Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Tìm hiểu phần mềm Emp Test và ứng dụng tạo bộ đề trắc nghiệm trong môn ngôn ngữ lập trình bậc cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 79 trang )

Tên đề tài: Tìm hiểu phần mềm Emp- Test và ứng dụng tạo bộ đề trắc
nghiệm trong môn ngôn ngữ lập trình bậc cao.
MỤC LỤC
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
2.2. Mục tiêu cụ thể
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Khách thể nghiên cứu
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Phạm vi nghiên cứu
PHẦN 2: PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Phương pháp kiểm tra đánh giá
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản về kiểm tra đánh giá
1.1.2 Các hình thức kiểm tra đánh giá
1.1.3 Mục đích, ý nghĩa và vai trò của kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
học sinh
1.1.4 Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá


1.1.5 Những yêu cầu sư phạm của việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của học sinh
1.2 Phương pháp kiểm tra trắc nghiệm
1.3 Phương pháp trắc nghiệm khách quan
1.3.1 Khái niệm trắc nghiệm khách quan.
1.3.2 Ưu nhược điểm của phương pháp trắc nghiệm khách quan
1.3.3 Các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan
1.3.3.1


1.3.3.2
1.3.3.3
1.3.3.4

Câu hỏi trắc nghiệm có nhiều lựa chọn
Câu hỏi trắc nghiệm đúng- sai
Câu hỏi trắc nghiệm ghép đôi
Câu hỏi trắc nghiệm điền khuyết

1.3.4 Yêu cầu đối với việc xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan
1.3.5 Phân tích và đánh giá câu hỏi và đề thi trắc nghiệm khách quan
1.3.5.1 Chất lượng của câu hỏi trắc nghiệm khách quan
1.3.5.2 Quy trình biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan
1.4 Chương trình tin học lớp 11
1.4.1 Mục tiêu
1.4.2 Chương trình học
Chương 2. TÌM HIỂU PHẦN MỀM EMP-TEST.
2.1. Tìm hiểu về phần mềm tạo bộ đề trắc nghiệm Emp-Test
2.1.1. Tổng quan
2.1.2. Các chương trình của phần mềm Emp-Test.
2.1.2.1. Chương trình Editor
2.1.2.2. Chương trình Test
2.1.2.3. Chương trình Server


2.1.2.4. Chương trình Scaner
2.1.2.5. Chương trình MarkScaner
2.1.2.6. Chương trình Static
2.1.3. Mô hình hoạt động
2.1.4. Cài đặt và sử dụng chương trình

2.1.5. Đánh giá phần mềm
2.2 Tìm hiểu chương trình Editor xây dựng ngân hàng câu hỏi, đề thi kiểm
tra trắc nghiệm khách quan.
2.2.1 Soạn thảo câu hỏi.
2.2.2 Tạo đề thi trắc nghiệm.
Chương 3: Ứng dụng phần mềm Emp-Test đổi mới phương pháp kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của học sinh trong môn ngôn ngữ lập trình
bậc cao.
3.1. Ứng dụng chương trình Editor xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm.
3.2 Ứng dụng chương trình Editor tạo đề thi kiểm tra trắc nghiệm.
3.3 Ứng dụng chương trình Test làm bài thi kiểm tra trắc nghiệm .
3.3.1. Giới thiệu chương trình Test
3.3.2. Ấn định chế độ hoạt động của chương trình Test
3.3.3. Các thao tác làm bài kiểm tra với chương trình Test
3.3.4. Thực hiện làm bài kiểm tra với chế độ làm bài tự do
3.3.5. Thực hiện làm bài kiểm tra với chế độ làm bài trên máy đơn
3.3.6. Thực hiện làm bài kiểm tra với chế độ làm bài trên máy nối mạng.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ
và sự bùng nổ thông tin trên nhiều lĩnh vực, thế giới đang bước vào thời đại
của toàn cầu hóa thì vai trò của giáo dục ngày càng được tăng cường trong
việc “Đào tạo ra những người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng
lực giải quyết những vấn đề thực tế”. Định hướng cho phát triển giáo dục đó
là “Phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. (Luật giáo

dục 1998, chương 1, điều 24 ).
Nhận thức được tầm quan trọng của tin học, hầu hết các trường Đại
học, Cao đẳng, và các trường Trung học chuyên nghiệp đều đã đưa tin học
vào giảng dạy, thậm chí ở cả các trường phổ thông các em cũng đã được làm
quen với môn học này. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã quyết định đưa tin
học vào giảng dạy như một môn học chính thức ở tất cả các trường trung
học phổ thông trong cả nước, với những mục tiêu:
• Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện;
• Hỗ trợ tích cực việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy
sáng tạo và năng lực tự học, khả năng ứng dụng kiến thức đã học của học
sinh;
• Tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông của các nước tiên tiến trong khu
vực và trên thế giới;
• Nhằm giúp các em tiếp cận với những kiến thức khoa học công nghệ
mới.
Đổi mới phương pháp dạy học bao gồm đổi mới phương pháp kiểm
tra, đánh giá. Thậm chí phương pháp kiểm tra đánh giá có khi còn giữ vai
trò chủ đạo chi phối cách dạy, cách học. Đổi mới phương pháp kiểm tra
đánh giá là một trong những phương hướng cơ bản của đổi mới phương
pháp dạy học, bởi kiểm tra đánh giá là một bộ phận hợp thành rất quan trọng


của quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá là một khâu không thể tách rời của
quá trình dạy học, việc đánh giá chính xác kết quả học tập là cơ sở để có
những quan điểm đúng đắn trong quá trình dạy học. Trong các phương pháp
kiểm tra, đánh giá thì trắc nghiệm khách quan được gọi là phương pháp
đánh giá khoa học, chính xác và đánh giá đúng thực lực của người học. Tuy
nhiên, hiệu quả của trắc nghiệm khách quan phụ thuộc vào rất nhiều khâu,
quy trình tổ chức ra đề, coi thi và tổ chức thi của các kỳ thi. Việc sử dụng hệ
thống mạng máy tính và phần mềm ra đề, quản lý và tổ chức thi trắc nghiệm

