MEKONG
ECONOMIC
RESEARCH
NETWORK
Inclusive
Growth
Index
in
Vietnam:
An
Analysis
Vu
Hoang
Dat*
Vu
Thi
Thu
Thu*
*
Centre
for
Analysis
and
Forecasting
Corresponding
author:
E-‐Mail:
Acknowledgements:
This
work
is
carried
out
through
a
research
grant
and
technical
support
from
the
Mekong
Economic
Research
Network
-‐
a
research
initiative
managed
by
the
Centre
for
Analysis
and
Forecasting
(CAF)
of
the
Vietnam
Academy
of
Social
Sciences
(VASS)
with
financial
support
from
the
International
Development
Research
Centre
(IDRC),
Canada
(project
105220).
The
authors
are
grateful
for
helpful
comments
and
suggestions
by
Dr.
Nguyen
Thang
Abstract
Applying
the
methodology
to
measure
inclusive
growth,
which
was
proposed
by
Anand
et
al.
in
2013,
this
paper
investigates
how
inclusive
growth
in
Viet
Nam
was
at
both
national
and
regional
levels
over
three
periods
of
2004-‐2006,
2006-‐2008,
and
2010-‐2012,
for
which
these
two-‐wave
panel
datasets
required
for
such
analysis
are
available.
This
study
analyzed
inclusiveness
in
both
income
and
non-‐income
dimensions.
Furthermore,
it
decomposed
changes
in
the
inclusive
growth
into
changes
in
income
growth
or
coverage
in
access
to
social
services,
and
changes
in
distribution.
It
is
found
that
the
income
inclusive
growth
index
increased
consistently
over
the
studied
periods.
The
period
of
2006-‐2008
witnessed
the
highest
improvement
of
the
index
thanks
to
high
rate
of
income
growth,
which
was
more
than
offsetting
some
worsening
of
income
distribution.
In
the
subsequent
period
of
2010-‐2012,
when
the
economy
slowed
down,
the
relative
importance
of
these
two
components
was
reverse,
with
the
contribution
of
the
distribution
effect
surpassed
that
of
income
effect.
Changes
in
the
indexes
of
regions
generally
followed
the
trend
of
the
country
as
a
whole,
which
were
improvements
in
all
studied
periods
with
the
highest
increase
in
the
period
of
2006-‐2008.
The
gaps
between
regions
increased
2006-‐2008,
but
decreased
in
2004-‐2006
and
2010-‐2012.
Overall,
the
contribution
of
income
effect
dominated
that
of
distribution.
However,
the
latter
component
accounted
for
greater
shares
in
the
total
growth
of
the
index
in
the
two
richest
regions-‐
Red
River
Delta
and
South
East-‐
in
the
period
of
2010-‐2012.
In
short,
while
income
distribution
is
important,
in
general,
growth
continues
to
be
the
main
driver
of
inclusive
growth
in
Vietnam
in
the
foreseeable
future,
as
the
country
is
still
at
a
low
level
of
development.
This
justifies
the
current
focus
of
Government’s
reform
agenda
on
bringing
the
economy
back
on
rapid
and
sustainable
growth
path
by
implementing
structural
reforms
and
a
shift
away
from
factor-‐driven
to
efficiency-‐driven
growth
model.
Phân
tích
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
ở
Việt
Nam
Vũ
Hoàng
Đạt
+
xx
*
+
Trung
tâm
Phân
tích
và
Dự
báo
*Mọi
nhận
xét
xin
gửi
về
địa
chỉ
thư:
Lời
cảm
ơn:
Phân
tích
này
được
thực
hiện
thông
qua
nguồn
tài
trợ
nghiên
cứu
và
hỗ
trợ
kỹ
thuật
từ
Mạng
lưới
Nghiên
cứu
Kinh
tế
khu
vực
Mê
Kông
-‐
một
sáng
kiến
nghiên
cứu
thuộc
sự
quản
lý
của
Trung
tâm
Phân
tích
và
Dự
báo
(CAF)
-‐
Viện
Hàn
lâm
Khoa
học
Xã
hội
Việt
Nam
(VASS)
và
hỗ
trợ
tài
chính
từ
Trung
tâm
Nghiên
cứu
phát
triển
quốc
tế
(IDRC)
của
Canada
(Dự
án
105220).
Nhóm
tác
giả
xin
chân
thành
cảm
ơn
TS.
Nguyễn
Thắng
về
những
gợi
ý
và
nhận
xét
quý
báu
cho
bài
viết
được
hoàn
thiện
hơn.
Dẫn
nhập
Trong
hai
thập
kỷ
vừa
qua,
Việt
Nam
đã
đạt
được
những
thành
tựu
ấn
tượng
trong
phát
triển
kinh
tế-‐xã
hội.
Với
tốc
độ
tăng
trưởng
GDP
bình
quân
ở
mức
6,53%
cho
giai
đoạn
1986-‐2013,
GDP
bình
quân
đầu
người
đã
đạt
1900
USD
năm
2013.
Đồng
thời,
khả
năng
cung
cấp
các
hàng
hóa,
dịch
vụ
cơ
bản
đã
tăng
mạnh,
một
số
mặt
đã
đạt
tỉ
lệ
bao
phủ
rất
cao.
Ví
dụ,
tỉ
lệ
tiếp
cận
điện
lưới
đạt
97,6%
vào
năm
2012;
tỉ
lệ
trẻ
em
nhập
học
đúng
tuổi
cấp
tiểu
học
đạt
92,4%
năm
2012.
Tuy
nhiên,
có
sự
khác
nhau
trong
thành
tựu
của
các
vùng
và
các
nhóm
dân
cư
ở
một
số
khía
cạnh.
Năm
2010,
tỉ
lệ
nghèo
của
nhóm
các
dân
tộc
thiểu
số
là
66,3%,
trong
khi
đó
tỉ
lệ
nghèo
của
dân
tộc
Kinh
chỉ
là
12,9%.
Tỉ
lệ
nhập
học
trung
học
cơ
sở
đúng
độ
tuổi
của
trẻ
em
đồng
bằng
sông
Hồng
năm
2012
là
88,5%,
trong
khi
đó
tỉ
lệ
này
của
Tây
Bắc
và
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
lần
lượt
ở
mức
71,9%
và
73,3%.
Tăng
trưởng
bao
trùm
được
hiểu
là
quá
trình
mọi
người
được
chia
sẻ
bình
đẳng
lợi
ích
từ
quá
trình
tăng
trưởng
và
có
khả
năng
tham
gia
cũng
như
đóng
góp
với
quá
trình
tăng
trưởng.
Tăng
trưởng
bao
trùm
tính
đến
cả
quá
trình
tăng
trưởng
và
cách
thức
của
tăng
trưởng,
tập
trung
vào
bình
đẳng
về
cơ
hội
và
kết
quả
giữa
các
thành
viên
trong
xã
hội.
Do
đó,
để
cải
thiện
tăng
trưởng
bao
trùm,
phải
tính
đến
cả
hai
khía
cạnh,
tăng
trưởng
và
phân
bổ
cơ
hội
giữa
các
thành
viên
trong
xã
hội.
Trước
đây,
hai
quá
trình
của
tăng
trưởng
bao
trùm
thường
được
nghiên
cứu
riêng
rẽ.
Gần
đây,
Ali
và
Son
(2007)
đề
xuất
một
chỉ
số
tính
đến
cả
hai
khía
cạnh
này
của
tăng
trưởng
bao
trùm.
Chỉ
số
này
dựa
vào
việc
xây
dựng
“hàm
cơ
hội
xã
hội
(social
opportunity
function)”
phản
ánh
mức
độ
bao
phủ
của
các
cơ
hội
và
phân
bố
cơ
hội
giữa
các
thành
viên
trong
xã
hội.
Chỉ
số
này
ban
đầu
được
đề
xuất
để
nghiên
cứu
các
cơ
hội
phi
tiền
tệ
như
y
tế,
giáo
dục.
Anand
và
cộng
sự
(2013)
đã
áp
dụng
ý
tưởng
này
cho
chỉ
tiêu
tiền
tệ.
Một
lợi
thế
của
chỉ
số
này
là
cho
phép
phân
tách
thay
đổi
của
chỉ
số
đo
lường
này
thành
thay
đổi
của
thu
nhập/độ
bao
phủ1
và
thay
đổi
trong
phân
bổ2.
Ở
Việt
Nam,
Báo
cáo
Phát
triển
Con
người
Quốc
gia
năm
2015
đã
tính
toán
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
ở
cấp
quốc
gia
cho
giai
đoạn
2004-‐2012
trên
cả
khía
cạnh
tiền
tệ
và
phi
tiền
tệ.
1
Độ
bao
phủ
của
một
dịch
vụ
cơ
bản
được
hiểu
là
tỉ
lệ
dân
số
được
tiếp
cận
dịch
vụ
đó.
Ví
dụ,
tỉ
lệ
trẻ
em
trong
độ
tuổi
được
đi
học.
