Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Lựa chọn bài tập sức bền tốc độ nâng cao thành tích chạy 800m cho nữ đội tuyển điền kinh trường THPT vân nội, đông anh, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1002 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

NGUYỄN VĂN TOẢN

LỰA CHỌN BÀI TẬP SỨC BỀN TỐC ĐỘ
NÂNG CAO THÀNH TÍCH CHẠY 800M CHO
NỮ ĐỘI TUYỂN ĐIỀN KINH TRƢỜNG THPT
VÂN NỘI - ĐÔNG ANH - HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP
Hƣớng dẫn khoa học

ThS. VŨ TUẤN ANH

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Nguyễn Văn Toản
Sinh viên lớp K36 GDTC-GDQP Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2.
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Toàn bộ
những vấn đề được đưa ra bàn luận, nghiên cứu đều mang tính cấp thiết và
đúng thực tế khách quan của trường THPT Vân Nội - Đông Anh - Hà Nội.
Xuân hòa, ngày..... tháng....năm 2014.
Sinh viên

Nguyễn Văn Toản


DANH MỤC VIẾT TẮT



CĐTĐ

Cường độ tối đa.

ĐC

Đối chứng.

GV

Giáo viên.

GDTC

Giáo dục thể chất.

(s)

Giây.

HLV

Huấn luyện viên.

THPT

Trung học phổ thông.

TDTT


Thể dục thể thao.

TTN

Trước thực nghiệm

TN

Thực nghiệm

TĐC

Tốc độ cao.

VĐV

Vận động viên.

XPC

Xuất phát cao.

XPT

Xuất phát thấp.

STN

Sau thực nghiệm.


%

Phần trăm.


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số bảng

Nội dung

Trang

Thực trạng đội ngũ giáo viên TDTT của trường THPT

27

biểu
Bảng 3.1

Vân Nội - Đông Anh - Hà Nội.
Bảng 3.2

Thực trạng cơ sở vật chất TDTT của trường THPT Vân

28

Nội - Đông Anh - Hà Nội.
Bảng 3.3


Bài tập phát triển sức bền tốc độ trong chạy 800m đang

29

được trường THPT Vân Nội - Đông Anh - Hà Nội áp
dụng.
Bảng 3.4

Kết quả của các test kiểm tra sức bền tốc độ cho nữ đội

Bảng 3.5

tuyển điền kinh trường THPT Vân Nội - Đông Anh - Hà

30

Nội năm (2011 - 2012) và (2012 - 2013).
Bảng 3.6

Kết quả phỏng vấn lựa chọn bài tập sức bền tốc độ cho

32

nữ đội tuyển chạy 800m trường THPT Vân Nội. (n = 20)
Bảng 3.7

Kết quả phỏng vấn lựa chọn các test đánh giá hiệu quả

35


bài tập sức bền tốc độ cho nữ VĐV chạy 800m trường
THPT Vân Nội - Đông Anh - Hà Nội. (n = 20)
Bảng 3.8

Kết quả kiểm tra các test trước thực nghiệm của 2 nhóm

37

TN và ĐC.
Bảng 3.9

Tiến trình thực nghiệm trong 6 tuần.

39

Bảng 3.10

Kết quả kiểm tra các tets sau thực nghiệm của 2 nhóm

40

TN và ĐC.
Biểu đồ 3.1

Biểu đồ thể hiện thành tích chạy 100m trước và sau TN.

41

Biểu đồ 3.2


Biểu đồ thể hiện thành tích chạy 400m trước và sau TN.

42

Biểu đồ 3.3

Biểu đồ thể hiện thành tích chạy 800m trước và sau TN.

42


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ ....................... ……………………..4
1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà Nước về giáo dục thể chất và thể thao
trường học .........................................................................................................4
1.2. Đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh THPT.................................................6
1.3. Những quan điểm về huấn luyện sức bền tốc độ cho VĐV chạy cự ly
800m ................................................................................................................ 10
1.4. Cơ sở lý luận của sức bền tốc độ. ............................................................ 12
1.5. Cơ sở sinh lý của sức bền......................................................................... 15
1.6. Những phương pháp huấn luyện sức bền................................................. 15
1.7. Ý nghĩa của sự phát triển sức bền tốc độ nhằm nâng cao thành tích chạy
800m ................................................................................................................ 20
CHƢƠNG 2: NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 22
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu. .............................................................................. 22
2.2. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 22
2.3. Tổ chức nghiên cứu. ................................................................................. 24
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 26

3.1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC và việc sử dụng bài tập bền tốc độ cho
nữ đội tuyển điền kinh trường THPT Vân Nội - Đông Anh - Hà Nội ............... 26
3.2. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả bài tập sức bền tốc độ nhằm
nâng cao thành tích chạy 800m cho nữ đội tuyển điền kinh trường THPT Vân
Nội - Đông Anh - Hà Nội................................................................................ 31
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 45
PHỤ LỤC


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua dưới ánh sáng của nghị quyết Trung ương Đảng
khóa VII nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN có sự quản lí của nhà nước. Mở rộng giao lưu và
hợp tác với nước ngoài trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
Đời sống nhân dân ta đã được ổn định và ngày càng được nâng cao cả về vật
chất lẫn tinh thần.
Hòa chung với sự phát triển về mọi mặt của đất nước, nền TDTT nước
ta cũng không ngừng phát triển và khẳng định được vị thế trong khu vực.
Ngày nay cùng với sự phát triển như vũ bão của các ngành khoa học, như
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, thì khoa học thể dục thể thao cũng phát
triển rực rỡ thành tích của các môn thể thao nói chung, thành tích điền kinh
nói riêng cũng ngày càng phát triển các kỉ lục được thiết lập và phá vỡ thay
thế bằng kỉ lục mới với thành tích nhanh hơn, cao hơn và xa hơn.
Điền kinh là môn thể thao rất đa dạng và phong phú bao gồm các hoạt
động tự nhiên của con người như đi bộ, chạy nhảy, ném đẩy và nhiều môn
phối hợp, trong các nội dung thi đấu tại đại hội TDTT quốc tế và khu vực thì
điền kinh thực sự là môn thể thao nữ hoàng được sự theo dõi cổ động viên của

phần đông khán giả. Trong tất cả nội dung thi đấu của môn điền kinh nổi bật
lên là nội dung chạy 800m nữ đây chính là nội dung thi đấu chính thức trong
đại hội TDTT, hội khỏe phù Đổng. Chạy 800m là môn học cơ bản của các
trường như đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trường THPT.
Chạy 800m phát triển rộng rãi trong quần chúng như vậy bởi nó có tác dụng
tốt đối với sự phát triển toàn diện cơ thể, hơn nữa việc tập luyện lại đơn giản,
thuận lợi trong trường phổ thông. Việc tập luyện Điền kinh đòi hỏi các em
phải có đầy đủ sức nhanh, sức mạnh, sức bền và sự khéo léo phối hợp vận


