Tải bản đầy đủ (.pdf) (207 trang)

BÁO CÁO Triết lý phát triển: Bài học từ quá khứ và định hướng cho tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.96 MB, 207 trang )

BÁO CÁO
Hội thảo Xã hội Dân sự Thường niên Lần thứ 2

Triết lý phát triển:
Bài học từ quá khứ
và định hướng
cho tương lai
Hà Nội, 08-09/06/2017


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN

3

GIỚI THIỆU

4

NỘI DUNG

7

I.

ĐÁNH GIÁ TRIẾT LÝ PHÁT TRIỂN THỜI KỲ ĐỔI MỚI

7


1.

Những thành quả phát triển

7

2.

Các vấn đề chưa được giải quyết

7

3.

Triết lý phát triển giai đoạn Đổi mới và những hạn chế

10

4.

Hệ lụy

14

II. GỢI Ý CÁC TRIẾT LÝ PHÁT TRIỂN MỚI

19

III. VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ


29

IV. NHẬN XÉT VÀ KHUYẾN NGHỊ

36

PHỤ LỤC

38

Phụ lục 1: Chương trình Hội thảo xã hội dân sự thường niên lần thứ 2

38

Phụ lục 2: Các bài trình bày trong Hội thảo

41

1.

Vai trò của khu vực xã hội dân sự trong tiến trình phát triển của
Việt Nam

41

2.

Thể chế: Những cải cách đang chờ

55


3.

Tiếp cận theo nhu cầu và tiếp cận theo quyền: Nhìn lại một phép so sánh
& Hàm ý cho việc áp dụng ở Việt Nam

4.

59

Mạng xã hội và tự do biểu đạt đang làm thay đổi thế giới & Việt Nam
như thế nào?

66

5.

Công lý môi trường: Kinh nghiệm quốc tế & Định hướng chính sách

85

6.

Ô nhiễm môi trường ở Việt Nam: Kinh nghiệm quá khứ và bài học
tương lai

98

1



HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

7.

Dấu hỏi với triết lý “cho cần câu chứ không cho con cá” và quan điểm
xây dựng năng lực và xây dựng cộng đồng dưới lăng kính của

8.

“quyền lực/sức mạnh”

113

Tư duy lại sự phát triển của Việt Nam

121

Phụ lục 3: Các bài tham luận
1.

Các tổ chức xã hội dân sự trong việc giám sát việc thực thi quyền lực
của nhà nước – Yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững

2.

136

Một số giải pháp bảo tồn văn hóa Tây Nguyên trong bức tranh đa
sắc màu của văn hóa Việt Nam


141

4.

Các tổ chức quần chúng công trong không gian xã hội dân sự Việt Nam

156

5.

Báo cáo nghiên cứu thực trạng và trở ngại của các tổ chức xã hội làm
việc với trẻ em/thanh thiếu niên tại Việt Nam

6.
7.

2

129

Vai trò của cộng đồng trong việc xây dựng chính sách văn hóa
(Khảo sát cộng đồng người Ê Đê tại xã Ea Kao – Buôn Mê Thuột)

3.

129

174


Những thách thức trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa ở
nước ta hiện nay

180

Vận động xã hội trong một thập niên lại đây và khối xã hội dân sự

190


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

LỜI CẢM ƠN
Ban tổ chức xin trân trọng cảm ơn tổ chức Oxfam tại Việt Nam, Đại sứ quán Vương
quốc Bỉ, Cơ quan Viện trợ Ai-len ở Việt Nam, Đại sứ quán Canada tại Việt Nam, và tổ
chức CARE Quốc tế tại Việt Nam đã tài trợ tài chính và hỗ trợ kỹ thuật cho hội thảo xã
hội dân sự thường niên lần thứ 2. Đồng thời chúng tôi cũng chân thành cảm ơn Liên
minh Truyền thông vì Quyền của những người dễ bị tổn thương (RIM) đã hỗ trợ ghi
hình và truyền hình trực tiếp tất cả các cuộc thảo luận diễn ra trong suốt 1,5 ngày của
hội thảo. Quan điểm trong báo cáo này không nhất thiết phản ánh quan điểm của các
tổ chức tài trợ và hỗ trợ kỹ thuật cho hội thảo.

3


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

GIỚI THIỆU
Hội thảo thường niên lần thứ nhất về “Vai trò của xã hội dân sự (XHDS) trong phát
triển kinh tế, xã hội và văn hóa” đã được tổ chức trong hai ngày 14 và 15 tháng 4 năm

2016. Trong không gian dân sự đó những nhà nghiên cứu, giảng dạy và thực hành phát
triển đã trao đổi thông tin, kiến thức về vai trò của XHDS trong mối quan hệ với nhà
nước và thị trường. Tiếp nối thành công này, Ban tổ chức bao gồm đại diện của Nhóm
Làm Việc Vì Sự Tham Gia Của Người Dân (PPWG), Không Gian Nhân Quyền (HRS),
Liên Minh Hành Động Vì Công Bằng Và Sức Khỏe (PAHE), Nhóm Công Tác Vì Người
Dân Tộc Thiểu Số (EMWG), Nhóm Quản Trị Và Cải Cách Hành Chính Công (GPAR),
và Mạng Giới Và Phát Triển Cộng Đồng (GENCOMNET) quyết định mời các nhà
nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tế và các chuyên gia tham gia viết bài và trình bày
tham luận ở Hội thảo xã hội dân sự thường niên lần thứ hai được tổ chức vào ngày 8 và
9 tháng 6 năm 2017 với tiêu đề “Triết lý phát triển: bài học từ quá khứ và định hướng
cho tương lai Việt Nam”.
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có những phát triển lớn về kinh tế, xã hội và văn hóa.
Hàng triệu người đã thoát khỏi đói nghèo, hàng triệu người đã có cơ hội để thực hành
quyền và ý chí tự do của mình. Tuy nhiên, nhiều hậu quả đã phát sinh trong quá trình
phát triển này. Ví dụ, bất bình đẳng về kinh tế ở Việt Nam ngày càng nới rộng có nguy
cơ dẫn đến bất bình đẳng về sự tham gia chính trị. Các mô hình kinh tế hiện đang gây
ra ô nhiễm không khí, đất, nước, làm tổn hại đến sức khỏe cộng đồng và ngăn cản cơ
hội thoát nghèo cho những người đang bị bỏ lại phía sau. Chủ trương công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đang ngày càng cho thấy nhiều bất cập và là một trong những nguyên nhân
dẫn đến phân bổ nguồn lực quốc gia không hiệu quả, hậu quả là nợ công và nợ xấu gia
tăng ở mức nguy hiểm. Quá trình đô thị hóa và thương mại hóa đang xóa bỏ nhiều di
sản văn hóa, thiên nhiên và tri thức bản địa làm suy giảm lợi thế cạnh tranh quốc gia
của Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Một quốc gia thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều thể chế và chính sách phù
hợp được xây dựng trên xuất phát điểm là một triết lý phát triển đúng đắn. Sau 30 năm
đổi mới, Việt Nam đã có đủ trải nghiệm để nhìn lại, học hỏi và điều chỉnh triết lý phát
triển của mình, từ đó điều chỉnh lại thể chế và chính sách theo sát yêu cầu của sự phát
triển. Để góp phần vào việc phân tích những thành công và thất bại, thách thức và rào
cản, rút ra các bài học cho mô hình phát triển tương lai cho giai đoạn phát triển tiếp


4


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

theo của đất nước, Hội thảo thường niên xã hội dân sự lần thứ hai đã được tổ chức tập
trung vào nội dung “Triết lý phát triển: bài học từ quá khứ và định hướng cho tương lai
Việt Nam”.
Hội thảo nhằm mục đích:
-

Tạo không gian thảo luận học thuật cũng như trao đổi kinh nghiệm thực tế giữa các
cơ quan nhà nước, các tác nhân xã hội dân sự, và xã hội về triết lý phát triển hữu ích
cho Việt Nam.

-

Cung cấp nền tảng lý luận và thực tiễn cho việc hình thành chính sách phát triển,
đặc biệt vai trò của xã hội dân sự và trí thức trong việc đóng góp cho quá trình hình
thành và triển khai các triết lý phát triển.

Ban tổ chức đã thông báo và kính mời các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động xã hội,
các tổ chức và cá nhân quan tâm đến chủ đề nêu trên tham gia và đóng góp cho Hội
thảo. Các tham luận có thể là các nghiên cứu khoa học, các bài tổng hợp thực tế, hoặc
phân tích về một triết lý phát triển trong một lĩnh vực cụ thể. Tham luận có thể của một
cá nhân, tổ chức, hoặc hợp tác giữa nhiều cá nhân và tổ chức. Các tham luận xoay xung
quanh nội dung chủ yếu sau đây:
-

Triết lý phát triển và bài học lớn trong tiến trình 30 năm phát triển từ khi thực hiện

chính sách Đổi mới ở Việt Nam.