sẽ nâng cao tính chính xác, bảo mật của các đề thi; sự thuận lợi, dễ dàng cho
thí sinh trong quá trình làm bài, tính chính xác trong việc chấm bài sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của các kỳ thi.
Ngày nay, khi yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh và đổi mới trong việc tiến
hành kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, luôn được quan tâm và
chú trọng hơn bao giờ hết thì trách nhiệm của một người giáo viên khi đứng
trên bục giảng lại càng nặng nề hơn rất nhiều. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có
chủ trương kể từ năm 2007, các kỳ thi Tốt nghiệp Trung học phổ thông
(THPT) và thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng sẽ ra đề thi theo phương pháp
trắc nghiệm khách quan đối với một số môn. Chính vì vậy, để từng bước đổi
mới và làm cho học sinh quen dần với phương pháp kiểm tra, trắc nghiệm,
giáo viên cũng cần từng bước đổi mới và làm quen trong việc tổ chức và
thực hiện một bài thi trắc nghiệm sao cho có hiệu quả. Để thực hiện được
điều đó, ngoài năng lực chuyên môn cần có, giáo viên không thể không cần
đến một công cụ hỗ trợ rất đắc lực khác, đó là các ứng dụng thi trắc nghiệm.
Hiện nay rất nhiều trường Đại học, Cao đẳng, Trường học phổ thông
trong cả nước đã xây dựng các hệ thống quản lý học tập trực tuyến với phần
mềm làm nền tảng giảng dạy và tổ chức kiểm tra, đánh giá. Tuy nhiên, một
trong những khó khăn cho giáo viên trong việc ra đề thi là phải kết nối


Internet và sử dụng Module để ra đề. Khó khăn này đã được tháo gỡ khi
phần mềm Emp-Test được tạo ra, Phần mềm Emptest được xây dụng để đáp
ứng nhu cầu đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá bằng phương pháp trắc
nghiệm và ứng dụng Công nghệ thông tin vào trong Giáo dục và Đào tạo.
Phần mềm Emptest với các chức năng như tạo đề, trộn đề, tổ chức thi, xử lý
kết quả,… đã đáp ứng được những nhu cầu nhất định trong thi cử, kiểm tra
đánh giá. Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “ Tìm hiểu phần
mềm Emptest và ứng dụng tạo bộ đề thi trắc nghiệm ngôn ngữ lập trình

bậc cao’’.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1Mục tiêu chung
Góp phần thực hiện yêu cầu kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh do ngành Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đặt ra trong giai đoạn hiện
nay.
2.2 Mục tiêu cụ thể
Xây dựng biện pháp đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh trong dạy học ngôn ngữ lập trình bậc cao cấp học THPT góp phần nâng
cao chất lượng Giáo dục toàn diện. Cụ thể là ứng dụng phần mềm Emp-Test
để:

• Xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
• Kết xuất đề kiểm tra.
• Tổ chức kiểm tra và chấm bài kiểm tra tự động trên máy vi tính.

3. Đối tượng nghiên cứu.
Ứng dụng phần mềm Emp-Test để hoàn thành qui trình kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của học sinh trực tiếp trên máy tính.
4.Khách thể nghiên cứu
Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn ngôn ngữ lập trình bậc
cao ở trường Trung học phổ thông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu


• Nghiên cứu cơ sở lí luận của vấn đề kiểm tra, đánh giá nói chung và
biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh.
• Tìm hiểu khái quát những tính năng cơ bản của phần mềm Emp-Test,
trong đó đi sâu tìm hiểu và ứng dụng tính năng của 2 chương trình đơn

sau:
o Chương trình Editor: Hỗ trợ việc xây dựng ngân hàng câu hỏi, tổ
chức đề kiểm tra.
o Chương trình Test: Hỗ trợ kiểm tra, chấm điểm trực tiếp trên máy
tính.
• Xây dựng ngân hàng câu hỏi, tổ chức phân mức câu hỏi, tổ chức đề
kiểm tra.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu:
• Phương pháp thu thập tài liệu: Dựa vào mục đích và nhiệm vụ của đề
tài, việc thu thập tài liệu được tiến hành từ nguồn khác nhau như sách báo,
các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học, các phần mềm nghiên cứu ứng
dụng dạy học có nội dung liên quan. Để việc xây dựng ngân hàng câu hỏi
trắc nghiệm đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục, khi thu thập tài liệu cần
chú ý nghiên cứu sách giáo khoa lớp 11 hiện hành làm tài liệu chuẩn cho nội
dung xây dựng các câu hỏi trắc nghiệm.
• Phương pháp lấy ý kiến của chuyên gia: trao đổi, hỏi ý kiến các nhà
khoa học giáo dục, chuyên gia tin học, các thầy cô giáo về cách thức kiểm
tra, đánh giá môn học như thế nào để nâng cao chất lượng và hiệu quả tốt
hơn.
• Phương pháp thực nghiệm : tổ chức thực nghiệm đề kiểm tra học tập
của học sinh ở môn ngôn ngữ lập trình bậc cao.
7. Phạm vi nghiên cứu


Ứng dụng phần mềm Emp-Test trong việc xây dựng ngân hàng câu hỏi,
ra đề thi và kiểm tra trên máy tính.



Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Phương pháp kiểm tra đánh giá
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản về kiểm tra đánh giá
 Khái niệm về kiểm tra
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý định nghĩa:”kiểm tra là
xem xét thực chất, thực tế”.
Theo Bửu Kế:” kiểm tra là tra xét, xem xét, kiểm tra là soát xét lại
công việc, kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét”.
Theo tác giả Vũ Đình Luận :”Kết quả kiểm tra cung cấp thông tin phản
hồi từ người học, về hiệu quả nhận thức, kết quả của dạy học. Mục đích của
kiểm tra là thu những thông tin về kết quả dạy học, có thể kiểm tra để đánh
giá hoặc không đánh giá”.
Còn theo tác giả Trần Bá Hoành :” kiểm tra là cung cấp những dữ kiện,
những thông tin là cơ sở cho việc đánh giá”.
Như vậy, các nhà khoa học và các nhà giáo dục đều cho rằng kiểm tra
với nghĩa là nhằm thu thập số liệu, chứng cứ, thông tin về kết quả dạy-học,
cơ sở ban đầu để đánh giá học sinh. Đây là giai đoạn kết thúc của một quá
trình dạy học, có vai trò liên hệ ngược trong dạy học và có ba chức năng:
đánh giá, phát hiện lệch lạc và điều chỉnh. Việc kiểm tra cần diễn ra thường
xuyên hàng ngày, tùy từng mục đích kiểm tra mà có thể đánh giá hay không
đánh giá.[7][13]
 Khái niệm về đánh giá
Hiện nay đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đánh giá trong giáo
dục. Chẳng hạn như các nhà giáo dục học phương Tây đã đưa ra một số định
nghĩa như sau:
• Jean Marie De Ketele đã đưa ra định nghĩa: “ Đánh giá có nghĩa là:
o Thu thập thông tin đủ thích hợp,có giá trị và đáng tin cậy.
o Xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này với một tập
hợp các tiêu chí phù hợp với các mục tiêu đặt ra ban đầu hay đã điều chỉnh

trong quá trình thu thập thông tin.
o Nhằm ra một quyết định”.


• Ralph Tyler quan niệm: “Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình xác
định mức độ thực hiện các mục tiêu trong các chương trình giáo dục”.
• Khái niệm “Đánh giá” được E.Beeby định nghĩa như sau: “Đánh giá
giáo dục là sự thu thập và lý giải một cách hệ thống những bằng chứng, như
một phần của quá trình, dẫn tới sự phán xét về giá trị theo quan điểm hoạt
động”.
Theo các định nghĩa trên chúng ta thấy khái niệm đánh giá trong giáo
dục khi thì được các tác giả diễn đạt theo mục đích, yêu cầu, nội dung của
một hoạt động cụ thể, khi thì được diễn đạt ở một bình diện khái quát, khi
thì được diễn đạt theo hướng nhấn mạnh về mục tiêu, khi thì được diễn đạt
theo hướng nhấn mạnh về tính chất, quy trình…
Còn ở Việt Nam, theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, “Đánh
giá là nhận xét bình phẩm về giá trị”.
Theo từ điển Tiếng Việt của Văn Tân thì “Đánh giá là nhận thức cho rõ
giá trị của một người hoặc một vật”.
Tác giả Trần Bá Hoành đã đưa ra định nghĩa về đánh giá như sau:
“Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả
công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với
những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp
để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công
việc”.
Các tác giả Hoàng Đức Nhuận và Lê Đức Phúc đã đưa ra định nghĩa về
đánh giá kết quả học tập của học sinh như sau: “Đánh giá kết quả học tập là
quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục
tiêu học tập của học sinh, về tác động và nguyên nhân của tình hình đó
nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường,

cho bản thân học sinh để họ học tập ngày càng một tiến bộ hơn”.
Đánh giá trong giáo dục, theo Dương Thiệu Tống là quá trình thu thập
và xử lý kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục.


Căn cứ vào mục tiêu dạy học, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp
và hành động trong giáo dục tiếp theo. Cũng có thể nói rằng đánh giá là quá
trình thu thập phân tích và giải thích thông tin một cách hệ thống nhằm xác
định mức độ đạt đến của các mục tiêu giáo dục về phía học sinh. Đánh giá
có thể thực hiện bằng phương pháp định lượng hay định tính.
Như vậy đánh giá là việc đưa ra những kết luận nhận định, phán xét về
trình độ học sinh. Muốn đánh giá kết quả học tập của học sinh thì việc đầu
tiên là phải kiểm tra, soát xét lại toàn bộ công việc học tập của học sinh, sau
đó tiến hành đo lường để thu thập những thông tin cần thiết, cuối cùng đưa
ra một quyết định. Do vậy kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh
là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau. Kiểm tra nhằm cung cấp thông tin
để đánh giá và đánh giá thông qua kết quả của kiểm tra. Hai khâu đó hợp
thành một quá trình thống nhất là kiểm tra- đánh giá. Từ đây chúng ta có thể
đưa ra một khái niệm về kiểm tra đánh giá trong dạy học một cách ngắn gọn
như sau: Kiểm tra đánh giá là một quá trình thu nhận thông tin giữa giáo
viên và học sinh nhằm điều chỉnh hoạt động dạy- học phù hợp với những
mục tiêu đã đặt ra cũng như để xác định xem mục tiêu dạy học đã đạt được
hay chưa và với mức độ nào.
Chúng ta làm rõ một số thuật ngữ có liên quan đến kiểm tra đánh giá:
• Kiểm tra: Là phương tiện và hình thức của đánh giá. Trong kiểm tra
người ta xác định trước các tiêu chí và không thay đổi chúng trong quá trình
kiểm tra.
• Thi: Cũng là một hình thức kiểm tra nhưng có tầm quan trọng đặc biệt,
được dùng khi kết thúc một giai đoạn đào tạo. Trong thi thì tính chất tổng
kết luôn luôn là tính chất nổi trội so với tính chất định hình.

