Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

SKKN kinh nghiệm bồi dưỡng giao lưu“tiếng việt của chúng em” dành cho học sinh dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.98 KB, 22 trang )

SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

I. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có một phong tục,
tập quán và chữ viết riêng, nhưng điểm chung là tất cả các dân tộc đều sử dụng
tiếng Việt để giao tiếp và học tập.
Trong những năm gần đây, giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho
học sinh dân tộc thiểu số (DTTS) đã trở thành hoạt động thiết thực của ngành Giáo
dục và Đào tạo, được áp dụng rộng rãi ở cấp tiểu học. Hoạt động này không những
chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy, học tập và rèn luyện kỹ năng tiếng Việt cho các em
DTTS tại các trường tiểu học trong toàn huyện, toàn tỉnh, mà còn là một sân chơi
bổ ích, góp phần phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, giúp học sinh yêu
thích môn học Tiếng Việt. Đồng thời xoá đi rào cản về ngôn ngữ giữa tiếng Việt
và tiếng dân tộc, giúp các em được giao lưu, học hỏi, tự tin, mạnh dạn hơn trong
học tập và sinh hoạt. Chính vì vậy, để hoạt động giao lưu “Tiếng Việt của chúng
em” dành cho học sinh DTTS tại các cơ sở có chất lượng đòi hỏi các nhà trường
cần chú trọng, quan tâm giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và công tác bồi
dưỡng các kĩ năng sử dụng tiếng Việt nói riêng là vô cùng quan trọng.
Đối với bản thân, nhiều năm được nhà trường cũng như Lãnh đạo Phòng
Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) phân công nhiệm vụ bồi dưỡng các em học sinh
DTTS tham gia giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” cấp huyện, cấp tỉnh. Mặc dù
đối tượng học sinh khi tham gia giao lưu các cấp đã được chọn lọc trong tổng số
học sinh DTTS của toàn trường (đối với cấp huyện) và từ các đơn vị (đối với cấp
tỉnh) nhưng tôi thấy: phần lớn kĩ năng nói, viết, sử dụng tiếng Việt của các em còn
hạn chế, thiếu tự tin trước tập thể; nhiều em thực sự chưa có năng khiếu về múa,
hát hoặc hùng biện,... Đó là khó khăn lớn nhất của bản thân cũng như giáo viên
thực hiện công tác bồi dưỡng. Là một cán bộ quản lý, tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ
làm thế nào để khắc phục khó khăn trên để luôn giữ vững và phát huy các thành
tích đã đạt được, góp phần nâng cao chất lượng học tập các môn học, giúp các em
DTTS yêu tiếng Việt hơn và mạnh dạn, tự tin trước tập thể. Xuất phát từ những lí


do trên, năm học này tôi quyết định chọn đề tài “Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu
Tiếng Việt của chúng em dành cho học sinh dân tộc thiểu số” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Giúp học sinh dân tộc thiểu số của nhà trường phát triển tốt các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết; yêu thích tiếng Việt và mở rộng vốn hiểu biết về tiếng Việt.
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

1


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

Giúp học sinh tự tin, mạnh dạn trước tập thể, yêu quý bản sắc văn hóa dân tộc, từ
đó vận dụng tốt vào các môn học và hoạt động giáo dục.
Nghiên cứu thực trạng của đơn vị và đưa ra một số biện pháp giúp học sinh
ham thích học tập môn Tiếng Việt, nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học
sinh DTTS và chất lượng môn Tiếng Việt trong trường nhằm đáp ứng yêu cầu đổi
mới hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Công tác bồi dưỡng giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh
dân tộc thiểu số.
4. Giới hạn của đề tài
Chất lượng học sinh dân tộc thiểu số tham gia giao lưu “Tiếng Việt của
chúng em” cấp huyện, cấp tỉnh của trường TH Trần Phú qua các năm học 2012 2013 đến năm học 2016 - 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp trải nghiệm thực tế.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
II. Phần nội dung

1. Cơ sở lý luận
Năm học 2009 - 2010, các Sở Giáo dục và Đào tạo Lào Cai, Lạng Sơn, Bắc
Giang, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đắk Nông, Bình Phước, Đồng Nai,… đã triển
khai hoạt động giao lưu tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số và đạt được kết
quả đáng khích lệ. Các Sở Giáo dục và Đào tạo trên đều nhận thấy: Chương trình
giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” rất bổ ích cho học sinh dân tộc thiểu số cấp
tiểu học, giúp các em được giao lưu học hỏi, nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt.
Để tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua học tốt môn Tiếng Việt của học sinh dân
tộc thiểu số, ngày 18/11/2010 đồng chí Mông Ký Slay - Vụ trưởng Vụ Giáo dục
Dân tộc - thay mặt Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai công văn số
7758/BGDĐT-GDDT V/v tổ chức giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” cho học
sinh DTTS chỉ đạo yêu cầu các Sở Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tổ chức hoạt động
giao lưu tiếng Việt cho học sinh DTTS với chủ đề “Tiếng Việt của chúng em”.
Hình thức tổ chức là thành lập các đội tham gia giao lưu ở các cấp (cấp trường, cấp
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

2


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

huyện, cấp tỉnh); tiến hành giao lưu giữa học sinh các lớp trong khối, giữa các
trường trong huyện và giữa các huyện trong tỉnh. Tổ chức chấm điểm cho mỗi nội
dung giao lưu để tạo không khí thi đua giữa các lớp, các trường, các huyện, các
tỉnh.
Đắk Lắk là nơi hội tụ 47 dân tộc anh em cùng chung sống, tạo cho mảnh đất
này có nền văn hóa vô cùng đặc sắc và đa dạng. Chiếm hơn 32% tổng dân số trên
địa bàn tỉnh, con em đồng bào dân tộc thiểu số sống trải đều khắp từ nông thôn đến
thành thị.Theo thống kê đầu năm học 2017-2018, tỉ lệ học sinh DTTS cấp tiểu học
chiếm số lượng cao nhất (trên 40% số học sinh toàn tỉnh). Vì thế tỉnh Đắk Lắk đã