2

động. Chạy 800m làm cho hệ hô hấp phát triển, tăng cường quá trình trao đổi
chất và vận chuyển lưu thông trong máu tốt đến các cơ quan trong cơ thể.
Chạy cự ly 800m không chỉ đòi hỏi ở vận động viên có tốc độ cao mà còn đòi
hỏi ở VĐV có sức bền chuyên môn tốt, có khả năng thích hợp với điều kiện
đưa ra khắc phục được những trạng thái tâm lý, sinh lý trong quá trình thi đấu
thực hiện tốt kĩ thuật thi đấu mới có kết quả cao.
Đông Anh là huyện có phong trào thể thao mạnh của thành phố đặc
biệt là nội dung chạy cự ly trung bình và dài, đã có rất nhiều VĐV Đông Anh
tham gia thi đấu trưởng thành từ giải báo Hà Nội mới đang tập luyện trong
đội tuyển Hà Nội, Quốc gia tham gia thi đấu seagames đạt thành tích cao như
Nguyễn Chí Đông, Nguyễn Lan Anh là những vận động viên tiêu biểu của
huyện và có tên tuổi trong làng điền kinh Việt Nam. Trường THPT Vân Nội
đóng trên địa bàn huyện Đông Anh là một trong những trường có phong trào
thể thao trong học sinh rất phát triển, đặc biệt là nội dung điền kinh đã có rất
nhiều học sinh dành được huy chương vàng, bạc, đồng ở nội dung chạy 100m,
200m, 400m và nội dung chạy tiếp sức trong Hội khỏe phù Đổng. Tuy nhiên,
thành tích chạy cự ly 800m của học sinh nhà trường trong một vài năm qua
chưa đạt kết quả cao trong các giải thi đấu.

Trong quá trình nghiên cứu tài liệu chúng tôi thấy môn chạy 800m
trong nhà trường THPT, đã có một số tác giả là sinh viên khoa GDTC trường
ĐHSP Hà Nội 2 nghiên cứu như: Bùi văn Thiện (2009), Doãn Thị Oanh
(2011). Tuy nhiên, chưa có tác giả nào nghiên cứu về sức bền tốc độ trong
trong chạy 800m cho nữ đội tuyển điền kinh trường THPT Vân Nội – Đông
Anh – Hà Nội.


3

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài:“Lựa chọn bài tập sức bền tốc độ nâng cao thành tích chạy 800m cho
nữ đội tuyển điền kinh trƣờng THPT Vân Nội - Đông Anh - Hà Nội”.
*MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài nghiên
cứu lựa chọn bài tập phát triển sức bền tốc độ trong chạy 800m cho học sinh
nữ đội tuyển điền kinh trường THPT Vân Nội - Đông Anh - Hà Nội để ứng
dụng trong quá trình giảng dạy, huấn luyện góp phần nâng cao thành tích
chạy 800 cho học sinh trong vài năm tới.


4

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC VỀ GIÁO DỤC THỂ
CHẤT VÀ THỂ THAO TRƢỜNG HỌC.
Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến sự nghiệp phát triển TDTT vì sức
khỏe nhân dân, Bác kêu gọi toàn dân thường xuyên rèn luyện thân thể giữ gìn
sức khỏe và nâng cao thể lực. Bác Hồ tin yêu thế hệ trẻ, quan tâm và chăm

sóc đến sự phát triển thể chất của thế hệ trẻ. Ngày về thăm Trường Trung cấp
TDTT Trung ương (nay là Trường Đại học TDTT Bắc Ninh), Bác đã căn dặn:
"... Các cháu học TDTT không phải để đạt ông kiện tướng này, bà kiện tướng
nọ. Cái chính là người cán bộ phục vụ đắc lực cho nhân dân, đem hiểu biết
của mình ra hướng dẫn mọi người cùng tập luyện để nâng cao sức khỏe đẩy
lùi bệnh tật..." [7].
Định hướng về công tác giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ trong
những năm tới, Nghị quyết Trung ương II khóa VIII đã khẳng định: "Giáo dục
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng
đầu... chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI... muốn xây
dựng đất nước giàu mạnh, văn minh phải có con người phát triển toàn diện,
không chỉ phát triển về trí tuệ, trong sáng về đạo đức lối sống mà phải là con
người cường tráng về thể chất. Chăm lo cho con người về thể chất là trách
nhiệm của toàn xã hội, của tất cả các ngành các đoàn thể, trong đó có giáo dục đào tạo, y tế TDTT”.
Trước tình hình mới, định hướng của Đảng về phát triển sự nghiệp
TDTT: "Phát triển TDTT là bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố
con người, công tác TDTT phải góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo


5

dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh làm phong phú đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu
của các lực lượng vũ trang”.
Trong các văn bản Nghị quyết của Đảng đã khẳng định: Phải xây dựng
nền TDTT có tính dân tộc, khoa học và nhân dân, phát triển rộng rãi phong
trào TDTT quần chúng, thể thao thành tích cao và tăng cường công tác GDTC
trong nhà trường các cấp với khẩu hiệu: "Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Cũng như khẳng định phát triển TDTT là trách nhiệm của các cấp ủy

Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội.
Chỉ thị 36 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu: "Mục tiêu
cơ bản lâu dài của công tác TDTT là hình thành nền TDTT phát triển và tiến
bộ, góp phần nâng cao sức khỏe thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của
nhân dân... thực hiện nền giáo dục thể chất trong tất cả các trường học, làm cho
việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hằng ngày của hầu hết học sinh - sinh
viên" [1].
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 có
ghi: "Quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học". Điều đó đã khẳng
định sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với TDTT và GDTC
trong nhà trường, coi đó là nhiệm vụ cấp thiết của Đảng toàn dân, để tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển TDTT nước nhà.[5]
Chỉ thị 133 của Thủ tướng chính phủ đã chỉ rõ “Bộ Giáo dục và Đào
tạo cần đặc biệt coi trọng việc giáo dục thể chất trong nhà trường. Cải tiến nội
dung giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn luyện
thân thể cho học sinh ở các cấp học, quy chế bắt buộc ở các trường, nhất là
các trường đại học phải có sân bãi, phòng tập TDTT, có biện pháp hợp lý và
có kế hoạch đào tạo đội ngũ giáo viên TDTT đáp ứng nhu cầu ở tất cả cấp
học" [3].