• Kết quả học tập: Có thể được hiểu theo hai cách khác nhau tùy theo mục
đích của việc đánh giá.


o Kết quả học tập được coi là mức độ thành công của học sinh trong
việc đạt chuẩn kiến thức, kỹ năng. Theo cách định nghĩa này thì kết quả học
tập là mức độ thực hiện tiêu chí
o Kết quả học tập được coi là mức độ thành tích đã được của một học
sinh so với các bạn cùng học, theo cách định nghĩa này thì kết quả học tập là
mức độ thực hiện chuẩn.
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chủ đề cập đến việc kiểm tra đánh giá
về kỹ năng và thái độ. Vì vậy chúng tôi chọn kết quả học tập là mức độ thực
hiện chuẩn.
• Chuẩn, tiêu chí đánh giá: Là mục tiêu giáo dục đã được cụ thể hóa
thành các mục tiêu cụ thể về kiến thức, kỹ năng và thái độ của từng môn học
hoặc hoạt động học tập, phải được lượng hóa thành các chuẩn có thể đo
lường được. [7][13]
1.1.2 Các hình thức kiểm tra đánh giá
Tùy theo góc độ xem xét và mục tiêu phân loại, tùy vào nội dung và
phương pháp đánh giá, người ta có thể chia thành bốn loại hình đánh giá
như sau:
 Đánh giá định hình (hay còn gọi là đánh giá hình thành)
Đánh giá hình thành được tiến hành trong suốt quá trình một nội dung
nào đó, nhằm thu thập thông tin phản hồi kết quả học tập của học sinh về
nội dung đó, dùng làm cơ sở cho việc định hướng hoạt động dạy và học tiếp
theo, nhằm làm cho những hoạt động này có kết quả hơn.
Đánh giá định hình đã khắc phục được nhược điểm của đánh giá truyền
thống. Trước kia người ta thường chủ yếu đánh giá học sinh dựa trên các bài
kiểm tra hoặc các bài thi cuối mỗi giai đoạn đào tạo. Việc đánh giá này chỉ
cung cấp thông tin về kết quả học tập của học sinh so với mục tiêu đã được

xác định trong chương trình các môn học. Kiểu đánh giá cũ này không góp
phần vào việc cung cấp các thông tin phản hồi cần thiết về sự thành công
hay chưa thành công của giáo viên và học sinh.
 Đánh giá tổng kết


Còn được gọi là đánh giá kết thúc, được thực hiện ở cuối mỗi giai đoạn
đào tạo. Đánh giá tổng kết cung cấp thông tin về kết quả học tập của học
sinh so với mục tiêu giáo dục của mỗi giai đoạn. Nó là cơ sở để phân loại,
lựa chọn, phân phối học sinh vào các chương trình học tập thích hợp.
 Đánh giá theo chuẩn
Nhằm so sánh kết quả học tập của một học sinh với các học sinh khác
được học cùng một chương trình giáo dục. Kiểu đánh giá này cho phép sắp
xếp kết quả học tập của học sinh và phân loại học sinh theo thứ tự.
Vì có mục đích sắp xếp nên trong đánh giá theo chuẩn phải sử dụng
những công cụ đánh giá giống nhau (như đề kiểm tra, đề thi). Bộ công cụ
càng có khả năng phân biệt năng lực học tập của học sinh càng cao càng
tốt.
 Đánh giá theo tiêu chí
Nhằm xác định mức độ kết quả học tập của mỗi học sinh theo mục tiêu
giáo dục. Trong đó kết quả học tập của mỗi học sinh được so sánh với các
mục tiêu học tập được xác định theo chương trình giáo dục của môn học.
Qua phân tích đặc điểm của bốn loại đánh giá trên có thể thấy chúng
được xếp vào hai nhóm và thấy rằng:
• Đánh giá định hình chỉ có thể là đánh giá theo tiêu chí, không thể là
đánh giá theo chuẩn.
• Đánh giá tổng kết có thể là đánh giá theo tiêu chí và theo chuẩn.[13]
1.1.3 Mục đích, ý nghĩa và vai trò của kiểm tra- đánh giá kết quả học
tập của học sinh
Mục đích của việc kiểm tra- đánh giá

• Công khai hóa nhận định về năng lực và kết quả học tập của mỗi học
sinh và tập thể lớp, tạo cơ hội cho học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá,
giúp học sinh nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích động viên việc học
tập.

• Giúp cho giáo viên có cơ sở thực tiễn để nhận ra những điểm mạnh và

điểm yếu của mình, tự hoàn thiện hoạt động dạy, phấn đấu không ngừng
nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.


Như vậy, đánh giá không nhằm mục đích nhận định thực trạng và định
hướng, điều chỉnh hoạt động của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận
định ra thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
 Ý nghĩa của việc kiểm tra- đánh giá
Kiểm tra- đánh giá có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với học sinh, giáo
viên và đặc biệt là đối với cán bộ quản lí.
Đối với học sinh: Việc đánh giá có hệ thống và thường xuyên cung cấp
kịp thời những thông tin “liên hệ ngược” giúp người học điều chỉnh hoạt
động học.
• Về giáo dưỡng chỉ cho học sinh thấy mình đã tiếp thu điều vừa học
đến mức độ nào, còn thiếu sót nào cần bổ khuyết.
• Về mặt phát triển năng lực nhận thức giúp học sinh có điều kiện tiến
hành các hoạt động trí tuệ như ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa, khái quát
hóa, hệ thống hóa kiến thức, tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy
sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống thực tế.
• Về mặt giáo dục học sinh có tinh thần trách nhiệm cao trong học tập,
có ý chí vươn lên đạt những kết quả cao hơn, cũng có lòng tin vào khả năng
của mình, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan tự mãn.
Đối với giáo viên: Cung cấp cho giáo viên những thông tin “liên hệ

ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy.
Đối với cán bộ quản lí giáo dục: Cung cấp cho cán bộ quản lí giáo dục
những thông tin về thực trạng dạy và học trong một đơn vị giáo dục để có
những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn được những lệch lạc, khuyến khích, hỗ trợ
những sáng kiến hay, bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
 Vai trò của việc kiểm tra- đánh giá trong dạy học hiện nay
Trong nhà trường hiện nay, việc dạy học không chỉ chủ yếu là dạy cái
gì mà còn dạy học như thế nào. Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu
cầu cấp bách có tính chất đột phá để nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới
phương pháp dạy học đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ đổi mới từ
nội dung chương trình sách giáo khoa, phương pháp dạy học cho đến kiểm
tra đánh giá kết quả dạy học. Kiểm tra đánh giá có vai trò rất to lớn đến việc


nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả của kiểm tra đánh giá là cơ sở để điều
chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học, quản lý giáo dục. Nếu kiểm tra đánh giá
sai dẫn đến nhận định sai về chất lượng đào tạo gây tác hại to lớn trong việc
sử dụng nguồn nhân lực. Vậy đổi mới kiểm tra đánh giá trở thành nhu cầu
bức thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội ngày nay. Kiểm tra đánh giá
đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say,
nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập.[7]
1.1.4 Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá
Để đáp ứng với nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hòa
nhập vào trào lưu chung của thế giới, mục đích chung của nền giáo dục
nước ta là tạo nên nhân cách Việt Nam: Đào tạo lớp thanh niên có văn hóa,
có kỹ thuật, tích cực, năng động, sáng tạo, có khả năng lao động với năng
suất cao trong một nền công nghệ tiên tiến, có ý chí vươn lên vì sự thành
đạt, tiến bộ của bản thân và sự phồn vinh của đất nước. Từ mục đích chung
này, mỗi cấp học, ngành học đều phải xác định mục đích cho mình nhằm đạt
được mục đích chung.

Sự thay đổi về mục đích, nhất thiết đòi hỏi phải thay đổi về nội dung và
phương pháp dạy học, và vì thế trong hệ thống các thành tố của quá trình
dạy học, với sự tương quan nhất định cần phải có cách kiểm tra, đánh giá
phù hợp với sự thay đổi của mục đích, nội dung và phương pháp dạy học.
Việc kiểm tra đánh giá ở Trung học phổ thông cũng phải nhằm vào các
hướng trên, để các thành tố của quá trình dạy học mới có thể tác động tương
hỗ và thúc đẩy cả hệ thống phát triển, có như thế chất lượng giáo dục mới
được nâng cao.
Từ gần nửa thế kỉ trước, thế giới đã đưa ra 3 mục tiêu dạy học là: nhận
thức, kĩ năng, và cảm xúc hay còn gọi là phẩm chất nhân văn. Ở nước ta,
hơn nửa thế kỉ qua, việc dạy học mới chỉ chú ý tới mục tiêu nhận thức, còn
các mục tiêu khác bị xem nhẹ hoặc không chú ý tới. Ngay trong mục tiêu
nhận thức vốn có 4 bậc: nhận biết, hiểu, vận dụng, sáng tạo thì chúng ta


cũng chỉ chú ý và cố gắng đạt các mục tiêu ở bậc thấp là nhận biết và hiểu.
Điều này thể hiện rất rõ trong chế độ thi cử và kiểm tra đánh giá kết quả của
nước ta. Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh từ nhiều năm nay được
thực hiện chặt chẽ theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc của các
trường qua các kì thi cuối kỳ, thi tốt nghiệp.
Về hình thức kiểm tra, thi hiện nay chủ yếu áp dụng các hình thức như:
viết, vấn đáp, trắc nghiệm.
• Đề thi viết thời gian có thể từ 45 phút đến 90 phút, các vấn đề nêu ra
trong đề nhiều nhất cũng chỉ là 3 hay 4 câu hỏi.
• Thi vấn đáp thì số câu hỏi nhiều hơn, nhưng thời lượng kiến thức và
thời gian kiểm tra cho học sinh càng eo hẹp hơn, mỗi học sinh được hỏi một
hay hai vấn đề nhỏ trong thời gian từ 7 đến 10 phút
• Trắc nghiệm có thể có vài chục đến vài trăm câu hỏi với nhiều cách
khác nhau như: lựa chọn đáp án, đúng sai, sóng đôi, tự luận…
Nhưng tất cả các hình thức và nội dung đề thi, kiểm tra trên đều nhằm

mục đích kiểm tra mức độ ghi nhớ các sự kiện, thuật ngữ, khái niệm, các
nguyên lí mà học sinh đã được học. Cao hơn chút nữa là hiểu các tư liệu đã
được học, có khả năng mô tả tóm tắt, diễn giảng, phân tích các thông tin thu
nhận được.
Ví dụ: Đối với môn Tin học lớp 11, các đề thi, kiểm tra thường là: trình
bày khái niệm thông dịch, biên dịch, so sánh thông dịch và biên dịch, mô tả
hoạt động của một đoạn chương trình…
Trong lí luận dạy học có nêu: Kiểm tra đánh giá là công đoạn quyết
định chất lượng của quá trình dạy học. Kiểm tra đánh giá giúp giáo viên biết
được hiệu quả và chất lượng giảng dạy, điều chỉnh nội dung và phương pháp
học, giúp nhà quản lí ra quyết định về kết quả học tập của người học, điều
chỉnh chương trình đào tạo và tổ chức dạy học. Trong bối cảnh nội hàm chất
lượng đã trình bày, việc đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá
trong trung học phổ thông là cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên để việc đổi


mới kiểm tra đánh giá có hiệu quả cần phải tuân theo một số nguyên tắc cơ
bản như:
• Phải kiểm tra đánh giá theo mục tiêu đào tạo của từng môn học,
đồng thời phải kiểm tra đánh giá theo các bậc nhận thức, các bậc kĩ năng và
các bậc của năng lực tư duy mà môn học dự kiến người học phải đạt được
sau khi học xong.
• Cần áp dụng nhiều hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá khác
nhau như: Viết, vấn đáp, trắc nghiệm khách quan. Việc kiểm tra phải được
tiến hành thường xuyên trong quá trình học tập.
• Kết quả kiểm tra đánh giá phải được sử dụng để đánh giá chất lượng
giảng dạy, chất lượng học tập và chất lượng đào tạo.
Bảng 1: Bảng so sánh trước và sau khi đổi mới kiểm tra đánh giá:
Học