có nhiều biện pháp tích cực trong việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số
như: chỉ đạo dạy tăng thời lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp Một từ 350 tiết
lên 500 tiết; tổ chức dạy học theo tài liệu Bài tập bổ trợ tiếng Việt cho học sinh các
lớp 1,2,3; ưu tiên dạy 2 buổi/ngày đối với học sinh lớp 1,.... Đặc biệt, quan tâm chỉ
đạo các đơn vị trường học từ cấp trường đến cấp tỉnh đẩy mạnh hoạt động giao lưu
“Tiếng Việt của chúng em”. Tính đến nay, Sở GD&ĐT Đắk Lắk đã tổ chức nhiều
hoạt động sáng tạo, thiết thực, trong đó có 03 lần tổ chức hoạt động giao lưu
“Tiếng Việt của chúng em” cho học sinh DTTS cấp tỉnh.
Hiện nay, toàn ngành đang tiếp tục thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục - đào tạo theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW, nâng cao hơn
nữa chất lượng giáo dục, nhất là giáo dục học sinh dân tộc, Đề án 1008/QĐ-CP về
tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số”
giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025 của Chính phủ thực sự có ý
nghĩa. Việc đưa tiếng Việt đến với học sinh tiểu học nói chung và học sinh dân tộc
thiểu số nói riêng là nhiệm vụ hết sức quan trọng, góp phần tạo nền tảng vững chắc
để các em tiếp thu kiến thức của những môn học khác và giao tiếp tự tin hơn. Để
tiếp thêm tình yêu tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, phát triển cho các em
bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và kĩ năng sử dụng tiếng Việt một cách thành thạo,
giúp các em tự tin, mạnh dạn khi đến trường, hàng năm trường Tiểu học Trần Phú
đã chú trọng hoạt động giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh
DTTS và tổ chức dạy học tăng thời lượng đối với môn Tiếng Việt cho các em học
sinh tại Phân hiệu Buôn Trấp.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Trường Tiểu học Trần Phú là một đơn vị hàng năm có sĩ số học sinh đông
nhất toàn huyện, trong đó tỉ lệ học sinh DTTS chiếm khá cao (219/721 em, tỉ lệ
33,3%) và có một điểm trường với 100% học sinh là người dân tộc thiểu số tại chỗ.
Mặc dù nhà trường luôn nhận được sự quan tâm của các cấp, đội ngũ giáo viên có
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

3



SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

năng lực chuyên môn vững vàng và đã tổ chức dạy học Tiếng dân tộc (tiếng Ê-đê)
cho các em học sinh từ lớp 3 đến lớp 5 tại phân hiệu Buôn Trấp nhưng chất lượng
môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác của học sinh DTTS hàng năm vẫn còn
thấp so với học sinh toàn trường. Ngoài ra, hàng năm việc tổ chức giao lưu “Tiếng
Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS cấp trường và công tác bồi dưỡng đội
tuyển tham gia giao lưu các cấp cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tất cả những vấn đề
trên đều xuất phát từ một số nguyên nhân sau :
- Đa số học sinh DTTS học tập tại nhà trường khả năng tiếp thu chậm, vốn
tiếng Việt hạn chế, khó khăn về cách phát âm. Nhiều em đọc viết chưa thông thạo,
kĩ năng giao tiếp thiếu mạnh dạn trước tập thể. Tỉ lệ học sinh lưu ban hàng năm tại
phân hiệu còn cao.
- Môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt của học sinh DTTS tại gia đình và
cộng đồng hạn hẹp và không thuần nhất.
- Nhiều tiết tiếng Việt giáo viên chưa gây được hứng thú học tập cho các em.
- Một số giáo viên chưa quan tâm tổ chức các buổi hoạt động ngoại khóa nên
chưa khích lệ, lôi cuốn học sinh tham gia một cách tích cực.
- Đội tuyển các khối lớp tham gia giao lưu cấp trường chất lượng chưa cao.
Việc tìm kiếm trang phục và các phụ kiện đúng nguồn gốc, đúng nguyên bản của
từng dân tộc xưa kia để lại rất là hiếm hoi.
* Những yếu tố tác động các nguyên nhân trên là:
Thứ nhất, nhiều học sinh hoàn cảnh gia đình kinh tế còn khó khăn, bố mẹ đi
làm ăn xa nhà, chưa quan tâm đúng mực về việc học tập của các con, còn giao
khoán cho nhà trường.
Thứ hai, thực tế cho thấy học sinh DTTS chỉ sử dụng tiếng Việt khi ở trường,
còn khi về nhà các em giao tiếp với bố mẹ và cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ. Đó
chính là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng

Việt của các em gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc xây dựng môi trường tiếng Việt
cho học sinh DTTS ngay tại gia đình và cộng đồng là việc làm không thể thiếu
nhằm tăng cường tiếng Việt thực sự hiệu quả.
Thứ ba, vì trình độ nhận thức của các em chưa đồng đều, nhiều em bị hổng
kiến thức cơ bản từ các lớp dưới. Vì thế, trong tiết học giáo viên vừa giảng lại kiến
thức cũ, vừa hướng dẫn các em lĩnh hội kiến thức mới nên không có thời gian để tổ
chức các phương pháp, hình thức dạy học theo hướng đổi mới.
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

4


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

Thứ tư, bản thân một số giáo viên năng khiếu hạn chế, chưa làm tốt công tác
phối hợp với các đoàn thể để tổ chức phong phú hoạt động tập thể. Vì thế, chưa
khích lệ, lôi cuốn học sinh tham gia một cách tích cực, dẫn đến các em còn rụt rè,
nhút nhát hoặc chưa hòa đồng với bạn bè.
Thứ năm, học sinh DTTS vốn tiếng Việt và năng khiếu hạn chế, thiếu mạnh
dạn trước tập thể nên các em thực hiện các phần chào hỏi hay năng khiếu của cả
đồng đội chưa đều, chưa làm chủ phần trình bày của mình. Hơn nữa, các đội chưa
chú ý tuyển chọn học sinh theo hình thức “đa dân tộc” để làm phong phú sắc màu
của đội tuyển. Một số giáo viên chưa hiểu rõ phong tục, tập quán của các dân tộc
thiểu số, đặc biệt là dân tộc thiểu số phía Bắc (Tày, Nùng, Mường, Thái) nên trong
công tác bồi dưỡng chưa truyền được cảm hứng để các em thâm nhập một cách
hiệu quả cũng như khó khăn trong tìm kiếm trang phục của mỗi dân tộc.
Từ những khó khăn trên, các cơ sở giáo dục trong địa bàn huyện nhiều năm
qua đã tổ chúc tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề cho giáo viên về việc tăng cường dạy
tiếng Việt cho học sinh DTTS, tổ chức các hoạt động thiết thực, bổ ích như giao
lưu tiếng Việt,... Riêng trường TH Trần Phú cũng đã thực hiện nhiều giải pháp để

nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt và đạt hiệu quả cao trong các đợt giao
lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS cấp huyện, cấp tỉnh.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp
- Tìm ra nguyên nhân cơ bản dẫn đến học sinh dân tộc thiểu số yếu về kỹ
năng nói, viết tiếng Việt và một số biện pháp phù hợp trong việc rèn bồi dưỡng học
sinh dân tộc thiểu số có kĩ năng sử dụng tiếng Việt linh hoạt, chính xác.
- Nâng cao chất lượng học tập nói chung; chất lượng nghe, nói, đọc, viết
tiếng Việt của các em học sinh dân tộc thiểu số nói riêng.
- Nâng cao chất lượng học sinh tham gia “Tiếng Việt của chúng em” dành
cho HSDTTS ở các cấp.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
a) Nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa của hoạt động giao lưu tiếng
Việt dành cho học sinh dân tộc thiểu số
Một trong những đặc điểm của học sinh DTTS nói chung và học sinh DTTS
Tây Nguyên nói riêng: vốn tiếng Việt và môi trường giao tiếp hạn hẹp, nhất là về
cách phát âm. Ở nhà, đa số phụ huynh thường giao tiếp với con em bằng tiếng mẹ
đẻ. Do đó, kĩ năng sử dụng tiếng Việt của các em phát triển chậm, vấn đề “rào cản”
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

