Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Đề án môn Tài chính doanh nghiệp:Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.91 KB, 38 trang )

Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

LỜI MỞ ĐẦU
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến các phạm trù kinh
tế khác và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực, có hiệu quả trong việc tác động đến
quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng thời là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với chính
sách tiền tệ quốc gia. Đã bao thời nay, loài người đã và đang tiếp tục đứng trước một vấn đề
có tầm quan trọng đặc biệt này và cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận thức đúng đắn
để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái phù hợp, nhằm biến
nó trở thành một công cụ tích cực trong quản lý nền kinh tế ở mỗi nước.
Tỷ giá hối đoái, như các nhà kinh tế thường gọi là một loại "giá của giá", bị chi phối
bởi nhiều yếu tố và rất khó nhận thức, xuất phát từ tính trừu tượng vốn có của bản thân nó.
Tỷ giá hối đoái không phải chỉ là cái gì đó để ngắm mà trái lại, là cái mà con người cần phải
tiếp cận hàng ngày, hàng giờ, sử dụng nó trong mọi quan hệ giao dịch quốc tế, trong việc xử
lý những vấn đề cụ thể liên quan đến các chính sách kinh tế trong nước và quốc tế. Và do
vậy, nhận thức một cách đúng đắn và xử lý một cách phù hợp một cách tỷ giá hối đoái là một
nghệ thuật.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá trình quốc tế hoá đã bao
trùm tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và trong cuộc sống, thì sự gia tăng của hợp tác
quốc tế nhằm phát huy và sử dụng những lợi thế so sánh của mình đã làm cho việc quản lý
đời sống kinh tế của đất nước và là mối quan tâm đặc biệt của chính phủ các nước trong quá
trình phục hưng và phát triển kinh tế. Việt Nam là một trong những nước như vậy.
Xuất phát từ những lý do trên đây, Em chọn đề tài của mình là "Một số vấn đề về tỷ
giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam". Tập đề án được chia làm 2 phần
chính.
Chương I: Những vấn đề lý thuyết chung
Chương II: Những chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam


Mã SV: BH185422

1

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.1. Tỷ giá hối đoái và sự hình thành tỷ giá hối đoái
1.1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái:
Hầu hết mỗi quốc gia hay một nhóm quốc gia liên kết (như liên minh Châu Âu) đều
có đồng tiền riêng của mình. Việt nam có tiền đồng (VNĐ), Trung quốc có Nhân dân tệ
(CNY), Mỹ có Dollar (USD).
Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, các nhóm nước với nhau mà trước hết là quan hệ
mua bán trao đổi đầu tư dẫn đến việc cần có sự trao đổi đồng tiền của các nước khác nhau
với nhau, đồng tiền này đổi lấy đồng tiền kia, từ đó ta có thể nói rằng: tỷ giá hối đoái là giá
cả của một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằng tiền tệ của một nước khác. Thông thường,
thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái" được ngầm hiểu là số lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua
một đơn vị ngoại tệ, tuy nhiên ở Mỹ và Anh được sử dụng theo nghĩa ngược lại: số lượng
đơn vị ngoại tệ cần thiết để mua một đồng USD hoặc đồng bảng Anh; ví dụ: ở Mỹ 0,8
xu/USD.
Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ gia hối đoái:
n

- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (e ): đây là tỷ giá hôí đoái được biết đến nhiều nhất do
ngân hàng nhà nước công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày.
r
- Tỷ giá hối đoái thực tế (e ) được xác định

r
n
e = e * Pn/Pf

Pn: chỉ số giá trong nước
Pf: chỉ số giá nước ngoài
Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch lạm phát giữa các
nước và phản ánh đúng sức mua và sức cạnh tranh của một nước.
1.1.2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái
1. Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối
Mã SV: BH185422

2

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

Có cầu về tiền của nước A trên thị trường ngoại hối khi dân cư từ các nước khác mua
hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra tại nước A. Một nước xuất khẩu càng nhiều thì cầu đối
với đồng tiền nước đó càng lớn trên thị trường ngoại hối.

Đường cầu về một loại tiền là hàm của tỷ giá hối đoái của nó xuống dố phía bên phải,
điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá của nước ấy càng trở lên đắt hơn
đối với những người nước ngoài và ít hàng hoá xuất khẩu hơn
2. Cung về tiền trên thị trường ngoại hối
Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra ở nước B họ phải mua một
lượng tiền đủ lớn của nước B, bằng việc dùng tiền nước A để trả. Lượng tiền này của nước A
khi ấy bước vào thị trường quốc tế.
Đường cung về tiền là một hàm của tỷ giá hối đoái của nó, dốc lên trên về phía phải.
Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá nước ngoài càng rẻ và hàng hoá ngoại được nhập khẩu
ngày càng nhiều.
Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua các lực lượng thị trường cung và
cầu. Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về một đồng tiền hoặc làm giảm cung của nó đều có xu
hướng làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. Bất kỳ cái gì làm giảm cầu về một đồng tiền hoặc
làm tăng cung đồng tiền ấy trên các thị trường ngoại hối sẽ hướng tới làm cho giá trị trao đổi
của nó giảm xuống ở hình vẽ dưới, ta thấy được tỷ gía hối đoái cân bằng L o của đồng VN và
USD Mỹ thông qua giao điểm S và D.
L

USD

S

Lo

D
Mã SV: BH185422

3

Trường ĐH Kinh tế quốc dân



Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

Qo

Q(đ)

1.1.3. Phân loại tỷ giá hối đoái
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá khác nhau:
1. Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra làm hai loại:
- Tỷ giá điện hối là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển
ngoại hối bằng điện (telegraphic transfer -T/T)
- Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển
ngoại hối bằng thư ( mail transfen M/T)
2. Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các loại:
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do Nhà Nước công bố được hình thành trên cơ sở ngang
giá vàng.
- Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ cung cầu.
- Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà nước không can
thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
- Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào đó.
3. Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra các loại:
- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn bằng
ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển khoản ngoại

hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại hối bằng tiền
mặt.
4. Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:

Mã SV: BH185422

4

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của
chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của
chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
- Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối sẽ
được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối
sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng(có thể là 1,2,3 tháng sau).
5. Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá::
-

Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.


-

Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.