Trước khi đổi mới KTĐG
Sau khi đổi mới KTĐG
Chưa phát huy được khả năng Được kiểm tra đủ 4 mức độ: nhận

sinh

thực hành sáng tạo

Giáo

cơ hội được phát huy năng lực
Đánh giá học sinh còn cảm Kiểm tra chính xác trình độ học

viên

tính, thang điểm thiếu cụ thể, sinh, cho điểm công bằng, phát

biết- hiểu- vận dụng- sáng tạo. Có

chính xác, dễ phát sinh tiêu hiện học sinh giỏi, ngăn chặn tiêu
Kết

cực
cực
Chưa đánh giá đúng trình độ Đánh giá đúng và công bằng trình

quả
học sinh, chưa công bằng
[16][17]


độ của học sinh

1.1.5 Những yêu cầu sư phạm của việc kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh
Các nhà nghiên cứu về kiểm tra, đánh giá trong giáo dục cho rằng khi
kiểm tra, đánh giá kết quả của người học cần đảm bảo những yêu cầu sư
phạm sau:
 Yêu cầu đảm bảo tính khách quan trong kiểm tra


Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh phải đảm bảo tính
khách quan và chính xác, tạo điều kiện để mỗi học sinh bộc lộ thực chất
khả năng và trình độ của mình, ngăn chặn những biểu hiện thiếu trung thực
khi làm bài như: quay cóp, nhìn bài bạn, nhắc bài… Việc đánh giá phải sát
với điều kiện dạy học, tránh những nhận định chủ quan thiếu căn cứ.
 Yêu cầu đảm bảo tính diện trong kiểm tra đánh giá
Đối với một bài kiểm tra, một bài thi, một đợt đánh giá có thể nhằm vào
một vài mục đích trọng tâm nào đó, nhưng toàn bộ hệ thống kiểm tra đánh
giá phải đạt yêu cầu đánh giá toàn diện, không chỉ về mặt số lượng mà cả về
mặt chất lượng, không chỉ về mặt kiến thức mà cả về kỹ năng, thái độ và tư
duy.
 Yêu cầu đảm bảo tính hệ thống trong kiểm tra, đánh giá
Việc kiểm tra, đánh giá phải được tiến hành theo kế hoạch có hệ thống.
Đánh giá trước, trong và sau khi học một phần của chương trình. Kết hợp
theo dõi thường xuyên với kiểm tra đánh giá định kỳ và đánh giá tổng kết
cuối năm học, cuối khóa học. Số lần kiểm tra phải đủ mức để có thể đánh
giá chính xác kết quả học tập của học sinh.[4][5]
1.2 Phương pháp kiểm tra trắc nghiệm
 Khái niệm
Trong từ điển tiếng Việt, từ “trắc nghiệm” được giải thích là “Khảo sát

và đo lường khi làm các thí nghiệm khoa học”
Theo giáo sư Trần Bá Hoành, trắc nghiệm là “một phương pháp đo để
thăm dò một số đặc điểm năng lực, trí tuệ của học sinh hoặc để kiểm tra,
đánh giá một số kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ của học sinh. Cho tới
nay, người ta thường hiểu bài trắc nghiệm là một bài tập nhỏ hoặc câu hỏi có
kèm theo những câu trả lời sẵn, yêu cầu học sinh sau khi suy nghĩ dùng một
dùng một ký hiệu đơn giản để quy ước trả lời”.
 Đặc điểm
• Tính khách quan: kết quả trắc nghiệm không phụ thuộc vào mối
quan hệ giữa nghiệm viên và nghiệm thể.


• Tính tiêu chuẩn hóa: cách thức, thủ tục tiến hành trắc nghiệm, cách
cho điểm, cách đánh giá đều được tiêu chuẩn hóa.
• Tính đối chiếu của kết quả trắc nghiệm trên cá nhân hay nhóm với
kết quả chuẩn mực.
 Phân loại
Có thể phân chia phương pháp trắc nghiệm làm ba loại: loại quan sát,
loại vấn đáp và loại viết.
• Loại quan sát: giúp xác định những thái độ, những phản ứng vô ý
thức, những kỹ năng thực hành và một số kỹ năng về nhận thức.
• Loại vấn đáp: có tác dụng tốt khi nêu câu hỏi phát sinh trong một
tình huống cần kiểm tra.
• Loại viết: thường được dùng nhiều nhất vì có những ưu điểm sau:
o Cho phép kiểm tra nhiều thí sinh cùng một lúc.
o Cho phép thí sinh cân nhắc nhiều hơn khi trả lời.
o Đánh giá được một vài loại tư duy ở mức độ cao.
o Cung cấp bảng ghi rõ ràng các câu trả lời của thí sinh để dùng
khi chấm bài.
o Dễ quản lý hơn vì người chấm không tham gia vào bối cảnh

kiểm tra.
Sơ đồ 1.1. Hệ thống các hình thức kiểm tra

Trong khuôn khổ của đề tài này, chúng tôi chỉ đề cập tới dạng trắc
nghiệm khách quan. [4][5][13]


1.3 Phương pháp trắc nghiệm khách quan.
1.3.1 Khái niệm trắc nghiệm khách quan.
• Trắc nghiệm khách quan trong giáo dục là một phương pháp đo để
thăm dò một số đặc điểm năng lực trí tuệ của học sinh hoặc đề kiểm tra đánh
giá một số kỹ năng, kỹ xảo, thái độ của học sinh.
• Cho đến nay người ta thường hiểu bài trắc nghiệm là một bài tập nhỏ,
hoặc câu hỏi có kèm theo câu trả lời sẵn, yêu cầu học sinh suy nghĩ và dùng
một ký hiệu đơn giản đã quy ước để trả lời.
• Có nhiều loại trắc nghiệm: trắc nghiệm khách quan, trắc nghiệm tự
luận, trắc nghiệm theo tiêu chí…
Trắc nghiệm khách quan là dạng trắc nghiệm trong đó mỗi câu hỏi có
kèm theo các phương án trả lời. Loại câu hỏi này cung cấp cho học sinh một
phần hay tất cả thông tin cần thiết, đòi hỏi học sinh phải chọn một hay một
số câu để trả lời hoặc cần điền thêm một hay một số từ cần thiết. [13]
1.3.2 Ưu nhược điểm của phương pháp trắc nghiệm khách quan
 Ưu điểm
• Do số lượng câu hỏi nhiều nên phương pháp trắc nghiệm khách
quan có thể kiểm tra nhiều nội dung kiến thức bao trùm chương trình học
tập, nhờ vậy buộc học sinh phải nắm được tất cả các nội dung kiến thức đã
học, phải tự giác chủ động, tích cực học tập. Điều này tránh được tình trạng
học tủ, học lệch trong học sinh.
• Với phạm vi nội dung kiểm tra rộng, học sinh không thể chuẩn bị tài
liệu để quay cóp. Hơn nữa, thời gian làm bài ngắn hạn chế được tình trạng