-

Triết lý phát triển và các kết quả/hậu quả cụ thể về (i) môi trường tự nhiên: không
khí, đất, nước, sông, biển, hồ; (ii) di sản văn hóa ở nông thôn và thành thị; (iii) nội
lực và tinh thần sáng tạo, khởi nghiệp và tự chủ; (iv) bất bình đẳng và đói nghèo,
quyền, tiếng nói và sự tham gia của người dân trong các lĩnh vực khác nhau, bao
gồm cả giáo dục và y tế; (v) minh bạch, trách nhiệm giải trình và vai trò kiến tạo của
nhà nước; (vi) hội nhập quốc tế và huy động nguồn lực phát triển cho Việt Nam.

-

Vai trò của XHDS trong việc hình thành và triển khai triết lý phát triển: Năng lực
của XHDS, cơ chế tham gia, cơ chế hợp tác giữa XHDS, nhà nước và doanh nghiệp.

Hội thảo thường niên lần thứ 2 đã diễn ra trong một ngày rưỡi, bao gồm Phiên họp
toàn thể 1 bàn về triết lý phát triển và bài học trong tiến trình 30 năm từ ngày đổi mới
tập trung vào phân tích, thảo luận về các triết lý phát triển chung mà Việt Nam đã lựa
chọn, hoặc không lựa chọn và ảnh hưởng vĩ mô của nó. Tiếp theo là các phiên thảo luận
song song về các chủ đề cụ thể là môi trường, và quyền để hiểu hơn về các triết lý phát
triển đã được lựa chọn triển khai trong thực tế như thế nào và đã tạo ra những kết
quả/hậu quả gì. Cuối cùng là Phiên họp toàn thể 2 bàn về “Triết lý phát triển hướng tới
5


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

tương lai cho Việt Nam” nhằm đúc kết các bài học quan trọng, gợi ý các triết lý phát
triển và định hướng tương lai cho Việt Nam. Hội thảo đã thu hút được sự tham dự của

180 đại biểu với các thành phần đa dạng gồm các chuyên gia kinh tế, các cán bộ giảng
dạy của các trường đại học và trung tâm nghiên cứu, các đại diện của các tổ chức và
mạng lưới XHDS, các chuyên gia độc lập, các nhà hoạt động, các cá nhân và sinh viên
các trường đại học từ các địa phương và trung ương. Toàn bộ các bài trình bày và thảo
luận tại hội thảo đã được phát sóng trực tiếp với tống số hơn 55.000 lượt người theo dõi
với rất nhiều ý kiến tham gia thảo luận trực tuyến.
Báo cáo này nhằm tổng hợp các ý kiến thảo luận và đóng góp tại hội thảo tập hợp từ hai
phiên thảo luận toàn thể và hai phiên thảo luận song song, với nội dung được sắp xếp
theo ba phần chính như sau:
-

Triết lý phát triển của giai đoạn 30 năm Đổi mới: Tổng hợp các ý kiến chỉ ra những
thành tựu chính của sự phát triển của Việt Nam thời kỳ Đổi mới và những bất cập
đang diễn ra. Tiếp theo là tổng hợp các ý kiến xem xét và đánh giá lại triết lý phát
triển của VN, nó đã là gì và nó đang có vấn đề gì.

-

Triết lý phát triển mới cho Việt Nam: Tổng hợp các gợi ý của các đại biểu về triết lý
phát triển cho VN trong tương lai cần được điều chỉnh như thế nào để đáp ứng nhu
cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn sau Đổi mới.

-

6

Xác định vai trò của XHDS.


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2


I. ĐÁNH GIÁ TRIẾT LÝ PHÁT TRIỂN THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Những thành quả phát triển
Trước khi cùng nhau xem xét, đánh giá lại triết lý phát triển ở thời kỳ 30 năm đổi mới,
các bài tham luận chính đã dành một phần để tóm tắt thành quả chung của thời kỳ này.
Đa số các ý kiến cho rằng trong hai lăm - ba mươi năm qua VN đã có những thành quả
phát triển vì đã chọn đi theo con đường kinh tế thị trường, chủ yếu thể hiện ở những
thay đổi cơ bản sau đây:
• Chuyển từ kinh tế một thành phần sang đa thành phần, trong đó khu vực tư nhân
được coi là động lực phát triển;
• Chuyển từ kinh tế khép kín sang mở cửa, hội nhập;
• Chuyển từ quản lý tập trung sang phân cấp, phân quyền; khai thông các nguồn lực
và dịch chuyển dần từ mô hình kinh tế tập trung bao cấp trước đây được bao quát
chi phối bởi Nhà nước sang cơ chế kinh tế thị trường;
• Thực chất: Mở rộng quyền và cơ hội lựa chọn trong hoạt động đầu tư và kinh doanh
của người dân; điều chỉnh phần nào vai trò của Nhà nước.
Hội thảo cho rằng đây là nỗ lực chung rất lớn, tuy nhiên đây chưa phải là một sự đột
phá trong triết lý phát triển của Việt Nam. Nhiều hơn đó là một sự học hỏi, thừa nhận
và áp dụng thực tế của loài người trong ba trăm năm gần đây. Để phát triển như hiện
nay, VN đã thừa nhận kinh tế thị trường và có được thành tựu rất lớn về kinh tế khi
thừa nhận những quy luật đã được thực hiện ở trên thế giới. Mô hình tăng trưởng kinh
tế mới đã dẫn đến nhiều kết quả tích cực. Trong mấy thập kỷ đầu tiên của quá trình đổi
mới, kinh tế phát triển nhanh, hàng triệu người được hưởng lợi từ quá trình này, trong
đó có nhiều người nghèo, các nhu cầu cơ bản đã được đáp ứng đáng kể và mức độ đáp
ứng ngày càng cao hơn.
2. Các vấn đề chưa được giải quyết
Tuy nhiên, sau 30 năm đổi mới, sự phát triển của VN bắt đầu chững lại và bộc lộ rõ
những mặt yếu. VN mới chủ yếu đổi mới về kinh tế. Tăng trưởng của VN chủ yếu dựa
trên năng suất thấp, tiêu tốn rất nhiều tài nguyên, nên có thể nói tăng trưởng của thời
kỳ này về cơ bản là tăng trưởng xám, tăng trưởng nâu, chứ chưa phải tăng trưởng xanh.

Mặc dù nền kinh tế có những thay đổi mạnh mẽ, các lĩnh vực khác gồm chính trị, giáo
dục, văn hóa, xã hội, ít hoặc chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí cản
7


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

trở sự phát triển của đất nước. Tình hình phát triển đang ngày càng thay đổi theo chiều
hướng đáng ngại. Tăng trưởng kinh tế bây giờ không phải là bình đẳng, mà tăng một
đồng GDP thì bất bình đẳng tăng nhiều hơn và các chi phí môi trường tăng hơn nữa.
Mô hình tăng trưởng như vậy không giúp giải quyết các vấn đề đang khó và ngày càng
khó hơn vì các vấn đề xã hội và môi trường ngày càng nổi lên nhanh hơn. Nguyên nhân
của tình trạng này được tóm tắt trong những điểm chính sau đây:
• Không khai thác được nguồn lực xã hội: Tư duy bao cấp, tư duy trước đổi mới vẫn
còn hiện hữu phổ biến trong các lĩnh vực xã hội và môi trường. Điều này nghĩa là
trước Đổi mới, của cải của xã hội được tạo bằng chính khu vực Nhà nước, sau đó
phân phối cho nhân dân, và phân phối không hiệu quả nên nghèo đói. Bức tranh
này đang tiếp tục được thể hiện trong lĩnh vực xã hội và các lĩnh vực ngoài kinh tế
hiện nay. Điều này nghĩa là Nhà nước không thể cung cấp đủ các dịch vụ cho người
dân để giải quyết và đáp ứng được những nhu cầu về xã hội của người dân. Tư duy
dựa vào Nhà nước vẫn thống trị nên mặc dù có nguồn lực khổng lồ trong xã hội,
Nhà nước vẫn vấp phải vấn đề thiếu nguồn lực do không thể khai thác nguồn lực
đó. Ngoài ra, thị trường chưa được phát triển đầy đủ và không thúc đẩy được sự
tham gia của người dân. Nguồn tri thức, kỹ năng, công nghệ, năng lực sáng tạo chưa
được giải phóng và được huy động hiệu quả.
• Tăng trưởng kinh tế bắt đầu đi xuống: Trong những năm gần đây, tăng trưởng
kinh tế giảm dần do năng suất của nền kinh tế VN thấp, mức độ sáng tạo rất thấp.
Mặc dù chủ trương nâng cao vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, nhưng cho đến
nay, khu vực này mới chỉ đóng góp được cho nền kinh tế 10%. GDP tăng làm cho
xã hội hài hòa hơn, có nguồn lực để phân bổ hơn và đưa những người nghèo hay