2
Ali
và
Son
(2007)
định
nghĩa
cấu
phần
này
là
chỉ
số
bình
đẳng
cơ
hội
(equity
opportunity
index).
Tuy
nhiên,
có
sự
khác
biệt
nhất
định
về
thành
tựu
giữa
các
vùng
và
các
nhóm
dân
cư
trên
một
số
mặt
như
đã
chỉ
ra
ở
trên.
Do
đó,
nghiên
cứu
tăng
trưởng
bao
trùm
ở
cấp
độ
vùng
hay
các
nhóm
dân
cư
cũng
như
vai
trò
của
từng
vùng
đến
tăng
trưởng
bao
trùm
ở
cấp
quốc
gia
sẽ
cung
cấp
bức
tranh
chi
tiết
giữa
các
vùng
và
qua
đó
có
thể
đưa
ra
các
chính
sách
cụ
thể
cho
tăng
trưởng
bao
trùm
cụ
thể
ở
các
vùng.
Nghiên
cứu
này
tập
trung
nghiên
cứu
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
các
vùng
ở
Việt
Nam
trong
giai
đoạn
2004-‐2012.
Chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
của
các
vùng
xét
trên
các
khía
cạnh
gồm
thu
nhập,
giáo
dục,
y
tế
và
điều
kiện
sống
được
ước
lượng
và
phân
tích.
Đồng
thời,
đóng
góp
của
từng
cấu
phần
vào
tăng
trưởng
bao
trùm
được
phân
tách
qua
thời
gian.
Ngoài
phần
giới
thiệu
và
kết
luận,
các
phần
còn
lại
của
nghiên
cứu
được
cấu
trúc
như
sau.
Mục
1
sẽ
thảo
luận
các
vấn
đề
liên
quan
đến
chỉ
số
đo
lường
và
các
khái
niệm.
Mục
2
trình
bày
số
liệu
và
các
giai
đoạn
nghiên
cứu.
Mục
3
thảo
luận
các
kết
quả
tăng
trưởng
bao
trùm
và
các
kết
quả
phân
tách.
1. Phương
pháp
Chỉ
số
đo
lường
tăng
trưởng
bao
trùm
sử
dụng
trong
nghiên
cứu
này
được
đề
xuất
lần
đầu
bởi
Ali
và
Son
(2007)
và
áp
dụng
cho
các
chỉ
tiêu
phi
tiền
tệ
với
minh
họa
trường
hợp
giáo
dục
và
tiếp
cận
dịch
vụ
y
tế.
Anand
và
cộng
sự
(2013)
phát
triển
ý
tưởng
này
cho
chỉ
tiêu
tiền
tệ.
Phần
này
chúng
tôi
sẽ
trình
bày
chi
tiết
chỉ
số
đo
lường
này
với
các
khái
niệm
dựa
trên
đề
xuất
của
Ali
và
Son.
Các
khái
niệm
tương
đương
của
Anand
và
cộng
sự
(2013)
cũng
như
những
khái
niệm
chúng
tôi
sử
dụng
ở
phần
sau
sẽ
được
trình
bày
ở
cuối
mục
này.
Dựa
trên
ý
tưởng
tương
tự
hàm
phúc
lợi
xã
hội,
một
hàm
cơ
hội
xã
hội
được
xây
dựng
và
hàm
này
phụ
thuộc
vào
hai
yếu
tố:
mức
độ
bao
phủ
của
một
hàng
hóa,
dịch
vụ
cơ
bản
và
sự
phân
bố
của
các
hàng
hóa
dịch
vụ
cơ
bản
này
trong
dân
số.
Chi
tiết
về
cách
tính
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
có
thể
xem
trong
phần
Phụ
lục.
2. Số
liệu
Số
liệu
sử
dụng
trong
nghiên
cứu
này
là
số
liệu
từ
các
cuộc
điều
tra
mức
sống
hộ
gia
đình
(VHLSS)
do
Tổng
cục
Thống
kê
thực
hiện
hai
năm
một
lần.
Giai
đoạn
nghiên
cứu
của
chúng
tôi
là
2004-‐2012.
Với
qui
mô
mẫu
gồm
8900
(giai
đoạn
2004-‐2008)
và
9400
(giai
đoạn
2010-‐2012)
hộ,
VHLSS
đại
diện
cho
khu
vực
thành
thị,
nông
thôn
ở
mỗi
vùng
của
Việt
Nam.
VHLSS
thu
thập
thông
tin
đa
dạng
về
các
đặc
điểm
ở
cấp
hộ
như
thu
nhập,
tiêu
dùng,
đặc
điểm
nơi
ở
gồm
nhà
ở
và
các
điều
kiện
sinh
hoạt
khác.
Tất
cả
các
cá
nhân
trong
hộ
đều
được
thu
thập
thông
tin
bao
gồm
các
đặc
điểm
nhân
khẩu
học
như
tuổi,
giới
tính,
giáo
dục,
tình
trạng
sức
khỏe,
tham
gia
lực
lượng
lao
động,
việc
làm
và
thu
nhập.
Các
thông
tin
về
thu
nhập
trong
VHLSS
được
thu
thập
tương
đối
đầy
đủ
gồm
các
nguồn
thu
nhập
phi
lao
động:
học
bổng,
tiền
gửi
về,
lãi
tiết
kiệm…
và
các
nguồn
thu
nhập
từ
lao
động
gồm
tiền
lương,
tiền
công,
các
thu
nhập
khác
từ
lao
động
và
từ
tự
làm.
Các
thông
tin
này
cho
phép
tính
toán
tương
đối
đầy
đủ
thu
nhập
bình
quân
đầu
người
của
hộ.
Trong
giai
đoạn
2004-‐2012,
có
5
vòng
VHLSS
được
điều
tra
và
chúng
tôi
phân
tích
sự
biến
động
của
các
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
cho
mỗi
giai
đoạn
2
năm.
Về
mặt
lý
thuyết,
sẽ
có
4
giai
đoạn
2
năm
trong
giai
đoạn
nghiên
cứu,
2004-‐2006,
2006-‐2008,
2008-‐2010,
và
2010-‐2012.
Tuy
nhiên,
kể
từ
năm
2010,
khung
chọn
mẫu
chủ
của
VHLSS
đã
thay
đổi3.
Do
đó,
năm
2010
trở
đi
không
thể
so
sánh
với
các
năm
trước
và
chúng
tôi
sẽ
phân
tích
cho
03
giai
đoạn,
20042-‐2006,
2006-‐2008
và
2010-‐2012.
3. Phân
tách
các
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
Phần
này
chúng
tôi
sẽ
trình
bày
các
kết
quả
tính
toán
các
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
cho
các
vùng
ở
Việt
Nam
trong
giai
đoạn
nghiên
cứu
đã
đề
cập
ở
trên.
Đồng
thời
các
kết
quả
phân
tách
đóng
góp
của
các
cấu
phần
được
xem
xét.
Đầu
tiên,
chúng
tôi
xem
xét
khía
cạnh
thu
nhập
như
là
một
chỉ
số
tổng
hợp
của
kết
quả
của
quá
trình
tham
gia
của
các
hộ.
Sau
đó,
các
khía
cạnh
gồm
giáo
dục,
sức
khỏe
và
điều
kiện
sống
được
nghiên
cứu.
Các
khía
cạnh
là
các
yếu
tố
cần
thiết
đảm
bảo
sự
tham
gia
và
đóng
góp
của
các
thành
viên
vào
quá
trình
tăng
trưởng.
3.1.
Thu
nhập
Kết
quả
tính
toán
(Bảng
1)
cho
thấy
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
ở
tất
cả
các
vùng
đều
tăng
ở
ba
giai
đoạn
nghiên
cứu,
tuy
nhiên
tốc
độ
khác
nhau
giữa
các
vùng
và
giữa
các
giai
đoạn.
Kết
quả
này
cũng
thể
hiện
rõ
ở
Hình
1,
biểu
thị
các
đường
dịch
chuyển
xã
hội
theo
thu
nhập
của
các
vùng
qua
thời
gian.
Sự
khác
biệt
giữa
các
vùng
mạnh
hơn
ở
hai
giai
đoạn
2004-‐2006
và
2010-‐
2012.
Ở
cả
ba
giai
đoạn,
tỉ
lệ
tăng
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
của
các
vùng
cao
nhất
ở
mức
20-‐
24%.
Trong
khi
đó,
tỉ
lệ
thấp
nhất
cho
các
giai
đoạn
2004-‐2006,
2006-‐2008
và
2010-‐2012
lần
lượt
là
-‐1,
64%
của
Đông
Nam
Bộ,
10,3%
của
Đông
Bắc
Bộ,
và
6,2%
ở
Đồng
Bằng
sông
Cửu
Long.
Hơn
nữa,
điều
này
ngụ
ý
tốc
độ
tăng
trung
bình
vùng
giai
đoạn
2006-‐2008
cao
hơn
giai
đoạn
còn
lại.
3
Khung
chọn
mẫu
chủ
của
các
năm
2004,
2006
và
2008
dựa
vào
Tổng
điều
tra
dân
số
năm
1999.