5


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

ngôn ngữ khiến đa số các em nhút nhát, ngại giao tiếp. Đó cũng là nguyên nhân dẫn
đến các em không thích học môn Tiếng Việt và học chưa tốt các môn học khác.
Với việc tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển kĩ
năng cho học sinh như hiện nay và chú trọng nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt
cho học sinh DTTS, trong những năm gần đây các cơ sở giáo dục đã rất quan tâm

tới hoạt động giao lưu tiếng Việt. Bởi mục đích của hoạt động này nhằm đẩy mạnh
phong trào thi đua dạy tốt, học tốt môn Tiếng Việt trong các nhà trường; bồi đắp
tình yêu tiếng Việt, nâng cao các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và kĩ năng sử dụng
tiếng Việt để học tập, giao tiếp đối với học sinh dân tộc thiểu số. Đồng thời tạo sân
chơi trí tuệ, bổ ích giúp các em học sinh DTTS có cơ hội tiếp cận, học hỏi lẫn nhau,
luôn luôn có lòng tự tin và tinh thần hợp tác với tập thể. Chính vì vậy, việc tổ chức
giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” cho học sinh dân tộc thiểu số là một hoạt động
ngoại khóa bổ ích và thiết thực.
Để hoạt động giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” cho học sinh dân tộc thiểu
số hàng năm tại đơn vị thực sự có hiệu quả, bản thân đã làm tốt việc nâng cao nhận
thức đến đội ngũ giáo viên: tập trung dạy chắc kiến thức cơ bản các môn học (đặc
biệt là môn Tiếng Việt), chú trọng rèn các kĩ năng cần thiết (nghe, đọc, nói, viết và
kỉ năng sử dụng tiếng Việt), quan tâm giúp các em hiểu thêm nét văn hóa đặc trưng
của dân tộc mình, giáo dục học sinh tinh thần đoàn kết thân ái trong các lớp và toàn
nhà trường,... Và yêu cầu tất cả giáo viên xem đây là một hoạt động thường niên,
quan trọng, gắn với tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
b) Lập kế hoạch bồi dưỡng phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị
Thông thường nội dung giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học
sinh DTTS gồm có 4 phần: Giao lưu đồng đội; Kiến thức tiếng Việt ; Hùng biện và
Năng khiếu.
Bám sát nội dung kế hoạch của các cấp, căn cứ vào tình hình thực tế của đơn
vị, bản thân đã xây dựng nội dung kế hoạch tổ chức như sau:
- Đối với cấp tổ: Giao quyền chủ động cho tổ trưởng tổ chuyên môn lên kế
hoạch, linh hoạt về nội dung và phối hợp với các giáo viên chủ nhiệm trong tổ để tổ
chức. Mỗi tổ chọn 05 học sinh nổi trội tiến hành bồi dưỡng tham gia giao lưu cấp
trường.
- Đối với cấp trường: Tổ chức giao lưu theo hình thức tập trung, bao gồm
các nội dung sau:
+ Phần 1: Phần giao lưu đồng đội (12 phút)
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú


6


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

Các thành viên trong đội tự giới thiệu về mình, về đội mình bằng tiểu phẩm,
múa hát, hò, vè, … mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số.
+ Phần 2: Phần kiến thức tiếng Việt (20 phút)
Mỗi học sinh nghe - viết một bài thơ hoặc đoạn văn bằng kiểu chữ viết tự
chọn. Riêng học sinh lớp 1 viết một số tiếng, từ (cỡ chữ nhỡ) và câu ứng dụng (cỡ
chữ nhỏ) theo mẫu chữ quy định.
+ Phần 3: Phần năng khiếu (10 phút).
Các thành viên trong đội tham gia trình bày bằng tiểu phẩm hoặc hát múa.
+ Phần 4: Phần hùng biện (5 phút)
Mỗi đội cử 01 đại diện nói về tình cảm của em với thầy cô, bạn bè trong lớp.
Các nội dung trên sẽ được linh động trong từng khối lớp. Riêng khối 1 và 2
chỉ tham gia ba nội dung đầu, phần hùng biện không bắt buộc. Số lượng học sinh
tham gia ít nhất 05 em/khối. So với kế hoạch của Phòng GD&ĐT, tôi đã xây dựng
nội dung kế hoạch giao lưu cấp trường theo hướng mở, linh động giữa các khối,
không tạo áp lực thi cử mà chủ yếu giúp các em được giao lưu với bạn bè, được
nói, viết và sử dụng tiếng Việt trước tập thể nhằm tạo một sân chơi bổ ích, lí thú.
c) Thành lập đội tuyển và hội đồng bồi dưỡng
- Thành lập đội tuyển :
Để hoàn thành các phần thi khi tham gia giao lưu “Tiếng Việt của chúng em”
đòi hỏi mỗi học sinh DTTS phải đọc thông thạo, phát âm chuẩn, viết đúng lỗi chính
tả, nắm chắc kiến thức cơ bản môn Tiếng Việt và thực sự có năng khiếu về hát hoặc
múa, diễn xuất,... Vì thế, việc lựa chọn học sinh đảm bảo đáp ứng các phần thi trên
để bồi dưỡng là vô cùng khó khăn. Ngoài ra, trường chúng tôi quan tâm đến việc
thành lập đội tuyển đa sắc màu về cả trang phục, phong tục, tập quán của nhiều dân

tộc thiểu số đến từ các vùng miền khác nhau nhằm tạo sự phong phú, đa dạng trong
phần thi “giao lưu đồng đội”.
Chẳng hạn: Toàn trường có 219 em DTTS, trong đó: Ê-đê 154 em, Thái 04
em, Mường 56 em, Nùng 03 em, Sán chỉ 01 em và H’rê có 01 em. Song khi thành
lập đội tuyển, chúng tôi không chọn tập trung các em dân tộc Mường, Ê-đê mà
chọn trải đều 06 em với sáu loại hình dân tộc khác nhau và chọn có số dư so với số
lượng quy định để trong quá trình bồi dưỡng có phương án loại trừ một số em
chậm.

Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

7


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

Căn cứ vào kết quả thực tế tại buổi giao lưu, Ban tổ chức cấp trường tiến
hành thành lập đội tuyển với số lượng học sinh theo quy định (06 em: từ lớp 3 đến
lớp 5, mỗi khối 02 em) và cử giáo viên bồi dưỡng để tham gia giao lưu cấp huyện.
Trong những năm qua, trường Tiểu học Trần Phú tổ chức cho học sinh giao lưu cấp
trường bài bản nên các đợt tham gia giao lưu cấp huyện đều đạt kết quả rất cao.
Theo tôi, để đạt được kết quả đó là vì các em đã có sự trải nghiệm, trau chuốt về kĩ
năng nói, viết và sử dụng tiếng Việt, kĩ năng hợp tác, kĩ năng đứng trước tập thể,....
qua buổi sinh hoạt giao lưu cấp trường.
- Thành lập hội đồng bồi dưỡng :
+ Cấp trường:
Chủ tịch hội đồng bồi dưỡng: Hiệu trưởng
Phó chủ tịch hội đồng bồi dưỡng: Phó Hiệu trưởng
Các thành viên hội đồng bồi dưỡng: Các tổ trưởng tổ chuyên môn, giáo viên
dạy Âm nhạc, Mĩ thuật và Chi đoàn thanh niên.

+ Cấp huyện :
Phòng Giáo dục và Đào tạo thành lập đội tuyển và hội đồng bồi dưỡng. Đội
tuyển học sinh được lựa chọn từ nhiều đơn vị ; hội đồng bồi dưỡng được điều động
một số giáo viên hoặc cán bộ quản lí có năng lực, có kinh nghiệm; giáo viên dạy
Âm nhạc, Mĩ thuật thực sự có năng khiếu làm thành viên. Bởi Giao lưu “Tiếng Việt
của chúng em” thực hiện nhiều phần, các phần không những liên quan đến kiến
thức tiếng Việt mà còn đòi hỏi năng khiếu diễn xuất, hát, múa,… Vì thế, các thành
viên trong tổ bồi dưỡng mỗi người một nhiệm vụ khác nhau song luôn hỗ trợ nhau
trong quá trình tập luyện.
d) Xây dựng nội dung và quy trình bồi dưỡng tham gia giao lưu các cấp
* Phần giao lưu đồng đội (Chào hỏi):
Lần lượt từng thành viên trong đội tuyển giới thiệu về nét văn hóa cơ bản đặc
trưng của dân tộc mình như: trang phục, lễ hội, phong tục tập quán, sinh hoạt,…
thông qua đọc vè, đọc thơ. Qua phần giao lưu đồng đội giúp các em hình thành kĩ
năng giao tiếp trực tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt, từ đó các em hiểu và yêu mến
dân tộc của mình hơn.
- Đầu tiên, xác định hình thức thể hiện: Để viết được kịch bản hay, nội dung
vừa thể hiện rõ nét đặc trưng của từng dân tộc, vừa vui nhộn thì chúng tôi đã chọn
hình thức đọc vè hoặc tiểu phẩm ngắn kết hợp đọc ráp.
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

8


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

- Xây dựng nội dung kịch bản: Tìm nét đặc trưng về phong tục tập quán, văn
hóa của từng dân tộc để đưa vào nội dung kịch bản. Lựa chọn trang phục phù hợp,
đúng nguồn gốc mỗi DTTS. Chẳng hạn:
+ Dân tộc Nùng: có làn điệu dân ca đậm đà bản sắc dân tộc đó là hát Sli.

Nghề nghiệp chính là trồng lúa, ngô và cây hồi ; món ăn độc đáo là món "Khau
nhục". Hàng năm, vào độ tháng giêng có lễ hội "Lồng tồng”.
+ Dân tộc Mường: Trang phục là váy màu áo pắn. Các trò chơi dân gian
gồm: ném còn, bắn nỏ, cồng, nhị, sáo, khèn; lễ hội đầu năm thường múa sạp, hát
đồng dao, hát đối,...
+ Dân tộc Ê-đê: là nơi có rừng cà phê bạt ngàn. Nghề nghiệp chính là trồng
lúa, hoa màu; lễ hội ăn mừng lúa mới, mọi người đánh cồng chiêng, hát xoan, uống
rượu cần,...
+ Dân tộc Thái: Trang phục truyền thống nữ là áo ngắn bó sát người có hàng
cúc bướm bạc trên hai vạt áo, chiếc khăn Piêu, thắt lưng . Món ăn truyền thống là
xôi nếp, cơm lam. Lễ hội thường múa sạp, múa xòe hoa, cá suối nướng than,...

Trang phục truyền thống các DTTS (tính theo thứ tự từ trái sang phải) :
Mường (số 1&9), Ê-đê (số 2, 7&8), H’rê (số 3), Thái (số 4), Tày (số 5), Nùng (số 6)

- Viết kịch bản: bằng thơ 4 đến 5 chữ (đối với hình thức đọc vè) hoặc bằng
văn xuôi theo lời thoại của các nhân vật kết hợp thơ (đối với tiểu phẩm),...
- Thẩm định kịch bản: Lãnh đạo nhà trường góp ý, bổ sung; tổ bồi dưỡng
hoàn chỉnh kịch bản.

Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

9


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

- Cuối cùng là khâu tập luyện: Trước khi tập luyện, giáo viên yêu cầu các em
học thuộc kịch bản, phân vai, phân đoạn phù hợp với từng học sinh hoặc cả đồng
đội. Sau đó, phối hợp với giáo viên Âm nhạc để tập cho các em cách di chuyển đội

hình, cách thể hiện ngữ điệu, biểu cảm trong khi trình bày. Phối hợp với giáo viên
phụ trách Công nghệ thông tin của nhà trường tìm một số hình ảnh minh họa phù
hợp với nội dung kịch bản (như: trò chơi ném còn, múa sạp, hát xoan, đánh cồng
chiêng, thồi khèn, sáo, hát sli trong các lễ hội ; các món ăn cơm lam, món khau
nhục, cá suối nướng than,...). Thiết kế chạy trên phần mềm và trình chiếu khi học
sinh hùng biện. Hướng dẫn các em biết tương tác với những hình ảnh đã đưa ra.

Phần giao lưu đồng đội năm học 2016 - 2017

* Phần kiến thức:
Đây là một bài thi viết bao gồm hệ thống câu hỏi, bài tập tự luận và trắc
nghiệm liên quan đến kiến thức ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, tập làm văn trong
chương trình tiểu học lớp 3,4,5.
Vì vậy, chúng tôi chia đội tuyển thành hai nhóm để bồi dưỡng: lớp 3 và lớp
4, 5. Căn cứ vào chương trình môn Tiếng Việt từng khối lớp, tôi tiến hành bồi
dưỡng kiến thức theo chương trình học từ dễ đến khó, từ cơ bản đến nâng cao.
Trong quá trình ôn kiến thức, tôi ra bài kiểm tra giấy gồm hai phần: trắc nghiệm
(10 câu thuộc các phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu) và tự luận (01 câu
thuộc phân môn Tập làm văn). Qua kiểm tra nhằm đánh giá kĩ năng viết chính tả,
tập làm văn và khả năng nắm bắt kiến thức về môn Tiếng Việt của học sinh DTTS
tại nhà trường, từ đó có kế hoạch điều chỉnh, bổ sung kiến thức cho các em kịp thời
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

10


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

hoặc có thể loại dần đối với một số em còn non chưa đáp ứng được trong các đợt
giao lưu các cấp.