6

Luật giáo dục đã khẳng định: "Giáo dục là con đường chủ yếu và cơ
bản để chuẩn bị cho con người sự phát triển bền vững của đất nước trong điều
kiện kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là con người có
sức khỏe và được phát triển toàn diện, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc". [8].
Để đưa công tác GDTC trong nhà trường trở thành một khâu quan

trọng, mà sự nghiệp giáo dục - đào tạo, cũng như xác định đúng về vị trí
GDTC trong nhà trường các cấp phải được triển khai thực hiện đồng bộ với
các mặt giáo dục tri thức và nhân cách từ tuổi thơ cho đến Đại học. Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản quyết định ban hành quy chế về công
tác GDTC trong nhà trường các cấp. Trong đó đã khẳng định: Giáo dục thể
chất được thực hiện trong nhà trường từ mầm non đến đại học, góp phần đào
tạo những công dân phát triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của
mục tiêu giáo dục và đào tạo, nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.
1.2. ĐẶC ĐIỂM TÂM, SINH LÝ CỦA HỌC SINH THPT.
Tâm lý của con người rất phong phú và đa dạng, trong thể thao khi tham
gia các hoạt động tập luyện và thi đấu tâm lý của mỗi người cũng được biểu
hiện khác nhau. Có người tâm lý rất tốt là điều kiện thực hiện các hoạt động
theo ý muốn, ngược lại có người tâm lý không vững vàng thường biểu hiện
run, sốt trước vận động sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới thành tích thi đấu. Vì
vậy, trong quá trình giảng dạy và huấn luyện đòi hỏi người giáo viên, HLV
thể thao phải nắm được các quy luật, đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh
mà mình giảng dạy và huấn luyện để có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp.
Ở lứa tuổi này các em thích chứng tỏ mình là người lớn, muốn để cho
mọi người tôn trọng mình, đã có một trình độ hiểu biết nhất định, có khả năng


7

phân tích tổng hợp, hiếu động ham học hỏi, tìm tòi, có nhiều hoài bão nhưng
còn nhiều nhược điểm và thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống.
Ở độ tuổi này chủ yếu hình thành thế giới quan, tự ý thức, hình thành
tính cách của mỗi học sinh. Đó cũng là tuổi của lãng mạn, mơ ước độc đáo và
mong cho cuộc sống tốt đẹp hơn, đầy nhu cầu sáng tạo, nảy nở những tình
cảm mới trong đó có mối tình đầu thường để lại dấu vết trong sáng trong suốt

cuộc đời.
Hứng thú: Các em đã có thái độ tự giác, tích cực trong học tập xuất phát
từ động cơ học tập đúng đắn và hướng tới việc lựa chọn nghề nghiệp cho sau
này. Song hứng thú học tập cũng còn do nhiều động cơ khác nhau như giữ lời
hứa với bạn bè, đôi khi do tự ái, hiếu danh cho nên giáo viên cần định hướng
cho các em, xây dựng động cơ đúng đắn để học sinh có được hứng thú bền
vững trong học tập nói chung và trong GDTC nói riêng.
Tình cảm: So với học sinh cấp tiểu học và trung học cơ sở, học sinh
THPT biểu lộ rõ ràng hơn về tình cảm, gắn bó và yêu quý mái trường mà các
em sắp phải từ giã, đặc biệt đối với những giáo viên giảng dạy các em (yêu,
ghét rõ ràng) việc giáo viên xây dựng được thiện cảm và sự tôn trọng của học
sinh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giảng dạy và hướng nghiệp cho học sinh,
thúc đẩy các em tích cực, tự giác tập luyện và ham thích môn TDTT.
Trí nhớ: Ở lứa tuổi này, các em không còn tồn tại việc ghi nhớ máy móc
do các em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo logic, tư duy chặt chẽ
hơn và lĩnh hội được bản chất của vấn đề cần học tập. Do đặc điểm trí nhớ
của học sinh THPT khá tốt nên giáo viên có thể sử dụng phương pháp trực
quan kết hợp với giảng dạy, phân tích sâu sắc các chi tiết kĩ thuật động tác và
vai trò, ý nghĩa cũng như cách sử dụng các phương tiện, phương pháp để các
em có thể tự lập một cách độc lập trong thời gian rỗi. Các phẩm chất ý chí đã


8

rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn so với các em lứa tuổi trước đó. Vì vậy, các em
có khả năng tiếp thu động tác, kỹ thuật nhanh chóng.[12]
1.2.1. Đặc điểm sinh lý của học sinh.
Ở lứa tuổi này, cơ thể các em học sinh đã phát triển tương đối hoàn
chỉnh chức năng sinh lý đã tương đối ổn định, khả năng hoạt động của cơ
quan, bộ phận cơ thể cũng được nâng lên. Ở cấp THCS, cơ thể các em phát

