Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN mô HÌNH về KINH tế THỊ TRƯỜNG và một số GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.78 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
TRANG
2
3

I

MỞ ĐẦU
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG, NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1
2
3
II

VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Kinh tế thị trường.
Các bước phát triển kinh tế thị trường.
Một số mơ hình kinh tế thị trường tiêu biểu
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

3
3
6
18

1
2

Ở VIỆT NAM
Trước năm 1986


Sau năm 1986

18
19

3
III

Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
GIẢI PHÁP CỦA QUÁ TRINH PHÁT TRIỂN KINH

20
23

TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
1

NGHĨA Ở VIỆT NAM.
Những khó khăn của q trình phát triển kinh tế thị trường

23

2

định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Giải pháp khắc phục khó khăn phát triển nền kinh tế thị

24

trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

28
29

MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường ra đời từ thời kì tư bản chủ nghĩa, bên cạnh những mặt
tích cực nó cịn biểu hiện mặt tiêu cực. Và chúng ta không thể đồng nhất kinh tế


2
thị trường với chủ nghĩa tư bản. Mơ hình kinh tế thị trường là mơ hình chung
cho cả Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội. Muốn sử dụng nó một cách hiệu
quả thì khơng chỉ phát huy những tác động tích cực mà nó đem lại cho nền kinh
tế, mà còn đòi hỏi phải biết hạn chế một cách tối đa những mặt tiêu cực mà nó
gây ra. Vì vậy khi một nền kinh tế áp dụng theo mơ hình kinh tế thị trường thì
cần phải có sự kết hợp giữa sự tự điều tiết nền kinh tế của thị trường và sự can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là Nhà nước phải luôn
quan tâm đến những yếu tố cấu thành nên cơ chế thị trường: giá cả, cung cầu
hàng hoá, cạnh tranh, tiền tệ, lợi nhuận và những quy luật của kinh tế thị trường
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông
tiền tệ Để từ đó có những biện pháp chính sách phù hợp để điều tiết và thúc đẩy
nền kinh tế thị trường phát triển một cách nhanh chóng.
Ở Việt Nam quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường tuy có hơi muộn
nhưng nó cũng đem lại những thành tựu hết sức to lớn cho đất nước trong việc
phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã thấy được những hạn chế của mơ hình kế
hoạch hố tập trung và cũng thấy được vai trò quan trọng của kinh tế thị trường
đối với nền kinh tế. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta đã chấp nhận nó như
một công cụ để phát triển, để đạt được những mục tiêu cao hơn đi lên chủ nghĩa

xã hội. Chúng ta cũng đã định hướng cho nó để phù hợp với chiến lược, phương
hướng mà Đảng, Nhà nước đã chọn. Một nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có những cái chung của nền kinh tế thị trường và nó cũng có
những cái khác biệt so với nền kinh tế thị trường của các nước khác. Nó mang
bản sắc riêng thể hiện đường lối lãnh đạo, cũng như chủ trương phát triển kinh
tế của nước ta sao cho phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân cũng
như xu hướng tất yếu hiện nay của thế giới.

I. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG

1. Kinh tế thị trường.


3
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng hoá.
phản ánh trạng thái tồn tại vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, là
sản phẩm của sự phát triển khách quan của xã hội lồi người. Nền kinh tế thị
trường có khả năng “tự động” tập hợp trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con
người hướng tới lợi ích chung của xã hội, do đó nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, góp phần thúc đẩy sự phát triển của
một xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là q trình mở rộng
phân cơng lao động xã hội, phát triển khoa học - công nghệ mới và ứng dụng
chúng vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế thị trường
gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học kỹ
thuật, của lực lượng sản xuất.
2. Các bước phát triển kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường phát triển qua 3 bước: Từ kinh tế tự nhiên sang nền kinh
tế hàng hoá giản đơn; từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường tự do;

từ kinh tế thị trường tự do sang kinh tế hỗn hợp.
- Từ kinh tế tự nhiên phát triển sang kinh tế hàng hoá giản đơn.
Trong nền kinh tế tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh tế tự nhiên
do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp thành(các gia đình nơng dân gia trưởng,
các cơng xã nơng nơng thôn, các lãnh địa phong kiến) và mỗi đơn vị kinh tế ấy
làm đủ mọi công việc đẻ tạo ra sản phẩm cuối cùng.
Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu; nông
nghiệp là ngành sản xuất cơ bản, công cụ kỹ thuật canh tác lạc hậu dựa vào chân
tay là chủ yếu chỉ có một số trang trại của địa chủ hoặc phường hội mới có hiệp
tác lao động giản đơn. Đây chính là mơ hình kinh tế đóng kín, khơng có sự giao
lưu sản phẩm với bên ngồi, nó tồn tại suốt một thời kỳ dài cho đến chế độ
phong kiến.
Bước đi chủ yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng hoá
giản đơn. Điều kiện cho q trình chuyển hố này là sự phát triển của kinh tế
hàng hố. Phân cơng xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá.


4
Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiện tự
nhiên khác nhau, có khả năng và ưu thế trong sản xuất ra những sản phẩm khác
nhau đạt hiệu quả cao hơn. Ngay trong một vùng, một địa phương những người
sản xuất cũng có những khả năng, điều kiện và kinh nghiệm sản xuất khác nhau.
Mỗi người chỉ tập trung sản xuất những sản phẩm nào mà mình có ưu thế, đem
sản phẩm của mình trao đổi lấy những sản phẩm cần thiết cho sản xuất và đời
sống của mình, họ trở thành những người sản xuất hàng hoá cùng trao đổi mua
bán hàng hoá với nhau, trên cơ sở đó thị trường, tiền tệ cũng ra đời và phát triển.
Sản xuất hàng hoá ra đời lúc đầu dưới hình thức sản xuất nhỏ, giản đơn
nhưng là một bước tiến trong lịch sử phát triển xã hội. Sản xuất hàng hoá giản
đơn là sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất trong điều kiện kỹ
thuật thủ cơng lạc hậu. Khi trình độ lực lượng sản xuất phát triển cao hơn, sản