* Phần hùng biện:
Tương tự như phần “giao lưu đồng đội”, bám vào nội dung ba chủ đề của
Ban tổ chức quy định, tôi phân công nhiệm vụ trong tổ bồi dưỡng viết các bài hùng
biện. Tiến hành thẩm định, chỉnh sửa nội dung (nếu có). Trao đổi ý tưởng với đồng
chí phụ trách công nghệ thông tin để thiết kế hình ảnh minh họa phù hợp cho từng
chủ đề.
Chọn khoảng 2 đến 3 học sinh có
chất giọng tốt nhất và có kĩ năng học
thuộc nhanh để giao bài cho các em (mỗi
em khoảng 02 chủ đề). Cùng với giáo
viên Âm nhạc tiến hành tập luyện, hướng
dẫn các em cách di chuyển đội hình,
giọng điệu, biểu cảm, cách tương tác với
hình ảnh, với khán giả,... trong khi trình
bày. Qua phần hùng biện, Ban tổ chức sẽ
đánh giá được khả năng diễn thuyết bằng
tiếng Việt và tính mạnh dạn, tự tin trước
tập thể của từng học sinh.

Phần hùng biện của em H’ Trang Byă giao lưu NH 2016 - 2017

* Phần năng khiếu:
Đây là phần giao lưu thu hút khán giả nhiều nhất. Các em được thể hiện năng
khiếu của bản thân qua các phần như: kể chuyện, hát, múa, kịch,... tạo nên không
khí vui tươi, giúp các em thêm yêu tiếng Việt, từ đó kích thích sự hứng thú, say mê
học tập môn Tiếng Việt.
Đầu tiên, các thành viên trong tổ bồi dưỡng thảo luận, nêu ý tưởng, chọn lựa
nội dung và hình thức giao lưu. Tiếp theo, giao nhiệm vụ cho giáo viên dạy Âm
nhạc tập luyện và có sự giám sát của tổ bồi dưỡng.
Để xây dựng một màn trình diễn ấn tượng, thuyết phục và lấy được lòng

khán giả, chúng tôi lựa chọn nội dung mang tính thời sự hoặc là điểm “nóng” về
những vấn đề nổi cộm của xã hội để dàn dựng tiết mục. Chẳng hạn: Trong đợt giao
lưu tiếng Việt cấp tỉnh năm học 2013 - 2014, tình hình an ninh chính trị ở biển
Đông bất ổn bởi thời điểm đó quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa của nước ta và vùng
biển một số nước khác đang nằm trong tầm ngắm của bọn giặc. Vì vậy, chúng tôi
mạnh dạn chọn phần thi năng khiếu với hình thức hát múa phụ họa liên khúc
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

11


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

“Thương lắm Trường Sa ơi !” và “Chú bộ đội đảo xa”, kết hợp 02 em vẽ bản đồ
Việt Nam. Kết thúc phần năng khiếu là bài hùng biện ngắn giới thiệu về vùng biển
nước ta, đưa ra thông điệp khẳng định “Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam !”.
Tiết mục này được Ban giám khảo
và các đội bạn đánh giá cao về cả ý
tưởng và giọng hát của các em.
Hoặc năm học 2016 - 2017, chúng
tôi bám vào chủ đề “Giao lưu tiếng
Việt của chúng em dành cho học
sinh DTTS” để chọn bài hát
“Thương ca tiếng Việt” tập cho đội
tuyển nhằm ca ngợi tiếng Việt, ca
ngợi dân tộc Việt Nam ta. Tiết mục
này cũng rất xuất sắc và đạt giải Ba
Tiết mục“Thương ca Tiếng Việt” đạt giải Ba giao lưu 2016 - 2017
phần năng khiếu.
- Tham gia giao lưu cấp tỉnh:

Căn cứ vào kết quả giao lưu cấp huyện, Phòng Giáo dục và Đào tạo chọn
những học sinh xuất sắc từ các đơn vị, thành lập đội tuyển, tổ bồi dưỡng và tiến
hành tập luyện, bồi dưỡng cho học sinh. Công tác bồi dưỡng lần này gặp rất nhiều
khó khăn, bởi đối tượng học sinh không phải của một trường, số lượng của đội
tuyển so với giao lưu cấp huyện đông hơn 03 em, phụ huynh ngày 2 buổi phải đưa
đón học sinh đi lại trong quá trình bồi dưỡng. Để khắc phục khó khăn trên, Phòng
Giáo dục và Đào tạo đã có một buổi đầu tiên gặp mặt, làm công tác tư tưởng với
Phụ huynh có con em tham gia và giao trách nhiệm cho các nhà trường phối hợp
chặt chẽ với Phòng GD&ĐT thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời gian bồi dưỡng đến
hết cuộc giao lưu. Riêng bản thân tôi cùng với một nhóm giáo viên trường khác
được cử tham gia trong tổ bồi dưỡng. Chúng tôi lập kế hoạch, lịch làm việc và chia
mảng để bồi dưỡng có tính chuyên sâu.
Với quy trình làm việc như trên cộng thêm tổ bồi dưỡng làm việc nhiệt tình,
trách nhiệm và khoa học nên cả ba lần tham gia giao lưu cấp tỉnh đều mang lại
thành tích cao cho Ngành giáo dục huyện nhà.
e) Chú trọng tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ; tổ chức
tốt việc giao lưu tại cấp trường.
Thực tế cho thấy, phần lớn học sinh DTTS khả năng tiếp thu chậm, kĩ năng
sử dụng tiếng Việt hạn chế; đọc bài và viết chính tả các em thường mắc lỗi truyền
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