1.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái:
1- Cán cân thương mại: trong các điều kiện khác không đổi nếu nhập khẩu của một
nước tăng thì đường cung về tiền của nước ấy sẽ dịch chuyển về phía bên phải, tỷ giá hối
đoái giảm xuống; nếu xuất khẩu tăng thì đường cầu về tiền của nước ấy sẽ dịch chuyển sang
trái tỷ giá hối đoái tăng lên.
2- Tỷ giá lạm phát tương đối: nếu tỷ lệ lạm phát của một nước cao hơn tỷ lệ lạm phát
của một nước khác thì nước đó sẽ cần nhiêù tiền hơn để mua một lượng tiền nhất định của
nước kia. Điều này làm cho cung tiền dịch chuyển sang phải và tỷ giá hối đoái giảm xuống.
3- Sự vận động của vốn: khi người nước ngoài mua tài sản tài chính, lãi suất có ảnh
hưởng mạnh. Khi lãi suất của một nước tăng lên một cách tương đối so với nước khác thì
các tài sản của nó tạo ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và có nhiều người dân nước ngoài muốn mua
tài sản ấy. Điều này làm cho đường cầu về tiền của nước đó dịch chuyển sang phải và làm
tăng tỷ giá hối đoái của nó. Đây là một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất tới tỷ giá ở
các nước phát triển cao.
Mã SV: BH185422

5

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công


4- Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ: tất cả đều có thể làm dịch chuyển đường
cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện
thông tin liên lạc hiện đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao ddổi hàng tỷ USD giá
trị tiền tệ mỗi ngày.
Trên đây là 4 nguyên nhân cơ bản gây lên sự dịch chuyển đường cung và cầu trên thị
trường ngoại hối. Sự dịch chuyển này đến lượt nó sẽ gây ra những dao động của tỷ giá hối
đoái, và như vậy phản ứng dây chuyền, những biến động của tỷ giá hối đoái lại tác động đến
nền kinh tế trong nước.
1.3. Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế
1.3.1. Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách:
Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp tới thu chi ngân sách.
Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá nhà nước
công bố thường cố định trong thời gian tương đối dài. ở thời điểm công bố mức tỷ giá thấp
hơn nhiều so với mức giá trên thị trường và tình hình sức mua của đồng tiền tính chung thời
kỳ 1985-1988, 1rúp mua trên dưới 1.500VND hàng xuất khẩu, 1USD trên dưới 3.000VND,
trong khi đó tỷ giá kết toán nội bộ thanh toán trong quan hệ xuất nhập khẩu giữu mức
150VND/Rúp và 225VND/USD. Nhìn chung 1Rúp hàng xuất khẩu phải bù lỗ 1.350VND và
1USD phải bù 2.775VND. Kim ngạch xuất khẩu của năm 1987là 650 triệu R-USD trong đó
khu vực đồng Rúp 500 triệu và khu vực đồng USD 150 triệu, Ngân sách nhà nước đã phải
bù lỗ 900 tỷ. Như vậy, các ngành, các địa phương được phân phối các loại vật tư,nguyên liệu
đó thì được hưởng phần giá thấp còn ngân sách nhà nước lại không thu được chênh lệch giá.
Việc thực hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán xuất - nhập khẩu và bù lỗ hàng
xuất khẩu đó là:
- Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho bạn để có thể đưa
hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, thì mức lỗ của ngân sách cho hàng
xuất khẩu lớn gây trở ngại cho việc điều hành ngân sách

Mã SV: BH185422

6


Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

- Nếu trì hoãn cho việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu nhưng trong khi đó
vẫn yêu cầu bạn giao hàng nhập cho ta theo tiến độ, thì việc bù lỗ hàng xuất khẩu được giảm
ở mức độ nhất định, nhưng nghĩa vụ nợ của ta với bạn lại tăng lên đáng kể.
Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi ngân sách Nhà nước
không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và các khoản cấp phát của ngân sách Nhà
nước cho nền kinh tế quốc dân và cho các hoạt động khác có sử dụng ngoại tệ.
Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt Nam so với ngoại tệ
để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhưng thực chất là đẩy xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt,
không khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh hàng xuất khẩu, hệ quả là cán cân
thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng, ngân sách Nhà nước phải gánh chịu thêm các thua
thiệt.
Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đã làm cho chi phí của các doanh nghiệp tăng
lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu từ thuế lợi tức của các tổ chức kinh tế cho
ngân sách Nhà nước cũng bị ảnh hưởng. Mặt khác, các khoản chi tiêu cho các cơ quan và tổ
chức được Nhà nước cấp cũng được tăng lên tương ứng với mức mất giá của đồng nội tệ.
Tình hình đó đã tác động đến yếu tố làm tăng bội chi ngân.
Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, Nhà nước đã bỏ chế độ
tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ) , giảm căn bản bù lỗ cho hoạt động xuất - nhập khẩu
và thực hiện chính sách giá sát với tỷ giá thị trường. Ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá
chính thức của VNĐ với các ngoại tệ mạnh, nhất là với USD trên cơ sở đó các ngân hàng
thương mại xây dựng và công bố tỷ giá hàng ngày với biên độ chênh lệch cho phép (khoảng

5%) so với tỷ giá chính thức.
Về mặt ngân sách Nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái sát với thị trường khiến
cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà nước phản ánh trung thực và chính xác hơn, không
bị bóp méo. Tỷ giá đó góp phần làm cho công tác kế hoạch hoá vay nợ và trả nợ nước ngoài
từ ngân sách Nhà nước thuận lợi hơn và có cơ sở vững chắc hơn.