Trong
khi
đó,
khung
chọn
mẫu
chủ
cho
các
năm
2010,
2012
dựa
vào
Tổng
điều
tra
dân
số
năm
2009.
Bảng
1.
Chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
theo
thu
nhập
Tăng
trưởng
của
các
nhân
tố
Tăng
Tăng
trưởng
thu
nhập
Đóng
góp
của
các
nhân
tố
Thay
đổi
trưởng
Tác
động
tăng
bình
qua
lại
trưởng
đẳng
(1)
Tác
động
Tác
động
Tác
động
thu
nhập
phân
bổ
Tổng
qua
lại
bao
trùm
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
11.0%
32.4%
65.3%
(7)
(8)
2010-‐2012
Đồng
bằng
sông
3.6%
7.2%
0.3%
2.3%
100.0%
Hồng
Đông
Bắc
Bộ
19.7%
-‐0.5%
-‐0.1%
19.1%
103.2%
-‐2.7%
-‐0.5%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
0.1%
8.4%
0.0%
8.5%
1.3%
98.7%
0.1%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
22.4%
1.4%
0.3%
24.2%
92.8%
5.9%
1.3%
100.0%
5.1%
0.5%
15.2%
63.1%
33.7%
3.2%
100.0%
Tây
Nguyên
27.6%
-‐7.6%
-‐2.1%
17.9%
154.3%
-‐42.6%
-‐11.8%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
-‐8.0%
17.1%
-‐1.4%
7.8%
-‐101.8%
219.2%
-‐17.4%
100.0%
1.8%
0.1%
6.2%
70.4%
28.3%
1.2%
100.0%
7.20%
0.35%
12.38%
39.05%
58.14%
2.81%
100.00%
Nam
Trung
Bộ
9.6%
Đồng
bằng
sông
4.4%
Cửu
Long
Cả
nước
4.84%
2006-‐2008
Đồng
bằng
sông
Hồng
31.2%
-‐4.9%
-‐1.5%
24.7%
126.0%
-‐19.8%
-‐6.2%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
14.0%
-‐3.2%
-‐0.5%
10.3%
135.5%
-‐31.1%
-‐4.4%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
19.5%
0.5%
0.1%
20.1%
96.9%
2.6%
0.5%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
12.5%
1.4%
0.2%
14.1%
89.2%
9.6%
1.2%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
12.3%
6.4%
0.8%
19.4%
63.3%
32.7%
4.0%
100.0%
Tây
Nguyên
17.6%
-‐2.2%
-‐0.4%
15.0%
117.3%
-‐14.7%
-‐2.6%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
38.8%
-‐11.7%
-‐4.5%
22.6%
171.9%
-‐51.8%
-‐20.1%
100.0%
31.0%
-‐10.6%
-‐3.3%
17.2%
180.6%
-‐61.5%
-‐19.1%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
Cả
nước
27.71%
-‐7.03%
-‐1.95%
18.73%
147.97%
-‐37.56%
-‐10.41%
100.00%
2004-‐2006
Đồng
bằng
sông
6.7%
1.9%
0.1%
8.7%
76.3%
22.2%
1.5%
100.0%
Hồng
Đông
Bắc
Bộ
17.9%
2.2%
0.4%
20.5%
87.3%
10.7%
1.9%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
29.1%
-‐10.5%
-‐3.0%
15.6%
186.4%
-‐66.9%
-‐19.5%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
25.5%
-‐3.6%
-‐0.9%
20.9%
121.6%
-‐17.2%
-‐4.4%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
14.6%
-‐1.9%
-‐0.3%
12.5%
117.5%
-‐15.3%
-‐2.2%
100.0%
Tây
Nguyên
21.4%
-‐1.8%
-‐0.4%
19.2%
111.1%
-‐9.2%
-‐2.0%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
-‐4.3%
2.8%
-‐0.1%
-‐1.6%
264.1%
-‐171.5%
7.4%
100.0%
12.8%
3.7%
0.5%
17.0%
75.4%
21.8%
2.8%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
Cả
nước
9.12%
3.75%
0.34%
13.21%
69.02%
28.39%
2.59%
100.00%
Nguồn:
tính
toán
của
các
tác
giả
dựa
trên
số
liệu
VHLSSs
Ngược
lại,
giai
đoạn
2006-‐2008
lại
có
xu
hướng
tăng
khoảng
cách
giữa
các
vùng.
Đồng
bằng
sông
Hồng
và
Đông
Nam
Bộ
là
những
vùng
có
xuất
phát
điểm
tốt
lại
có
tốc
độ
tăng
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
cao
nhất
giữa
giữa
các
vùng,
lần
lượt
ở
mức
24,7%
và
22,6%.
Ở
hướng
ngược
lại,
Đông
Bắc
Bộ
và
Bắc
Trung
Bộ
chỉ
có
tỉ
lệ
tăng
lần
lượt
là
14,1%
và
15%.
Hình
1:
Thay
đổi
của
các
đường
dịch
chuyển
xã
hội
ở
một
số
vùng
2006
2010
2012
100002000030000
Vung 6
0
20
40
60
Ti trong dan so tich luy (%)
2004
2006
2010
2012
100002000030000
0
100
0
2008
80
20
40
60
Ti trong dan so tich luy (%)
2004
2006
2010
2012
80
100
2008
Vung 7
100002000030000
2004
80
Vung 3
0
40
60
Ti trong dan so tich luy (%)
Thu nhap binh quan dau nguoi (1000 VND)
20
Thu nhap binh quan dau nguoi (1000 VND)
100002000030000
0
0
0
Thu nhap binh quan dau nguoi (1000 VND)
Thu nhap binh quan dau nguoi (1000 VND)
Vung 1
100
0
2008
20
40
60
Ti trong dan so tich luy (%)
2004
2006
2010
2012
80
100
2008
Vùng
1:
Đồng
bằng
sông
Hồng;
Vùng
3:
Tây
Bắc;
Vùng
6:
Tây
Nguyên;
Vùng
7:
Đông
Nam
Bộ
Nguồn:
tính
toán
của
các
tác
giả
dựa
trên
số
liệu
VHLSSs
Xu
hướng
hội
tụ
của
các
vùng
thể
hiện
khá
rõ
ở
hai
giai
đoạn
2004-‐2006
và
2010-‐2012.
Các
vùng
Đông
Bắc
Bộ,
Bắc
Trung
Bộ
và
Tây
Nguyên
có
xuất
phát
điểm
thấp
vào
năm
2004
có
tỉ
lệ
tăng
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
nhanh
hơn
các
vùng
như
Đông
Nam
Bộ
hay
Đồng
bằng
sông
Hồng
là
các
vùng
có
xuất
phát
điểm
cao
hơn
vào
năm
2004.
Tuy
nhiên,
xu
hướng
này
không
đúng
cho
Tây
Bắc
giai
đoạn
2010-‐2012.
Đóng
góp
của
phân
bổ
đến
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
mặc
dù
không
chiếm
ưu
thế
nhưng
nó
cho
biết
thông
tin
về
chênh
lệch
trong
nội
bộ
vùng.
Kết
quả
đóng
góp
của
phân
bổ
có
sự
khác
biệt
giữa
các
vùng.
Chúng
ta
có
thể
thấy
chênh
lệch
trong
nội
bộ
Tây
Nguyên
tăng
trong
cả
ba
thời
kỳ
biểu
thị
qua
đóng
góp
âm
của
phân
bổ
trong
cả
ba
thời
kỳ.
Trong
khi
đó,
chênh
lệch
trong
nội
bộ
vùng
có
xu
hướng
giảm
đối
với
các
vùng
Tây
Bắc,
Bắc
Trung
Bộ
và
Nam
Trung
Bộ
khi
đóng
góp
của
phân
bổ
lớn
hơn
không
trong
hai
thời
kỳ
2006-‐2008
và
2010-‐2012.
3.2.
Giáo
dục
Giáo
dục
là
một
yếu
tố
quan
trọng
giúp
mọi
người
nâng
cao
khả
năng
tham
gia
cũng
như
hưởng
lợi
từ
quá
trình
tăng
trưởng.
Đồng
thời,
đây
là
yếu
tố
tăng
khả
năng
dịch
chuyển
nên
có
thể
dẫn
đến
tăng
bình
đẳng
trong
quá
trình
tham
gia
vào
tăng
trưởng
bao
trùm.
Chúng
tôi
xem
xét
02
chỉ
tiêu
giáo
dục
đó
là
tỉ
lệ
nhập
học
trẻ
em
tuổi
từ
12-‐15
và
tốt
nghiệp
phổ
thông
cơ
sở
của
dân
số
tuổi
từ
16-‐25.
Phổ
cập
phổ
thông
cơ
sở
là
mục
tiêu
gần
đây
của
Việt
Nam.
Đồng
thời,
tuổi
từ
16-‐25
là
tuổi
đa
số
các
lao
động
bắt
đầu
gia
nhập
thị
trường
lao
động
và
đây
là
bước
quan
trọng
trong
việc
tham
gia
của
các
lao
động
vào
quá
trình
tăng
trưởng.