12


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

thống là sai dấu thanh (những chữ có thanh hỏi và nặng viết thành thanh sắc hoặc
không có dấu). Vì thế, việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh DTTS trong giai
đoạn hiện nay được các cơ sơ giáo dục nói chung và trường Tiểu học Trần Phú nói
riêng quan tâm chú trọng. Là một cán bộ quản lí phụ trách hoạt động chuyên môn,

bám sát Công văn số 2805/QĐ-BGDĐT ngày 05/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc triển khai thực hiện Quyết định số 1008/QĐ-TTg ngày
02/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Tăng cường tiếng Việt học
sinh tiểu học vùng DTTS giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025, tôi chỉ đạo
giáo viên tăng cường tiếng Việt cho học sinh DTTS bằng nhiều hình thức như: tăng
cường tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp 1; dạy tăng thời lượng dạy tiếng Việt từ
350 tiết lên 500 tiết ; tăng cường tiếng Việt thông qua các môn học ; tổ chức giao
lưu tiếng Việt giữa các khối lớp; tổ chức dạy học tiếng Ê-đê theo tài liệu của Ban
Nghiên cứu Dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk cho học sinh các lớp 3,4,5 với 04
tiết/tuần (trong đó: 02 tiết học chính khóa và 2 tiết sinh hoạt tập thể), xây dựng
“Thư viện thân thiện”, hướng dẫn học sinh sử dụng tiếng Việt mọi lúc mọi nơi,...
Theo xu hướng phổ biến hiện nay, ngoài việc truyền thụ kiến thức theo
chương trình học cho học sinh thì ở tiểu học áp dụng việc dạy học tích hợp, lồng
ghép một số nội dung vào các môn học. Tích hợp kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp
và kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh DTTS được đặt lên hàng đầu. Vì vậy,
đối với học sinh DTTS, trong các tiết học giáo viên tăng cường sử dụng đồ dùng
dạy học trực quan; cho học sinh được thực hành nhiều hơn về kỹ năng sử dụng
tiếng Việt để thực hiện các yêu cầu của bài học, môn học; tăng cường phụ đạo
những kiến thức đã học từ các lớp dưới mà học sinh bị hổng,... Ngoài ra, tổ chức
các buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, ngoài giờ lên lớp; vận động phụ
huynh tham gia vào việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh qua việc hỗ trợ con
học tiếng Việt tại nhà để tạo cơ hội, môi trường giao tiếp, từ đó mở rộng môi
trường tiếng Việt tại gia đình và cộng đồng.
Trong những năm gần đây, các cấp của ngành giáo dục trên toàn quốc đã tổ
chức Giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh dân tộc thiểu số. Đây
là một hoạt động đầy ý nghĩa và mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự đoàn
kết giữa các dân tộc anh em đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hoạt động này
đã thực sự lan tỏa, nhân rộng trong các trường tiểu học tỉnh Đắk Lắk nói chung và
huyện Krông Ana nói riêng. Chính vì vậy, hằng năm đơn vị Tiểu học Trần Phú đã
tổ chức tốt việc giao lưu cấp trường. Thành lập các đội (theo khối) và tiến hành

giao lưu giữa các khối lớp thuộc hai điểm trường. Đây là dịp để các em được giao
lưu, trải nghiệm giúp các em hiểu về bản sắc dân tộc mình hơn, tự tin mạnh dạn
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

13


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

trước tập thể và thuận lợi trong việc lựa chọn đội tuyển tham gia cấp huyện, cấp
tỉnh.
g) Làm tốt công tác phối hợp để mở rộng môi trường giao tiếp bằng tiếng
Việt cho học sinh trong nhà trường và cộng đồng.
Để chất lượng các đợt giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học
sinh DTTS tham gia các cấp có chất lượng đòi hỏi phải làm tốt công tác phối hợp
với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, các đồng chí trong tổ bồi dưỡng, tổ
chức Đoàn - Đội trong nhà trường và tổ dân phố nơi các em cư trú. Bởi qua giao
lưu không những phát triển cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; nâng cao
kỹ năng sử dụng Tiếng Việt mà còn phát triển năng khiếu của từng em, bồi dưỡng
lòng tự tin, tinh thần hợp tác và hướng phấn đấu trong tương lai cho học sinh
DTTS. Chính vì vậy, bản thân tôi đã thực hiện công tác phối hợp như sau:
- Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn:
Ngoài việc tăng cường sử dụng đồ dùng dạy học trực quan trong các tiết học,
dạy tăng thời lượng môn Tiếng Việt cho đại trà học sinh DTTS trên lớp, tôi định
hướng giáo viên xây dựng hệ thống bài tập phân hóa để bồi dưỡng thêm kiến thức
tiếng Việt cho các em học sinh DTTS trong đội tuyển. Trao đổi với giáo viên chủ
nhiệm, giáo viên bộ môn về việc bồi dưỡng một số kĩ năng như: đọc diễn cảm, rèn
chữ viết theo kiểu chữ sáng tạo, trình bày sạch đẹp, cân đối; cách dùng từ trong viết
văn sao cho có hình ảnh,… và hình thành thói quen cẩn thận, chắc chắn khi học tập
các môn.

Thường xuyên trao đổi về quá trình tham gia tập luyện để giáo viên chủ
nhiệm đôn đốc, nhắc nhở các em thực hiện tốt.
- Phối hợp với các giáo viên trong tổ bồi dưỡng:
+ Phần năng khiếu: Các thành viên trong tổ bồi dưỡng thảo luận, đưa ra ý
tưởng, chọn lựa hình thức (hát hoặc múa) và nội dung (lựa chon điểm “nóng” mang
tính thời sự hoặc những vấn đề nổi cộm của xã hội theo giai đoạn). Sau đó giao
nhiệm vụ cho giáo viên dạy Âm nhạc tập luyện, tổ bồi dưỡng điều chỉnh nếu thấy
chưa phù hợp.
+ Các phần hùng biện và chào hỏi: Sau khi các em đã thuộc nội dung các
phần, bản thân tôi đã phối hợp với giáo viên Âm nhạc tập luyện cho học sinh cách
di chuyển đội hình, cách thể hiện ngữ điệu, biểu cảm trong khi trình bày.
- Phối hợp với giáo viên Tổng phụ trách và Chi đoàn thanh niên trong nhà
trường :
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

14


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

Một trong những khó khăn lớn nhất để phát triển kỹ năng sử dụng tiếng Việt
cho học sinh DTTS là môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt của các em quá hạn
hẹp. Và khác với học sinh bình thường, học sinh DTTS thường không sử dụng
tiếng Việt trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Trong giờ ra chơi, nếu để chơi tự
do thì các em sẽ chơi thành từng nhóm dân tộc và giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ. Vì
thế, tôi phối hợpvới các đồng chí Chi đoàn thanh niên trong nhà trường tham gia
cùng học sinh các tiết hoạt động tập thể và giờ ra chơi, tổ chức, hướng dẫn các em
chơi các trò chơi dân gian, sinh hoạt văn nghệ yêu cầu các em nói với nhau bằng
tiếng Việt. Với môi trường giao tiếp tự nhiên, không áp lực bởi nội dung bài học,
tôi thấy các em sử dụng tiếng Việt một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thời gian đầu để