xuất hàng hoá giản đơn chuyển sang sản xuất hàng hoá quy mơ lớn hơn. Q
trình đó diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản.
- Từ kinh tế hàng hoá giản đơn lên kinh tế thị trường tự do.
Nền kinh tế thị trường tự do ra đời từ từ nền kinh tế hàng hố giản đơn
nhưng có những đặc điểm cơ bản khác với nền kinh tế hàng hoá giản đơn. ở đây
người sản xuất trực tiếp là công nhân làm thuê, không phải là người sở hữu tư
liệu sản xuất mà tư liệu sản xuất là của nhà tư bản. Sản phẩm lao động do những
công nhân làm ra thuộc về nhà tư bản.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tác động của qui luật giá trị dẫn tới
sự phát triển tự phát của lực lượng sản xuất. Do tác động tự phát đó, do sự biến
động của giá cả, cạnh tranh đã làm phân hoá những người sản xuất hàng hoá và
trong giai đoạn phát triển lịch sử nhất định làm nảy sinh chủ nghĩa tư bản. Kinh
tế hàng hoá giản đơn đẻ ra chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá trong thời kỳ này
cạnh tranh gay gắt. Trong điều kiện sản xuất qui mô lớn, các nguồn lực tự nhiên
ngày càng khan khiếm buộc người sản xuất phải khơng ngừng cải tiến đổi mơí
kỹ thuật, cơng nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, sử
dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất. Đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển
nền sản xuất hàng hoá.


5
- Từ kinh tế thị trường tự do sang kinh tế hỗn hợp
Xuất phát của quan điểm “kinh tế hỗn hợp” có từ cuối những năm của thế
kỷ XIX. Sau khi thời kỳ chiến tranh, nó được các nhà kinh tế học Mỹ, như
A.Hasen, tiếp tục nghiên cứu. Tư tưởng này được phát triển trong “kinh tế học”
của P.A.Samuelson.
Nếu các nhà kinh tế học Cổ điển và Cổ điển mới say sưa với “bàn tay vơ
hình” và “cân bằng tổng quát”, trường phái Keynes và Keynes mới say sưa với
“bàn tay nhà nước”, thì P.A.Samuelson chủ trương phát triển kinh tế phải dựa
vào cả “hai bàn tay”, là cơ chế thị trường và nhà nước. Ông cho rằng diều hành

một nền kinh tế khơng có chính phủ hoặc thị trường thì cũng như vỗ tay bằng
một bàn tay”.
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó, cá nhân người
tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba
vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: cái gì? Như thế nào? Và cho ai? Cơ chế
thị trường “không phải là một sự hỗn hợp mà là trật tự kinh tế”. Một nền kinh tế
thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và
doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường. Nó là một phương tiện giao
tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau, khơng
có bộ não trung tâm, nó vẫn giải được bài tốn mà máy tính lớn nhất ngày nay
không thể giải nổi. Không ai thiết kế ra nó. Nó tự nhiên, và cũng như xã hội lồi
người, nó đang thay đổi.
Thị trường là một q trình mà trong đó, người bán một thứ hàng hố tác
động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hố. Như vậy, nói đến
thị trường và cơ chế thị trường là phải nói tới hành hoá, người bán và người mua,
giá cả hàng hoá. Hàng hoá bao gồm tiêu dùng, dịch vụ và yếu tố sản xuất như lao
động, đất đai, tư bản. Từ đó hình thành nên thị trường hàng tiêu dùng và thị
trường các yếu tố sản xuất. Trong hệ thống thị trường, mỗi hàng hố, mỗi loại
dịch vụ đều có giá cả của nó. Giá cả mang lại thu nhập cho hàng hoá mang đi bán
và mỗi người lại dùng thu nhập đó để mua hàng mình cần. Nếu một loại hàng hố
nào đó có nhiều người mua, thì người bán sẽ tăng giá lên để phân phối một lượng


6
cung hạn chế. Giá lên cao sẽ thúc đẩy người sản xuất làm ra nhiều hàng hố hơn.
Khi có nhiều hàng hoá, người bán muốn mua nhanh để giải quyết hàng của mình
nên hạ giá xuống. Khi hạ giá, số người mua hàng đó tăng lên. Do đó, người bán
lại tăng giá lên. Như vậy, trong cơ chế thị trường có một hệ thống tự tạo ra sự cân
đối giữa giá cả và sản xuất. “Giá cả là phương tiện tín hiệu của xã hội”. Nó chỉ
cho người sản xuất biết sản xuất cái gì và như thế nào và cũng thơng qua đó thực

hiện phân phối cho ai.
Nói đến cơ chế thị trường là ta phải nói đến cung - cầu hàng hố, đó là sự
khái qt của hai lực lượng người bán và người mua trên thị trường. Sự biến
động của giá cả đã làm cho trạng thái cân bằng cung - cầu thường xuyên biến
đổi và đó cũng chính là nội dung của quy luật cung - cầu hàng hố.
3. Một số mơ hình kinh tế thị trường tiêu biểu
Lịch sử phát triển kinh tế thị trường nhân loại, tới ngày nay, ở góc độ tổng
quát có thể phân thành hai mơ hình: mơ hình kinh tế thị trường cổ điển và mơ
hình kinh tế thị trường hiện đại.
Đặc trưng cơ bản của mơ hình kinh tế thị trường cổ điển là duy trì, và
khuyến khích rộng rãi tự do cạnh, tự do trao đổi, tự do tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh trên cơ sở tín hiệu và sự điều tiết của thị trường. Do vậy,
hoạt động của mọi chủ thể kinh tế, sự vận động của giá cả đều chịu tác động trực
tiếp của hệ thống quy luật kinh tế thị trường, mà A.Smit gọi là Bàn tay vơ hình.
Trong giai đoạn vận động, phát triển của kinh tế thị trường cổ điển, Nhà nước
chỉ đóng vai trị giữ nhà, nghĩa là Nhà nước can thiệp rất hạn chế và mang tính
gián tiếp vào các hoạt động kinh tế. Tiêu biểu của mô hình này là nền kinh tế
Tây Âu từ thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XIX.
Ưu điểm nổi bật của mơ hình kinh tế thị trường cổ điển là nền kinh tế phát
triển năng động, linh hoạt. Nhưng sự tồn tại và vận động của nền kinh tế theo
mô hình này đến một giai đoạn nhất định, khi trình độ xã hội hóa của lực lượng
sản xuất cao, thì những khuyết tật của thị trường bộc lộ một cách mạnh mẽ, mâu
thuẫn nội tại trong phát triển ngày càng gay gắt, khủng hoảng kinh tế bột phát
với sức tàn phá nặng nề. Mà cuộc khủng hoảng 1929-1933 là một minh chứng.


