economy. World Politics 64(4): 741–776.
Mearsheimer, J.J. (2001) The Tragedy of Great Power Politics. New York:
W. W. Norton.
Mearsheimer, J.J. (2010) The gathering storm: China’s challenge to US
power in Asia. Chinese Journal of International Politics 3(4): 381–396.
Moravcsik, A. (1997) Taking preferences seriously: A liberal theory of
international politics. International Organization 51(4): 513–553.
16



TLD-22

Nölke, A. (2012) The rise of the ‘B(R)IC-variety of capitalism’: Toward a
new phase of organized capitalism. In: H. Overbeek and B. van Apeldoorn (eds.)
Neoliberalism in Crisis. Basingstoke, UK and New York: Palgrave Macmillan,
pp. 117–137.
Nölke, A. (ed.) (2014) Emerging Markets Multinational Corporations:
State Capitalism 3.0. Basingstoke, UK and New York: Palgrave Macmillan.
Nölke, A., ten Brink, T., May, C. and Claar, S. (2014) Domestic structures,
foreign economic policies and global economic order: Implications from the rise
of large emerging economies. European Journal of International Relations,
advance online publication November 25, doi:10.1177/1354066114553682.
Organski, A.F.K. (1968) World Politics, 2nd edn. New York: Knopf. van
der Pijl, K. (1998) Transnational Classes and International Relations. London:
Routledge.
Putnam, R.D. (1988) Diplomacy and domestic politics: The logic of twolevel games. International Organization 42(3): 427–460.
Roy, D. (1996) The ‘China threat’ issue: Major arguments. Asian Survey
36(8): 758–771.
Schirm, S. (2013) Global politics are domestic politics: A societal approach
to divergence in the G 20.Review of International Studies 39(3): 685–706.
Shambaugh, D. (2013) China Goes Global: The Partial Power. Oxford:
Oxford University Press.
Steinfeld, E.S. (2010) Playing Our Game: Why China’s Economic Rise
Doesn’t Threaten the West.Oxford: Oxford University Press.
Stephens, M. (2014) Rising powers, global capitalism and liberal global
governance: A historical materialist account of the BRICs challenge. European
Journal of International Relations 20(4):912–938.
17



TLD-22

Strange, G. (2011) China’s post-Listian rise: Beyond radical globalisation
theory and the political economy of neoliberal hegemony. New Political
Economy 16(5): 539–559.
Tammen, R.L. and Kugler, J. (2006) Power transition and China-US
conflicts. Chinese Journal of International Politics 1(1): 35–55.
Ten Brink, T. and Nölke, A. (eds.) (2013) Staatskapitalismus (special
issue). dms – der moderne staat – Zeitschrift für Public Policy, Recht und
Management 6(3): 21–125.
Vestergaard, J. and Wade, R.H. (2013) Protecting power: How Western
states retain the dominant voice in the World Bank’s governance. World
Development 46(1): 153–164.
Wade, R. (2003) What strategies are viable for developing countries today?
The World Trade Organisation and the shrinking of ‘development space’. Review
of International Political Economy 10(4): 621–644.
Waltz, K.N. (1959) Man, the State, and War: A Theoretical Analysis. New
York: Columbia University Press.
Wouters, J., de Wilde d’Estmael, T., Defraigne, P. and Defraigne, J.-C.
(2012) China, the European Union and Global Governance. Cheltenham;
Northampton, UK: Edward Elgar.
Zakaria, F. (2009) The Post-American World. New York: W.W. Norton.

18


GIỚI THIỆU DỰ ÁN BIÊN DỊCH TÀI LIỆU HỌC THUẬT
VỀ KINH TẾ VÀ CHIẾN LƯỢC TRUNG QUỐC
Mục đích

Dự án Biên dịch tài liệu học thuật về Kinh tế và Chiến lược Trung Quốc là một dự án phi
chính trị, phi thương mại và phi lợi nhuận do Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc
thuộc VEPR (VCES) tổ chức thực hiện nhằm mục đích cung cấp, phát triển nguồn học liệu
có giá trị, cập nhật những thông tin kịp thời và có hệ thống, đồng thời cung cấp những nhận
định sâu sắc về chuyên ngành nghiên cứu kinh tế và chiến lược Trung Quốc bằng tiếng Việt,
góp phần thúc đẩy việc học tập, nghiên cứu các vấn đề về Trung Quốc tại Việt Nam.
Hoạt động chính
Hoạt động chính của Dự án Biên dịch tài liệu học thuật về Kinh tế và Chiến lược của
Trung Quốc là biên dịch sang tiếng Việt và xuất bản trên website của mình các tài liệu mang
tính học thuật bằng tiếng Trung, tiếng Anh về các vấn đề của Trung Quốc, trong đó chủ yếu
là về lĩnh vực kinh tế, chiến lược.
Nguồn tài liệu này chủ yếu là các bài báo trên các tập san quốc tế, các chương sách, tài
liệu hội thảo khoa học hoặc các tài liệu tương ứng, đã được xuất bản bởi các nhà xuất bản,
các trường đại học và viện nghiên cứu có uy tín trên thế giới.
Dự án ưu tiên biên dịch và xuất bản:


Các bài viết mang tính nền tảng đối với lĩnh vực Kinh tế và Chiến lược của Trung
Quốc;



Các bài viết có nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực này;



Các bài viết liên quan trực tiếp hoặc có ảnh hưởng, hàm ý gián tiếp đến Việt Nam;




Các bài viết được đông đảo độc giả quan tâm.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Trang chủ VEPR: www.vepr.org.vn
Thông tin thêm về dự án: Đang cập nhật
Danh mục các bài đã xuất bản: Đang cập nhật
Theo dõi Dự án trên Facebook:
/>Mọi ý kiến đóng góp và trao đổi xin vui lòng gửi tới:
Ms.Nguyễn Thị Thanh Tú
Email:
Hotline: 0906 069 196


NHỮNG TÁC PHẨM DỊCH KHÁC
TLD-18 Đô thị hóa và những cải cách liên hoàn về chế độ
đất đai - tài chính - hộ khẩu
TLD-19 Theo đuổi giấc mơ Trung Hoa - Những thay đổi
thể chế của nền ngoại giao Trung Quốc dưới thời Chủ tịch
Tập Cận Bình
TLD-20 Đánh giá sau 3 năm Chủ tịch Tập Cận Bình lên nắm
quyền* - Nhà sử học Tập Cận Bình với chủ nghĩa Mác,
quan điểm sử học Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc và chủ
nghĩa toàn cầu
TLD-21 Đánh giá sau 3 năm Chủ tịch Tập Cận Bình lên nắm
quyền** - Tác động của Tập Cận Bình đối với sự phát triển
luật pháp: trong nước và quốc tế

LIÊN HỆ
Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES)
Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)

Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Địa chỉ:

Phòng 707, Nhà E4
144 Xuân Thủy, Cầu Giấy
Hà Nội, Việt Nam

Tel:

(84-4) 3 754 7506 -704/714

Fax:

(84-4) 3 754 9921

Email:



Website:

www.vepr.org.vn

Bản quyền © VCES 2016



×