Mã SV: BH185422

7

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

* Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và quản lý ngoại tệ,
nhưng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh hưởng không tốt đến quản lý, điều hành ngân
sách, đó là:
+ Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đã khiến cho lực
lượng ngoại tệ của Nhà nước tăng chậm và chưa tương xứng với mức độ tăng của cán cân
thương mại, một cơ sở của sự ổn định thu chi ngân sách Nhà nước là quĩ ngoại tệ chưa được
tăng cường.
+ Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trường nếu không ổn định thì không
những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi Ngân sách bằng ngoại tệ theo không kịp
thời dẫn tới không sát với thực tế thị trường, điều hành NSNN không tránh khỏi lúng túng,
nhất là trường hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đến hạn đòi phải giải quyết.
1.3.2. Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài

Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản lý nợ. Trước năm
1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên Nhật tương đương 92 triệu USD (tỷ giá 216 Yên =
1USD). Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật mở lại tín dụng với Việt Nam và cho Việt Nam vay
20 tỷ Yên, tương đương 159 triệu USD (tỷ giá 126 Yên= 1USD). Ngoài ra, vào thời điểm
1987 trở về trước còn có các khoản vay các công ty của Nhật 20 tỷ Yên, tương đương 125
triệu USD ( tỷ giá 160 Yên= 1USD). Đầu năm 1995, đồng Yên lên giá, 1USD chỉ còn 90
Yên là như vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua sự tăng giá của đồng Yên Nhật,
đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc qui ra USD, làm thiệt thòi cho người đi vay.
Tương tự, việc sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp ở nước ta liên quan đến nhiều
yếu tố, trong đó tỷ giá có tác động mạnh đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp.
Trong các năm 1989-1990 có 81 doanh nghiệp vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay
tự trả với doanh số vay là 5722 triệu Yên là 10,9 triệu USD, tỷ giá lúc này là 130
Yên=1USD, do đó tổng vay nợ bằng đồng Yên quy ra USD là 44 triệu USD. Đến năm 1995,
do chưa trả được nợ mà đồng yên lại tăng giá, nên nợ gốc vay tăng từ 44 triệu USD lên 58
triệu USD (chưa tính đến yếu tố lãi suất tiền vay và tỷ giá giữa đồng VN và USD). Do tổng
Mã SV: BH185422

8

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

hợp nhiều yếu tố, rong đó có yếu tố về tỷ giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh nghiệp vay
vốn theo phương thức này đều bị sức ép của cả hai loại tỷ giá.
- Tỷ giá giữa Yên và USD (đại bộ phận doanh số vay của các doanh nghiệp kể trên là

vay đồng Yên cuả các công ty Nhật trong khi đó đồng Yên tăng giá).
- Tỷ giá giữa đồng VN và USD (trong khi đó đồng Việt nam bị giảm giá).
Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhưng nó có ý nghĩa đặc biệt
riêng của nó đối với việc huy động vốn, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu chi
ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế và xã hội. Ngược lại, vực nợ nước ngoài nếu không
quản lý tốt và không sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành gánh năngk đối với nền kinh tế hiện
tại và tương lai, có khi còn ảnh hưởng đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia.
Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng cũng phải được quản lý chặt
chẽ. Những khoản viện trợ cuả nước ngoài cho chính phủ và các cấp chính quyền phải được
đưa vào ngân sách nhà nước để cân đối và sử dụng, không hình thành quỹ riêng. Tuy các
khoản này ngân sách không phải trả lại nhưng là một nguồn khá quan trọng góp phần giải
quyết các vấn đè của đất nước.
Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ chức trực tiếp quản lý nợ,
viện trợ. Cơ quan này không những nắm các khoản nợ, viện trợ, tài trợ của chính phủ, các
cấp chính quyền, mà cả các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
nhằm thực hiện yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước trong điều kiện kinh tế mở. Chỉ xét
riêng trong cán cân vay lãi, cán cân thanh toán quốc tế, thì không phải chỉ có nợ chính phủ
mới nằm trong đó mà ngay cả nợ của các doanh nghiệp tư nhân các của nước cũng phải đưa
vào. Bởi vì, vốn đưa vào dù ai sử dụng thì vẫn là cho cả nền kinh tế và khi trả, dù ai trả cũng
phải lấy một phần GDP để trả nợ mà việc đó liên quan đến lợi ích quốc gia, trực tiếp tác
dộng đến sự cân bằng của cán cân thanh toán. là quốc gia có số nợ nước ngoài lớn nếu so với
GDP, trong tương lai còn phải vay và đồng thời phải trả nợ đến hạn vì vậy với việc hình
thành chiến lược vay và trả nợ có ý nghĩa chiến lược to lớn.
1.3.3. Thực trạng tác động của tỷ giá đến lãi suất và trái phiếu chính phủ.
Mã SV: BH185422

9

Trường ĐH Kinh tế quốc dân



Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng điều chỉnh lãi suất.
Trong nền kinh tế thị trường khi đồng nội tệ mất giá khối lượng nội tệ cung ứng ngoài thị
trường lớn đòi hỏi phải điều chỉnh tăng lãi suất, trong trường hợp này làm tăng chi ngân sách
về thanh toán lãi suất huy động nội tệ. Khi đồng nội tệ lên giá nhà nước phải điều chỉnh
giảm mức lãi suất, điều này sẽ giảm chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ, nếu
không điều chỉnh mức lãi suất thì những nhà sản xuất kihn doanh sẽ bán ngoại tệ cho ngân
hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu chính phủ để hưởng lãi suất cao. Điều
này sẽ tác động xấu đến sản xuất-kinh doanh trong khi đó ngân sách phải tiếp tụcthanh toán
lãi suất về huy động tiền gửi. Kinh nghiệm của một số nước châu á (như Malaixia, Thái lan,
Indonexia) cho thấy việc sử lý hài hoà phối hợp điều hành lãi suất và tỷ giá ngoại hối đã làm
cho tỷ giá giữ được biên độ ổn định và tiền tệ không có biến động mạnh.
Do đồng USD mất giá ở mức cao, nên hiện nay Mỹ đang đẩy mạnh xu hướng nâng
cao lãi suất. Việc làm này sẽ làm tăng lãi suất tiền vay bằng ngoại tệ USD, và do đó sẽ tác
động trực tiếp đến các khoản vay nợ của Việt nam. Với diễn biến này đòi hỏi chúng ta cần có
sách lược chọn đồng tiền với mức lái suất thích hợp, nhằm đảm bảo cho việc sử dụng vốn
vay đạt hiệu quả.
Tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng Việt nam cho thấy, tình
hình tài chính quốc gia (đặc biệt là ngân sách nhà nước) và chế độ ngoại tệ, tỷ giá có quan hệ
biện chứng qua lại hết sức chặt chẽ, một mặt tình hình tài chính (mà biểu hiện tập trung là
ngân sách nhà nước) là một nhân tố hàng đầu quyết định đến sự lựa chọn tỷ giá, phương án
điều chỉnh tỷ giá, mặt khác chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá cũng có ảnh hưởng hết sức mạnh
mẽ, toàn diện đến quản lý. Nền tài chính quốc gia thông qua nhiều kênh, dưới nhiều hình
thức và góc độ khác nhau, chính vì vậy khi đặt vấn đề lựa cọn chính sách, phương án điều
chỉnh tỷ giá sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu như không đề cập, phân tích thực trạng tài chính

hiện hành của quốc gia.
1.3.4. Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các nước đang phát triển thường thiết ké chính sách tỷ giá hối đoái nhằm duy trì sức
cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế cán cân thanh toán quốc tế lâu bền. Bằng cách
Mã SV: BH185422