7
Khuyết tật và mâu thuẫn trong phát triển kinh tế thị trường cổ điển đã đặt ra
yêu cầu khách quan về sự can thiệp, điều tiết sâu, rộng hơn của Nhà nước vào nền
kinh tế. Và mơ hình kinh tế mới xuất hiện đó là mơ hình kinh tế thị trường hiện

đại, hay còn gọi là nền kinh tế hỗn hợp. Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường
hiện đại là có hai người tham gia điều tiết nền kinh tế, đó là thị trường điều tiết ở
tầm vi mơ, Nhà nước điều tiết ở tầm vĩ mơ; có hai người thực hiện các hoạt động
đầu tư là Nhà nước và tư nhân. Khó khăn lớn nhất trong kinh tế thị trường hiện
đại là xác định giới hạn sự can thiệp, điều tiết giữa thị trường và Nhà nước với
tính khoa học, khả thi trong những cơng cụ mà Nhà nước sử dụng để điều tiết
kinh tế. Vì giới hạn sự can thiệp và điều tiết của Nhà nước cũng như của thị
trường ở những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế không phải là bất
biến. Trong khi đó, nếu Nhà nước can thiệp quá sâu, chính sách của Nhà nước
khơng khoa học và thiếu khả thi thì sẽ làm triệt tiêu những ưu thế, những động lực
của thị trường. Ngược lại, nếu Nhà nước can thiệp khơng đủ liều lượng thì sẽ tạo
điều kiện cho những khuyết tật của thị trường phát sinh tác động tiêu cực mạnh
mẽ. Tương tự, trong lĩnh vực đầu tư, nếu kinh tế Nhà nước và phạm vi độc quyền
của kinh tế Nhà nước quá rộng, sẽ hạn chế tính năng động, sáng tạo và khả năng
thu hút nguồn lực của kinh tế tư nhân. Ngược lại, nếu tiềm lực kinh tế của Nhà
nước quá yếu, cũng sẽ hạn chế hiệu quả can thiệp, điều tiết của Nhà nước khi cần
thiết và sự thiếu hụt hàng hóa cơng cộng sẽ trầm trọng.
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường trong lịch sử kinh tế
thị trường nhân loại rất đa dạng, phong phú. Dưới đây xin điểm qua một số mơ
hình với những nét cơ bản nhất của nó.
3.1 Mơ hình kinh tế thị trường tự do Hoa Kỳ
Tính từ đầu thế kỷ XX đến nay, trên nền tảng của cùng một phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, thế giới đã trải qua 3 giai đoạn: chủ nghĩa tự do cổ
điển trước đại khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933, chiến tranh thế giới thứ
nhất và thứ hai; chủ nghĩa tư bản "nhân dân" của học thuyết Keynes từ năm
1950 đến 1975 và chủ nghĩa tự do mới từ cuối những năm 1970 đầu những năm
1980 cho đến nay. Tương ứng với ba hình thái đó là ba hình thức Nhà nước: Nhà


8

nước mạnh; Nhà nước phúc lợi can thiệp và Nhà nước tối thiểu thu hẹp cả chức
năng kinh tế và chức năng xã hội.
Mặc dù, cuộc khủng hoảng năm 1974 do tăng trưởng thấp, lạm phát cao làm
tiền đề cho thời cơ của chủ nghĩa tự do mới nhưng bước ngoặt chỉ đến từ năm
1979 khi ở Anh, bà Margaret Thatcher lên nắm quyền. Đây là chính phủ tư bản
phát triển đầu tiên công khai cam kết áp dụng chủ nghĩa tự do mới trong hoạt
động thực tiễn. Một năm sau (năm 1980), Ronald Reagan được bầu làm Tổng
thống Mỹ thì thập kỷ tự do mới bắt đầu hình thành ở Mỹ. Kinhtế Mỹ đã trải qua
một cuộc tái cơ cấu sâu sắc ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tái cơ
cấu tự do mới đó tập trung vào biến đổi vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế,
kéo theo việc hạnchế sử dụng chi tiêu của Chính phủ và đánh thuế để điều hịa
chu kỳ kinh doanh, nới lỏng hoặc hủy bỏ điều tiết của Chính phủ đối với hành vi
của tư bản trong các lĩnh vực trong nước và quốc tế, tư hữu hóa các doanh nghiệp
nhà nước và tiện ích cơng, cắt giảm mạnh ngân sách cho các chương trình xã hội.
Sự tái cơ cấu đó được gọi là tự do mới bởi nó là một hình thái được cập nhật và
cực đoan hơn của lý thuyết kinh tế tự do cổ điển do Adam Smith và David
Ricardo phát triển trong thế kỷ XVIII và XIX, với lập luận rằng nền kinh tế tư bản
chủ yếu tự điều tiết thông qua hoạt động của các lực lượng thị trường.
Chủ nghĩa tự do mới ngày nay có quy mơ rộng lớn hơn do sự tiến bộ của
khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, đã làm cho các dân tộc gần
với nhau hơn và do tồn cầu hóa cùng với hội nhập quốc tế đang diễn ra trên
một phạm vi rộng hơn với cường độ mạnh mẽ hơn.
Sự thắng lợi của nền kinh tế theo chủ nghĩa tự do mới được minh chứng
bằng sự thăng hoa của kinh tế Mỹ nửa sau thập kỷ 90 với tăng trưởng kéo dài, tỷ
lệ thất nghiệp khá thấp và ít lạm phát, sản lượng và năng suất cao hơn.
Mơ hình kinh tế tự do mới đề cao vai trò cá nhân. Thật vậy, một xã hội
muốn phát triển thịnh vượng trước hết phải phát huy tính độc lập, sáng tạo của
mọi cá nhân và muốn làm được như vậy phải có một mơi trường xã hội tự do,
thơng thống. Sự can thiệp q sâu của Nhà nước có thể dẫn đến tình trạng mất
đi tự do và khả năng tự chủ, sáng tạo của cá nhân. Chính sách kinh tế dựa trên tư