Giáo
dục
đóng
vai
trò
tối
quan
trọng
với
việc
làm
của
các
lao
động
trẻ.
Đến
lượt
nó,
việc
làm
khi
bắt
đầu
gia
nhập
thị
trường
lao
động
có
tác
động
lâu
dài
đến
cả
quá
trình
tham
gia
thị
trường
lao
động
sau
này
của
lao
động
trẻ.
Trong
khi
đó,
nhóm
tuổi
12
đến
15
là
nhóm
tuổi
đang
học
phổ
thông
trung
cơ
sở,
do
đó
nếu
trẻ
thuộc
nhóm
tuổi
này
không
đến
trường
thì
khả
năng
không
tốt
nghiệp
phổ
thông
cơ
sở
là
rất
cao.
3.2.1. Tỉ
lệ
nhập
học
trẻ
em
từ
12
đến
15
tuổi
Đối
với
tỉ
lệ
nhập
học
trẻ
em
tuổi
từ
12
đến
15.
Một
bức
tranh
khác
nhau
giữa
các
vùng
và
thay
đổi
qua
các
giai
đoạn
nghiên
cứu.
Giai
đoạn
2004-‐2006,
đa
số
các
vùng
điều
có
chỉ
số
cơ
hội
giảm,
tuy
nhiên
ở
mức
thấp
hoặc
vừa
phải.
Điểm
sáng
là
Tây
Bắc
và
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
chỉ
số
cơ
hội
dương,
đặc
biệt
là
Tây
Bắc
với
mức
tăng
14,2%.
Ba
vùng
đã
cải
thiện
được
chỉ
số
cơ
hội
trong
giai
đoạn
2006-‐2008
gồm
Đồng
Bằng
sông
Hồng,
Bắc
Trung
Bộ
và
Đông
Nam
Bộ.
Tuy
nhiên,
chỉ
số
cơ
hội
của
Đông
Bắc
Bộ,
Tây
Nguyên
và
Đồng
bằng
sông
Cửu
long
kém
hơn
so
với
giai
đoạn
2004-‐2006.
Trong
ba
vùng
này,
thay
đổi
chỉ
số
cơ
hội
của
Tây
Nguyên
và
Đồng
bằng
sông
Cửu
long
chuyển
từ
dương
sang
âm
và
Đông
Bắc
Bộ
lại
có
tỉ
lệ
giảm
sâu
hơn
đáng
kể
ở
mức
8,8%.
Thay
đổi
của
chỉ
số
cơ
hội
của
Hai
vùng
Đồng
bằng
Sông
hồng
và
Đồng
Bằng
sông
Cửu
long
tiếp
tục
thay
đổi
trạng
thái
trong
giai
đoạn
2010-‐2012.
Đồng
bằng
sông
Hồng
có
tăng
trưởng
chỉ
số
cơ
hội
âm
trong
giai
đoạn
này
và
tăng
trưởng
của
chỉ
số
này
của
đồng
bằng
sông
Cửu
long
chuyển
sang
dương.
Bảng
2:
Chỉ
số
cơ
hội
nhập
học
trẻ
em
tuổi
12-‐15
Tăng
trưởng
của
các
nhân
tố
Độ
bao
Thay
đổi
Đóng
góp
của
các
nhân
tố
Tác
động
chỉ
số
cơ
Độ
bao
Tác
động
Phân
bổ
qua
lại
phủ
qua
lại
hội
Phân
bổ
phủ
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
Tổng
(8)
2010-‐2012
Đồng
bằng
sông
-‐2.5%
-‐3.4%
0.1%
-‐5.8%
42.7%
58.7%
-‐1.5%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
-‐0.3%
-‐4.1%
0.0%
-‐4.4%
6.8%
93.5%
-‐0.3%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
0.0%
1.9%
0.0%
1.9%
-‐1.3%
101.4%
0.0%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
6.2%
-‐0.3%
0.0%
5.8%
106.1%
-‐5.7%
-‐0.4%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
0.3%
-‐5.7%
0.0%
-‐5.4%
-‐4.7%
104.4%
0.3%
100.0%
-‐5.1%
0.0%
-‐5.5%
7.1%
93.3%
-‐0.4%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
1.3%
2.6%
0.0%
3.9%
32.7%
66.4%
0.8%
100.0%
Đồng
bằng
sông
4.5%
6.7%
0.3%
11.5%
39.3%
58.1%
2.6%
100.0%
Hồng
Tây
Nguyên
-‐0.4%
Cửu
Long
2006-‐2008
Đồng
bằng
sông
Hồng
1.9%
2.6%
0.1%
4.6%
42.7%
56.2%
1.1%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
-‐3.5%
-‐5.5%
0.2%
-‐8.9%
39.7%
62.5%
-‐2.2%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
1.6%
6.1%
0.1%
7.8%
20.7%
78.1%
1.3%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
6.3%
1.6%
0.1%
8.0%
78.6%
20.1%
1.3%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
-‐0.6%
-‐1.6%
0.0%
-‐2.2%
25.4%
75.0%
-‐0.4%
100.0%
Tây
Nguyên
-‐2.9%
2.0%
-‐0.1%
-‐1.0%
303.3%
-‐209.5%
6.1%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
1.4%
3.7%
0.1%
5.2%
27.1%
71.9%
1.0%
100.0%
-‐5.0%
0.1%
0.0%
-‐4.9%
102.6%
-‐2.7%
0.1%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
2004-‐2006
Đồng
bằng
sông
Hồng
-‐0.5%
-‐0.6%
0.0%
-‐1.1%
43.3%
57.0%
-‐0.3%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
0.6%
-‐1.9%
0.0%
-‐1.2%
-‐51.0%
150.0%
1.0%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
4.2%
9.7%
0.4%
14.3%
29.1%
68.0%
2.8%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
-‐2.2%
-‐1.7%
0.0%
-‐3.9%
57.8%
43.1%
-‐1.0%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
0.6%
-‐4.4%
0.0%
-‐3.9%
-‐14.4%
113.8%
0.6%
100.0%
Tây
Nguyên
2.9%
0.4%
0.0%
3.2%
88.8%
10.9%
0.3%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
-‐2.1%
-‐1.2%
0.0%
-‐3.3%
63.1%
37.6%
-‐0.8%
100.0%
0.7%
-‐0.1%
0.0%
0.6%
113.8%
-‐13.7%
-‐0.1%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
Nguồn:
tính
toán
của
các
tác
giả
dựa
trên
số
liệu
VHLSSs
Tuy
nhiên,
mặc
dù
có
sự
thay
đổi
của
một
số
vùng
qua
các
giai
đoạn
nghiên
cứu
nhưng
vẫn
có
xu
hướng
chung
của
một
số
vùng.
Đông
Bắc
Bộ
và
Nam
Trung
Bộ
có
sự
suy
giảm
trong
chỉ
số
cơ
hội
ở
cả
ba
giai
đoạn
nghiên
cứu.
Trong
khi
đó
Tây
Bắc
có
sự
cải
thiện
trong
chỉ
số
này
ở
cả
ba
giai
đoạn
nghiên
cứu.
Nhìn
chung,
phân
bổ
có
tác
động
chính
đối
với
sự
biến
động
của
chỉ
số
cơ
hội
của
các
vùng
qua
các
giai
đoạn
nghiên
cứu.
Cụ
thể,
ba
vùng
không
thay
đổi
trong
xu
hướng
biến
động
của
chỉ
số
cơ
hội,
tác
động
phân
bổ
là
nhân
tố
chính
quyết
định
xu
hướng
của
chỉ
số
cơ
hội.
Trong
đó,
nhân
tố
phân
bổ
đã
tăng
trưởng
âm
ở
Đông
Bắc
Bộ
và
Nam
Trung
Bộ
dẫn
đến
suy
giảm
chỉ
số
cơ
hội
của
các
vùng
này
trong
cả
ba
thời
kỳ.
Ngược
lại,
sự
cải
thiện
trong
cấu
phần
phân
bổ
cải
thiện
qua
thời
gian
đã
quyết
định
tăng
trưởng
dương
của
chỉ
số
cơ
hội
ở
Tây
Bắc.
Tuy
nhiên,
biến
động
của
độ
bao
phủ
cũng
quyết
định
biến
động
của
chỉ
số
cơ
hội
tại
một
số
vùng
ở
một
số
giai
đoạn
nhất
định.
Bắc
Trung
Bộ
có
biến
động
mạnh
độ
bao
phủ
qua
các
giai
đoạn
nghiên
cứu
và
biến
động
này
quyết
định
sự
thay
đổi
của
chỉ
số
cơ
hội
ở
vùng
này
trong
cả
ba
giai
đoạn
nghiên
cứu,
với
suy
giảm
bao
phủ
giai
đoạn
2004-‐2006,
chỉ
số
cơ
hội
đã
giảm
ở
vùng
này
trong
giai
đoạn
trên.