những người dân vùng sâu vùng xa ra khỏi tình trạng đói nghèo. Nhưng khi tăng
trưởng chậm lại, thì quá trình ngược lại đang diễn ra, nghĩa là những người này đói
nghèo trở lại. Điều này tiềm tàng dẫn đến nảy sinh các mâu thuẫn về xã hội. Bất
bình đẳng đang ngày càng gia tăng, tạo ra những hố sâu ngăn cách trong xã hội.
• Thể chế phù hợp chưa được xây dựng: (Theo phân tích của TS. Nguyễn Sĩ Dũng)
o Thiếu nền tư pháp độc lập: Các cải cách tư pháp và vai trò độc lập của hệ thống
tư pháp được xây dựng một cách chậm chạp. Nguyên nhân bao trùm quan trọng
nhất đó là vai trò hạn chế của tòa án trong việc giải thích pháp luật, áp dụng pháp
luật để xử lý các tranh chấp.

8


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

o Hệ thống phân cấp phân quyền không hợp lý: Phân chia quyền lực, phân cấp phân
quyền không đủ rõ ràng, vẫn theo mô hình Xô Viết không hiệu quả, không phát
huy được tính chủ động của các cấp chính quyền, đồng thời tạo ra sự chồng chéo,
không rõ trách nhiệm. Khả năng thi hành pháp luật còn rất hạn chế, ví dụ tất cả
mọi việc đều có thể đẩy cho cấp xã và cấp xã phải chịu trách nhiệm trong việc
bảo đảm thi hành hiến pháp và pháp luật.
o Thể chế quản trị còn yếu kém: VN thiếu một nền quản trị đúng. Vấn đề không
phải đa đảng hay một đảng mà vấn đề là nền quản trị đúng. Singapore, Đài Loan,
Hàn Quốc đã chứng minh họ chỉ có một đảng, nhưng có nền quản trị đúng, họ
vẫn phát triển tốt mà không cần đa đảng.
o Chồng lấn, chồng chéo giữa Đảng và Nhà nước: Chính sách luôn được làm ở hai
nơi, không phải chỉ ở địa phương mà ở cả trung ương. Cấu trúc hai bộ máy Nhà
nước song song, chồng lấn này gây lãng phí rất lớn cho ngân sách quốc gia và
khó khăn trong việc chịu trách nhiệm.
o Bộ máy công vụ chất lượng thấp: Bộ máy công vụ thiếu hiệu năng và không

chuyên nghiệp. Chính trị vẫn tiếp tục được coi là tiêu chí tuyển dụng hàng đầu
thì không thể có những người giỏi về chuyên môn được. Công vụ đó là công vụ
hành chính. Bộ máy công vụ phải có những người giỏi công vụ, giỏi chuyên môn,
điều này đòi hỏi phải mở ra tuyển chọn công khai trong toàn xã hội. Bây giờ đã
mở ra tuyển chọn, nhưng chưa có cách thức và quy trình thế nào để chọn được
người tài giỏi trong hệ thống công vụ.
• Pháp luật về đất đai chưa công bằng dẫn đến tranh chấp kiện tụng và bất ổn xã hội.
Nguyên nhân của tình trạng này là do chưa xử lý tốt được ba vấn đề: quyền thu hồi
đất, quyền chuyển đổi mục đích sử dụng đất do không theo kinh tế thị trường, quyền
tự do tài sản của người dân cũng như của các đối tác để xác lập được thực chất giá
trị thực của nó theo mô hình kinh tế thị trường, hay là chuyển đổi mục đích sử dụng
theo phát triển của kinh tế xã hội để đảm bảo tính khách quan.
• Cải cách doanh nghiệp Nhà nước chậm chạp: Sự giằng co giữa xu hướng muốn cải
cách sâu rộng hơn và xu hướng coi kinh tế Nhà nước vẫn là chủ đạo vẫn còn. VN đã
có sự chuyển đổi nhận thức, không còn coi doanh nghiệp Nhà nước là chủ đạo như
trước đây, nhưng vẫn chưa đạt được quyết tâm thực hiện cải cách doanh nghiệp Nhà
nước. Tốc độ cải cách hết sức chậm chạp mà đây chính là tốc độ cổ phần hóa và sự
minh bạch trong cổ phần hóa.
9


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

• Thu nhập tăng, nhưng thiếu cơ chế và chính sách để tái phân phối, do đó thành
quả của phát triển kinh tế chưa đưa lại lợi ích cho nhiều người và đảm bảo công
bằng xã hội, thậm chí còn làm khoảng cảnh giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội ngày
càng gia tăng.
3. Triết lý phát triển giai đoạn Đổi mới và những hạn chế
Từ thực tế phát triển của 30 năm đổi mới và những vấn đề phát triển hiện nay, hội
thảo đã cùng thảo luận, phân tích và đánh giá lại một số triết lý đã được áp dụng cũng

như rút ra bài học từ việc áp dụng các triết lý này:
• Triết lý dựa trên sự tăng trưởng kinh tế, đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị
sau: Các bài trình bày và ý kiến của các diễn giả tham gia thảo luận đều nhất trí rằng
sự phát triển của VN trong 30 năm đổi mới là tập trung vào đổi mới kinh tế, chưa
hay không tập trung vào đổi mới chính trị. Trong toàn bộ thời kỳ từ Đổi mới đến
nay, theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, triết lý đổi mới kinh tế của VN tập trung vào mấy
điểm chính: i) Một là tự do hóa: Trước đây cấm đoán không cho phép, bây giờ cho
phép nhiều hơn; ii) Hai là thị trường hóa, tức là áp dụng cơ chế thị trường ngày một
nhiều hơn. Thực chất quá trình tự do hóa và quá trình thị trường hóa là quá trình
từ từ chứ không phải diễn ra mạnh mẽ, nó là đấu tranh giữa XHDS, giữa các thành
phần kinh tế với bộ máy quản lý để biên giới được mở rộng dần, đó là các bước mà
cải cách về kinh tế VN đã trải qua. “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được giữ lại chủ
yếu để bảo đảm công bằng xã hội như một hướng đi.
Phát triển kinh tế trong thời gian qua được quan tâm nhất là do VN xuất phát từ đói
nghèo đi lên. Lựa chọn của VN là lựa chọn đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị
sau, và thành quả phát triển của Việt Nam cho thấy lựa chọn này cho giai đoạn đầu
là phù hợp. Tư duy này cho rằng đổi mới kinh tế trước sẽ kéo theo đổi mới chính
trị. Cũng vì triết lý này nên đã dẫn đến quan điểm rằng phát triển có nghĩa là phát
triển kinh tế, tập trung nhiều vào tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng bằng mọi giá, và
để phát triển kinh tế cho một nước nghèo như VN thì phải chấp nhận đánh đổi
những hệ quả về xã hội và chất lượng môi trường (cho dù trên thực tế, quan điểm
phát triển bền vững đã được phổ biến ở VN từ đầu những năm 1990, không lâu sau
khi Đổi mới bắt đầu). Mô hình phát triển này cũng được một số ý kiến gọi là mô
hình dựa vào tăng trưởng GDP trước, cải thiện môi trường sau. Theo số liệu, 52%
người dân trong một khảo sát vào năm 2012 cho rằng chính quyền địa phương đang
10