triển theo chiều cao nhiều hơn nhưng khi đến tuổi cấp THPT lại phát triển
theo chiều ngang nhiều hơn, chiều cao cũng phát triển nhưng chậm dần. Sự
phát triển của cơ thể nam và nữ khác nhau rõ rệt hơn về hình thái và khả năng
hoạt động thể lực, tâm lý. Vì vậy, chúng ta cần phải có phân biệt tính chất,
cường độ, khối lượng luyện tập TDTT hợp lý để cơ thể có điều kiện phát triển
một cách toàn diện cân đối.
Hệ thần kinh: Các tổ chức thần kinh của học sinh THPT đang tiếp tục
phát triển để đi tới hoàn thiện. Tuy nhiên, khối lượng ở vỏ não không tăng,
chủ yếu cấu tạo bên trong vỏ não phức tạp hơn, khả năng tư duy nhất là khả
năng phân tích tổng hợp phát triển mạnh, rất thuận lợi cho sự hình thành phản
xạ có điều kiện. Đây là đặc điểm thuận lợi để các em nhanh chóng tiếp thu và
hoàn thiện kỹ thuật động tác trong môn thể dục. Tuy nhiên, đối với một số bài
tập đơn điệu cũng dễ làm cho học sinh nhanh mệt mỏi, cần thay đổi nhiều
hình thức tập luyện, vận dụng linh hoạt các hình thức thi đấu trò chơi.
Ngoài ra, do sự hoạt động của tuyến giáp, tuyến sinh dục, tuyến yên làm
cho tính hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế, giữa hưng phấn và ức chế
không cân bằng gây ảnh hưởng đến hoạt động thể lực. Ở các em nữ tính nhịp
điệu giảm sút nhanh chóng, khả năng chịu đựng lượng vận động yếu. Do vậy,
trong quá trình giảng dạy, huấn luyện, người giáo viên, huấn luyện viên cần
sử dụng các bài tập thích hợp với đặc điểm giới tính, lứa tuổi và thường xuyên
quan sát phản ứng của cơ thể người tập để có biện pháp giải quyết kịp thời.
Hệ vận động (hệ xương - cơ)


9

Hệ xương: Bắt đầu giảm tốc độ phát triển, sụn ở 2 đầu xương dài nhưng
lượng sụn chuyển thành xương ít. Mỗi năm nữ cao thêm 0,5-1cm. Tập luyện
TDTT một cách khoa học thường xuyên làm cho bộ xương khỏe mạnh hơn. Ở
lứa tuổi THPT, các xương nhỏ từ xương cổ tay, xương bàn tay hầu như đã

hoàn thiện nên các em có thể tập luyện một số động tác treo, chống, mang,
vác nặng mà không làm tổn hại hoặc không tạo ra sự phát triển lệch lạc của cơ
thể. Cột sống đã ổn định hình dáng nhưng vẫn còn chưa được hoàn thiện, vẫn
bị cong vẹo nên tiếp tục bồi dưỡng tư thế chính xác thông qua hệ thống bài
tập như đi, chạy, nhảy, thể dục nhịp điệu, thể dục cơ bản là rất cần thiết.
Đối với các em nữ, xương xốp hơn các em nam, ống tủy rỗng hơn, chiều
dài ngắn hơn, bắp thịt nhỏ hơn và ngắn hơn nên xương của nữ không khỏe
bằng nam. Đặc biệt là xương chậu của nữ to hơn và yếu. Do đó, khi tiến hành
giảng dạy cần chú ý đến đặc điểm giới tính để sử dụng các bài tập trong quá
trình GDTC hợp lý và có hiệu quả cao.
Hệ cơ: Các tổ chức cơ phát triển muộn hơn xương nên sức co cơ vẫn còn
tương đối yếu, các bắp cơ phát triển tương đối nhanh (cơ đùi, cơ cánh tay) còn
các cơ nhỏ (cơ bàn tay, ngón tay) phát triển chậm hơn. Các cơ co phát triển
sớm hơn các cơ duỗi, các cơ duỗi của nữ lại càng yếu. Đặc biệt vào tuổi 16
các tổ chức mỡ dưới da của các em nữ phát triển mạnh, ảnh hưởng đến việc
phát triển sức mạnh của cơ thể.
Nhìn chung, ở độ tuổi này là thời kỳ cơ bắp phát triển nhanh. Do vậy,
càng cung cấp đủ các chất dinh dưỡng cần thiết đảm bảo cho cơ thể phát triển
bình thường.
Hệ tuần hoàn: Hệ tuần hoàn của học sinh THPT đang phát triển và đi
đến hoàn thiện. Buồng tim phát triển tương đối hoàn thiện. Mạch đập của nữ
khoảng 70-80 lần/phút. Vì vậy, ở độ tuổi này có thể tập những bài tập TDTT
với khối lượng và cường độ tương đối lớn. Khi sử dụng các bài tập có khối


10

lượng và cường độ vận động lớn cần chú ý tới hình thái thể lực học sinh,
trạng thái sức khỏe và đặc điểm giới tính.
Hệ hô hấp đã phát triển tương đối hoàn thiện. Vòng ngực trung bình của

nữ từ 69-74cm. Diện tích tiếp xúc của phổi khoảng 100-120 cm2 gần bằng
tuổi trưởng thành. Do lượng phổi tăng nhanh chóng lúc 15-16 tuổi là 2-2,5 lít
đến 16-18 tuổi là 3-4 lít, tần số hô hấp gần giống như người lớn là 10-20
lần/phút.
Tuy nhiên, các cơ hô hấp vẫn còn yếu nên sự co giãn của lồng ngực nhỏ,
chủ yếu là co giãn cơ hoành. Trong tập luyện cần thở sâu và tập trung thở
bằng ngực, các bài tập bơi, chạy cự ly trung bình, việt dã có tác động tốt đến
sự phát triển của sự hô hấp.
Trao đổi chất và năng lượng: “Đặc điểm chính là quá trình đồng hóa
chiếm ưu thế so với quá trình dị hóa do nhu cầu phát triển và hình thành cơ
thể, một phần đáng kể năng lượng ở độ tuổi này được sử dụng để thỏa mãn
nhu cầu đó”. [6]
1.3. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ HUẤN LUYỆN SỨC BỀN TỐC ĐỘ
CHO VĐV CHẠY CỰ LY 800M.
Huấn luyện thể thao là một quá trình giáo dục chuyên môn của HLV
cho VĐV, nhằm không ngừng nâng cao trình độ thể thao, góp phần giáo dục
con người phát triển toàn diện. Thực chất, đó là quá trình giáo dục mang tính
đặc thù, đặc điểm nổi bật là hoạt động thể lực (vận động) rất căng thẳng và
nhằm mục đích trực tiếp nâng cao thành tích thể thao.
Huấn luyện thể thao có nhiệm vụ:
Tăng cường sức khỏe, cải thiện về hình thái thân thể, không ngừng
nâng cao năng lực chức năng cùng với sự phát triển các tố chất thể lực chung
và thể lực chuyên môn.
Nắm vững và hoàn thiện những kỹ, chiến thuật cùng với hiểu biết
chuyên môn có liên quan và biết vận dụng trong thi đấu.