9
tưởng thị trường tự do với yếu tố chủ đạo của tư tưởng này là cần hạn chế vai trò
của Chính phủ và thay thế bằng các lực lượng thị trường.
Mơ hình kinh tế tự do mới giúp tăng tính cạnh tranh cao giữa các doanh
nghiệp dẫn đến nền sản xuất sẽ hiệu quả hơn, hàng hóa sẽ đa dạng và phong phú
hơn.
Mơ hình kinh tế tự do mới giúp cho đồng vốn lưu thơng dễ dàng hơn. Điều
đó giúp cho các nước đang phát triển thu hút được nhiều vốn đầu tư từ đó hấp
thu, tiếp cận nhanh hơn với khoa học - công nghệ cao, tạo ra nhiều công ăn việc
làm cho dân bản xứ đồng thời nâng cao thu nhập, mức sống người dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vượt trội, mơ hình kinh tế tự do mới
không thể tránh khỏi những hạn chế nghiêm trọng. Mơ hình kinh tế tự do mới
làm cho các nước dễ tổn thương trước việc đồng vốn bỏ đi nơi khác, đồng tiền
khơng ổn định và do đó làm cho cả nền kinh tế cũng trở nên bấp bênh, nếu
không có sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.
Mơ hình kinh tế tự do mới dẫn đến nền tài chính mong manh và khủng
hoảng bằng cách tạo nên đầu cơ thay vì một nền kinh tế hướng mạnh vào sản
xuất, làm cho kinh tế đình đốn và bất bình đẳng thêm trầm trọng.
Chủ nghĩa tự do mới tạo nên một tầng lớp tư sản rất giàu một tầng lớp mại
bản có thu nhập, tài sản và quyền lực chính trị tại các nước đang phát triển. Chủ
nghĩa tự do mới làm tăng vị thế mặc cả của tư bản đối với lao động. Cải cách tài
chính tự do mới ngăn cản các chính sách tiến bộ. Các nước đang phát triển gặp
khó khăn trong việc thi hành những chính sách kinh tế và xã hội độc lập.
Cụ thể, chủ nghĩa tự do mới áp dụng ở các nước châu Mỹ Latinh đã gây ra
những hậu quả tiêu cực rõ rệt, như cắt giảm chi phí của Nhà nước cho phúc lợi
xã hội, giảm thu nhập của công nhân; tư nhân hóa hàng nghìn doanh nghiệp nhà
nước; làm hàng chục nghìn doanh nghiệp nhỏ phá sản; tài nguyên quốc gia lọt
vào tay tư bản nước ngồi.

3.2.Mơ hình kinh tế thị trường Bắc Âu:
Mơ hình kinh tế thị trường Bắc Âu có thể phân thành hai nhánh. Một nhánh
là kinh tế thị trường Xã hội phúc lợi ở Thụy Điển từ những năm 30 của thế kỷ


10
XX. Mơ hình này được xây dựng dựa trên lý thuyết Ngôi nhà chung cho mọi
người của phái Xã hội dân chủ, mà đại diện là cựu Thủ tướng Thụy Điển
P.A.Hanson; xuất phát từ mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội chức năng với khẩu hiệu:
bình đẳng, đảm bảo xã hội, hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ. Trong mô hình này, sự
phát triển được thực hiện kết hợp hài hòa giữa mở rộng phúc lợi xã hội với kinh tế
thị trường tư nhân. Thực hiện mơ hình này, Thụy Điển đã đạt được những thành
công nhất định, đưa Thụy Điển từ một trong những nước nghèo nhất Châu âu trở
thành một trong những quốc gia giàu nhất Châu lục này. Trong nền kinh tế, kinh
doanh lớn tuy nằm trong tay một nhóm nhỏ, nhưng sự phân hóa giàu nghèo đần
dần được thu hẹp.
Tuy vậy, việc giữ mức phúc lợi xã hội cao cho mọi công dân dần dần trở
thành gánh nặng cho nền kinh tế; phúc lợi xã hội nuốt mất 1/3 GNP; sự thiếu hụt
ngân sách và cán cân thanh tốn ln trầm trọng; năng suất lao động và khả
năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp giảm; lạm phát cao. Do đó, từ giữa
những năm 70 đến những năm 90 (thế kỷ XX) nền kinh tế ngày càng trở nên trì
trệ. Do vậy, sau gần 50 năm thực hiện mơ hình kinh tế thị trường Xã hội phùc
lợi với mức tiền lương cao và chế độ tiền lương mang tính bình qn, đến những
năm 90, Thụy Điển đã phải đặt mục tiêu giảm lạm phát lên trên mục tiêu đảm
bảo tồn dụng cơng nhân; giảm thuế thu nhập từ 72% xuống còn 50%; tăng thuế
gián thu; cắt giảm bớt các khoản trợ cấp phúc lợi; tư nhân hóa trong các lĩnh vực
dịch vụ. Nghĩa là một số đặc trưng của mơ hình đã bị loại bỏ.
Một nhánh khác của kinh tế thị trường Bắc Âu là nền Kinh tế thương lượng.
Lý thuyết về nền Kinh tế thương lượng ra đời vào những năm 80 của thế kỷ
XX. Khái niệm nền Kinh tế thương lượng biểu thị một cơ chế kinh tế - xã hội

mà ở đó phần lớn sự phân bổ các nguồn lực là dựa vào các cuộc thương lượng.
Do vậy, là cơng cụ để tìm kiếm các giải pháp trong phân bổ nguồn lực và trong
phát triển; thương lượng giúp tìm được tiếng nói chung và đồng thời là kỹ thuật
thông qua các quyết định; xây dựng các mối quan hệ và được thỏa hiệp trong
phát triển.