Tương
tự,
giai
đoạn
2004-‐2006,
sự
thay
đổi
mức
độ
bao
phủ
cũng
quyết
định
sự
biến
động
tăng
của
chỉ
số
cơ
hội
ở
các
vùng
Tây
Nguyên
và
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long.
3.2.2. Tỉ
lệ
tốt
nghiệp
phổ
thông
trung
học
của
dân
số
tuổi
16-‐25
Đây
là
nhóm
dân
số
chuẩn
bị
hoặc
bắt
đầu
gia
nhập
thị
trường
lao
động.
Giáo
dục
khi
bắt
đầu
gia
nhập
thị
trường
lao
động
đóng
vai
trò
tối
quan
trọng
đối
với
việc
làm
của
lao
động
trẻ
cũng
như
quá
trình
phát
triển
nghề
nghiệp
tiếp
sau.
Việt
Nam
đã
có
mục
tiêu
phổ
cập
phổ
thông
cơ
sở
như
là
một
chính
sách
nhằm
nâng
cao
chất
lượng
lao
động.
Đồng
thời
điều
này
cũng
tác
động
đến
chất
lượng
việc
làm
của
lao
động
trẻ.
Bảng
3:
Chỉ
số
cơ
hội
tốt
nghiệp
phổ
thông
cơ
sở
dân
số
tuổi
16-‐25
Tăng
trưởng
của
các
nhân
tố
Độ
bao
Phân
bổ
phủ
Thay
đổi
Đóng
góp
của
các
nhân
tố
Tác
động
chỉ
số
cơ
Độ
bao
Tác
động
Phân
bổ
qua
lại
phủ
qua
lại
hội
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
Tổng
(8)
2010-‐2012
Đồng
bằng
sông
Hồng
1.3%
1.4%
0.0%
2.7%
48.7%
50.7%
0.7%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
-‐1.0%
-‐0.9%
0.0%
-‐1.9%
50.5%
50.0%
-‐0.5%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
7.5%
-‐3.0%
-‐0.2%
4.2%
175.7%
-‐70.4%
-‐5.2%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
7.0%
-‐2.6%
-‐0.2%
4.2%
167.4%
-‐63.0%
-‐4.4%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
3.8%
2.2%
0.1%
6.1%
62.7%
36.0%
1.4%
100.0%
Tây
Nguyên
1.1%
-‐8.1%
-‐0.1%
-‐7.1%
-‐16.2%
114.9%
1.3%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
0.4%
0.9%
0.0%
1.3%
29.9%
69.8%
0.3%
100.0%
3.6%
6.8%
0.2%
10.6%
33.9%
63.8%
2.3%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
2006-‐2008
Đồng
bằng
sông
Hồng
5.0%
2.8%
0.1%
7.9%
63.2%
35.1%
1.7%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
5.4%
4.7%
0.3%
10.4%
52.1%
45.5%
2.5%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
8.3%
9.4%
0.8%
18.5%
44.9%
50.9%
4.2%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
8.0%
6.1%
0.5%
14.5%
54.9%
41.8%
3.3%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
7.7%
2.3%
0.2%
10.2%
75.3%
22.9%
1.8%
100.0%
Tây
Nguyên
10.7%
11.3%
1.2%
23.2%
46.2%
48.6%
5.2%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
3.0%
6.9%
0.2%
10.1%
29.8%
68.2%
2.0%
100.0%
18.7%
11.7%
2.2%
32.6%
57.4%
35.9%
6.7%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
2004-‐2006
Đồng
bằng
sông
Hồng
3.7%
1.6%
0.1%
5.4%
69.8%
29.1%
1.1%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
5.4%
0.0%
0.0%
5.4%
100.7%
-‐0.6%
0.0%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
14.3%
22.8%
3.3%
40.4%
35.5%
56.4%
8.1%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
3.2%
5.3%
0.2%
8.7%
37.0%
61.0%
2.0%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
5.6%
7.3%
0.4%
13.4%
42.3%
54.7%
3.1%
100.0%
Tây
Nguyên
16.4%
12.2%
2.0%
30.5%
53.6%
39.8%
6.5%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
7.9%
7.4%
0.6%
15.8%
49.8%
46.6%
3.7%
100.0%
22.4%
-‐4.6%
-‐1.0%
16.8%
133.7%
-‐27.5%
-‐6.2%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
Nguồn:
tính
toán
của
các
tác
giả
dựa
trên
số
liệu
VHLSSs
Đây
là
một
chỉ
tiêu
có
sự
khác
biệt
tương
đối
lớn
giữa
các
vùng.
Tỉ
lệ
bao
phủ
năm
2004
của
Đồng
bằng
sông
Hồng
năm
2004
và
2012
lần
lượt
là
86.4%
và
95.5%.
Trong
khi
đó,
tỉ
lệ
tương
ứng
của
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
là
39.5%
và
61.1%.
Một
điều
đặc
biệt
là
Đông
Nam
Bộ,
là
vùng
có
kinh
tế
phát
triển
nhất,
không
là
vùng
có
tỉ
lệ
tốt
nghiệp
trung
học
cơ
sở
cao
trong
nhóm
dân
số
tuổi
từ
16
đến
25.
Bắc
Trung
Bộ
là
vùng
có
kinh
tế
kém
phát
triển
so
với
vùng
khác
lại
là
vùng
có
độ
bao
phủ
tương
đối
cao,
ở
mức
82,1%
và
90,5%
tương
ứng
cho
hai
năm
2004
và
2012.
Điều
này
ngụ
ý
rằng
lao
động
của
Việt
nam
có
thể
chưa
phân
bố
tối
ưu
giữa
các
vùng.
Chỉ
số
cơ
hội
của
các
tất
cả
vùng
được
cải
thiện
mạnh
trong
hai
giai
đoạn
2004-‐2006
và
2006-‐
2008,
tuy
nhiên
tốc
độ
tăng
có
xu
hướng
giảm
trong
giai
đoạn
2010-‐2012.
Trong
hai
giai
đoạn
đầu,
do
xuất
phát
điểm
khác
nhau
nên
các
vùng
có
tốc
độ
cải
thiện
chỉ
số
cơ
hội
khác
nhau.
Giai
đoạn
2004-‐2006
mức
độ
cải
thiện
chỉ
số
này
của
các
vùng
biến
động
từ
mức
5,4%
ở
Đồng
bằng
sông
Hồng
và
Đông
Bắc
Bộ
đến
40,4%
ở
Tây
Bắc
Bộ.
Các
con
số
này
lần
lượt
cho
giai
đoạn
2006-‐
2008
là
7,9%
ở
Đồng
bằng
sông
Hồng
và
32,6%
ở
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long.
Một
kết
quả
đáng
lưu
ý
là
xu
hướng
bắt
kịp
của
các
vùng
có
xuất
phát
điểm
thấp.
Các
vùng
có
xuất
phát
điểm
thấp
gồm
Tây
Bắc
Bộ,
Tây
Nguyên
và
Đồng
bằng
Sông
Cửu
Long
là
những
vùng
có
tốc
độ
cải
thiện
chỉ
số
cơ
hội
cao
nhất
trong
hai
giai
đoạn
2004-‐2006
và
2006-‐2008.
Do
đó,
khoảng
cách
giữa
các
vùng
mặc
dù
vẫn
tồn
tại
nhưng
đã
giảm
vào
năm
2008.
Đóng
góp
của
độ
bao
phủ
và
phân
bổ
khác
biệt
giữa
các
vùng
và
sự
khác
biệt
này
thay
đổi
theo
thời
gian.
Trong
giai
đoạn
2004-‐2006,
đóng
góp
của
độ
bao
phủ
biến
động
từ
mức
35,5%
ở
Tây
Bắc
lên
đến
133,7%
ở
Đồng
bằng
sông
Cửu
long.
Mức
đóng
góp
thấp
nhất
của
nhân
tố
này
giảm
xuống
29,8%
ở
Đông
Nam
Bộ
và
cao
nhất
ở
mức
75,3%
ở
Nam
Trung
Bộ
trong
giai
đoạn
2006-‐
2008.
Mức
đóng
góp
thấp
nhất
tiếp
tục
giảm
xuống
mức
âm
trong
giai
đoạn
2010-‐2012
ở
Tây
Nguyên,
trong
khi
đó
mức
đóng
góp
cao
nhất
lên
đến
175,6%
ở
Tây
Bắc.
3.3.
Tiếp
cận
vệ
sinh
hợp
tiêu
chuẩn
Vệ
sinh
hợp
tiêu
chuẩn
cũng
là
một
trong
những
chỉ
tiêu
có
sự
khác
biệt
lớn
giữa
các
vùng.
Năm
2004,
độ
bao
phủ
cao
nhất
đạt
72,3%
ở
Đông
Nam
Bộ
và
mức
thấp
nhất
là
15,7%
ở
Tây
Bắc.
Mức
độ
độ
bao
phủ
đã
được
cải
thiện
nhanh
trong
giai
đoạn
2004-‐2012
nhưng
sự
khác
biệt
giữa
các
vùng
vẫn
duy
trì
ở
mức
cao.