10

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

tăng giá các hàng thương mại hoá được so với các hàng hoá không thương mại hoá được; sự
phá giá đồng thời chuyển dịch cầu tổng thể có lợi cho các cho các hàng hoá không thương
mại hoá được, và cung tổng thể có lợi cho các hàng hoá thương mại hoá được, và do đó
giảm bội dư cầu đối với hàng hoá thương mại hoá được (tức là cải thiện được vị thế của cán
cân vãng lai). Ngoài tác dộng của chính sách chuyển đổi chi tiêu, phá giá cũng giảm cầu
tổng thể thông qua ảnh hưởng của khối lượng tài sản, một sự tăng giá nội địa sẽ làm cho sự
phá giá đồng tiền nội địa tháp hơn giá trị thực của tài sản tài chính và giảm hấp thụ.
Do vai trò cốt yếu của tỷ giá hối đoái đói với việc duy trì sức cạnh tranh đối với bên
ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vượt ra khỏi điểm cân bằng của nó. Bởi vì điểm cân bằng
này được xác địng nội sinh, chính sách tỷ giá hối đoái cần lưu ý đến các tác động của các
cơn sốc khác nhau lên điểm cân bằng của tỷ giá thực. Phần này đề cập đến các tiếp cận khác
nhau trong việc xác định điểm cân bằng tỷ giá thực và nghiên cứu tác dộng của các cơn sốc
bên trong và bên ngoaig lên điểm cân bằng đó, sau đó sẽ tập trung vào chính sách cụ thể
nhằm duy trì sức cạnh tranh trong quá trình điều chỉnh.

Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng:
Nói chung có hai tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái thực "cân bằng". Tiếp cận đơn
giản và phổ biến nhất là dựa vào khái niệm tỷ giá theo sức mua so sánh. Nguyên lý trung
tâm của tỷ giá so sánh sức mua là tỷ thực cân bằng tỷ lệ với các mức giá tương đối giữa một
nước với đối tác ngoại thương của mình, tức là đối với sức mua so sánh giữa các đồng tiền
các quốc gia. Như vậy tỷ giá sức mua so sánh được coi là chỉ số thích hợp cho cân bằng tỷ
giá giưã các đồng tiền với tỷ lệ lạm phát quy định tỷ lệ thay đổi của tỷ giá danh nghĩa theo
thời gian. Việc áp dụng tỷ giá so sánh sức mua bao gồm việc sử dụng tỷ giá hối đoái hiện
hữu để tính mặt bằng giá tương đối theo các đại lượng tiền tệ thông dụng. Bất cứ sự sai lệch
nào của tỷ giá thực so với giá trị gốc của nó sẽ được coi là dấu hiệu tỷ giá đã đi lệch ra khỏi
giá trị tỷ giá so sánh sức mua cân bằng.
Tiếp cận khác, có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái thực như là giá so
sánh tương đối giữa hàng hoá mậu dịch và hàng hoá không mậu dịch hoá được, nó đưa ra
thước đo các động lực quyết định sự phân phối nguồn lực giữa hai khu vực trọng yếu này
Mã SV: BH185422

11

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

của nền kinh tế: nếu giá nội địa của hàng hoá thương mại hoa so với hàng hoá không thương
mại hoá được thì nguồn lực sẽ được phân phối lại sang khu vực hàng hoá thương mại hoá và
cán cân ngoại thương sẽ được cải thiện. Theo nghĩa đó, thì điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ
tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá thương mại hoá và hàng hoá không thương mại hoá

đem lại đồng thời sự cân bằng nội và cân bằng ngoại. Cân bằng nội có nghĩa là thị trường
hàng hoá không thương mại hoá được thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâm
hụt cán cân vãng lai được tài trợ một cách bền vững từ luồng vốn nước ngoài vào.
Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiềm tànglên quan đến biến động
chỉ số và sức cạnh tranh với bên ngoài. Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra sự thay đổi chỉ số
tỷ giá thực quan được có thể là biểu hiện của sự thay đổi điểm cân bằng của tỷ giá thực do
các loại cơn sốc trong nước và nước ngoài gây ra (ví dụ: sự tác động cảu chênh lệch mức
tăng năng suất, thay đổi điều kiện ngoại thương, cải cách thuế quan, thay đổi trong điều hành
ngân sách chính phủ, sự tăng lên của lãi suất thực quốc tế) lên cân bằng của tỷ giá thực.
Phân tích về tác động của cải cách thuế nhập khẩu cho thấy: giảm thuế nhập khẩu
thường là tương đương với tăng tỷ giá thực cânbằng. về phương diện định tính thì tác động
của tự do hoá nhập khẩu cũng giống như việc cải thiện điều kiện ngoại thương (do giảm giá
xuất khẩu). Thuế nhập khẩu thấp hơn sẽ giảm giá tương đối của hàng nhập khẩu, tạo nên sự
dư thừa cầu đối với hàng hoá này, và dư thừa cung đối với hàng hoá xuất khẩu. để đưa về
cân bằng thì giá tương đối của hàng hoá không thương mại hoá sẽ giảm. Như vậy phản ứng
đối với việc giảm thuế nhập khẩu là tỷ giá hối đoái thực sẽ tăng lên.
Tỷ giá thực cân bằng cũng bị tác động của các biện pháp ngân sách, ngay cả khi thiếu
hụt ngân sách không thay đổi thì sự thay đổi trong cơ cấu thu chi ngân sách cũng làm cho tỷ
giá thực cân bằng thay đổi. Vì vậy điểm cân bằng của tỷ giá hối đoái thực không chỉ định do
vị thế ngân sách quy định, mà còn do cơ cấu chi và thu của chính phủ quy định.
Tỷ giá hối đoái thực, sức cạnh tranh quốc tế và lạm phát:
Trong khi tỷ giá thực có thể chênh lệch ra khỏi điểm cân bằng vì một số các cơn sốc
gây nên thì nguyên nhân chủ yếu của viêvj xấu đi sức cạnh tranh đối với bên ngoài ở hầu hết
Mã SV: BH185422