11
Khác với các giải pháp cực quyền, các quyết định kinh tế dựa trên thương
lượng không thể là căn cứ và đối tượng để áp dụng các hình phạt mà được dựa
vào trách nhiệm ràng buộc về chính trị, đạo đức nhiều hơn là các quy chế pháp
luật. Cũng khác với quan hệ thị trường do các đại diện tư nhân thực hiện một
cách độc lập trên cơ sở ưu thế và nguồn lực riêng của mình; các giải pháp kinh
tế dựa trên thương lượng được đưa ra trong quá trình hình thành các ưu tiên một
cách tự do.
Trong nền Kinh tế thương lượng liên tục có các cuộc đấu tranh, các cuộc
xung đột ở nhiều góc độ khác nhau và chúng được giải quyết khi các bên liên
quan tìm được tiếng nói chung. Do đó, thương lượng là đấu tranh; thỏa hiệp và
đấu tranh luôn đi liền với nhau. Tất nhiên, trong nền Kinh tế thương lượng,
thương lượng không phải là công cụ duy nhất, mà chỉ là một trong các công cụ
để thông qua quyết định; các công cụ truyền thống đã và vẫn là những nguyên
tắc của cơ chế thị trường. Nghĩa là nền kinh tế vận hành với sự kết hợp giữa
thương lượng và các công cụ của cơ chế thị truờng; các công cụ này bổ xung
cho nhau, có thể cạnh tranh, cản trở và thậm chí lấn át lẫn nhau.
Hiện tại, có hai quan điểm khác nhau đối với nền Kinh tế thương lượng.
Những người ủng hộ thì cho rằng, thương lượng là kiểu mẫu lành mạnh, có hiệu
quả, bảo đảm sự chính thống của các giải pháp và tính trung thực của các bên
trong quá trình thực hiện. Ngược lại phái Tự do mới cho rằng, cần phải thay thế
thương lượng bằng các ngun tắc của thị trường, vì kinh tế thương lượng
khơng uyển chuyển và không hiệu quả. Những nhà Dân chủ thì phê bình rằng,

kết quả thương lượng là khơng hợp pháp, khơng chính thống, cần thay thế các
cuộc thương lượng bằng Nghị trường, là hình thức đại diện hợp pháp duy nhất
của chính quyền.
Tuy vậy, dù ủng hộ hay phản đối nền Kinh tế thương lượng, thì một mặt
cũng phải thừa nhận rằng, quá trình hình thành nền Kinh tế thương lượng ít nhất,
cũng là một trong những nhân tố giúp kinh tế các nước Bắc Âu thích ứng một
cách dễ dàng và tương đối thành công với những thay đổi trên thị trương thế


12
giới; nhưng mặt khác hiện nay, vẫn chưa có một lý thuyết thỏa đáng, đầy đủ về
nền Kinh tế thương lượng.
3.3. Mơ hình kinh tế thị trường Nhật Bản
Kinh tế thị trường Nhật Bản đã tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau và
trở thành một trong những nền kinh tế thị trường hiện đại mà nhiều người coi là
mẫu mực cho các nước phát triển sau noi theo.
Đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ nhất của kinh tế Nhật Bản là thời Phục
Minh Trị. Đây là thời kỳ đã thực hiện những cải cách phi thường về chính trị,
kinh tế và xã hội. Trước hết, hệ thống chính trị phi tập trung hóa được bãi bỏ để
tạo ra sự thống nhất về chính trị của đất nước. Một Nhà nước tập trung được
thành lập.
Về kinh tế và xã hội, sự phân chia xã hội thành các đẳng cấp cha truyền con
nối bị thủ tiêu, thay vào đó là một xã hội hướng vào thành tựu, những người có tài
và có năng lực đều có cơ hội tiến thân trong xã hội, bất chấp nguồn gốc xuất thân
của họ. Song song với việc thủ tiêu hệ thống đẳng cấp, các quy tắc và luật lệ
phong kiến hạn chế quyền tự do kinh tế cũng được bãi bỏ, các biện pháp tích cực
thúc đẩy cơ sở hạ tầng được thực hiện, đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải, đẩy
mạnh việc cải cách hệ thơng tài chính - tiền tệ, trong đó đặc biệt là cải cách hệ
thơng thuế, thuế hiện vật được thay bằng thuế tiền, chế độ tiền tệ Tokagaoa được
thay thế bằng một đồng tiền hợp lý và chuẩn hóa cho cả nước, việc phát hành tiền

thuộc độc quyền của Chính phủ Trung ương; Nhà nước tập trung mạnh cho đầu tư
giáo dục. Chính phủ đồng thời khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các ngành
cơng nghiệp hiện đại gắn liền với thực hiện tư nhân hóa các doanh nghiệp Nhà
nước, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tiếp thu tư tưởng và kỹ thuật mới
nhằm hiện đại hóa đất nước.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản phục hồi và đạt được sự
tăng trưởng thần kỳ. Giai đoạn này gọi là nền kinh tế thị trường có hướng dẫn.
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản thời kỳ này là:
Thứ nhất, Chính phủ vừa thực hiện chính sách tạo điều kiện cho tư nhân tư do
kinh doanh thuận lợi; vừa loại bỏ những yếu tố khơng hồn thiện của thị trường.


13
Thứ hai, Chính phủ đảm trách chi phí đầu tư cho những ngành cơng nghiệp
khơng có lãi nhưng rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế như: xây dựng cơ sở hạ
tầng, văn hóa, giáo dục
Thứ ba, sự hợp tác giữa Chính phủ và tư nhân trong phát triển kinh tế được
thực hiện một cách thường xuyên và chặt chẽ.
Thứ tư, Chính phủ coi trọng cơng cụ kế hoạch hóa gián tiếp trong điều tiết,
quản lý nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, sự phát triển kinh tế thị trường Nhật Bản nổi lên mấy vấn đề cơ
bản sau đây:
Thực hiện dân chủ hóa kinh tế gắn liền với dân chủ hóa chính trị và xã hội.
Kinh tế thị trường khơng có nghĩa là nền kinh tế vơ Chính phủ. Vì vậy cần có sự
can thiệp, điều tiết của Nhà nước. Thời kỳ đầu tiên phát triển kinh tế thị trường,
Chính phủ Nhật Bản can thiệp trực tiếp rộng rãi và khá sâu vào nền kinh tế,
nhưng sự can thiệp đó của Nhà nước càng về sau càng giảm dần.
Ngồi việc giải thoát về tư tưởng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh, phải
không ngừng chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo.
Tăng cường và chủ động mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

Tuy vậy, thời gian gần đây người ta bắt đầu đặt vấn đề về sự can dự quá
nhiều của Chính phủ vào những lĩnh vực cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng vì
tính hiệu quả giảm sút của sự can dự này.
3.4. Kinh tế thị trường các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS Châu á
Tuy có những nét riêng biệt, nhưng sự phát triển kinh tế thị trường các
nước và vùng lãnh thổ NICS Châu á có những đặc điểm chung cơ bản giống
nhau, đó là:
Thứ nhất, vai trị của doanh nhân dưới sự điều tiết của bàn tay thị trường
được đề cao trong phát triển kinh tế. Vì vậy, Nhà nước tập trung vào việc thực
thi hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường cho khu vực kinh tế tư nhân
phát triển, coi khu vực kinh tế tư nhân là hạt nhân của kinh tế thị trường, là
giường cột và động lực của nền kinh tế.