quay cóp và sử dụng tài liệu.
• Do số câu hỏi nhiều nên bài trắc nghiệm khách quan thường gồm
nhiều câu hỏi có tính chuyên biệt và có độ tin cậy cao. Nên giúp học sinh
phát triển tất cả các kỹ năng nhận biết, hiểu, ứng dụng và phân tích.
• Làm bài trắc nghiệm khách quan học sinh chủ yếu sử dụng thời gian
để đọc đề, suy nghĩ, không tốn thời gian viết ra bài làm như trắc nghiệm chủ
quan. Do vậy, có tác dụng rèn luyện kỹ năng nhanh nhẹn phát triển tư duy
cho học sinh, gây hứng thú và tích cực học tập của học sinh.


• Kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan có độ may rủi
ít hơn trắc nghiệm tự luận vì không có những trường hợp trúng tủ, từ đó loại
bỏ dần thói quen đoán mò học lệch, học tủ, chủ quan, sử dụng tài liệu của
học sinh. Đó cũng đang là mối lo ngại của nhiều giáo viên.
• Tiết kiệm được thời gian và công sức chấm bài của giáo viên.
• Do việc đánh giá kết quả bằng trắc nghiệm cũng đơn giản, rõ ràng
và xác định nên trắc nghiệm mang tính khách quan, minh bạch, tức là không
phụ thuộc người chấm.[4][5][12]
 Nhược điểm
• Trắc nghiệm khách quan không cho phép kiểm tra năng lực diễn đạt
(viết hoặc dùng lời), khả năng sáng tạo chủ động, trình độ tổng hợp kiến
thức, cũng như phương pháp tư duy, suy luận, giải thích, chứng minh của
học sinh. Vì vậy với cấp học càng cao thì khả năng áp dụng của hình thức
này cảng bị hạn chế.
• Trắc nghiệm khách quan chỉ cho biết kết quả suy nghĩ của học sinh
mà không cho biết quá trình suy nghĩ, nhiệt tình, hứng thú của học sinh đối
với nội dung được kiểm tra, do đó không đảm bảo được chức năng phát hiện
lệch lạc của kiểm tra để từ đó có sự điều chỉnh việc dạy và việc học cho phù
hợp.


• Do sẵn có phương án trả lời câu hỏi, nên trắc nghiệm khách quan

khó đánh giá được khả năng quan sát, phán đoán tinh vi, khả năng giải quyết
vấn đề khéo léo, khả năng tổ chức, sắp xếp, diễn đạt ý tưởng, khả năng suy
luận, óc tư duy độc lập, sáng tạo và sự phát triển ngôn ngữ chuyên môn của
học sinh.
• Việc soạn được câu hỏi đúng chuẩn là công việc thực sự khó khăn,
nó yêu cầu người soạn phải có chuyên môn khá tốt, có nhiều kinh nghiệm và
phải có thời gian. Điều khó nhất là ngoài một câu trả lời đúng thì các
phương án trả lời khác để chọn cũng phải có vẻ hợp lý.
• Do số lượng câu hỏi nhiều, bao trùm nội dung của cả chương trình
học nên câu hỏi chỉ đề cập một vấn đề, kiến thức hầu như không khó do đó


hạn chế việc phát triển tư duy cao ở học sinh giỏi. Có thể có một số câu hỏi
mà những học sinh thông minh có thể có những câu trả lời hay hơn đáp án
đúng có sẵn, nên những học sinh đó không cảm thấy thỏa mãn.
• Có yếu tố may rủi, ngẫu nhiên trong kết quả làm bài trắc nghiệm.
Kết luận: Tuy có những nhược điểm trên nhưng phương pháp trắc nghiệm
khách quan vẫn là phương pháp kiểm tra, đánh giá có nhiều ưu điểm, đặc
biệt là tính khách quan, công bằng và chính xác. Do đó, cần thiết phải sử
dụng trắc nghiệm khách quan trong quá trình dạy học và kiểm tra- đánh giá
kết quả học tập môn Tin học nhằm nâng cao chất lượng dạy học. [1][4][5]
[12]
1.3.3 Các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Hiện nay, có nhiều tiêu chí để phân loại câu hỏi trắc nghiệm khách
quan, các nhà khoa học đã đưa ra phân loại như sau:
Tác giả Quang An chia câu hỏi trắc nghiệm khách quan làm 5 loại:







Câu ghép đôi
Câu điền khuyết
Câu trả lời ngắn
Câu đúng sai
Câu nhiều lựa chọn

Giáo sư Lâm Quang Thiệp phân chia câu hỏi trắc nghiệm khách quan ra làm
4 loại:





Câu hỏi để trống
Câu hỏi đúng sai
Câu hỏi nhiều lựa chọn
Loại câu ghép đôi

Theo giáo sư Trần Bá Hoành thì ngoài 4 loại câu hỏi trắc nghiệm khách
quan như giáo sư Lâm Quang Thiệp đưa ra còn một số loại khác như:
• Câu hỏi trả lời ngắn
• Câu hỏi bằng hình vẽ