12

Trường ĐH Kinh tế quốc dân



Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

các nước đang phát triển là tỷ lệ lạm phát nội địa cao kèm theo việc duy trì chế độ tỷ giá tỷ
giá danh nghĩa cố định. Các tiếp cận để ngăn ngừa sự xấu đi của sức cạnh tranh quốc tế là
thực hiện quy tắc tỷ giá thực.
Như vậy quy tắc tỷ giá có thể ngăn ngừa được sự xuất hiện mất cân đối lớn và lâu dài
của các giá cả tương đối và do đó tránh được mất cân bằng ngoại, bằng cách cho tỷ giá danh
nghĩa được điều chỉnh thường xuyên và theo liều lượng tương đối nhỏ. Người ta lập luận
rằng: tỷ giá hối đoái thực tế có thể giữ được ở mức đúng đắn, không gây ra cái giá điều
chỉnh phải trả cho nền kinh tế, và do đó che lấp được vấn đề phá giá có thể nổi lên trên chiến
trường chính trị. Hơn thế nữa, người ta còn khẳng định quy tắc tỷ giá thực cung cấp một
mức cho dự đoán. bởi vì nó cung cấp cho những người tham gia thị trường thông tin bổ ích
về chiều hướng có thể xảy ra các giá tương đối và do đó tránh được các quyết định sản xuất
dựa trên các dự đoán mong đợi sai lệch.
Kinh nghiệm các nước lạm phát cao đã làm tăng sự phản đối việc chấp nhận các quy
tắc tỷ giá thực. Nhiều nước trên đã trải qua tình trạng tỷ lệ lạm phát cao trong thập kỷ trước
mà đặc trưng "mặt bằng cao". Lạm phát nhảy từng bước đến các thời kỳ lạm phát cao hơn
nhưng lại tương đối ổn định. Trong một số trường hợp thì bước nhảy như vậy liên quan đến
phá giá từng đợt, tiếp theo là "cố định" dựa vào các quy tắc tỷ giá so sánh sức mua. Điều này
cũng không kết luận rằng: gắn cố định dựa trên cơ sở tỷ giá so sánh sức mua là gây nên lạm
phát cao, nhưngnthực tiễn cho thấy nguy cơ ngày càng cao.
Tóm lại, một khi đích mục tiêu đặt ra đối với tỷ giá thực vẫn còn đúng, thì tiềm năng
gây lạm phát do sử dụng đích mục tiêu tỷ giá thực gây ra có thể được kìm hãm bằng cách sử
dụng các chính sách ngân sách và tiền tệ thắt chặt, tiếp cận này sẽ ngăn ngừa sự xuất hiện
biến động gây mất ổn định của giá cả, ngay cả khi nếu tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh để
duy trì sức cạnh tranh quốc tế. Khi không biết chắc chắn giá trị cân bằng của tỷ giá thực thì
không nên quá chú trọng vào việc đặt ra đích mục tiêu tỷ giá thực, ngya cả khi nếu các

chính sách ngân sách và tiền tệ được sử dụng một cách thận trọng. Gánh nặng của điều chỉnh
ít nhất là một phần do các chính sách tài chính chịu, hơn là hoàn toàn dồn cho điều chỉnh tỷ

Mã SV: BH185422

13

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

giá. Theo nghĩa đó thì cần phải chú ý rằng các chính sách như vậy bản thân chúng có thể
chịu tác động bởi chế độ tỷ giá hối đoái mà chính phủ đưa ra.
Để phân tích tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế ta đưa ra khái niệm khả năng
cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh = ePo/P
trong đó: Po: giá sản phẩm ngoài tính theo gía thi trường nước ngoài.
P: giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính theo đồng nội tệ.
e:tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước ngoài tính theo đồng nội địa.
Với P và Po không đổi khi E tăng , EPo sẽ tăng. Giá của sản phẩm nước ngoài trở nên
đắt tương đối so với giá của sản phẩm trong nước và ngược lại, giá của sản phẩm trong nước
trở nên rẻ, tương đối so với sản phẩm nước ngoài. Sản phẩm trong nước do đó có khả năng
cạnh tranh cao hơn xuất khẩu sẽ tăng ( X tăng ), nhập khẩu giảm đi (IMgiảm), điều này làm
cho xuất khẩu ròng (NX= X_IM) tăng lên. Vì AD=C+I+G+NV nên NX tăng lên làm cho AD
dịch phải, trên hình vẽ ta thấy sản lượng cân bằng Q tăng lên tỷ lệ thất nghiệp giảm.
AD'
P


ASLR

ASSR

AD

Q*

Q

Như vậy sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa, do đó tỷ giá hối đoái thực tế sẽ tác
động đến cân bằng cán cân thương mại, do đó tác động đến sản lượng, việc làm giá cả.
Hãy mở rộng tác động của tỷ giá hối đoái với cán cân thanh toán, ở đây có mối quan
hệ giữa lãi xuất và tỷ giá hối đoái.
Mã SV: BH185422