thay đổi được thói quen hành vi này bản thân cũng gặp không ít khó khăn, sau gần
hai tháng các em quen dần, khắc phục được thói quen trên và tự tin hơn trong giao
tiếp.
- Phối hợp với gia đình học sinh:
Trước khi tiến hành bồi dưỡng, tôi chủ động họp gặp mặt tất cả phụ huynh
của các em học sinh trong đội tuyển để trao đổi về mục đích, ý nghĩa và tầm quan
trọng của việc tham gia giao lưu “Tiếng Việt của chúng em”.
Trao đổi về tâm tư, nguyện vọng cũng như khó khăn của gia đình khi các em
tham gia tập luyện và đi giao lưu các cấp.
Cung cấp lịch làm việc cụ thể, đưa ra lời tư vấn để gia đình yên tâm, tạo điều
kiện thuận lợi cả về thời gian lẫn việc đưa đón con cái trong quá trình bồi dưỡng và
việc hỗ trợ tiếng Việt cho con lúc ở nhà.
- Phối hợp với địa phương:
Đây là vấn đề khó thực hiện thành công bởi môi trường giao tiếp của người
dân tộc thiểu số thường thể hiện nét đặc trưng về những phong tục, tập quán riêng,
trong đó, ngôn ngữ là một yêu tố bản sắc “phi vật thể”. Để tăng cường khả năng sử
dụng tiếng Việt trong giao tiếp và học tập, tôi đã phối hợp với Trưởng buôn tuyên
truyền đến các bậc phụ huynh khi về nhà nên sử dụng tiếng Việt nói chuyện với
con em mình. Ngoài ra, vào các buổi sinh hoạt tại thôn buôn, tôi tham gia cùng với
các anh chị trong Chi đoàn thanh niên tổ chức một số trò chơi dân gian như: đẩy
gậy, hát xoan,… qua đó hướng dẫn các em phương pháp học tập, tuyên truyền về
việc đi học chuyên cần. Qua việc làm này không những tạo sự gần gũi, thân thiện,
khích lệ các em thêm yêu trường, yêu lớp mà còn mở rộng môi trường giao tiếp cho
học sinh ở gia đình và cộng đồng.
Ngoài việc phối hợp, tôi đã tham mưu với Hiệu trưởng, Công đoàn nhà
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

15



SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

trường hỗ trợ kinh phí tập luyện và khen thưởng kịp thời sau khi các em tham gia
giao lưu các cấp đạt giải cao. Tất cả những việc làm trên đã thúc đẩy tinh thần tập
luyện của các em tích cực, tự giác, mạnh dạn, góp phần nâng cao chất lượng môn
Tiếng Việt nói chung và các môn học khác nói riêng.
3.3. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp đề tài đưa ra dễ thực hiện, có mối liên kết chặt chẽ,
bổ trợ cho nhau và đem lại hiệu quả thiết thực trong việc bồi dưỡng học sinh DTTS
tham gia giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” ở các cấp. Nếu như giáo viên không
nhận thức đúng vai trò trách nhiệm của mình thì việc lập kế hoạch bồi dưỡng, phân
công giáo viên bồi dưỡng,.. cũng không đạt hiệu quả. Nếu nội dung bồi dưỡng tốt,
các bài hùng biện hay mà thành lập đội tuyển học sinh không có năng khiếu, không
có khả năng diễn thuyết bằng tiếng Việt thì cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
chung của toàn đội.
3.4. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm
vi và hiệu quả ứng dụng
Qua nhiều năm cùng với một số đồng nghiệp tham gia bồi dưỡng học sinh
dân tộc thiểu số tham gia giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” cấp huyện và cấp
tỉnh, bản thân tôi nhận thấy rằng:
- Về học sinh: Thông qua hoạt động giao lưu, học sinh DTTS không chỉ có
kiến thức chắc chắn về môn Tiếng Việt mà còn được rèn luyện bốn kĩ năng cần
thiết để học tốt các môn học khác, giúp các em mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
Các em được giao lưu với nhau để hiểu biết thêm phong tục tập quán, nét văn hóa
của dân tộc khác qua phần giao lưu đồng đội ; chủ động sử dụng tiếng Việt để giới
thiệu nét trặc trưng về bản sắc của dân tộc mình qua nội dung thuyết trình. Và đây
chính là một sân chơi bổ ích mang lại hiệu quả thiết thực giúp học sinh thể hiện
năng khiếu của bản thân cũng như phát triển toàn diện về mọi mặt; tạo không khí
vui tươi “học mà chơi - chơi mà học” phù hợp với lứa tuổi học sinh. Đồng thời,
hoạt động giao lưu tiếng Việt đã khích lệ phong trào dạy tốt, học tốt môn Tiếng

Việt trong các nhà trường, chất lượng các môn học được nâng cao, từ đó đội ngũ
giáo viên có thêm kinh nghiệm dạy tiếng Việt cho học sinh DTTS cũng như góp
phần nâng cao hiệu quả giáo dục của đơn vị.
- Về chất lượng của đội tuyển: Qua các đợt giao lưu, tất cả các em trong đội
tuyển đều hợp tác với nhau nhịp nhàng, thực hiện tốt nội dung các phần thi của Ban
tổ chức đưa ra. Đa số các em làm chủ sân khấu, sử dụng tiếng Việt lưu loát, biểu
cảm tốt tạo nên các màn trình diễn xuất sắc và để lại dấu ấn trong lòng đội bạn.
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

16


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

Chất lượng tham gia các đợt giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học
sinh DTTS cấp huyện, cấp tỉnh luôn luôn đứng ở tốp đầu. Kết quả cụ thể như sau :
TT
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13

14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33

Năm học

2012 - 2013

Họ và tên

Lớp

Hoàng Lê D. Hương

Phùng Thị Linh Linh
Nghiêm Thị Vân
Nguyễn Minh Hiếu
Lại Tiến Thạch
Mô Trang Thi
Lâm Thị Thi
H’Sa Knul

Hoàng Lê Diệu Hương

3A
3B
3C
4A
4B
4C
5C
5A
5B
3B
3B
3C
4B
4A
4C
5B
5C
5A

Mô Thị Ngọc Quế

Hà Thúy Hiền

5B
4B

Diệp Thị Mỹ Tiên

3B

Lê Bảo Trân
Phạm Quỳnh Anh
Ng. Thị Mộc Lan
Diệp Thị Mỹ Tiên
H’ Nora Buôn Krông
Y Von Ga Niê
Hoàng T. Như Quỳnh
Hà Thúy Hiền
H’ Trang Byă
Lãnh Phương Vy
Nguyễn Thị Mộc Lan
Hà Khiết Linh

5C
4A
3B

Lành Thị Thu Hương
Mô Thị Ngọc Quế
Trần Thị Hồng Anh
Lê Bảo Trân

Phùng Thị Linh Linh
2013 - 2014

2015 - 2016

2016 - 2017

Nguyễn Khánh Ngân
H’Nir Buôn Krông
Lại Tiến Thạch
Mô Trang Thi

4B
4A
3A
3C
5B
5A
5B
4B
3D

Đạt giải các cấp
Huyện
Tỉnh
Nhất
Nhì
/
KK
/

CN
Ba
CN
/
KK
/
Nhì
KK
CN
/
KK
/
Ba
Nhất
Nhì
CN
Ba
(Không
CN
tổ
CN
chức)
CN
Nhất (NK)
Nhì (HB)
Nhất
Nhất
Nhất
Ba
CN