14
Thứ hai, xác định và thực thi vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị
trường. Chính phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS Châu á hạn chế sự tham
gia vào hoạt động kinh doanh. Vì vậy tỷ trọng của khu vực kinh tế Nhà nước
luôn rất nhỏ và sự tồn tại của khu vực kinh tế Nhà nước không bao giờ dẫn đến
lấn át, chèn ép kinh tế tư nhân, mà là để giúp đỡ kinh tế tư nhân. Do đó Nhà
nước chỉ đầu tư vào những ngành nhiều rủi ro hoặc tư nhân chưa đủ tiềm lực về
tài chính hoặc kỹ thuật. Vì vậy, Nhà nước với tư cách đại diện cho lợi ích quốc
gia, ln đi đầu trong những lĩnh vực khó khăn phức tạp. Và sau khi đã vượt qua
giai đoạn khởi đầu gian khó, khi doanh nghiệp đã hoạt động tốt, dần dần Chính
phủ chuyển giao lại cho tư nhân thơng qua chương trình tư nhân hóa.
Đồng thời Chính phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS Châu á rất chú
trọng việc xây dựng Chính phủ mạnh và hiệu quả; đội ngũ cơng chức được đào
tạo kỹ càng, chun nghiệp hóa cao, để thực thi nhiệm vụ; đề xuất và thực thi tốt
những chính sách thơng minh, sáng suốt. Do vậy, hoặc kích thích khả năng sáng
tạo và chủ động của các công ty tư nhân, hoặc bảo vệ quyền lợi chính đáng của

tư nhân trong các cuộc xung đột, hoặc điều hịa tốt lợi ích tư nhân với nhau,
hoặc điều hịa được lợi ích tư nhân với lợi ích Chính phủ, lợi ích cục bộ với lợi
ích tồn cục.
Chính phủ khi nâng đỡ cũng như khi trừng phạt, tất cả đều thực hiện một
cách nhất quán, minh bạch trong khuôn khổ luật pháp quốc gia và công ước
quốc tế.
Thứ ba, khuyến khích hướng ngoại mạnh mẽ.
NICS Châu á tuy có thực hiện sản xuất thay thế nhập khẩu, nhưng chỉ trong
thời gian ngắn, khơng đáng kể. Vì vậy có thể nói rằng chiến lược hương ngoại,
hướng về xuất khẩu là chiến lược chủ yếu trong đường hướng phát triển của
NICS Châu á.
Cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu được thực thi một cách nhất quán
theo phương thức: vốn, kỹ thuật, phương pháp quản lý hiện đại là của các công
ty xuyên quốc gia, còn lao động và nguyên liệu (một phần nào đó) là của nước
sở tại và thị trường tiêu thụ là các nước công nghiệp phát triển. Gắn liền song


15
song với phương thức phát triển như vậy là hệ thống giải pháp, chính sách để
khuyến khích xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài rất hữu hiệu.
Thực tiễn NICS Châu á chứng minh rằng, mở cửa kinh tế; gắn sự phát triển
kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, gắn sự phát triển thị trường trong nước
với thị trường thế giới là con đường phát triển có hiệu quả nhất trong thời đại
ngày nay.
Thứ tư, phát triển các hoạt động nghiên cứu ứng dụng và triển khai tiến bộ
khoa học - cơng nghệ.
Chính phủ NICS Châu á rất chú trọng đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu
và triển khai khoa học - công nghệ (thường từ 1,5 - 2% GNP) để gia tăng nhanh
chóng năng lực khoa học - công nghệ quốc gia. Trong phát triển khoa học - công
nghệ, bước đi của NICS Châu á là, lúc đầu chủ yếu thực hiện sao chép, bắt

chước và khi đã làm chủ được một số công nghệ phức tạp thì Chính phủ tăng
đầu tư cho các phịng thí nghiệm và nghiên cứu; đẩy nhanh việc phát triển các
ngành cơng nghiệp có hàm lượng khoa học, chất xám cao; nhờ đó tăng nhanh tỷ
lệ giá trị gia tăng, tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm và của tồn bộ nền
kinh tế.
Thứ năm, đẩy mạnh sự hình thành và phát triển các loại thị trường, đặc biệt
là thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường sức lao động; gắn với củng cố, kiện
toàn và hiện đại hóa hệ thống tài chính, ngân hàng.
Tóm lại, các quốc gia, vùng lãnh thổ NICS Châu á, một mặt vừa rất tôn
trọng những nguyên tắc, quy luật, thể chế thị trường mặt khác vừa xác định đúng
giới hạn về sự can thiệp vào kinh tế của Nhà nước và không ngừng nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
3.5. Kinh tế thị trường XHCN đặc sắc Trung quốc.
Thời điểm đánh dấu sự thay đổi có tính lịch sử chính thức chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang
màu sắc Trung Quốc là Hội nghị Trung ương 3 Đảng cộng sản Trung Quốc,
tháng 12- 1978. Quá trình cải cách, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường ở Trung Quốc được thực hiện với những bước đi