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2


ưu tiên phát triển kinh tế hơn là bảo vệ môi trường. Điều này thể hiện rất rõ ưu tiên
trong phát triển là tăng trưởng, hay là GDP ở VN, và môi trường mới chỉ được nhìn
ở một góc rất là hẹp.
Trong tư duy kinh tế, VN chủ yếu tập trung trên hai nền tảng chính, đó là vốn và
nhân công, đặc biệt là nhân công giá rẻ. Tuy nhiên cho đến nay cách thức này đang
bộc lộ ngày càng rõ những điểm yếu. Triết lý này bắt đầu từ năm 1986, nhưng vấn
đề là triết lý này vẫn đang được xem là chủ đạo, lấy tăng trưởng kinh tế là chính. Ẩn
đằng sau triết lý đổi mới kinh tế trước khi đổi mới chính trị là nỗi e ngại rằng đổi
mới chính trị sẽ dẫn đến những sự hỗn loạn trong nước và không thể đảm bảo đổi
mới kinh tế.
Kinh tế tư nhân đã được công nhận và đã được coi là một trong những động lực rất
quan trọng để phát triển kinh tế. Cải cách kinh tế đã đi đến điểm rất quan trọng khi
công nhận vai trò của kinh tế tư nhân và coi kinh tế tư nhân là động lực phát triển.
Cải cách kinh tế gắn với cải cách quản lý của Nhà nước, do đó quản lý của Nhà nước
cũng phải chuyển đổi, cải cách từ từ theo cải cách kinh tế. Tuy nhiên, có lĩnh vực đạt
được hiệu quả cải cách tốt hơn, có lĩnh vực thì tư duy tập trung quan liêu bao cấp
vẫn ngự trị. Đây vẫn là một quá trình cải cách có sự giằng co giữa tư duy cũ và tư
duy mới, giằng co giữa lợi ích của nhóm kinh tế và động lực phát triển với nhóm
quản lý mà có lợi ích nhiều hơn trong việc quản lý theo hướng ngày càng chặt. Đây
là mô hình chung của cải cách kinh tế của VN thời gian vừa qua.
• Triết lý phát triển dựa trên vai trò của Nhà nước: Triết lý dựa vào Nhà nước được
thể hiện trong mọi lĩnh vực. Triết lý này cho rằng phát triển phải dựa trên vai trò
quan trọng hàng đầu của Nhà nước, tức là Nhà nước làm tất cả, Nhà nước điều hành
tất cả và tập trung mọi quyền lực trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn
hóa - xã hội. Trong kinh tế, vai trò của Nhà nước thể hiện ở những điểm như doanh
nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; và thực tế khu vực
kinh tế tư nhân mới chiếm 10% đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Mặc dù gần đây
có những sự thay đổi, chuyển biến về phân quyền, nhưng Nhà nước vẫn đóng vai
trò chính trong phát triển. Trong rất nhiều văn bản chính thức của Đảng và Nhà
nước đều nhấn mạnh rằng kinh tế quốc doanh là chủ đạo. Chính quan điểm Nhà

nước đóng vai trò chủ đạo đã dẫn tới vai trò của XHDS là bị xem nhẹ, chưa nói là bị
nhìn nhận một cách rất là nghi ngại. Ví dụ như trong Dự thảo cương lĩnh ban đầu

11


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

của Đại hội Đảng cộng sản VN có nêu từ XHDS, nhưng sau đó thì bị bỏ khỏi Dự
thảo chính thức đưa ra Đại hội.
• VN thiếu sự nhận thức đúng đắn về triết lý phát triển: Có một số ý kiến cho rằng
phát triển phải có hai nội dung cơ bản, thứ nhất là cải thiện chất lượng cuộc sống
của mọi người và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, nhưng thứ hai là phải nâng cao
được năng lực đáp ứng nhu cầu của con người, tức là trang bị cho người dân những
tri thức, những công cụ để người dân có thể tự mình cải thiện được chất lượng cuộc
sống của mình. Tuy nhiên, ý kiến khác cho rằng cần nhìn rộng hơn. Triết lý phát
triển phải trả lời được hai câu hỏi cơ bản: Phát triển là gì, và phát triển để làm gì?
Nếu trả lời rằng, phát triển để tăng trưởng, để chúng ta giàu có hơn, chúng ta thịnh
vượng hơn thì có thể Nhà nước sẽ đưa ra một loạt chính sách để đạt được mục đích
đó; còn nếu hiểu phát triển là để người dân cảm thấy an toàn hơn, an ninh con người
được đảm bảo, bảo vệ được môi trường xanh hơn, con người cảm thấy hạnh phúc
hơn, thì Nhà nước sẽ đưa ra các chính sách khác. Như vậy, đây là những câu hỏi cốt
lõi của triết lý phát triển.
Nhiều ý kiến cho rằng đã đến lúc VN phải dừng lại, xem lại phát triển đang được
hiểu là như thế nào. Có rất nhiều sai lệch trong các lĩnh vực, nhiều sự đánh đổi
không đáng có. Những gì có vẻ như không hợp lòng dân thì luôn được biện minh là
“vì phát triển”. Như vậy thì không trả lời được “phát triển là gì” thì không làm rõ
được tại sao người dân lại phải vì “phát triển”. “Vậy thì phát triển là gì? Ở VN có cái
gọi là triết lý phát triển hay không, cái triết lý theo như tôi hiểu đấy, cái triết lý nó là
những cái quan niệm, những cái nguyên tắc cốt lõi, nguyên tắc cốt lõi về cái chúng ta

hiểu chúng ta nhận thức về cái đối tượng đó, ví dụ chúng ta hiểu cái phát triển là gì,
chúng ta sẽ đưa ra một số những nguyên tắc nền tảng, và đến lượt nó, nó lại trở thành
một cái kim chỉ nam định hướng cho mọi chính sách, cho mọi thực hành trong đời
sống xã hội. Vậy thì cái câu hỏi đặt ra là chúng ta, liệu trong VN chúng ta là có cái
triết lý ở đằng sau tất cả… có thực sự là có cái triết lý đấy không?” (PGS. TS. Phạm
Quỳnh Phương)
• Triết lý đánh đổi, hi sinh thiên nhiên và môi trường để phát triển: Trong nhận
thức của nhiều người suốt một thời gian dài, thiên nhiên là thứ hoang hóa phải chinh
phục, cải tạo để phục vụ lợi ích con người. Vì quan niệm về thiên nhiên như vậy mà
rừng và các hệ sinh thái bị phá hủy để làm đường, xây dựng công trình thủy điện để
phát triển kinh tế, tăng GDP. Chính điều này đang tạo ra những khủng hoảng về

12


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

môi trường được chứng kiến ngày hôm nay. Môi trường luôn bị gắn liền với những
diễn ngôn như là hy sinh, đánh đổi… Công lý môi trường chưa được chú trọng. Nếu
không coi trọng môi trường một cách đúng đắn và đưa ra hành động đúng đắn để
giải quyết thì tất cả mọi người đều sẽ là nạn nhân. Ví dụ như khi một doanh nghiệp
xả thải làm ô nhiễm một dòng sông, thì hậu quả ảnh hưởng tới không chỉ cộng đồng
đó, mà cả quốc gia. Trong suốt một thời gian dài, người nghèo đã bị đổ lỗi một phần
cho những vấn đề môi trường, rằng vì nghèo đói, người dân đã chặt cây, phá rừng…
Nhưng hiện nay, các cảnh báo về môi trường ngày càng gắn với các doanh nghiệp,
với những nhóm rất có quyền lực trong xã hội đang trục lợi từ môi trường. Ở đây
có các vấn đề về bất công và bất bình đẳng, nghĩa là ai có quyền lực, ai có thông tin,
ai được tham gia thì người đó sẽ được hưởng lợi. Cách hưởng lợi đó mang lại thiệt
hại cho một cộng đồng rộng lớn hơn và cho cả xã hội.
• Lo lắng về chủ quyền, nhưng lại lệ thuộc vào mô hình nước ngoài: Theo TS.