11

Bồi dưỡng cho VĐV một số hiểu biết cơ bản về kỹ năng nhất định, về

tổ chức, chỉ đạo công tác huấn luyện thể thao chuyên sâu cũng như năng lực
cho mình.
Giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, ý chí, tác phong nói chung và
trong thể thao.
Các nhiệm vụ trên không tách rời nhau, không đối lập nhau, tùy từng
giai đoạn huấn luyện mà mức độ nặng nhẹ có khác nhau.
Trong quá trình huấn luyện VĐV điền kinh nói chung và VĐV chạy cự
ly 800m nói riêng đều có bốn giai đoạn. Giai đoạn huấn luyện ban đầu, giai
đoạn chuyên môn hóa ban đầu, giai đoạn chuyên môn hóa sâu và giai đoạn
hoàn thiện thể thao. Mỗi giai đoạn đảm nhiệm một chức năng và nhiệm vụ
riêng biệt đáp ứng mục đích huấn luyện.
Qua nghiên cứu các nhà lí luận chuyên ngành điền kinh cho rằng giai
đoạn huấn luyện ban đầu đóng vai trò làm cơ sở nền tảng cho giai đoạn tiếp
theo. Đây là giai đoạn huấn luyện cơ bản trong quá trình huấn luyện, nếu giai
đoạn này huấn luyện thiếu khoa học sẽ dẫn đến hạn chế các giai đoạn huấn
luyện tiếp theo, có thể dẫn đến hiện tượng hang rào tốc độ ảnh hưởng xấu đến
phát triển thể chất VĐV trẻ. Giai đoạn chuyên sâu hóa là giai đoạn nhằm nâng
cao thành tích trên cơ sở phát triển tối đa các tố chất thể lực đặc biệt là sức
bền tốc độ. Vì vậy, việc lựa chọn các bài tập nhằm nâng cao thành tích chạy
800m hợp lý và đảm bảo tính khoa học là cần thiết.
Qua thực tế huấn luyện cho thấy các khả năng về kĩ thuật, chiến thuật,
thể lực, sự hoạt động tâm lý, ý chí của VĐV là yếu tố quyết định đến thành
tích thể thao trong đó hoạt động thể lực là nhân tố quan trọng nhất. Huấn
luyện thể lực là mặt cơ bản để nâng cao thành tích thể thao, về mặt bản chất
mức độ phát triển của tố chất thể lực phụ thuộc vào trạng thái chức năng của
cơ thể. Vì vậy, quá trình huấn luyện chính là quá trình hoàn thiện các chức


12


năng đó, cho nên giáo viên, HLV trong quá trình huấn luyện phải nắm vững
quy định phát triển tự nhiên, đặc biệt là quy luật nhạy cảm (thời kỳ thuận lợi
nhất trong việc phát triển tố chất thể lực). Điều ghi nhận của Nabatnhicoba,
Ozolin, là “Việc huấn luyện tố chất thể lực chung cần được luyện tập liên tục,
nhiều năm suốt trong quá trình đào tạo VĐV, tùy thuộc mục đích từng giai
đoạn huấn luyện thể lực được xác định cho phù hợp”. [16].
Qua tham khảo tài liệu và các công trình nghiên cứu khoa học của
nhiều chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực lý luận và phương pháp huấn
luyện thể thao trong nước: PGS-TS Lê Bửu, GS-TS Dương Nghiệp Chí, GSTS Phạm Ngọc Thanh, PGS-TS Nguyễn Toán, PGS-TS Nguyễn Thế Truyền,
GS-TS Lê Văn Lẫm, các nhà khoa học cho rằng quá trình huấn luyện thể lực
cho VĐV là hướng tới việc củng cố và nâng cao khả năng chức phận của hệ
thống cơ quan trước lượng vận động. Đồng thời, đã tác động đến quá trình
phát triển các tố chất vận động. Đây có thể coi là xu hướng sư phạm trong quá
trình giáo dục các tố chất vận động.
Theo quan điểm y sinh học, các nhà khoa học cho rằng huấn luyện thể
lực chuyên môn trong huấn luyện thể thao là nói tới sự biến đổi, thích nghi về
mặt sinh học diễn ra trong cơ thể VĐV dưới tác dụng của bài tập thể chất
được biểu hiện ở năng lực cao hay thấp.
Dưới góc độ tâm lý, một số chuyên gia Việt Nam đã đề cập đến vấn đề
này PGS-TS Lê Văn Xem và PGS-TS Phạm Ngọc Viễn cho rằng: “Quá trình
chuẩn bị thể lực chuyên môn cho VĐV là quá trình giải quyết những khó khăn
liên quan đến việc thực hiện các động tác kĩ thuật, là sự phù hợp của những yếu
tố tâm lý trong hoạt động tập luyện và thi đấu của VĐV”. [12]
Tổng quan các ý kiến trên chúng ta thấy, việc chuẩn bị thể lực chuyên
môn, đặc biệt là sức bền tốc độ cho người tập là sự tác động có hướng đích
của lượng vận động đến con người nhằm hình thành và phát triển đến mức độ