14

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

Khi lãi suất tăng lên, đồng tiền nội địa trở nên có giá trị hơn, tỷ giá hối đoái của đồng
nội địa tăng lên, trong điều kiện tư bản vận động một cách tự do thì tư bản nước ngoài sẽ
tràn vào thị trường trong nước, giả định cán cân thương mại là công bằng thì cán cân thanh

toán là thặng dư.
Như vậy tỷ giá hối đoái là một biến cố rất quan trong, tác động đến sự cân bằng của
cán cân thương mại và cán cân thanh toán, do đó tác động đến sản lượng, việc làm cũng như
sự cân bằng của nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, một số nước trên thế giới vẫn còn duy
trì tỷ giá hối đoái cố định, còn phần lớn các nước theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi
có quản lý nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái chỉ biến động trong một phạm vi nhất định, để ổn
định và phát triển nền kinh tế.
1.4. Các chế độ tỷ giá hối đoái
1.4.1. Tỷ giá hối đoái cố định bản vị vàng
Theo chế độ bản vị vàng,tỷ giá hối đoái được qui định căn cứ vào hàm lượng vàng
của các đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại, khi thương mại quốc tế tăng
lên cùng với hoạt động đầu cơ, chế độ bản vị vàng này không đáp ứng được nhu cầu phát
triển và các nước thôi áp dụng từ năm 1971.
1.4.2. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp
Loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại các nước Xã hội chủ nghĩa thời kỳ kinh tế
kế hoạch hoá tập trung. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp thường chênh lệch nhiều lần so với
tỷ giá hối đoái thị trường, không có vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô đối với xuất nhập khẩu,
loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại Việt Nam trước năm 1989
1.4.3. Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
Theo chế độ tỷ giá hối đoái này, mức tỷ giá hối đoái được quyết định hoàn toàn bởi
các lực lượng cung cấp cầu về ngoại tệ. Trong hệ thống này chính phủ giữ thái độ thụ động,
để cho thị trường ngoại tệ đánh giá giá trị của ngoại tệ - loại tỷ giá hối đoái này ít được áp
Mã SV: BH185422

15

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN

Huân

Phạm Công

dụng vì các thị trường tiền tệ thường không hoàn hảo và do vậy luôn cần có vai trò can thiệp
của nhà nước
1.4.4. Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không cam kết duy trì một tỷ lệ cố định với ngoại tệ, mà
thả nổi đồng tiền của mình và có biện pháp can thiệp mỗi khi thị trường trở nên (mất trật
tự) , hoặc khi tỷ giá hối đoái đi chệch xa mức thích hợp loại tỷ giá hối đoái này hiện đang
được áp dụng tại các nước Tư Bản Chủ Nghĩa, nơi mà lạm phát đạt thấp, các thị trường phát
triển ở trình độ cao.
1.4.5. Tỷ giá hối đoái ổn định có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không để ngoại tệ trôi nổi tự do, mà can thiệp vào thị
trường ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá qui định. Sau mỗi thời gian
nhất định, mức tỷ giá hối đoái lại được điều chỉnh cho phù hợp và duy trì ổn định.
1.5. Sự can thiệp của nhà nước vào tỷ giá hối đoái:
Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát với một mức tỷ
giá gọi là tỷ giá chính thức được công bố bởi ngân hàng nhà nước, cùng với một biên độ quy
định cho các mức tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá chính thức đòi hỏi chính phủ
nói chung và ngân hàng nhà nước nói riêng cần phải có sự can thiệp điều phối thị trường để
duy trì biên độ quy định trong hoạt động can thiệp đó cần phải chú ý một số vấn đề sau:
+ Ngân hàng nhà nước luôn phải xác định mình là một thành phần chủ chốt, thường
trực của các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.
+ Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị trường ngoại hối
nói riêng, NHNN cần có sự phân tích rõ ràng giữa hai chức năng: chức năng ngân hàng đại
diện cho nhà nước với chức năng can thiệp thị trường. Trong đó chức năng ngân hàng đại
diện cho nhà nước là để thực hiện các chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu
chi của nhà nước và giao dịch tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu, còn chức năng can thiệp
thị trường là nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường.

Mã SV: BH185422

16

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

+ NHNN phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng cường bộ khung của thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượng thành viên trên thị trường. Từng
bước cho các tổ chức tín dụng không phải là ngân hàng thương mại tham gia đầy đủ các
nghiệp vụ như kỳ hạn hoán đổi mặc dù có thể giới hạn ở việc các giao dịch này chỉ được
thực hiện với các NHTM và NHNN.
+ NHNN và các bộ ngành phải có kế hoạch dự tính trước các giao dịch của mình một
cách cụ thể và không để các thành phần kinh tế khác bật ra khỏi thị trường chính thức bằng
cách các giao dịch của nhà nước không chỉ được thực hiện trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng mà còn phải mở rộng giao dịch trên khu vực tự do của thị trường.
+ Việc can thiệp của ngân hàng nhà nước và nhằm vào điều phối các quan hệ cung
cầu trên thị trường chứ không nên có sự can thiệp sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật
của thị trường.
+ Mục đích can thiệp của ngân hàng trung ương không hoàn toàn giống nhau, điều
này phụ thuộc vào tình hình, ý đồ chiến lược của mỗi nước, ngay ở một quốc gia thì mục
đích can thiệp ở mỗi thời kỳ cũng khác nhau. Để thực hiện điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã và
đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau, sau đây là một vài phương pháp phổ biến:
1.5.1. Phương pháp lãi suất chiết khấu:
Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị

rường. Với phương pháp này, khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức "báo động" cần phải can thiệp
thì ngân hàng trungương nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng, lãi suất
cho vay trên thị trường cũng tăng lên. kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ
dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi, tỷ giá
hối đoái không có cơ hội để tăng nữa. Vào năm 1971 đến năm 1973 USD rơi vào khủng
hoảng. Tổng thống Mỹ Nich-xơn đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy
cho USD banừg cách tăng lãi suất chiết khấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị
trường tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất

Mã SV: BH185422

17

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại gián tiếp, chứ không
phải quan hệ trực tiếp nhân quả.
1.5.2. Các nghiệp vụ thị trường hối đoái:
Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong
những biện pháp rất quan trọng của nhà nước để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền
quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái. Đây là hoạt động mang
tính chủ quan, do vậy việ lựa chọn các thời điểm cần mua bán ngoại tệ trên thị trường với tỷ
giá nào để đạt được mục tiêu điều chỉnh có ý nghĩa quyết định. Để nắm được một cách đầy
đủ tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường, nagỳ nay nhiều nước trên thế giới đã và đang

tổ chức các thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một trong những điều kiện không thể thiếu
được cho bất kỳ quốc gia nào là cần phải thường xuyên có một lượng dự trữ ngoại tệ dư sức
để can thiệp vào thi trường khi cần thiết.
1.5.3. Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái:
Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định, thậm chí xảy ra
những biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một trong
những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ thường là:
+ Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia.
+ Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái. Theo phương pháp này, khi cán
cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt, quỹ sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán
cân thanh toán.
1.5.4. Vốn để phá giá đồng tiền:
Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc hạ thấp sức mua của đồng tiền đối với các
ngoại tệ. Kết quả của phá giá đồng tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Trên thế

Mã SV: BH185422

18

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

giới, việc phá giá đồng tiền thường được sử dụng ở những nước có tiềm lực kinh tế dồi dào,
nhưng phải đối đầu với suy thoái kinh tế đi đôi với lạm phát trầm trọng.