Năm
2012,
độ
bao
phủ
ở
Đồng
bằng
sông
Hồng
đạt
mức
93,6%
nhưng
Tây
Bắc
vẫn
chỉ
đạt
27%.
Bảng
4:
Chỉ
số
cơ
hội
tiếp
cận
vệ
sinh
hợp
tiêu
chuẩn
Tăng
trưởng
của
các
nhân
tố
Độ
bao
Thay
đổi
Đóng
góp
của
các
nhân
tố
Tác
động
chỉ
số
cơ
Độ
bao
Tác
động
Phân
bổ
qua
lại
phủ
qua
lại
hội
Phân
bổ
phủ
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
Tổng
(8)
2010-‐2012
Đồng
bằng
sông
Hồng
5.2%
2.5%
0.1%
7.8%
66.7%
31.7%
1.6%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
-‐0.1%
-‐5.9%
0.0%
-‐6.0%
1.1%
98.9%
-‐0.1%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
-‐4.5%
-‐2.5%
0.1%
-‐6.9%
65.1%
36.5%
-‐1.6%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
9.2%
5.3%
0.5%
15.0%
61.1%
35.6%
3.3%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
-‐0.2%
2.6%
0.0%
2.4%
-‐8.1%
108.3%
-‐0.2%
100.0%
Tây
Nguyên
11.4%
2.3%
0.3%
14.0%
81.5%
16.6%
1.9%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
3.2%
3.5%
0.1%
6.8%
46.9%
51.5%
1.6%
100.0%
11.5%
10.4%
1.2%
23.1%
49.7%
45.2%
5.2%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
2006-‐2008
Đồng
bằng
sông
Hồng
8.4%
8.2%
0.7%
17.2%
48.6%
47.5%
4.0%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
6.8%
8.5%
0.6%
15.9%
43.0%
53.4%
3.7%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
11.9%
63.7%
7.6%
83.2%
14.3%
76.6%
9.1%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
12.4%
4.7%
0.6%
17.7%
69.9%
26.8%
3.3%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
4.9%
-‐4.2%
-‐0.2%
0.5%
1040.1%
-‐896.5%
-‐43.6%
100.0%
Tây
Nguyên
20.8%
20.3%
4.2%
45.4%
45.9%
44.8%
9.3%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
8.6%
15.5%
1.3%
25.4%
33.7%
61.1%
5.2%
100.0%
16.5%
19.1%
3.1%
38.7%
42.6%
49.3%
8.1%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
2004-‐2006
Đồng
bằng
sông
Hồng
10.2%
9.2%
0.9%
20.3%
50.2%
45.2%
4.6%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
9.7%
6.5%
0.6%
16.8%
57.5%
38.7%
3.7%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
14.9%
12.3%
1.8%
29.1%
51.3%
42.4%
6.3%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
6.5%
8.2%
0.5%
15.2%
42.8%
53.7%
3.5%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
17.7%
21.4%
3.8%
42.8%
41.2%
49.9%
8.8%
100.0%
Tây
Nguyên
10.0%
19.8%
2.0%
31.8%
31.5%
62.3%
6.2%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
10.1%
11.1%
1.1%
22.3%
45.4%
49.6%
5.0%
100.0%
26.5%
18.3%
4.8%
49.6%
53.4%
36.9%
9.8%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
Nguồn:
tính
toán
của
các
tác
giả
dựa
trên
số
liệu
VHLSSs
Chỉ
số
cơ
hội
của
các
vùng
phần
lớn
được
cải
thiện
với
tốc
độ
cao
trong
hai
giai
đoạn
2004-‐2006
và
2006-‐2008,
tốc
độ
cải
thiện
có
xu
hướng
giảm
trong
giai
đoạn
2010-‐2012.
Trừ
Nam
Trung
Bộ
trong
giai
đoạn
2006-‐2008,
tốc
độ
tăng
của
các
vùng
đều
cao
hơn
15%,
cá
biệt
như
Đồng
Bằng
sông
Cửu
Long
đạt
49,6%
trong
giai
đoạn
2004-‐2006
hay
83.2%
trong
giai
đoạn
2006-‐2008.
Trong
khi
đó
có
hai
vùng
có
sự
suy
giảm
chỉ
số
cơ
hội
trong
giai
đoạn
2010-‐2012,
các
vùng
còn
lại
chỉ
số
cơ
hội
vẫn
duy
trì
tăng
trưởng
dương
nhưng
ở
mức
thấp
hơn.
Hơn
nữa
trong
giai
đoạn
2004-‐2006
và
2006-‐2008,
các
vùng
có
xuất
phát
thấp
gồm
Tây
Bắc,
Đồng
bằng
sông
Cửu
long
và
Tây
Nguyên
có
tốc
độ
tăng
cao
hơn,
điều
này
ngụ
ý
xu
hướng
bắt
kịp
của
các
vùng
này
trong
các
giai
đoạn
này.
Xu
hướng
này
vẫn
tiếp
tục
đối
với
Tây
Nguyên
và
Đồng
bằng
sông
Cửu
long
ở
giai
đoạn
2010-‐2012.
Trong
khi
đó
Tây
Bắc
lại
có
chỉ
số
giảm.
3.4.
Bảo
hiểm
y
tế
Đây
là
một
chỉ
tiêu
tương
đối
khác
biệt
với
các
chỉ
tiêu
khác
trên
khía
cạnh
phân
bổ.
Với
việc
nhà
nước
mua
hoặc
trợ
cấp
bảo
hiểm
y
tế
cho
người
nghèo,
các
vùng
nghèo
lại
có
độ
bao
phủ
cao
hơn.
Đồng
thời,
việc
phân
bổ
có
xu
hướng
không
theo
một
qui
luật
nhất
định.
Hình
2
biểu
thị
đường
dịch
chuyển
cơ
hội
của
một
số
vùng.
Hình
2:
Thay
đổi
của
các
đường
dịch
chuyển
cơ
hội
bảo
hiểm
y
tế
ở
một
số
vùng
.8
.4
.6
Ti le tiep can
.8
.6
.4
Ti le tiep can
1
Vung 3
1
Vung 2
0
20
40
60
Ti trong dan so tich luy (%)
2004
2006
2010
2012
80
100
0
2008
20
2004
2006
2010
2012
80
100
2008
.8
.6
.4
.4
.6
.8
Ti le tiep can
1
Vung 7
1
Vung 5
Ti le tiep can
40
60
Ti trong dan so tich luy (%)
0
20
40
60
Ti trong dan so tich luy (%)
2004
2006
2010
2012
80
100
2008
0
20
40
60
Ti trong dan so tich luy (%)
2004
2006
2010
2012
80
100
2008
Vung
2:
Đông
Bắc
Bộ;
Vùng
3:
Tây
Bắc
Bộ;
Vùng
5:
Nam
Trung
Bộ;
Vùng
7:
Đông
Nam
Bộ
Biến
động
chỉ
số
cơ
hội
tương
đối
khác
biệt
với
chỉ
số
cho
các
khía
cạnh
khác.
Chỉ
số
của
bảo
hiểm
y
tế
tăng
mạnh
trong
giai
đoạn
2004-‐2006,
sau
đó
tốc
độ
cải
thiện
giảm
nhanh
trong
giai
đoạn
2006-‐2008
và
có
xu
hướng
phục
hồi
trong
giai
đoạn
2010-‐2012.
Trong
giai
đoạn
2004-‐
2006,
chỉ
số
này
tăng
trưởng
ở
mức
thấp
nhất
là
22,3%
đối
với
khu
vực
Tây
Bắc
và
cao
nhất
ở
mức
57,5%
đối
với
khu
vực
Đông
Bắc
Bộ.
Cần
lưu
ý
là
khu
vực
Tây
Bắc
có
độ
bao
phủ
cao
nhất
trong
năm
2004
ở
mức
66,8%.
Tăng
trưởng
chỉ
số
này
cao
nhất
chỉ
đạt
mức
9,6%
ở
Đông
Nam
Bộ
trong
giai
đoạn
2006-‐2008.
Có
5
trên
8
vùng
có
mức
tăng
trưởng
của
chỉ
số
này
giai
đoạn
2010-‐2012
cải
thiện
so
với
giai
đoạn
2006-‐2008.
Mức
cải
thiện
cao
nhất
về
tăng
trưởng
chỉ
số
này
giữa
hai
giai
đoạn
2006-‐2008
và
2010-‐2012
là
10,6
điểm
phần
trăm
ở
Đồng
bằng
sông
Cửu
long.