13


mới có khả năng vận động, biểu hiện ở sự hoàn thiện các năng lực thể chất.
Đồng thời, nâng cao khả năng của các cơ quan chức phận tương ứng với năng
lực vận động của người tập, nâng cao các yếu tố tâm lý trước hoạt động đặc
thù của môn thể thao.
1.4. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SỨC BỀN TỐC ĐỘ.
Sức bền là những năng lực chịu đựng của cơ thể hoạt động trong thời
gian dài và chống lại mệt mỏi.[9].
Sức bền tốc độ là khả năng chống lại mệt mỏi trong hoạt động về tốc độ.
Sức bền của con người được quy định bởi nhiều nhân tố một cách
tương đối, có thể chia thành 2 nhóm nhân tố chi phối sức bền.
Khả năng, chức phận của các hệ thống cơ thể như công suất yếm khí, công
suất ưa khí, khả năng duy trì hưng phấn thần kinh, mức độ hoàn thiện kỹ xảo.
Mức độ ổn định với những biến đổi bất lợi của môi trường và xung
động thần kinh, mức độ hoàn thiện kỹ xảo.
Trong hoạt động TDTT, sức bền được hiểu là năng lực của cơ thể
chống lại mệt mỏi trong một hoạt động nào đó. Sức bền đảm bảo cho VĐV
đạt được cường độ tốt nhất là các hành vi chiến thuật, kỹ thuật tới cuối cự ly.
Do vậy, sức bền không những là một nhân tố xác định và ảnh hưởng tới thành
tích thi đấu mà còn là nhân tố xác định thành tích tập luyện và khả năng chịu
đựng lượng vận động của VĐV. Sức bền phát triển cũng là một điều quan
trọng để hồi phục nhanh. Khi nói đến sức bền trong hoạt động TDTT, chủ yếu
người ta nói đến sức bền trong bài tập đòi hỏi hầu hết các nhóm cơ tham gia
hoạt động như chạy, bơi, đua xe đạp đường dài… Trong các bài tập này cơ
chế của mệt mỏi (cũng chính là cơ chế của sức bền) cũng khác nhau tùy thuộc
vào cường độ thực hiện bài tập. Các yếu tố tâm lý đối với sức bền phụ thuộc
chủ yếu vào thời gian hoạt động. Trong thi đấu cần chọn thời gian kéo dài của


14


thi đấu làm điểm chính để phân loại và cần phân biệt sức bền trong thời gian
dài, sức bền trong thời gian ngắn và sức bền trong thời gian trung bình.
Sức bền trong thời gian trung bình là cần thiết để vượt qua một cự ly
mà VĐV thực hiện bài tập không bị giảm sút tốc độ ở cuối cự ly, ở đây đòi
hỏi một tỷ lệ phần trăm cao về các quá trình trao đổi chất. Trình độ sức bền
trong thời gian trung bình cũng phụ thuộc vào các quyết định phát triển sức
mạnh bền và sức nhanh bền (vì sức bền luôn là thành phần của nhân tố thành
tích thể lực nên có quan hệ chặt chẽ với các tố chất thể lực như sức mạnh và
sức nhanh).
Giáo dục sức bền là quá trình tác động hoàn thiện các cơ chế cung ứng
năng lượng cho vận động.
Sức bền phát triển trong trường hợp VĐV phải chịu đựng mệt mỏi ở
mức độ nhất định khi đó cơ thể thích nghi với trạng thái mệt mỏi và biểu hiện
bên ngoài là sức bền tăng lên.
Do đó yêu cầu cơ bản của giáo dục sức bền là phải tập luyện với khối
lượng vận động lớn, đơn điệu và phải dùng ý chí để khắc phục mệt mỏi…, giáo
dục sức bền phải kết hợp với giáo dục các đức tính cần cù lao động, sẵn sang
vượt khó. Chạy cự ly trung bình (vùng công suất gần cực đại) tạo nên kích
thích lớn ở các trung khu thần kinh, những biến đổi hóa học ở các tế bào thần
kinh cũng như trong cơ bắp rất cao. Sức bền trong chạy cự ly trung bình có tính
chuyên biệt và luôn có liên quan trực tiếp đến thành tích chạy cự ly 800m.
Như chúng ta đã biết chạy cự ly 800m yêu cầu tương đối cao với khả
năng yếm khí cũng như ưa khí của VĐV. Vậy ngoài sức bền chung thì sức
bền tốc độ là thành phần không thể thiếu được. Nếu như chỉ có sức bền
chung thì chưa đủ bởi vì trong chạy 800m sức bền tốc độ đóng vai trò quan
trọng với mục đích phát triển tốc độ và thể lực cho người tập. Trong thời
kỳ thi đấu các bài tập phát triển sức bền tốc độ phải thường xuyên tập


15


luyện trong điều kiện yếm khí. Mặt khác, cũng cần chú trọng đến việc giáo
dục phẩm chất ý chí cho VĐV.
Đặc trưng của lượng vận động phát triển sức bền tốc độ trong huấn
luyện nâng cao sức bền tốc độ trong chạy 800m bao gồm các bài tập chạy với
cự ly trung bình khác nhau với cường độ gần tối đa.
1.5. CƠ SỞ SINH LÝ CỦA TỐ CHẤT SỨC BỀN.
Sức bền là một tố chất thể lực, đó là năng lực của người tập nhằm
chống lại mệt mỏi trong hoạt động thể thao. Hay nói cách khác, sức bền là
khái niệm chuyên môn thể hiện khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động
chuyên môn nhất định.
Sức bền tốc độ là khả năng chống lại mệt mỏi trong hoạt động về tốc độ.
Đặc điểm sức bền phụ thuộc vào: Khả năng hấp thụ oxi tối đa (VO2
max) càng cao thì công suất hoạt động ưa khí tối đa càng lớn.
Khả năng ưa khí của người tập càng cao thì quá trình hồi phục càng
nhanh, cự ly chạy càng dài thì giá trị cung cấp năng lượng trong hoạt động
càng lớn. Trong tập luyện, tần số mạnh 150-160 lần/phút chứng tỏ khả năng
ưa khí có hiệu quả trong lượng vận động với cường độ tập luyện đồng đều.
Vấn đề quan trọng của giáo dục sức bền là sự liên quan trực tiếp với
tổng khối lượng của buổi tập, việc giải quyết các vấn đề cung ứng năng lượng
là của cơ thể và hoàn thiện các cơ chế hóa học.
Phương pháp cơ bản tăng năng suất nguồn năng lượng yếm khí là hoạt
động lặp lại.
1.6. NHỮNG PHƢƠNG PHÁP HUẤN LUYỆN SỨC BỀN.
Để phát triển sức bền thì việc lựa chọn các bài tập nhằm phát triển sức
bền tốc độ của VĐV chạy cự ly trung bình nói chung và cự ly 800m nói riêng,
ngoài việc củng cố và hoàn thiện các hệ thống tim mạch, hô hấp còn cần phải
hoàn thiện quá trình trao đổi chất làm tăng hệ số sử dụng oxy. Bởi vậy, nó là