Nguyễn Đức Thành, nhiều chính sách hiện nay được đặt ra mà ẩn sâu trong đó là tư
tưởng để giữ được độc lập. Tư duy này biện minh cho sự ôm đồm của Nhà nước và
vai trò lãnh đạo của Đảng, nghĩa là có nỗi lo rằng nếu không phải là Đảng và Nhà
nước này lãnh đạo thì đất nước sẽ mất ổn định và đi xuống. Vì sao Nhà nước ôm
đồm, cũng như vấn đề về quyền lực nói chung, điều này xuất phát từ lý luận cho
rằng nếu không ôm đồm như thế thì đất nước sẽ mất về tay người nước ngoài hay
mất đi tính độc lập. Nhưng cách thức một nhóm làm tất cả, còn những người khác
chỉ làm theo, là một cách thức không hiệu quả. Nó là cách làm từ trên xuống. Cách
này không huy động được nguồn lực xã hội. Ngoài ra, nỗi lo mất độc lập này dẫn
đến trạng thái xã hội phát triển theo hướng nhân tạo hơn là tự nhiên. Một xã hội
được duy trì dựa trên những nỗi lo như sẽ mất độc lập, hay chế độ sẽ tan rã, thì sẽ
phát triển theo khuynh hướng có tính nhân tạo. Nhưng chính từ đây sẽ dẫn đến nhu
cầu phát triển xã hội phải theo cách tự nhiên hơn, hay nói khác đi, đó là nhu cầu
phải cải cách xã hội nhân tạo, làm cho nó trở nên là rõ ràng hơn, gần với tự nhiên
hơn, gần với thực tế hơn và gần với con người hơn, mang tính người hơn. Trong khi
đó lại tồn tại một nghịch lý là một mặt, VN muốn giữ độc lập, tự chủ, nhưng mặt
khác VN vẫn tiếp tục phải đi theo con đường là dựa vào nước ngoài để tạo ra đồng
thuận ở trong nước vì không tự đồng thuận được.
• Lúng túng và mâu thuẫn trong diễn ngôn về phát triển: Nhiều đại biểu bày tỏ diễn
ngôn về phát triển của VN hết sức lúng túng, chủ quan và mâu thuẫn. Tư duy phổ
biến là phát triển tuần tự, theo một mô hình, không chấp nhận sự đa dạng. Khi một
13


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

mô hình được đề ra thì tất cả những thứ khác nó bị cho là đối lập, bị coi là xấu, lạc
hậu, cổ hủ, kém phát triển, không văn minh… Tư duy nhị nguyên này đã âm thầm
phá hủy sự đa dạng trong đời sống, làm nảy sinh những nghịch lý như người dân
tộc phải phát triển giống người Kinh, miền núi tiến kịp miền xuôi… và phá hủy bản

sắc và các giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số. Trong những người làm chính
sách có niềm tin rằng một khi chính sách được đề ra thì thực tế sẽ phải phát triển
như vậy, bất chấp sự đa dạng. Nhiều mô hình được đưa ra, nhưng rốt cục đó lại là
mô hình nào đó của đất nước nào đó. VN không xây dựng được mô hình của chính
mình. VN thiếu nhận thức đúng đắn về chuẩn. “Chuẩn” đang rơi vào tình trạng phải
đi theo một kiểu, ví dụ phải hy sinh cá nhân vì lợi ích của tập thể, công nghiệp hóa
hiện đại hóa, hay chuẩn là kinh tế hàng hóa… Khi “chuẩn” được phổ biến và khác
“chuẩn” bị phủ nhận, đó là lúc bất kỳ sự đa dạng nào trong phát triển cũng bị coi là
sai và không được thừa nhận. Người dân tộc thiểu số vì thế bị coi là cổ hủ, lạc hậu,
hay họ phải chấp nhận phát triển giống người Kinh, phải chấp nhận kinh tế hàng
hóa…
Trong các triết lý phát triển mà VN dựa vào mấy chục năm qua có nhiều diễn ngôn
rất lệch lạc, ví dụ như những diễn ngôn thể hiện quá khứ, muốn người dân gần như
sống lại quá khứ hay thể hiện tinh thần của quá khứ, nhưng lại không nhận ra rằng
những diễn ngôn đó ảnh hưởng thế nào. Ví dụ như là phải hy sinh, phải anh hùng,
nước ta phải là một cường quốc, vân vân,… Hoặc, khi chủ trương công nghiệp hóa
được đưa ra, diễn ngôn được tung ra là hiện đại, tạo công ăn việc làm, thay đổi bộ
mặt nông thôn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa… nhưng cái mà người dân xung
quanh khu vực đó thấy ngay sau đấy là ô nhiễm môi trường, mất đất, hoa màu, tôm
cá… chết.
4. Hệ lụy
Các hậu quả của triết lý phát triển áp dụng trong thời kỳ Đổi mới đã được các diễn giả
và các đại biểu phân tích, xem xét từ những góc độ khác nhau. Những mất mát về môi
trường được đặc biệt nhấn mạnh. Dưới đây là tóm tắt một số ý kiến mà nhiều đại biểu
cùng chia sẻ:
• Gánh nặng chi phí đổ lên xã hội: Đánh giá chung của hội thảo là sự phát triển của
VN trong thời gian vừa qua là thiếu bền vững. Do triết lý phát triển cho rằng ưu tiên
phát triển không phải là con người, cho nên khi ngân sách eo hẹp, Nhà nước đã đổ
14



HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

các gánh nặng lên người dân ví dụ như chi phí y tế và gọi điều đó là “xã hội hóa”.
Bản chất của điều này là chuyển gánh nặng về chi phí xã hội lên vai người dân. Theo
chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, mặc dù có nhiều thành quả phát triển so với trước
đổi mới, VN đang phải trả giá quá cao, bao gồm nhiều vấn đề về xã hội và môi trường
nghiêm trọng, nhiều chương trình đổi mới và phát triển chưa hoàn thành, bất bình
đẳng gia tăng, đặc biệt về tiếp cận các cơ hội phát triển và suy giảm niềm tin của
người dân. Đại diện Nhóm Hành động vì Công bằng Sức khỏe (PAHE) cho biết:
“Nghiên cứu của Liên minh chúng tôi cho thấy chi phí trực tiếp cho vấn đề sức khỏe
thì hộ gia đình ở VN luôn là trên 50%, năm 2014 là trên 54%, trong toàn bộ chi phí
thì người dân là gánh hơn một nửa, và trong khi đó ở Malaixia là 40,7%, ở Indonexia
là 30,1%, còn Thái Lan là 19,2%, và năm 2010 thì 563.785 hộ gia đình bị nghèo hóa
do chi phí y tế.” Điều này cho thấy rõ ràng phát triển của VN không bền vững và
phải trả giá cả bằng sức khỏe của người dân. Công lý môi trường ở VN là một vấn
đề bắt đầu được thảo luận và quan tâm. Khi một vấn đề hay một sự cố môi trường
xảy ra, không phải mọi người đều chịu hậu quả như nhau, mà trong đó chứa đựng
sự bất bình đẳng, có những nhóm có quyền lực có thể trục lợi từ môi trường. Những
người dân tộc thiểu số sống nhờ rừng thì khi mất rừng, họ là những nhóm thiệt thòi
hơn cả.
• Nợ công tăng nhanh, nguồn lực bị sử dụng lãng phí: Theo TS. Nguyễn Đức Thành,
có thể nhiều người không quan tâm tới nợ công tăng nhanh bởi vì nghĩ đây là vấn
đề kinh tế, nhưng đây là vấn đề thuần túy về xã hội, vấn đề phát triển bởi vì chỉ khi
các nguồn lực, tức là nguồn lực công, đang bị sử dụng một cách cực kỳ lãng phí thì
mới phải nợ như vậy. Nguồn lực bị lãng phí khủng khiếp vào những doanh nghiệp,
đại doanh nghiệp, những công trình công. Gia hạn rồi tăng vốn, tiếp tục tăng vốn
thì tiếp tục nợ nần, kéo theo các vấn đề khác. Ngoài ra còn tình trạng tham nhũng
nghiêm trọng. Một ví dụ khác về sử dụng ngân sách lãng phí là các tổ chức tổ chức
chính trị -xã hội, hay các hội quần chúng công, không phải là tổ chức xã hội tự thân,

không hiệu quả, trong khi ngân sách phải bỏ ra nuôi bộ máy và nhân sự là rất lớn.
• Suy giảm lòng tin: Lòng tin là cái tạo nên vốn xã hội. Có lẽ là chưa bao giờ xã hội
VN lại mất lòng tin trầm trọng như vậy. Người dân luôn phải lo lắng hằng ngày từ
việc ăn gì, thực phẩm có an toàn không, con cái học gì, nên cho con cái học gì, học
ở đâu… cho đến ốm đau thì đi bệnh viện nào, cho trẻ tiêm vắc xin gì, có nên không,
có nên chạy thận không?… Chưa bao giờ người dân lại lo lắng như bây giờ, và chưa