Trong đề tài này quan tâm đến câu hỏi trắc nghiệm khách quan ở các dạng
sau:

• Câu hỏi trắc nghiệm có nhiều lựa chọn
• Câu hỏi trắc nghiệm đúng- sai
• Câu hỏi trắc nghiệm ghép đôi (xứng đôi)
• Câu hỏi trắc nghiệm điền khuyết [4]
1.3.3.1 Câu hỏi trắc nghiệm có nhiều lựa chọn
Câu trắc nghiệm có nhiều câu trả lời để lựa chọn (hay câu hỏi nhiều lựa
chọn) là loại câu được ưa chuộng nhất và có hiệu quả nhất. Một câu hỏi loại
này thường gồm một phần phát biểu chính, thường gọi là phần dẫn (câu dẫn)
hay câu hỏi, và bốn, năm hay nhiều phương án trả lời cho sẵn để học sinh
tìm ra câu trả lời đúng nhất trong nhiều phương án trả lời có sẵn. Ngoài câu
đúng, các câu trả lời khác đều có vẻ hợp lý (hay còn gọi là các câu nhiễu).
Ví dụ: Để chạy chương trình Pascal ta sử dụng
A.
B.
C.
D.

Ctrl+ F9
F9
Alt+ F9
F2

Đáp án: C
 Ưu điểm
• Với sự phối hợp của nhiều phương án trả lời để chọn cho mỗi câu
hỏi, giáo viên có thể dùng loại câu hỏi này để kiểm tra đánh giá những mục
tiêu dạy học khác nhau, chẳng hạn như: xác định mối tương quan nhân quả,
nhận biết các điều sai lầm, ghép các kết quả hay các điều quan sát được với
nhau, định nghĩa các khái niệm, xác định thứ tự hay cách sắp đặt giữa nhiều
vật…

• Độ tin cậy cao hơn, khả năng đoán mò hay may rủi ít hơn so với các
loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan khác khi số phương án lựa chọn tăng
lên, học sinh buộc phải xét đoán, phân biệt rõ ràng trước khi trả lời câu hỏi.
• Tính chất giá trị tốt hơn. Loại bài trắc nghiệm có nhiều câu trả lời có
độ giá trị cao hơn nhờ tính chất có thể dùng đo những mức tư duy khác nhau


như: khả năng nhớ, áp dụng các nguyên lý, định luật, suy diễn, tổng quát
hóa,…rất hữu hiệu.
 Nhược điểm
• Loại câu hỏi này khó soạn vì phải tìm được câu trả lời đúng nhất
trong khi các câu, các phương án còn lại gọi là câu nhiễu thì cũng có vẻ hợp
lý. Thêm vào đó các câu hỏi phải đo được các mục tiêu ở mức năng lực
nhận thức cao hơn mức biết, nhớ.
• Những học sinh có óc sáng tạo, khả năng tư duy tốt có thể tìm ra
những câu trả lời hay hơn đáp án đã cho, nên họ không thỏa mãn hoặc khó
chịu.
• Các câu trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn có thể không đo
được khả năng phán đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo,
sáng tạo một cách hiệu nghiệm bằng loại câu trắc nghiệm tự luận soạn kỹ.
• Tốn kém giấy mực để in và mất nhiều thời gian để học sinh đọc nội
dung câu hỏi.
 Khi biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan loại này cần chú ý:
• Cố gắng biên soạn sao cho những câu gây nhiễu, gài bẫy đều hấp
dẫn như nhau, dễ gây nhầm là câu trả lời đúng đối với thí sinh chưa học kỹ
bài.

• Tránh sắp xếp câu trả lời đúng ở vị trí tương ứng như nhau bất kỳ

các câu hỏi trong bài kiểm tra, thi bằng hình thức trắc nghiệm khách quan.

• Tránh để cho một câu hỏi nào đó có thể cho hai phương án lựa chọn
trả lời đều là đúng. [4][5][10][11]
1.3.3.2 Câu hỏi trắc nghiệm đúng- sai
Câu hỏi đúng sai thường gồm một nhận định, thí sinh phải lựa chọn một
trong hai phương án trả lời để khẳng định nhận định đó là đúng hay sai. Loại
câu hỏi này thích hợp cho việc kiểm tra những hình thức sự kiện các định
nghĩa, khái niệm và công thức.
Ví dụ: Cho chương trình sau:
Program lon_nhat;
Uses crt;


Var

A:array[1..10] of integer;
N, i: byte;
Tb: longint;

Begin
Clrscr;
Write(‘nhap N: ’); readln(N);
For i:=1 to N do
Begin
Write(‘A[‘, i,’]=’); readln(A[i]));
End;
Tb:=0;
For i:= 1 to N do
Tb:= Tb+a[i]];
Write(‘trung bình cong cua day la ‘,Tb/n);
End.

Hỏi chương trình trên có chạy được không ?
A. Đúng
B. Sai
Đáp án: A
 Ưu điểm
• Đây là loại câu đơn giản nhất để trắc nghiệm kiến thức về những sự
kiện, mặc dù thời gian soạn cần nhiều công phu nhưng lại khách quan khi
chấm điểm.
• Có thể khảo soát được nhiều mảng kiến thức của học sinh trong một
khoảng thời gian ngắn.
 Nhược điểm
• Có thể khuyến khích đoán mò vì vậy độ tin cậy thấp, dễ tạo điều
kiện cho học sinh thuộc lòng hơn là hiểu.
• Khó dùng để phát hiện ra yếu điểm của học sinh, ít phù hợp với đối
tượng học sinh khá giỏi.
 Khi soạn thảo câu hỏi đúng- sai nên chú ý những điểm sau:
• Đảm bảo tính đúng sai của câu hỏi trắc nghiệm là chắc chắn.
• Mỗi câu trắc nghiệm chỉ nên diễn tả trọn vẹn một ý, tránh bao gồm
nhiều chi tiết, không thể xuất hiện hai ý hoặc nửa câu đúng, nửa câu sai.


×