Trên đây là một số công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động vào tỷ giá hối đoái
nhằm mục đích cao nhất: duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng
tiền, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội
đã dự kiến.

CHƯƠNG II

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM
2.1. Nhìn lại cơ chế điều hành tỷ giá Việt Nam
Trong quan hệ với các nước thuộc khối XHCN trước đây, tỷ giá của Việt nam được
tính theo đồng Rúp clearing (sau này đổi là rúp chuyển khoản- transferable ruble) đồng tiền
ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước thuộc khối XHCN tự quy định với
nhau để làm sao cho tài khoản các bên, sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã
được quy định trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm không còn số dư. Đặc trưng
của chế độ tỷ giá Việt nam trong thời kỳ này là cố định, đã bộc lộ nhiều mặt bất hợp lý, nó
không những không thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá hối đoái trong việc cân bằng cán cân
thanh toán, điều tiết tái sản xuất mà còn kìm hãm các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước
ta là nghuyên nhân dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế trong một thời gian dài.
Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nước ta đã có những chủ trương và giải
pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại, và chính sách tỷ giá đã từng bước xoá bỏ cơ chế độc
quyềnngoại thương, cho phép các tổ chức kinh tế được phép xuất nhập khẩu trực tiếp với
nước ngoài. Số lượng các công ty được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng
tăng lên, cùng với việc mở rộng ngoại thương chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi căn bản;
chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới bản thân cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái đã được
nhanh chóng thay đổi phù hợp với bối cảnh thực tế. Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính
Mã SV: BH185422

19

Trường ĐH Kinh tế quốc dân



Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

chủ quan bao cấp, xa rời với thị rường; tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh theo các quan hệ
và điều kiện của các quy luật kinh tế thị trường. Cơ chế một tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết
của nhà nước đã phát huy được vai trò vừa là một phạm trù kinh tế vận động theo quy luật
cung cầu của nền kinh tế vừa là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước. Nhà
nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước nhưng việc điều
hành của nhà nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể chia ra 3 giai đoạn:
2.1.1. Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989 -1993
Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua bảng 1 dưới đây:
Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-1993
Tỷ giá USD/VND
Năm

Giá chính thức Gía thị trường

Tăng giảm %

Lạm phát

nhà nước

tự do

1989


4.200

4.570

+8,80

+34,70

1990

6.650

7.550

+13,50

+67,50

1991

12.720

12.550

- 0,02

+68,00

1992


10.720

10.550

- 0,02

+17,50

1993

10.835

10.736

- 0,01

+5,20

Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến động lên
xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh
hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này chứng tỏ nhà
nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy
nhiên sự thả nổi tỷ giá đã:
+ Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.

Mã SV: BH185422

20


Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

+ Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn sốc
USD làm mất ổn ddịnh nền kinh tế.
+ Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn.
+ Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Tình trạng leo thang của giá đồng Đôla đã kích thích tâm lý dự trữ Đôla. Ngoại tệ vốn
đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng
vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết
quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực
ngay khi vừa mới công bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại
tệ.
Trước tình hình đó, từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý
ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái VND/USD. Nội dung chính của những
thay đổi về chính sách và cơ chế nêu trên là:
+ Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vịkinh tế quốc doanh có ngoại tệ
phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định băngf biện pháp kinh tế: mở trung tâm giao dịch
ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ với nhau theo giá
thoả thuận.
+ Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa
ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá
hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức.
Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo như vậy cộng với sự can thiệp
điều tiết của ngân hàng nhá nước đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao dịch đã

giải toả được tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn được xu hướng tăng quá mức giá Đôla Mỹ trên thị
trường. Từ tháng 3/1992 giá USD bắt đầu giảm.
2.1.2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993 - 1996:
Bảng 2: Lạm phát và tỷ giá Việt nam qua các năm 1993-1996
Mã SV: BH185422

21

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

Năm

Tỷ giá

So sánh %

Tốc độ lạm

1993
1994
1995
1996

USD/VND

10.835,00
11.050,00
11.040,00
11.060,00

năm trước
100,00%
+1,98%
0%
+0,18%

phát
5,2%
14,4%
12,7%
4,5%

(Số liệu lấy từ tập san khoa học ngân hàng tháng 7/1995 đến tháng 12/1997)
Do tỷ giá chính thức của nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian này
không chênh lệch nhiêù nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của nhà nước làm cơ sở tính
toán. qua bảng số liệu (bảng2), chúng ta thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc đọ
tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố đối
ngoại.
Việc duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài (1993 - 1996 đã không khuyến khích
được xuất khẩu đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng 3 sau đây:
Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm (đơn vị tính: triệu USD)
Năm
1
1993
1994

1995
1996

Xuất khẩu
2
2.985
4.054
5.448,9
7.255

Nhập khẩu
3
3.924
5.825
8.155,4
11.143

So sánh
4 =3 - 2
- 939
- 1.771
- 2.706,5
- 3.888

(số liệu lấy từ nguồn thời báo kinh tế Sài gòn của UBND TPHCM các năm 1996-1998)
Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và
khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng hặc phải tiêu
giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán.
Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy móc thiết bị công nghệ này càng tăng,
Mã SV: BH185422


22

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

nhưng nhập siêu vẫn kéo dài làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính
quốc gia.
Trở lại bảng 2, ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993 - 1996) tốc độ lạm
phát tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VND so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế
giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại đã trở nên
rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn cạnh tranh với hàng nội địa, thể
hiện qua sự gia tăng thâm hụt cán thương mại quốc tế của nước ta trong những năm 19931996 từ nhập siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7 tỷ USD năm
1995 lên 3,8 tỷ USD năm 1996 .
Đứng trước tình hình đó, từ năm 1997 cho đến nay nhà nước đã có những chỉ đạo:
+ Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở LC thanh
toán tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở LC At Sight là chủ yếu, hạn
chế mở LC trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là những
mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và dai hạn ngày càng được nâng
cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua mức ký quỹ bắt buộc.
+ Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường.
2.1.3. Quá trình đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của ngân hàng nhà nước vào
thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các
doanh nghiệp được giải toả khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu.