15


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

bao giờ xã hội lại được cảm nhận có nhiều rủi ro trong cuộc sống của họ như bây
giờ.
• Môi trường và sức khỏe: Đây là vấn đề nhận được sự quan tâm rất lớn ở hội thảo.
Trong những năm trước đây, các vấn đề môi trường được nhìn nhận liên quan đến
đói nghèo. Nhiều người dân bị nhìn là thủ phạm, phá hủy môi trường vì sinh kế,
hay gắn với chuyện đói nghèo và do sinh kế mà dẫn đến chuyện là họ phá hủy môi
trường, phá hủy hệ sinh thái. Họ là những cá nhân đơn độc, hay những cộng đồng
nhỏ lẻ chấp nhận trả giá, kể cả sức khỏe cũng như là sinh mạng của mình cho miếng
cơm manh áo hàng ngày. Tuy nhiên tiến trình phát triển ngày càng cho thấy đây là
vấn đề rất nhiều chiều kích và phức tạp, liên quan tới vấn đề quyền lực, lợi ích, công
bằng xã hội… Trong những năm gần đây, môi trường bị phá hủy ngày càng nặng
nề do các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm. Điều này phần nào cho thấy đã có một
giai đoạn VN đã thu hút đầu tư, nhưng không có những biện pháp và những chính
sách để quản lý chất lượng môi trường. Các vấn nạn của môi trường ở VN gắn rất
nhiều với ô nhiễm do xả thải, chất lượng không khí đô thị, bảo tồn hệ sinh thái, cũng
như biến đổi khí hậu. VN không ở xa đâu đó trong tất cả những vấn đề này. Vào
năm 2016 có một bài báo thống kê 10 loại ô nhiễm nghiêm trọng nhất ở VN thì
nhiều trong số đó gắn với tình trạng xả thải. Nguyên tắc phòng ngừa và phát triển

bền vững chưa coi trọng, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền còn lúng túng
trong áp dụng, dẫn đến tăng khiếu kiện và phản kháng. Nếu VN phát triển kinh tế,
phát triển công nghiệp nhưng lại thiếu kiểm soát ô nhiễm, không có đánh giá tác
động môi trường một cách thực sự nghiêm túc, thì hậu quả không chỉ trong hiện
tại, cho một xã, một thôn, một tỉnh nữa, mà có thể thành là cả một dải đất dài miền
Trung, và nó không chỉ là câu chuyện của một năm, mà là của nhiều năm, hay hàng
thập kỷ. Theo báo cáo của chuyên gia độc lập Nguyễn Hoàng Phượng:
o VN có 126.000 bệnh nhân ung thư mới (2010);
o Nghèo hóa do thiệt hại hoa màu và chi phí khám chữa bệnh;
o Tổn thất do ô nhiễm môi trường của VN lên tới 5,5% GDP hàng năm, tương
đương 3,9 tỉ USD năm 2007, và 4,2 tỉ USD năm 2008 (WB, 2007);
o Mỗi năm VN thiệt hại 780 triệu USD trong các lĩnh vực sức khỏe cộng đồng vì
ô nhiễm môi trường (Bộ TNMT, 2009);
o GDP cứ tăng 1% thì thiệt hại do ô nhiễm môi trường sẽ làm mất đi 3% GDP
(Nguyễn Thế Chinh & Thắng, 2014);

16


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

o Hơn 50% chi phí liên quan đến dịch vụ y tế và thuốc điều trị do người dân tự
phải chi trả (Nhóm Hành động vì Công bằng Sức khỏe, 2011);
o 54% hộ gia đình có người bị bệnh ung thư phải chịu chi phí thảm họa (Đại học
Y tế Công cộng, 2012);
o Khoảng 24% gánh nặng bệnh tật và 23% số ca tử vong ở VN là liên quan đến yếu
tố môi trường, và khoảng 36% số ca tử vong của trẻ em từ không đến sáu tuổi là
do tác nhân môi trường gây ra;
o Theo ghi nhận của Bộ Y tế, tính đến nay có khoảng 51 làng, xã nằm rải rác ở 25
tỉnh/thành phố trong cả nước được ghi nhận là những “làng ung thư”. Các làng

tập trung chủ yếu ở miền Bắc, miền Trung - nơi diễn ra các hoạt động tiểu thủ
công nghiệp và làng nghề với cường độ cao (Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định), gần
các khu công nghiệp cũ (như Thái Nguyên, Phú Thọ) hoặc gần các khu bảo vệ
thực vật cũ (Nghệ An, Hà Tĩnh)... (“Diễn đàn Quốc gia về sức khoẻ môi trường
lần thứ ba”, 25/12/2007 )
• Hệ thống tư pháp chưa bảo vệ người dân: Các khiếu nại hay những quan ngại, phàn
nàn về môi trường không được thực sự coi trọng và không được xử lý một cách triệt
để. Người dân phần lớn chỉ được khiếu nại ở góc độ hành chính. Tòa án không nhận
những khiếu kiện về môi trường. Tuy nhiên, kể cả ở dạng khiếu nại hành chính thì
mức độ xử lý cũng không được đến 50%. Chỉ có 30% khiếu kiện về ô nhiễm môi
trường được giải quyết, 48% chưa giải quyết xong và 22% không được giải quyết và
không nhận được bất kỳ phản hồi nào từ các cơ quan quản lý Nhà nước (Báo cáo
Chỉ số Công lý của UNDP năm 2012). Khi dự án phát triển của doanh nghiệp không
được cộng đồng chấp nhận, có rất nhiều trường hợp mà người dân không có sự lựa
chọn nào khác mà phải lựa chọn những hình thức tự phát, tự xử như là phản kháng,
chặn đường, dừng hoạt động của công ty… gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp, thậm
chí mất toàn bộ vốn liếng. Như vậy thì doanh nghiệp cũng là bên bị thiệt hại. Tỷ lệ
xung đột trong những vụ việc liên quan đến môi trường càng ngày càng tăng, đặc
biệt năm 2016 đánh dấu mức tăng cao điểm nhất của những cuộc gọi là tự xử, những
cuộc tuần hành hay thậm chí là bạo động liên quan đến vấn đề môi trường ở VN.
Một số trường hợp, những người phản kháng, đấu tranh cho cộng đồng bị đe dọa
tính mạng, thậm chí gặp khó khăn trong việc kết nối với cộng đồng. Họ đơn độc
trong cuộc đấu tranh của mình vì hệ thống tư pháp không được hoàn thiện để bảo
vệ họ.

17


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2


• Mất kết nối cộng đồng và các giá trị văn hóa: Tây Nguyên được xem như một ví dụ
điển hình về các giá trị văn hóa bị mất mát. Các công trình của Nhà nước như UBND
xã, nhà văn hóa theo kiểu người Kinh được xây dựng để thay cho nhà cộng đồng
truyền thống của người dân. Hậu quả là thiết chế văn hóa cộng đồng bị phá vỡ khiến
cộng đồng mất kết nối, khi mọi thứ đều là của Nhà nước, không còn là của cộng
đồng. Các di sản văn hóa vật thể cũng xuống cấp trầm trọng, nhiều di sản bị lãng
quên. Không gian cảnh quan di sản bị xâm hại như cho người dân vào ở trong khuôn
viên, phát triển du lịch và thương mại hóa di sản. Di sản văn hóa nghệ thuật dân tộc
truyền thống bị lãng quên, mất đi các loại hình nghệ thuật truyền thống.

18


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

II. GỢI Ý CÁC TRIẾT LÝ PHÁT TRIỂN MỚI
1. Thay đổi tư duy về phát triển: VN đã có một giai đoạn dài tăng trưởng, nhưng là
tăng trưởng với một cái giá rất cao về môi trường, văn hóa - xã hội, tinh thần và mất
mát về niềm tin. Thực sự đã đến lúc xem xét lại cái gọi là triết lý phát triển trong các
đường hướng chính sách của VN từ trước đến nay. Nói là đã đến lúc, bởi vì từ khi
đổi mới đến nay, có lẽ chưa bao giờ xã hội VN lại đang ở trạng thái mất lòng tin như
bây giờ. Lòng tin của người dân là quan trọng vì lòng tin là cái tạo nên vốn xã hội.
Mất lòng tin trầm trọng như hiện nay là một vấn đề rất lớn. Trong giai đoạn tới, triết
lý phát triển cần được điều chỉnh cho phù hợp, lấy con người làm trung tâm, để tăng
trưởng đi đôi với bảo vệ môi trường và bảo vệ các giá trị văn hóa - xã hội, đảm bảo
công bằng xã hội… Phải thay đổi tư duy phát triển là phát triển kinh tế, hay tăng
GDP. Phải thay đổi và chuyển
sang một cách nghĩ khác về phát
triển rộng rãi hơn, có thể gọi là


Những cải cách đang chờ:

phát triển xã hội hay là hạnh phúc



Nhất thể hóa giữa Đảng và Nhà nước;

quốc gia, hay là kinh tế cộng



Vận hành đúng đắn quyền lập pháp và
hành pháp;

đồng. Có nhiều mô hình khác
nhau, nhưng tốt nhất là đi chậm
hơn, giảm các chi phí môi trường
và xã hội, không phải là phát triển
bằng mọi giá. Ai cần thay đổi tư
duy nhất trong bối cảnh hiện
nay? Người lãnh đạo cần thay đổi,
tuy nhiên lãnh đạo thay đổi cũng
không đủ, mà tất cả từng người