16
thận trọng, từ thực hiện thí điểm để rút kinh nghiệm, sau đó mới mở rộng trong
từng ngành và tồn bộ nền kinh tế qua các giai đoạn khác nhau.
Trước hết, về phương diện lý luận, quan điểm chính thống cho rằng, kinh tế
thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, là thủ đọan kinh tế có hiệu quả
cao, nó khơng có vấn đề họ xã hay họ tư; mọi quốc gia đều cần sử dụng nó.
Song vẫn có sự phân biệt về bản chất giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Sự phân biệt này chủ yếu thể hiện ở hai mặt:
cơ sở của chế độ sở hữu và chế độ phân phối. Với sở hữu, kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa lấy sở hữu tư nhân làm cơ sở, còn kinh tế thị trường Xã hội chủ

nghĩa lấy sở hữu công cộng làm cơ sở. Tuy vậy, lấy sở hữu công cộng làm cơ sở
không có nghĩa là sở hữu cơng cộng thuần nhất, tuyệt đối, mà sở hữu công cộng
ở những ngành, những lĩnh vực nào nhằm giữ vai trò chủ đạo đối với các hình
thức sở hữu khác như : cá thể, tư nhân, hỗn hợp. Và cũng khơng có nghĩa là,
kinh tế cơng hữu phải có tỷ trọng lớn, vì tỷ trọng cho từng ngành kinh tế đến đâu
cho thích hợp là trên góc độ có lợi cho sự phát triển của sức sản xuất.
Về chế độ phân phối, khẳng định, kết quả cuối cùng của kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa không nhằm tập trung tài sản vào trong tay một số ít cá nhân
như kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa, mà nhằm đem lại sự sung túc chung
cho mọi tầng lớp dân cư. Chủ nghĩa xã hội lấy phân phối theo lao động là chính,
nhưng cũng chấp nhận các hình thức phân phối khác.
Tuy vậy, sự khác biệt về bản chất giữa kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nêu trên, hiện vẫn khơng ít học giả cho
rằng, đấy là những luận điểm thiếu chính xác, quá co dãn, gượng ép và khơng
thuyết phục, do đó vẫn cịn nhiều tranh cãi.
Phân đoạn một cách tương đối, thì quá trình chuyển sang kinh tế thị trường
của Trung Quốc (từ tháng 12-1978 đến nay) có thể chia thành 4 giai đoạn và
được thực hiện tập trung vào những vấn đề chính như sau:
Thứ nhất, thay đổi phương thức quản lý, từ kế hoạch hóa tập trung sang
quản lý theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, mà hạt nhân là từ bỏ cách Chính
phủ trực tiếp quản lý nền kinh tế, thực hiện quản lý gián tiếp từ sản xuất kinh


17
doanh đến lĩnh vực phân phối; tách chức năng quản lý hành chính ra khỏi chức
năng kinh doanh; tách quyền sở hửu với quyền kinh doanh; mở rộng quyền tự
chủ cho các địa phương và các doanh nghiệp Nhà nước theo phương thức đẩy xí
nghiệp ra thị trường.
Thứ hai, cải cách giá. Đây là khâu quan trọng nhất và cũng gay go nhất trong
quá trình chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. Q trình tự do hóa giá cả được

thực hiện qua các giai đoạn khác nhau. Từ việc điều chỉnh giá nhiều mặt hàng
theo chế độ hai giá là, giá quy định và giá hướng dẫn, đồng thời thả nổi giá cả
hàng nông sản và hàng công nghiệp nhẹ; cho đến việc bãi bỏ tem phiếu, thực hiện
giá cả thị trường tự do với nhiều loại nguyên, vật liệu; thừa nhận tư liệu sản xuất,
thông tin khoa học, kỹ thuật, tiền tệ, sức lao động, đất đai là hàng hóa. Tới nay,
khoảng 75% vật tư và tồn bộ hàng nông sản là do thị trường quyết định giá; hàng
tiêu dùng do Nhà nước chỉ định giá chỉ chiếm khoảng 10% tổng doanh thu.
Thứ ba, hình thành và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất.
Chính phủ ban hành luật pháp và các chính sách để thúc sự hình thành và
phát triển các loại thị trường như: thị trường kỹ thuật, vật tư, vốn, sức lao động,
đất đai Sự xuất hiện và phát triển hệ thống thị trường đã làm cho cơ chế thị
trường của Trung Quốc hoạt động ngày càng linh hoạt, mềm dẻo và rộng khắp
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tạo mơi trường thuận lợi cho sự
phát triển của mọi thành phần kinh tế; thừa nhận một cách chính thức sự tồn tại
lâu dài và khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế thị
trường mang màu sắc Trung Quốc. Đồng thời đẩy mạnh quá trình cấu trúc lại
kinh tế Nhà nước. Vì vậy kinh tế tư nhân trong nước ngày càng được khuyến
khích phát triển mạnh bằng những chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và được
liên doanh, liên kết với kinh tế nước ngồi.
Thứ năm, hình thành phong cách kinh doanh thích ứng với kinh tế thị
trường và kinh doanh quốc tế; tự do hóa thương mại; mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại, gia nhập WTO.


18
Tóm lại, q trình chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường ở Trung Quốc được thực hiện với nhiều bước đi, nhưng luôn luôn nhất
quán. Và thực tiễn đã chứng minh rằng, xây dựng và phát triển kinh tế thị trường
của Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu lớn lao, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng

kinh tế, đứng vào hàng cao nhất thế giới trong hơn 30 năm qua.
Tất nhiên, gắn liền với những thành quả, quá trình phát triển kinh tế thị
trường Trung Quốc cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, như: tình
trạng thất nghiệp tăng, phân hóa giàu nghèo có xu hướng ngày càng sâu sắc
thêm, tình trạng di dân cơ học vào các khu đô thị vượt ra khỏi tầm kiểm soát
Nhưng Trung Quốc cho rằng, những khó khăn và phức tạp là tất yếu trên con
đường đi tới mục tiêu.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1. Trước năm 1986
Khác với một số nước Đông Âu, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy
chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, nhất là trong việc xây dựng và phát triển nền
kinh tế. Để sớm có chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã sử dụng mơ hình kinh tế mà
LiênXơ và các nước xã hội chủ nghĩa khác đang có. Để là nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa với sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
dưới hai hình thức: sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể, trong đó sở hữu tồn dân
đóng vai trò chủ đạo.
Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế
phát triển có kế hoạch, quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế
quốc dân là quy luật đắc thù riêng của chủ nghĩa xã hội, nên nhà nước ta đã lấy
kế hoạch hố làm cơng cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế. Như vậy trong thời kì
này đã nhận thức rõ tầm quan trọng có ý nghĩa chi phối của các chính sách kinh
tế vĩ mô đối với các hoạt động kinh tế.
Nhưng nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, các cơ
quan nhà nước thì can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Các cơ
sở sản xuất (quốc doanh và tập thể chiếm đại bộ phận, thành phần kinh tế cá thể