16

một hoạt động bao gồm cả quá trình ưa khí và yếm khí. Vì thế trong huấn
luyện sức bền tốc độ, việc nâng cao khả năng ưa khí và yếm khí là điều kiện
không thể thiếu được.
1.6.1. Phƣơng pháp nâng cao khả năng ƣa khí.
Khả năng ưa khí của cơ thể là khả năng tạo ra nguồn năng lượng cho
hoạt động cơ bắp thông qua quá trình oxy hóa các chất giàu năng lượng trong
cơ thể. Để nâng cao khả năng ưa khí của cơ thể cần giải quyết 3 nhiệm vụ:
Nâng cao khả năng ưa khí tối đa.
Nâng cao khả năng kéo dài thời gian duy trì hấp thụ oxy tối đa.
Làm cho hệ tuần hoàn và hô hấp nhanh chóng đạt được mức hoạt động
với hiệu suất tối đa.
Để giải quyết các nhiệm vụ trên, nguyên tắc chung của các phương
pháp tập luyện nâng cao khả năng ưa khí là sử dụng bài tập, trong đó có công
suất hô hấp và tuần hoàn cơ thể đạt mức tối đa và duy trì được mức hấp thụ
oxy cao trong thời gian dài. Tất nhiên, đó phải là các bài tập có sự tham gia
của nhiều nhóm cơ và có tốc độ gần tới hạn.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nâng cao khả năng ưa khí của
cơ thể là phương pháp đồng đều, phương pháp biến đổi, phương pháp lặp lại.
Phương pháp đồng đều được áp dụng rộng rãi trong các giai đoạn của
quá trình huấn luyện nâng cao sức bền. Đặc điểm của phương pháp này là
thực hiện bài tập liên tục không nghỉ giữa quãng với tốc độ gần tới hạn và
thời gian bài tập tương đối dài. Với phương pháp là khả năng phối hợp hoạt
động của các hệ thống đảm bảo việc hấp thụ oxy được nâng ngay trong quá
trình hoạt động, đồng thời bài tập có thể đạt được hiệu quả cao do chúng tác
động lên cơ thể trong thời gian tương đối lâu.
Các phương pháp lặp lại và biến đổi được áp dụng đối với VĐV có trình
độ cao.



17

Phương pháp lặp lại và phương pháp biến đổi được áp dụng để phát
triển sức bền là phương pháp dựa trên bài tập yếm khí (tức là tốc độ trên tới
hạn với thời gian nghỉ giữa quãng giãn cách) có tính toán kỹ lưỡng để phát
huy tối đa khả năng ưa khí của cơ thể.
Qua thực nghiệm, người ta nhận thấy trong khoảng 10 đến 90 giây sau
mỗi lần lặp lại bài tập yếm khí thì thông khí phổi và thể tích tâm thu đều tăng
lên. Nếu bài tập được lặp lại vào thời điểm mà các chỉ số đang ở mức tương
đối cao thì tác dụng kích thích đối với quá trình hô hấp sẽ tăng dần từ lần lặp
lại này đến lần lặp lại tiếp theo, mức độ hấp thụ oxy sẽ tăng dần đến mức tối
đa và trong nhiều trường hợp có thể vượt qua khả năng hấp thụ oxy tối đa vốn
có của VĐV.
Như vậy, tác dụng của bài tập diễn ra chủ yếu trong thời gian giãn cách
giữa các lần lặp lại bài tập, tức là mức độ hấp thụ oxy cao nhất đạt được vào
lúc nghỉ giữa quãng chứ không phải trong lúc thực hiện bài tập. Chính vì vậy
người ta gọi là phương pháp giãn cách.
Việc sắp xếp trình tự các bài tập trong mỗi buổi tập có ý nghĩa quan
trọng. Thông thường các bài tập nâng cao sức bền ưa khí được bố trí vào cuối
buổi tập để sử dụng được hiệu quả các bài tập trước đó. Cũng cần chú ý xây
dựng các loại bài tập này theo một cấu trúc tương đối ổn định và đa dạng hóa
để tránh sự đơn điệu gây nhàm chán nhưng chỉ là thay đổi hình thức bài tập.
+ Cường độ hoạt động (tốc độ di chuyển) cao hơn mức độ tới hạn
khoảng 75% tốc độ tối đa, sao cho cuối mỗi lần lặp lại tần số mạch đạt xấp xỉ
180 lần/phút, đây là tần số nhịp tim có hiệu suất cao nhất.
+ Độ dài cự ly tập luyện phải được lựa chọn sao cho thời gian thực hiện
không quá 1-1,5 phút. Chỉ trong trường hợp này hoạt động mới diễn ra trong
điều kiện yếm khí và mới đạt được mức hấp thụ tối đa hai lần nghỉ giữa
quãng.