Đồng thời ngoại tệ từ bên ngoài vàonhiều nên kinh doanh cung cầu ngoại tệ đảo ngược so
với cùng kỳ mội năm, giá Dola giảm mạnh, mức giá phổ biến trên thị trường tư nhân Hà nội
năm 1993 là 10.300 đến 10.400.
Tình trạng giá USD giảm mạnh đã ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập
khẩu quá mức, nên ngân hàng nhà nước lại phải can thiệp nhằm tăng giá đồng USD. Trong
hầu hết các phiên giao dịch của quý I năm 1993, hệ thống ngân hàng phải mua Dola vào
Mã SV: BH185422

23

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của đồng tiền này. Từ tháng 3/1993 USD đã lên giá dần
và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định (ở đây nói về tỷ giá danh nghĩa VND/USD).
Tóm lại từ năm 1989, tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp đã bị xoá bỏ và chuyển sang
trạng thái nổi cho đến cuối năm 1991. Từ năm 1992 đến nay, tỷ giá hối đoái được hình thành
theo phương pháp ổn định có điều chỉnh, nhìn chung, tỷ giá hối đoái đã có những bước tiến
lớn so với trước: chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái qui định và tỷ giá hối đoái thị trường ngày
càng nhỏ (điều đó chứng tỏ khả năng chi phối của NHTƯ đối với tỷ giá hối đoái), mức tỷ giá
hối đoái đã phản ánh giá trị ngoại tệ và quan hệ cung cầu.
Qua quá trình điều hành tỷ giá hối đoái và thực tế nền kinh tế nước ta, chúng ta có thể
khẳng định tính hợp lý tương đối khách quan của chính sách tỷ giá và cơ chế điều hành trong
thời gian qua là phù hợp với quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế, phù hợp với
thực tế Việt Nam. Tuy nhiên, với xu hướng ngày càng phát triển của nền kinh tế theo hướng

thị trường cần xem xét kỹ lợi và hạn chế trong cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay để đưa ra
giải pháp tối ưu trong thời gian tới.
2.1.4. Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà
Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói
chung bị giảm sút. Thực tế sáu tháng cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu
cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường lúc ngưng trệ. Doanh số mua 6 tháng cuối năm
1997 đạt 2,5 tỷ USD, giảm 5% so với 6 tháng đầu năm 1997, doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD
giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997, nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ đã
phải mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã
làm tăng nhu cầu vay vốn VNĐ do lãi xuất thấp hơn và không chịu rủi ro về tỷ giá đã gây
mất cân đối cung cầu VNĐ trên thị trường.
Nhà nước ta đã mở rộng liên độ giao dịch của các Ngân hàng thương mại từ 1% đến
5% rồi đến 10%. Những giải pháp này cũng đã kịp thời góp phần giảm sức ép đối với tỷ giá
hối đoái VNĐ

Mã SV: BH185422

24

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Đề án môn chuyên ngành TCDN
Huân

Phạm Công

Năm 1997 dư nợ LC ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USĐ so với 1,4 tỷ USĐ vào
tháng 6 năm 1996. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực châu á đã ảnh hưởng gây
sức ép VNĐ do yếu tố đầu cơ của thị tường, đã đẩy tỷ giá ở thị trường tự do tăng mạnh có

lúc lên đến 14600 VNĐ/USĐ
Nhìn lại chặng đường đã qua có thể nói rằng năm 1997 là năm có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong tiến trình đổi mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, một năm
với những khó khăn và thử thách trên hầu hết các lĩnh vực Mặc dù có những tổn thất mất
mát nhưng hoạt động Ngân hàng vẫn tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng, tạo đà
thúc đẩy sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong những năm tiếp theo. Những
kết quả nổi bật này được thể hiện qua một số nội dung:
- Ngân hàng nhà nước đã chủ động tham mưu cho chính phủ trong việc điều hành
lượng tiền cung ứng trong từng thời kỳ thích hợp nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nền
kinh tế. Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều kiện cho
giá trị VNĐ phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ, góp phần kiềm chế lạm phát,
một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù giá cao xu giảm 42% dầu thô giảm 30%
giầy da và may mặc cũng đang giảm mạnh, riêng mặt hàng gạo trong năm qua bị thiên tai, lũ
lụt do cơn bão số 5 gây ra nhưng ta vẫn cố gắng khắc phục và nhanh chóng duyd trì việc
xuất khẩu gạo.
- Nguyên nhân nhập siêu trong thời gian qua là do Ngân hàng điều chỉnh tỷ giá bị
đông cứng, đúng là tỷ giá có tác động lớn đến xuất nhập khẩu bởi nó là giá cả của hoạt động
mua ( nhập khẩu ) và hoạt động bán 9 xuất khẩu ). Tỷ giá đứng ( trên thực tế là giảm so với
biến động giá trong nước ) làm cho bán cũng rẻ mà mua cũng rẻ. Bán rẻ sẽ không khuyến
khích bán, mua rẻ sẽ khuyến khích mua. Mua thì được khuyến khích, bán thì bị hạn chế, do
đó đưa đến tình trạng nhập siêu. Ngoài ra còn nguyên nhân khác nữa là định hướng xuất
khẩu yếu, tình trạng nhập lậu tràn lan, trốn thuế chưa được quản lý chặt.
Bước qua năm 1998, tình hình tỷ giá hối đoái trong nước ngày càng trở nên phức tạp,
giá USD mỗi ngày một tăng, thậm chí có ngày thay đổi giá vài lần điều này đã ảnh hưởng
tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Nhiều doanh nghiệp cố gắng giữ ngoại tệ trong tài
Mã SV: BH185422

25

Trường ĐH Kinh tế quốc dân



×