Xây dựng nền hành chính chuyên
nghiệp, hiệu năng;




Xây dựng hệ thống chính quyền địa
phương tự quản;



Xây dựng nền tư pháp độc lập;



Xây dựng XHDS năng động và phát
triển.
(TS. Nguyễn Sĩ Dũng)

dân một cũng phải thay đổi.
2. Cần có các chỉ số đo được chất lượng phát triển, chứ không phải chỉ GDP: Phát
triển phải lấy con người làm trung tâm, có gương mặt con người. Phát triển cần đi
đôi với bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, coi dòng
sông, cánh rừng, con vật có quyền tồn tại của nó, nghĩa là trong phát triển cần nhìn
thấy khuôn mặt của những con người, và cả của những con voọc, tê giác, của những
cái cây, chứ không phải chỉ có con số. Để có thể có được những hình ảnh như vậy

19


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

thì phương pháp mà các diễn giả chia sẻ là những đột phá mạnh mẽ về mặt thể chế,
thay đổi tư duy về lãnh đạo và cần có những mô hình mới chứ không phải mô hình

cũ đã không còn hiệu quả. Cần nghiên cứu những mô hình phù hợp, những con số
hay những công cụ để sử dụng, không chỉ là GDP. Không cần phủ nhận vai trò của
GDP, nhưng bên cạnh đó đã đến lúc cần có những chỉ số và những công cụ khác để
đo sự phát triển như về môi trường, về ô nhiễm, hay về dân số, về trình độ giáo
dục… Phải dựa vào tất cả những bộ véc tơ lớn về chỉ số đó một cách khách quan.
Về mặt kinh tế, chỉ số GDP vẫn có giá trị của nó, chỉ nên đừng duy GDP. GDP có
lợi thế là rõ ràng và đo đạc tương
đối nhanh. Trong khi đó, việc đo
các chỉ số xã hội thì thách thức

Các giải pháp phát triển giai đoạn sau

hơn. Nếu sử dụng các chỉ số quá

Đổi mới:

khó đo thì cần thận trọng. Đôi khi,



đối với một thể chế tồi, việc sử

Hiện đại hóa nền kinh tế, phát triển
khu vực kinh tế tư nhân;

dụng các chỉ số phức tạp lại giúp



Phát triển năng lực đổi mới sáng tạo;


nó có thêm phương tiện để thao



Nâng cao hiệu quả của quá trình đô
thị hóa;

túng. Đơn cử một ví dụ đó là chỉ
số hạnh phúc. Chỉ số này cho thấy



tăng cường khả năng ứng phó với

VN là một trong những nước
hạnh phúc nhất thế giới và chính
vì vậy nó được chia sẻ, đẩy lên

biến đổi khí hậu;


VN lại chỉ đứng 180… dẫn đến
những ngộ nhận về tình hình thực
tế của đất nước. Như vậy vẫn cần
có những hệ thống chỉ số hiệu
quả, rõ ràng, toàn diện, không

Đảm bảo công bằng và hòa nhập xã
hội cho các nhóm yếu thế cùng với


khắp các kênh thông tin mà bỏ
quên một thực tế rằng GDP của

Phát triển bền vững về môi trường và

sự phát triển của xã hội trung lưu;


Xây dựng một Nhà nước pháp quyền
hiện đại với nền kinh tế thị trường
đầy đủ, hội nhập và xã hội dân chủ
phát triển ở trình độ cao.
(Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan)

phải chỉ dựa vào riêng GDP.
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi
Lan, chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) và GDP trên thực
tế đang được đẩy thành một điều mà các địa phương dần dần không thể coi thường,
cũng như Chính phủ không thể không quan tâm đến vì đấy là một kênh truyền tải
tiếng nói của người dân. Nếu chỉ có những tiếng nói riêng lẻ, kể cả của các tổ chức
20


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

xã hội thì không thể tạo được tác động lớn, nhưng khi quy được thành một chỉ số
trong bộ chỉ số PAPI, có thước đo, có cái để so sánh, thì chúng ta sẽ thấy được nhiều
vấn đề hơn, ví dụ như trong dịch vụ công, ở đâu đang thực hiện tốt, ở đâu thực hiện
kém, cần giải quyết vấn đề gì... Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) cũng tương

tự như vậy. PCI đã trở thành một công cụ giúp cho nhiều tỉnh vượt lên trong phát
triển một cách cân bằng về nhiều mặt. Những tỉnh có PCI tốt thì những người lãnh
đạo dần dần cũng có ý thức về PAPI. Đây là công cụ để cho các tổ chức xã hội lên
tiếng, và bằng những cách đó họ cũng đang đóng góp vào sự thay đổi và tạo nên thể
chế mới, chứ không phải lúc nào cũng là thể chế nào doanh nghiệp ấy, hoặc thể chế
nào thì xã hội ấy. Cũng phải đặt vấn đề ngược lại là xã hội nên như thế nào ở đây để
thúc đẩy tạo nên một hệ thống thể chế tốt hơn.
3. Cần khoan dung: Cần khoan dung để đón nhận nhiều những ý kiến khác nhau mới
thực sự có được đổi mới sáng tạo. Bản chất của khoan dung là thỏa hiệp về tư tưởng
bởi mỗi người không thể chắc chắn là chỉ có mình nắm giữ chân lý. Để thực hành
những giá trị tự do, bình đẳng, dân chủ, nếu như thực sự muốn sự phát triển hài hòa
cũng như là thúc đẩy những giá trị đó ở trong những không gian dân sự, cần phải
có những công cụ để qua đó có thể nghe được nhiều hơn tiếng nói của người dân,
như PAPI, PCI, và cũng có thể sử dụng những công nghệ để truyền tải tiếng nói
người dân hiệu quả hơn. Ví dụ như ở hội thảo này, hội trường chỉ chứa được khoảng
hai trăm người, nhưng với sự hỗ trợ của công nghệ thì phiên buổi sáng đã có đến
25,000 lượt view, có rất nhiều chia sẻ. Đó là quá trình mọi người trao đổi, đối thoại
để hiểu biết nhau hơn và cũng là tiến trình để cho xã hội có thể khoan dung hơn.
4. Quan hệ giữa Nhà nước và XHDS: Các đại biểu tại hội thảo hoan nghênh quan
điểm cho rằng quyền lực không phải là một trò chơi tổng bằng không (zero sum).
Không phải là XHDS mạnh lên thì Nhà nước sẽ mất quyền. Cần hiểu là XHDS hỗ
trợ Nhà nước trong những lĩnh vực mà Nhà nước không với tay đến được, như vậy
XHDS mạnh lên thì Nhà nước sẽ mạnh lên. Quan điểm hay triết lý này sẽ dẫn đến
một cách ứng xử đúng đắn giữa Nhà nước và XHDS. Nhưng để quá trình này diễn
ra, một nhà lãnh đạo sáng suốt phải biết mở những cái van để cho những lực lượng
mới đi vào và sau đó là thỏa hiệp, chứ không phải là phủ nhận hay đối đầu. Quá
trình phát triển không đơn tuyến theo cách nghĩ đơn giản là một nhóm tin là mình
có ưu điểm và cho rằng ý kiến của các nhóm khác là sai, rồi không chấp nhận và
21



HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

không thỏa hiệp. Cách tư duy đơn tuyến này sẽ dẫn tới việc đè nén, gạt các nhóm bị
coi là khác biệt sang một bên trong quá trình lịch sử, không cho họ tham dự quá
trình lịch sử, và như thế thì tức là không mở ra một cánh cửa nào, không mở ra một
cái van nào. Tư duy phát triển thiếu khoan dung này sẽ dễ tạo ra ngòi nổ. Bây giờ là
thời điểm cần phải mở cái van này. Hàm ý của cái van này là sự khoan dung, chấp
nhận các tư tưởng khác nhau.
Đặt vấn đề phân chia quyền lực giữa Đảng và XHDS là một cách đặt vấn đề không
đúng đắn. Khi XHDS lên tiếng, nó thể hiện nhu cầu xã hội cần phát triển tự nhiên
hơn, có gương mặt con người hơn. Các chuyên gia, các nhà khoa học lúc này cần
nghe được nhu cầu đó, giúp bộc lộ nó để thấy rằng triết lý phát triển cũ không còn
phù hợp nữa. Ở đây cần quay trở lại vấn đề khế ước xã hội: Quyền lực là do nhân
dân trao cho Nhà nước, Nhà nước thay mặt nhân dân để làm nhiệm vụ nhân dân
giao cho, làm cho xã hội này tốt lên, chứ không phải là vấn đề phân chia quyền lực,
rồi dẫn đến diễn ngôn rằng nếu XHDS phát triển thì nó sẽ gây nên bất ổn. XHDS
đòi hỏi tiếng nói của nó và nó ủy quyền và trao quyền cho Nhà nước để làm cho xã
hội tốt hơn chứ không có sự đối lập. Nếu hai thực thể này đối lập nhau thì tức là mối
quan hệ đó bị cắt đi. Nhà nước là một cơ quan, một đơn vị được ủy quyền của khu
vực xã hội, mà vì khế ước như vậy, phải trở về điều rất cơ bản rằng Nhà nước là
người cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Người dân cần Nhà nước có một cơ chế để
làm việc công hiệu quả. “Tôi giao cho anh làm việc đấy còn tôi làm việc của tôi chứ
không có sự phân chia quyền lực ở đây, và nếu mà như vậy thì XHDS càng mạnh thì
quyền lực của Nhà nước càng mạnh, bởi vì nó bồi đắp cho nhau chứ không phải là trò
chơi có tổng bằng không, không phải như vậy, không phải là tôi lấn lên là anh lùi
xuống, hoặc anh tiến lên là tôi lùi xuống. XHDS cần phải tin mình đang làm một việc
rất tốt, mà chính là củng cố quyền lực cho Nhà nước, bởi vì Nhà nước là theo cái nghĩa
nhà nước, nhà nước không phải là cơ quan thống trị, mà nhà nước đây chính là người
đại diện cho người dân làm những cái việc cung cấp hàng hóa công cho người dân,

quốc phòng, an ninh.” (TS. Nguyễn Đức Thành)
Cũng cần có nhận thức đúng về XHDS. XHDS là một quá trình hành động tập thể
vì lợi ích công cộng, chứ không phải vì lợi ích của một vài cá nhân, tổ chức. Đó là
nơi tập hợp các cộng đồng khác nhau, là quá trình của XHDS và đây cũng là một
cách tiếp cận hay là triết lý để đóng góp giải quyết một số vấn đề trong kinh tế, xã
hội, môi trường. Như vậy XHDS vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu.

22


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

5. Củng cố kiềng ba chân: Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và XHDS: Về
mặt thể chế nói chung cần xác lập ba trụ cột chính trong phát triển, đó là Nhà nước
pháp quyền, kinh tế thị trường và XHDS. “Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội
chủ nghĩa” đã có, nhưng mục tiêu là xây dựng Nhà nước pháp quyền. “Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” thì cũng chủ yếu là theo kinh tế thị trường.
Còn cái quan trọng thứ ba - đó là cần phải chấp nhận, nhận diện và ủng hộ sự phát
triển của XHDS. Phải có sự tham gia của XHDS để cùng với Nhà nước và kinh tế thị
trường xây dựng sự thịnh vượng 2035. Nếu như cái kiềng ba chân này bị gãy một
chân nào thì Nhà nước sẽ lại đưa ra một mĩ từ khác, nên cần thống nhất về cái kiềng
ba chân này.
6. Học bài học thất bại của các quốc gia: Phát triển là tốt, nhưng VN cần phải học các
bài học thất bại của các quốc gia. Những vấn đề xảy ra trong phát triển đều đã từng
diễn ra ở đâu đó trên thế giới. Ví dụ như về vấn đề chia chác nguồn lợi, về đất đai,
các vấn đề ngân sách, hay là công tư hữu hóa như thế nào… đều đã có những bài
học rất lớn, và thực tế là nhiều quốc gia đã phải trả giá rất đắt cho những quyết định
của mình. VN cần phải rút ra kinh nghiệm từ những bài học này. Nguy cơ lớn nhất
hiện nay là VN cứ tiếp tục đi theo những mô hình phát triển đã chết rồi (còn gọi là
triết lý phát triển ma cà rồng, nghĩa là nó vẫn đang đi, nhưng thực ra không sống

nữa). Mô hình GDP đã góp phần tăng trưởng GDP đáng ghi nhận ở VN, tuy nhiên
trong bối cảnh hiện nay, việc tiếp tục tăng trưởng GDP theo chỉ tiêu mà không xét
đến những khía cạnh môi trường, xã hội sẽ không mang đến một xã hội tốt đẹp mà
mọi người muốn. Do đó triết lý duy GDP cần phải được thay đổi. GDP không phải
là mục tiêu của toàn bộ phát triển. Đây không chỉ là vấn đề của VN, đây là vấn đề
của tất cả các nước, mà VN không phải là trường hợp độc đáo, khác biệt. VN càng
hội nhập càng cần học từ các bài học của các nước khác và hy vọng rằng, nếu thay
đổi mô hình phát triển này thì tương lai của VN sẽ bình đẳng hơn và sẽ có một xã
hội công bằng hơn.
7. Dân chủ hóa: Dân chủ hóa là phương tiện của tự do. Điều quan trọng đầu tiên là sự
khoan dung về tư tưởng và sự khoan dung trong việc để cho những nhóm khác nhau
cùng tham gia bàn về vận mệnh của dân tộc và đưa ra những ý kiến, những quan
điểm và trao đổi trong hòa bình, tức là dân chủ hóa. Mỗi đất nước có một đặc thù
riêng, thế nhưng nguyên lý dân chủ của loài người, mang tính nhân loại đó VN phải
23


HỘI THẢO XÃ HỘI DÂN SỰ THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ 2

tôn trọng. Tôn trọng nó tức là tôn trọng về nhân quyền. Tự do là điều đáng có của
con người, còn phương tiện để đi đến tự do là dân chủ, đó là một phương tiện mà
loài người đã chứng minh. Phương tiện “dân chủ” đó có những đặc thù nhất định
khác nhau ở các nước khác nhau. Ví dụ dân chủ Thái Lan khác dân chủ ở Nhật Bản
hay dân chủ ở Mỹ.
Mạng xã hội đang đóng một vai trò quan trọng trong quá trình dân chủ hóa tại VN.
VN cần có các thiết chế bảo vệ quyền của thiểu số để mạng xã hội không biến rất
nhiều người trở thành nạn nhân. Rộng hơn, con đường đi tới dân chủ vì thế phải
thiết lập được các nền tảng đảm bảo quyền của mọi người và ngăn chặn hữu hiệu
những người đi tới quyền lực nhờ dân chủ nhưng lại phản bội, tước mất tự do của
những người đã bầu ra họ.

8. Mở rộng tự do tư tưởng: Kinh tế đã phát triển đến mức nào đó thì chính trị phải đi
theo, bởi vì nếu không được củng cố bởi những cải cách chính trị thì thực chất là
những đổi mới về kinh tế và những thành tựu về kinh tế khó lòng bền vững được.
Đổi mới về chính trị của VN đi chậm hơn nhưng có thể phát triển được. VN đã thừa
nhận sở hữu tư nhân, và kinh tế tư nhân, nhưng kinh tế tư nhân phải có một nền
tảng rất vững chắc là sở hữu tư nhân, vì chỉ có sở hữu tư nhân thì mới thực hiện quá
trình trao đổi, quá trình sản xuất một cách vững vàng. Tương tự trong lĩnh vực tự
do về kinh doanh, quá trình này đòi hỏi phải có sở hữu trí tuệ, và sở hữu các ý tưởng
và bộc lộ được quan điểm của mình. Do đó phải có tự do về tư tưởng, tự do về ngôn
luận để bày tỏ, bộc lộ các ý tưởng và đóng góp trí tuệ.
9. Cân nhắc giữa tiếp cận theo nhu cầu hay tiếp cận dựa trên quyền: Tiếp cận dựa
trên nhu cầu là cách tiếp cận phù hợp cho VN trong giai đoạn phát triển trước, khi
mà đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người và giải quyết đói nghèo, nâng cao
mức sống là nhiệm vụ trọng tâm. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp
tục đáp ứng những nhu cầu cơ bản của người dân, các nhu cầu khác ngày càng gia
tăng liên quan tới nhu cầu tự do ngôn luận, công lý môi trường, được tham gia vào
quá trình phát triển… tất cả đang đòi hỏi phải có cách tiếp cận khác là tiếp cận dựa
trên quyền. VN cần xây dựng các chính sách đáp ứng được các quyền con người phổ
quát. Đáp ứng quyền con người vừa là phương tiện vừa là mục tiêu phát triển. Tuy
nhiên, cách tiếp cận này đòi hỏi có sự nhận thức ngày càng tăng trong người lãnh

24


×