18

+ Khoảng cách nghỉ giữa quãng: Tùy theo trình độ tập luyện của VĐV
dao động từ 45-120 giây để cho lần lặp lại tiếp theo được bắt đầu trong lúc thể
tích tâm thu và mức đô hấp thụ oxy tối đa ở mức cao (tần số nhịp tim 120-140
lần/phút). Trong mỗi trường hợp quãng nghỉ không vượt quá 3-4 phút, khi mà
hoạt động của hệ tuần hoàn và hệ hô hấp giảm nhiều.
Trong quãng nghỉ nên tiếp tục hoạt động với cường độ thấp để tránh
chuyển đột ngột từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh và ngược lại, tăng nhanh
quá trình hồi phục tạo điều kiện để thực hiện được khối lượng vận động.
+ Số lần lặp lại cần tính toán sao cho đảm bảo duy trì được trạng thái ổn
định trong sự phối hợp hoạt động của các hệ thống cơ thể, thực hiện ở khả năng
hấp thụ oxy ổn định ở mức tương đối cao. Cụ thể là có hiện tượng giảm mức
hấp thụ oxy thì đó là tín hiệu để ngừng bài tập. Trong thực tế, có thể dựa vào
tần số mạch đập, khi tốc độ bài tập vẫn không đổi nhưng tần số mạch đập sau
bài tập tăng lên đáng kể so với lần lặp lại trước đó, chứng tỏ đã thể hiện sự rối
loạn trong phối hợp hoạt động của hệ thống hô hấp và tuần hoàn thì ngừng tập.
+ Ngoài ra kết hợp thở trong chạy 800m để nâng cao khả năng ưa khí.
1.6.2. Phƣơng pháp nâng cao khả năng yếm khí.
Khả năng yếm khí là khả năng vận động của cơ thể trong điều kiện dựa
vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí. Nâng cao khả năng ưa khí cũng
là yếu tố quan trọng để nâng cao khả năng yếm khí tạo điều kiện thuận lợi cho
những hoạt động yếm khí. Bởi vì như chúng ta đã biết quá trình trả nợ oxy
được diễn ra một phần trong lúc vận động và nếu có khả năng ưa khí cao thì
phần trả nợ oxy trong lúc vận động đó sẽ lớn lên và hiệu quả hoạt động của cơ
thể sẽ tăng lên.
Để nâng cao khả năng yếm khí thì phải giải quyết hai nhiệm vụ nhờ sự
phân hủy của hai phản ứng: Hoàn thiện cơ chế ATP - CP và Glucophân.



19

Các bài tập nhằm hoàn thiện cơ chế giải phóng năng lượng từ Phốt pho
Creatin (CP) là khả năng vận động của cơ thể trong điều kiện dựa vào nguồn
cung cấp năng lượng yếm khí.
+ Cường độ bài tập (tốc độ bài tập) gần tốc độ tối đa hoặc thấp hơn
một chút.
+ Thời gian của bài tập chỉ giới hạn từ 3-8 giây, sở dĩ như vậy là do sự
trữ Phốt pho Creatin trong cơ thể rất ít, sự phân hủy hợp chất này diễn ra
trong vài giây (3-8 giây) sau khi bắt đầu hoạt động.
+ Thời gian nghỉ giữa quãng: Từ 2-3 giây đó cũng là thời gian đủ để hồi
phục Phốt pho Creatin không tạo ra axit lactic nên việc trả nợ oxy diễn ra khá
nhanh. Nhưng do dự trữ CP trong cơ quá ít, chỉ sau 3-4 lần lặp lại thì hoạt
động của cơ chế Glucô phân sẽ tăng lên, còn cơ chế Phốt pho Creatin sẽ giảm
đi. Để khắc phục hiện tượng này ta chia tất cả bài tập thành 2-3 nhóm, mỗi
nhóm gồm 3-5 lần lặp lại, thời gian nghỉ giữa các nhóm kéo dài từ 7-10 phút.
+ Cần sử dụng hình thức nghỉ ngơi tích cực nhất là thời gian nghỉ giữa
các nhóm ngay sau khi mỗi lần lặp lại, sau đó có thể nghỉ ngơi thoải mái để
cho cơ thể trở về trạng thái tương đối tĩnh ban đầu.
+ Số lần lặp lại tùy thuộc vào trình độ luyện tập của người tập sao cho
tốc độ không bị giảm.
Để hoàn thiện cơ chế Glucô phân (tức là nâng cao khả năng yếm khí của cơ
thể) cần áp dụng các bài tập có đặc điểm sau.
+ Cường độ vận động (tốc độ di chuyển) xấp xỉ tối đa, tức là khoảng
cách 90-95% tốc độ tối đa ở các cự ly tương ứng được sử dụng. Sau một số
lần lặp lại chỉ số tác động tuyệt đối có thể giảm đi một ít nhưng vẫn được coi
là xấp xỉ tốc độ tối đa trong trạng thái hiện có lúc đó của cơ thể.
+ Thời gian một lần lặp lại có thể chia từ 20 giây đến 2 phút.



20

+ Thời gian nghỉ ngơi được giảm dần sau mỗi lần lặp lại, giữa lần 1 và
lần 2 là từ 5-8 phút, lần 2 và 3 là 3-4 phút.
+ Tính chất nghỉ ngơi: Không cần nghỉ ngơi tích cực nhưng tránh trạng
thái tĩnh hoàn toàn.
+ Số lần lặp lại: Trong trường hợp thời gian quãng nghỉ giảm dần thường
không quá 3-4 lần lặp lại và chia thành các nhóm, mỗi nhóm từ 15-20 phút để
thanh toán phần lớn lượng oxy.
Trong quá trình rèn luyện sức bền cần chú ý thực hiện theo trình tự.
Trước tiên phát triển khả năng hô hấp (ưa khí), sau đó khả năng Glucô phân
và cuối cùng là khả năng sử dụng năng lượng do phản ứng phân hủy Phốt pho
Creatin.
1.7. Ý NGHĨA CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN SỨC BỀN TỐC ĐỘ NHẰM
NÂNG CAO THÀNH TÍCH CHẠY 800M.
Như chúng ta đã biết: Huấn luyện sức bền nhằm nâng cao thành tích
các môn điền kinh nói chung và chạy 800m nói riêng thì cần phải huấn luyện
toàn diện. Bởi vì các tố chất sức bền có quan hệ mật thiết khăng khít với
nhau, khi sức bền chung phát triển thì tạo cơ sở cho sức bền chuyên môn đặc
biệt là sức bền tốc độ phát triển.
Qua nghiên cứu đánh giá thực tế, các nhà lý luận ngành điền kinh
khẳng định: Việc phát triển sức bền tốc độ thực chất làm cho cơ thể thích nghi
dần với LVĐ ngày càng cao, nếu như không có sức bền tốc độ tốt thì khả
năng chống lại trạng thái cực điểm sẽ yếu dần dẫn đến người tập không đạt
được thành tích cao. Hơn nữa việc phát triển sức bền tốc độ đòi hỏi người tập
phải có sự nỗ lực ý chí lớn, sự kiên trì, chịu đựng và chống lại sự mệt mỏi,
nhàm chán, đơn điệu của bài tập. Đồng thời đòi hỏi người tập phải có sự tích
lũy, thích nghi dần và kéo dài liên tục trong thời gian không phải một hai



×