Bảng
5:
Chỉ
số
cơ
hội
có
bảo
hiểm
y
tế
Tăng
trưởng
của
các
nhân
tố
Độ
bao
Tác
động
chỉ
số
cơ
qua
lại
hội
Phân
bổ
phủ
(1)
Đóng
góp
của
các
nhân
tố
Thay
đổi
(2)
(3)
Độ
bao
phủ
(4)
Tác
động
Phân
bổ
(5)
Tổng
qua
lại
(6)
(7)
(8)
2010-‐2012
Đồng
bằng
sông
Hồng
7.4%
3.9%
0.3%
11.6%
64.1%
33.5%
2.5%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
4.4%
-‐0.4%
0.0%
4.0%
110.1%
-‐9.7%
-‐0.4%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
2.5%
0.1%
0.0%
2.6%
96.5%
3.4%
0.1%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
13.3%
-‐0.6%
-‐0.1%
12.6%
104.9%
-‐4.4%
-‐0.6%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
11.7%
-‐0.5%
-‐0.1%
11.1%
105.4%
-‐4.8%
-‐0.6%
100.0%
Tây
Nguyên
-‐1.8%
-‐3.3%
0.1%
-‐5.1%
36.2%
65.0%
-‐1.2%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
5.8%
1.8%
0.1%
7.7%
75.8%
22.9%
1.3%
100.0%
14.7%
-‐1.4%
-‐0.2%
13.1%
112.3%
-‐10.8%
-‐1.6%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
2006-‐2008
Đồng
bằng
sông
Hồng
6.6%
0.2%
0.0%
6.9%
96.6%
3.2%
0.2%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
2.9%
4.2%
0.1%
7.3%
40.2%
58.1%
1.7%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
4.7%
-‐2.0%
-‐0.1%
2.6%
179.6%
-‐76.1%
-‐3.5%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
7.0%
-‐7.0%
-‐0.5%
-‐0.5%
-‐1412.8%
1413.5%
99.3%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
3.5%
-‐2.5%
-‐0.1%
0.9%
381.3%
-‐271.8%
-‐9.6%
100.0%
Tây
Nguyên
-‐1.6%
2.2%
0.0%
0.6%
-‐273.4%
379.5%
-‐6.1%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
9.6%
-‐2.9%
-‐0.3%
6.5%
148.7%
-‐44.5%
-‐4.3%
100.0%
4.1%
-‐2.2%
-‐0.1%
1.9%
220.8%
-‐116.0%
-‐4.8%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
2004-‐2006
Đồng
bằng
sông
Hồng
34.0%
7.4%
2.5%
43.9%
77.4%
16.9%
5.7%
100.0%
Đông
Bắc
Bộ
57.5%
6.9%
4.0%
68.3%
84.1%
10.1%
5.8%
100.0%
Tây
Bắc
Bộ
22.4%
-‐8.1%
-‐1.8%
12.4%
179.7%
-‐65.1%
-‐14.6%
100.0%
Bắc
Trung
Bộ
41.9%
12.4%
5.2%
59.5%
70.5%
20.8%
8.7%
100.0%
Nam
Trung
Bộ
43.8%
5.0%
2.2%
51.1%
85.8%
9.9%
4.3%
100.0%
Tây
Nguyên
42.5%
-‐0.6%
-‐0.3%
41.6%
102.2%
-‐1.5%
-‐0.6%
100.0%
Đông
Nam
Bộ
32.0%
-‐4.6%
-‐1.5%
25.9%
123.7%
-‐17.9%
-‐5.7%
100.0%
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
51.4%
2.9%
1.5%
55.8%
92.0%
5.3%
2.7%
100.0%
Nguồn:
tính
toán
của
các
tác
giả
dựa
trên
số
liệu
VHLSSs
Đóng
góp
của
các
nhân
tố
đến
biến
động
của
chỉ
số
cơ
hội
khác
biệt
khá
rõ
ràng
với
biến
động
dương
và
chiếm
ưu
thế
của
độ
bao
phủ.
Trong
khi
đó
biến
động
của
phân
bổ
có
xu
hướng
âm
nhiều
hơn.
Ví
dụ,
trong
giai
đoạn
2004-‐2006,
tỉ
trọng
đóng
góp
của
độ
bao
phủ
đến
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
thấp
nhất
là
70,5%
ở
Bắc
Trung
Bộ
hay
ngoài
khu
vực
Tây
Nguyên,
đóng
góp
của
độ
bao
phủ
đều
lớn
hơn
50%
ở
các
vùng
còn
lại
trong
giai
đoạn
2010-‐2012.
Đóng
góp
âm
của
phân
bổ
đến
chỉ
số
cơ
hội
là
điều
có
thể
giải
thích
được.
Khi
độ
bao
phủ
tăng
lên
và
các
nhóm
có
mức
thu
nhập
ở
giữa
được
tiếp
cận
với
bảo
hiểm
y
tế
và
dẫn
đến
chỉ
số
đo
lường
phân
bố,
với
thiết
kế
để
đo
sự
chênh
lệch
tăng
theo
thu
nhập,
giảm
đi.
Kết
luận
Kết
quả
nghiên
cứu
cho
thấy
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
theo
thu
nhập
đều
tăng
qua
các
giai
đoạn
nghiên
cứu
ở
các
vùng.
Trong
các
giai
đoạn
nghiên
cứu,
có
giai
đoạn
có
xu
hướng
hội
tụ
vừa
có
giai
đoạn
khoảng
cách
giữa
các
vùng
tăng
lên.
Đóng
góp
chủ
yếu
đến
tăng
trưởng
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
thu
nhập
là
tăng
thu
nhập
trung
bình.
Tuy
nhiên,
trong
giai
đoạn
2010-‐
2012,
đóng
góp
của
phân
bổ
đã
vượt
đóng
góp
của
tăng
trưởng
thu
nhập
trung
bình
ở
hai
vùng
có
thu
nhập
cao
nhất
là
Đồng
bằng
sông
Hồng
và
Đông
Nam
Bộ.
Về
giáo
dục,
tỉ
lệ
trẻ
em
tuổi
từ
12
đến
15
đến
trường
biến
động
qua
thời
gian
và
giữa
các
vùng.
Điều
đáng
lưu
ý
là
Đông
Bắc
Bộ
và
Nam
Trung
Bộ
có
sự
suy
giảm
chỉ
số
cơ
hội
qua
thời
gian,
trong
khi
đó
Tây
Bắc
Bộ
có
sự
cải
thiện
chỉ
số
này
qua
thời
gian.
Về
đóng
góp
các
nhân
tố,
phân
bổ
là
nhân
tố
có
tác
động
chính
đối
với
biến
động
của
chỉ
số
cơ
hội
ở
phần
lớn
các
vùng
cũng
như
các
giai
đoạn.
Chỉ
số
cơ
hội
về
dân
số
tuổi
từ
16
đến
25
tốt
nghiệp
trung
học
cơ
sở
của
các
vùng
được
cải
thiện
mạnh
trong
hai
giai
đoạn
2004-‐2006
và
2006-‐2008,
tuy
nhiên
tốc
độ
tăng
có
xu
hướng
giảm
trong
giai
đoạn
2010-‐2012.
Một
kết
quả
đáng
lưu
ý
là
xu
hướng
bắt
kịp
của
các
vùng
có
xuất
phát
điểm
thấp.
Các
vùng
có
xuất
phát
điểm
thấp
gồm
Tây
Bắc
Bộ,
Tây
Nguyên
và
Đồng
bằng
Sông
Cửu
Long
là
những
vùng
có
tốc
độ
cải
thiện
chỉ
số
cơ
hội
cao
nhất
trong
hai
giai
đoạn
2004-‐2006
và
2006-‐2008.
Do
đó,
khoảng
cách
giữa
các
vùng
mặc
dù
vẫn
tồn
tại
nhưng
đã
giảm
vào
năm
2008.
Về
khía
cạnh
phân
tách,
đóng
góp
của
các
cấu
phần
bao
phủ
và
phân
bổ
đến
chỉ
số
cơ
hội
khác
nhau
giữa
các
vùng
và
thay
đổi
theo
thời
gian.
Tương
tự
chỉ
số
cơ
hội
của
dân
số
tuổi
từ
16
đến
25
tốt
nghiệp
trung
học
cơ
sở,
chỉ
số
cơ
hội
về
tiếp
cận
vệ
sinh
hợp
tiêu
chuẩn
của
các
vùng
phần
lớn
được
cải
thiện
với
tốc
độ
cao
trong
hai
giai
đoạn
2004-‐2006
và
2006-‐2008
và
tốc
độ
cải
thiện
có
xu
hướng
giảm
trong
giai
đoạn
2010-‐
2012.
Đồng
thời
có
xu
hướng
bắt
kịp
giữa
các
vùng
qua
các
giai
đoạn,
đặc
biệt
là
các
vùng
Tây
Nguyên
và
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long.
Biến
động
chỉ
số
cơ
hội
của
bảo
hiểm
y
tế
tương
đối
khác
biệt
với
chỉ
số
cho
các
khía
cạnh
khác.
Chỉ
số
của
bảo
hiểm
y
tế
tăng
mạnh
trong
giai
đoạn
2004-‐2006,
sau
đó
tốc
độ
cải
thiện
giảm
nhanh
trong
giai
đoạn
2006-‐2008
và
có
xu
hướng
phục
hồi
trong
giai
đoạn
2010-‐2012.