CN

(Không
tổ
chức)

Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

(Không tổ
chức)

Nhất
Ba
Ba
KK
KK
Ba (NK)
C. nhận
C. nhận
C. nhận

Giải toàn
đoàn các cấp

- Cấp huyện:
đạt giải Nhất
- Cấp tỉnh : đạt
giải Nhất

- Cấp tỉnh: đạt

giải Nhì

- Cấp huyện:
đạt giải Nhất

- Cấp tỉnh: đạt
giải Nhì

17


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

Với những kết quả trên, bản thân hoàn toàn yên tâm với phương pháp bồi
dưỡng, cung cấp những kiến thức tiếng Việt cơ bản, trọng tâm của từng khối lớp tới
đội tuyển. Phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các thành viên trong hội đồng bồi
dưỡng nhằm xây dựng kế hoạch cụ thể, nội dung bồi dưỡng sát thực, làm việc có
tinh thần trách nhiệm và khoa học trong thời gian bồi dưỡng. Luôn được nhà
trường, cha mẹ học sinh cũng như Lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo ghi nhận
và đánh giá cao về những thành tích đạt được qua các đợt bồi dưỡng. Hơn nữa,
những biện pháp, giải pháp sử dụng trong đề tài không chỉ áp dụng thực hiện có
hiệu quả tại đơn vị mà còn được nhân rộng tại các trường tiểu học trong toàn
huyện.

Em Diệp Mỹ Tiên đạt giải Nhất giao lưu NH 2016 - 2017.

Toàn đoàn đạt giải Nhì giao lưu TV năm học 2016 - 2017.

III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận

Có thể nói, Giao lưu “Tiếng việt của chúng em” dành cho học sinh dân tộc
thiểu số đã trở thành hoạt động thiết thực của ngành Giáo dục và Đào tạo cấp Tiểu
học. Ngoài việc tạo cho các em học sinh DTTS có sân chơi thiết thực trong hoạt
động giao tiếp bằng tiếng Việt, để các em tự tin vượt qua rào cản về ngôn ngữ giữa
tiếng Việt và tiếng dân tộc, từ đó giúp các em thể hiện tốt khả năng sử dụng tiếng
Việt của mình. Hoạt động giao lưu tiếng Việt còn thúc đẩy phong trào thi đua “Dạy
tốt, học tốt” trong nhà trường, quan tâm đến học sinh DTTS để phát triển tốt các kĩ
năng của môn Tiếng Việt, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh
vùng dân tộc cũng như giáo dục các em tinh thần đoàn kết, hợp tác. Đồng thời,
thông qua giao lưu các trường tiểu học trong toàn huyện, toàn tỉnh đã chia sẻ kinh
nghiệm giảng dạy, học tập và rèn luyện kỹ năng tiếng Việt cho các em dân tộc
thiểu số. Muốn đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giao lưu “Tiếng Việt của chúng em”
dành cho học sinh DTTS, giáo viên luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự
Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

18


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

học, tự rèn; lập kế hoạch dạy học phù hợp với đối tượng và quan tâm việc tăng
cường dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc trong từng môn học. Thường xuyên phụ
đạo, củng cố kiến thức (nhất là kỹ năng đọc, viết và hiểu) cho học sinh dân tộc
thiểu số trong các tiết học. Phối hợp tốt với giáo viên bộ môn, các thành viên trong
hội đồng bồi dưỡng, các lực lượng trong và ngoài nhà trường để xây dựng nội
dung, hình thức bồi dưỡng một cách linh hoạt và có hiệu quả, tổ chức các buổi sinh
hoạt ngoại khóa với nội dung phong phú nhằm khích lệ các em cảm thấy “mỗi ngày
đến trường sẽ là một ngày vui”. Đồng thời, các cơ sở giáo dục luôn xem đây là hoạt
động quan trọng, cần được quan tâm số một. Hàng năm duy trì tốt việc tổ chức giao
lưu “Tiếng Việt của chúng em” giữa các khối lớp để tiếp thêm tình yêu tiếng Việt

cho học sinh dân tộc thiểu số, giúp các em có thêm động lực để tìm hiểu và say mê
học tiếng Việt hơn.
2. Kiến nghị
* Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo: Cơ cấu thêm giải thưởng để động
viên, khuyến khích các học sinh DTTS của những đơn vị vùng khó khăn khi tham
gia các đợt giao lưu cấp huyện.
Buôn Trấp, ngày 28 tháng 02 năm 2018
Người viết

Đinh Thị Minh Phượng
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

19


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN


Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

20


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tên tài liệu

Tác giả

1

Tạp chí Báo giáo dục Đắk Lắk (số 44 &
45 tháng 11/2017).

Sở Giáo dục và Đào tạo
tỉnh Đắk Lắk

2

Công văn số 7758/BGDĐT-GDDT ngày
Mông Ký Slay - Vụ trưởng
18/11/2010 V/v tổ chức giao lưu “Tiếng
Vụ Giáo dục Dân tộc
Việt của chúng em” cho học sinh DTTS


3

Công văn số 2805/QĐ-BGDĐT ngày
05/8/2016 V/v triển khai thực hiện Quyết
định số 1008/QĐ-TTg ngày 02/6/2016 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Tăng
cường tiếng Việt HSTH vùng DTTS giai
đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025

4

Các Kế hoạch giao lưu “Tiếng Việt của Phòng GDĐT Krông Ana
chúng em” dành cho học sinh DTTS.
& Sở GDĐT Đắk Lắk

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT

5

Sổ theo dõi giáo viên và học sinh các năm

Hồ sơ của nhà trường

6

Tài liệu từ một số trang Web

Nguồn dữ liệu Internet


Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

21


SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS.

MỤC LỤC
Tên nội dung

Trang

I. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

1

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Giới hạn của đề tài

2

5. Phương pháp nghiên cứu


2

II. Phần nội dung
1. Cơ sở lí luận

2

2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

3

3. Nội dung và hình thức của giải pháp

5

3.1. Mục tiêu của giải pháp

5

3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp

5

a) Nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa của hoạt động giao lưu
tiếng Việt dành cho học sinh dân tộc thiểu số
b) Lập kế hoạch bồi dưỡng phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị
c) Thành lập đội tuyển và hội đồng bồi dưỡng
d) Xây dựng nội dung và tiến trình bồi dưỡng đội tuyển
e) Làm tốt công tác phối hợp để mở rộng môi trường giao tiếp bằng

tiếng Việt cho học sinh trong nhà trường và cộng đồng.
3.3. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp

6
7
8
12

3.4. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, ....

16

5

16

III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận

18

2. Kiến nghị

19

Tài liệu tham khảo

21

Mục lục


22

Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú

22



×