Đóng
góp
của
các
nhân
tố
đến
biến
động
của
chỉ
số
cơ
hội
khác
biệt
khá
rõ
ràng
với
biến
động
dương
và
chiếm
ưu
thế
của
độ
bao
phủ.
Trong
khi
đó
biến
động
của
phân
bổ
có
xu
hướng
âm
nhiều
hơn.
Phụ
lục.
Phương
pháp
tính
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
Giả
sử
có
n
người
trong
dân
số
với
thu
nhập
là
x! , x! , … … . . , n!
với
x!
là
thu
nhập
của
người
nghèo
nhất
và
x!
là
thu
nhập
của
người
giầu
nhất.
Hàm
phúc
lợi
xã
hội
được
định
nghĩa
như
sau:
W = W x! , x! , … . . , x!
(1)
Đây
là
một
hàm
tăng
theo
biến
x.
Tương
tự,
hàm
cơ
hội
xã
hội
được
định
nghĩa:
O = O y! , y! … … . . y!
(2)
Với
y!
là
cơ
hội
của
người
thứ
i
với
thu
nhập
x! .
Cơ
hội
ở
đây
là
việc
tiếp
cận/sử
dụng
các
hàng
hóa
dịch
vụ
cơ
bản
khác
nhau
như
giáo
dục,
y
tế,
việc
làm…
y!
nhận
giá
trị
nhị
phân,
0
nếu
không
được
tiếp
cận/sử
dụng
dịch
vụ
đó
và
100
nếu
được
sử
dụng/tiếp
cận.
Để
tính
đến
cấu
phần
phân
bổ,
hàm
cơ
hội
xã
hội
phải
đáp
ứng
nguyên
tắc
“chuyển
dịch”,
theo
đó
bất
kỳ
sự
dịch
chuyển
cơ
hội
từ
một
người
nghèo
sang
người
giầu
hơn
sẽ
làm
giảm
hàm
cơ
hội
xã
hội.
Một
hàm
tích
lũy
phân
bố
của
cơ
hội:
Q! 0 = y! ,
!! !!!
!
,…,
!! !!! !⋯!!!
!
(3)
Hàm
này
phản
ánh
phân
bố
của
trung
bình
tích
lũy
của
cơ
hội
khi
các
cá
nhân
được
sắp
xếp
theo
thu
nhập
tăng.
Hàm
trên
còn
có
thể
gọi
đường
tập
trung
tổng
quát
hóa
của
phân
bố
cơ
hội.
Hàm
trên
đáp
ứng
được
nguyên
tắc
chuyển
dịch.
Thực
vậy,
với
bất
kỳ
sự
dịch
chuyển,
t,
giữa
mọi
người
chẳng
hạn
từ
người
1
sang
người
2,
hàm
trên
sẽ
là:
Q! t = y! − t,
!! !!!
!
,…,
!! !!! !⋯!!!
!
(4)
Như
vậy,
hàm
trên
đã
dịch
chuyển
xuống
dưới
ở
người
1,
hay
giảm
cơ
hội
xã
hội.
Giả
sử
𝑦!
là
cơ
hội
trung
bình
của
p
phần
trăm
dân
số
cuối
trong
phân
bố,
với
p
chạy
từ
0
đến
100.
Nếu
chúng
ta
vẽ
𝑦!
với
các
giá
trị
p
khác
nhau,
thực
tế
đây
là
tập
trung
tổng
quá
hóa
của
cơ
hội
và
đường
này
có
thể
gọi
được
gọi
là
đường
cơ
hội
xã
hội.
Để
phản
ánh
sự
thay
đổi
của
về
phân
bố
cơ
hội,
cần
một
định
dạng
của
hàm
cơ
hội
xã
hội.
Ali
và
Son
(2007)
và
Anand
và
cộng
sự
(2013)
đều
định
dạng
hàm
cơ
hội
xã
hội
là
phần
diện
tích
phía
dưới
của
đường
cơ
hội
xã
hội,
được
tính
toán
với
phương
trình:
𝑦∗ =
!""
𝑦!
!
𝑑𝑝 (5)
với 𝑦! được
định
nghĩa
ở
trên.
Chỉ
tiêu
này
được
gọi
chỉ
số
cơ
hội
(opportunity
index)
Chênh
lệch
giữa
các
nhóm
được
đo
lường
bởi
chỉ
số
bình
đẳng
về
cơ
hội
(equity
index
of
opportunity):
!∗
φ= !
(6), với 𝑦 là
trung
bình
cơ
hội
của
toàn
dân
số.
Nếu
φ càng
gần
1,
tức 𝑦 ∗ càng
gần 𝑦,
thì
bình
đẳng
càng
cao,
nếu φ=1 phản
ánh
trường
hợp
bình
đẳng
hoàn
toàn
giữa
các
thành
viên
trong
xã
hội.
Trong
một
số
trường
hợp,
φ
có
thể
lớn
hơn
1,
phản
ánh
người
nghèo
được
tiếp
cận
các
dịch
vụ
cơ
bản
tốt
hơn
người
giầu.
Nếu
trọng
số
cho
người
nghèo
cao
hơn,
có
nghĩa
là
việc
tiếp
cận
hàng
hóa
dịch
vụ
cơ
bản
của
người
nghèo
quan
trọng
hơn,
φ
vẫn
phản
ánh
sự
bình
đẳng
trong
xã
hội.
(6)
có
thể
chuyển
vế
để
phản
ánh
sự
phụ
thuộc
của
đo
lường
đường
cơ
hội
xã
hội,
phản
ánh
tăng
trưởng
bao
trùm
vào
mức
độ
bao
phủ
hay
trung
bình
của
cơ
hội
và
sự
bình
đẳng
𝑦∗ = 𝜑 ∗ 𝑦
(7)
𝑑𝑦 ∗ = 𝑑𝜑 ∗ 𝑦 +φ*𝑑𝑦
Với
thay
đổi
nhỏ
trong φ và 𝑦,
Hơn
nữa,
(8)
cho
thấy:
!!∗
!∗
=
!"
!
+
!!
!
(8)
(9)
điều
này
ngụ
ý
sự
thay
thế
hoàn
toàn
giữa
hai
cấu
phần
của
tăng
trưởng
bao
trùm
hay
một
điểm
phần
trăm
giảm
trong
độ
bao
phủ
có
thể
bù
đắp
bằng
một
điểm
phần
trăm
trong
bình
đẳng
về
cơ
hội
và
ngược
lại.
Cấu
phần
1
và
hai
của
bên
phải
phương
trình
(5)
lần
lượt
phản
ánh
đóng
góp
của
thay
đổi
trong
sự
phân
bổ
và
thay
đổi
trong
độ
bao
phủ
đến
thay
đổi
trong
chỉ
số
cơ
hội.
Tuy
nhiên,
(9)
cần
phải
điều
chỉnh
để
tính
đến
trường
hợp
thay
đổi
đáng
kể
của φ và 𝑦. Từ
(7),
thay
đổi
của
chỉ
số
cơ
hội
do
thay
đổi
trong
độ
bao
phủ
và
phân
bổ
và
có
thể
biểu
thị
như
sau:
𝑦 ∗ + ∆𝑦 ∗ = (𝜑 + ∆𝜑) ∗ 𝑦 + ∆𝑦
(10)
hay ∆𝑦 ∗ = 𝜑 ∗ ∆𝑦 + ∆𝜑 ∗ 𝑦 + ∆𝜑 ∗ ∆𝑦
(11)
Sự
khác
nhau
giữa
(8)
và
(11)
là
(11)
tính
đến
cấu
phần
tác
động
qua
lại, ∆𝜑 ∗ ∆𝑦.
Khi
áp
dụng
các
chỉ
số
này
cho
chỉ
tiêu
thu
nhập,
cơ
hội
được
thay
bằng
thu
nhập
và
Anand
và
cộng
sự
(2013)
gọi
chỉ
số
𝑦 ∗
là
chỉ
số
dịch
chuyển
xã
hội
(social
mobility
index).
Chỉ
số
đo
lường
chênh
lệch
φ
được
gọi
là
chỉ
số
bình
đẳng
về
thu
nhập
(Income
equity
index).
Trong
nghiên
cứu
này,
chỉ
số
đo
lường
về
tăng
trưởng
bao
trùm (𝑦 ∗ ) được
gọi
là
chỉ
số
tăng
trưởng
bao
trùm
trong
trường
hợp
chỉ
tiêu
thu
nhập,
hai
cấu
phần
của
chỉ
số
này
được
gọi
lại
là
thu
nhập
trung
bình
và
phân
bổ.
Đối
với
các
chỉ
tiêu
phi
thu
nhập,
chỉ
số
đo
lường
về
tăng
trưởng
bao
trùm
được
gọi
là
chỉ
số
cơ
hội,
cơ
hội
trung
bình (𝑦) được
gọi
là
độ
bao
phủ
và
chỉ
số
bình
đằng
về
cơ
hội
(φ)
được
gọi
là
chỉ
số
phân
bổ.