19
nhỏ bé khơng đáng kể) việc sản xuất cái gì bao nhiêu, như thế nào và bán cho ai

đều là do nhà nước quyết định và theo một kế hoạch thống nhất từ trung ương.
Các cơ sở sản xuất chỉ là người chấp hành một cách thụ động.
Việc quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã giúp chúng
ta giải quyết được một số vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng nhất là việc huy
động nhân tài, vật lực phục vụ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải
phóng Miền nam, thống nhất đất nước.
Nhưng khi đất nước được hồ bình, thống nhất và bước vào thời kỳ xây
dựng, phát triển kinh tế thì cơ chế quản lý này bộc lộ nhược điểm cơ bản là nó
thiếu động lực cho sự phát triển.
Trên thực tế, kinh tế hàng hoá vẫn được thừa nhận, quan hệ hàng hoá-tiền
tệ được thừa nhận nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hố một thành phần thành phần xã hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất dưới
hình thức: tồn dân và tập thể.
2. Sau năm 1986
Đó là thời kỳ đổi mới tồn diện Mơ hình kinh tế thơng qua nghị quyết của
các kỳ đại hội Đảng. Mơ hình kinh tế cũ bị xố bỏ, mơ hình kinh tế mới được
xây dựng phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, với trình độ phát triển nền
kinh tế.
Trong thời kỳ này, đã diễn ra sự biến đổi cơ bản trong mơ hình kinh tế, từ
mơ hình q độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội sang mơ hình q độ gián tiếp, tức
là chuyển sang mơ hình kinh tế lấy sản xuất và trao đổi hàng hoá trong nền kinh
tế nhiều thành phần ở một nước kém phát triển về kinh tế làm nội dung cốt lõi.
Đây là mô hình kinh tế được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn chủ nghĩa xã
hội của nước ta, vận dụng một cách có phát triển sáng tạo những quan điểm cơ
bản của Lênin về chính sách kinh tế mới vào những điều kiện lịch sử ở nước ta.
Thực hiện mơ hình kinh tế mới nhằm mục tiêu căn bản, cấp thiết là tăng nhanh
lực lượng sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, tạo cơ sở vật chất và
xã hội hoá từng bước nền sản xuất xã hội.


20

Thực tiễn kinh tế đất nước từ khi chuyển sang mơ hình kinh tế mới đã và
đang chứng minh tính khách quan khoa học, tính hiệu quả cao của mơ hình kinh
tế đó. Chỉ trong một thời gian ngắn mơ hình kinh tế mới đã đem lại những thành
tựu rất quan trọng, góp phần quyết định đưa nước ta thốt khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội gay gắt và tạo ra những tiền đề cho thời kỳ phát triển mới,
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Là một mơ hình kinh tế hồn tồn mới có trong lịch sử, mà thời gian đưa
vào thực hiện chưa được bao lâu nên chúng ta chưa thể xem đó là mơ hình đã
xong xi, hồn chỉnh. Cịn cần phải cói thời gian và kinh nghiệm thực tiễn để
bổ sung, hồn thiện mơ hình đó.
Tóm lại, từ sau năm 1986 nền kinh tế nước ta đã đạt được thành tựu đáng
kể. Nền kinh tế chuyển dần từ đóng sang mở, làm xuất hiện nhiều Thị trường
với quy mô lớn, đời sống nhân dân được cải thiện, kinh tế đất nước tăng trưởng.
Song nước ta vẫn là một nước chậm phát triển, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, nền
kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc.
3. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có những tính
chất chung của kinh tế thị trường, nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn
có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luât cạnh
tranh; có chủ thể kinh tế có tính độc lập, tự chủ để có quyền ra những quyết định
phi tập trung hoá, thị trường có vai trị quyết định trong việc phân phối các
nguồn lực kinh tế, giá cả do thị trường quyết định, nhà nước điều tiết kinh tế vĩ
mô để giảm bớt những thất bại của thị trường
Nhưng bất cứ nền kinh tế thị trường nào cũng hoạt động trong những điều
kiện lịch sử - xã hội của một nước nhất định, nên nó bị chi phối bởi điều kiện
lịch sử và đặc biệt là chế độ xã hội của nước đó và do đó có những đặc điểm
riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường của các nước khác. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng sau:
- Về chế độ sở hữu



21
Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó có
loại hình sở hữu làm chủ đạo. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại ba
loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba
loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức
kinh doanh. Do đó khơng chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế
độ công hữu, mà cịn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc
sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị
kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp
tác liên doanh giữa trong và ngồi nước, các hình thức đan xen và thâm nhập
vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách
chủ thể thị trường bình đẳng;
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.Việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo là sự khác biệt có
tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh
tế thị trường cuả các nước khác. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo
trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một
cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước, nói đúng ra kinh tế dựa trên
chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế
cho chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Về quan hệ phân phối
Nước ta thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó phân phối
theo kết quả lao động giữ vai trị nịng cốt, đi đơi với chính sách điều tiết thu
nhập một cách hợp lí. Chúng ta khơng coi bất bình đẳng xã hội như là một trật
tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời
sống nhân dân, tiến bộ và cơng bằng xã hội;
Mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân
phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Phân

phối có liên quan đến chế độ chính trị, xã hội. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng
về sở hữu do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng, phân phối theo lao


22
động là đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội. Mà thu nhập của người lao động
không phải chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà nó phải vượt qua đại lượng đó,
nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Việc đo lường
trực tiếp lao động là một vấn đề quá phức tạp và khó khăn, nhưng trong nền kinh
tế thị trường, có thể thơng qua thị trường để đánh giá kết quả lao động, sự cống
hiến thực tế và dựa vào đó để phân phối. Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã
hội, kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên
tắc của kinh tế thị trường.
- Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế.
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh
tế nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai
cấp tư sản.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý của
nhà nước lại nhằm mục đích bảo vệ những quyền lợi chính đáng của tập thể
nhân dân lao động.
Cơ chế vận hành kinh tế thị trường định hưóng xã hội chủ nghĩa là cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
nam. Cơ chế đó đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị
trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước cần hạn chế tối đa
những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chue
yếu theo sự hướng dẫn của quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh; đảm bảo
nguyên tắc thị trường tự điều chỉnh. Mặt khác, do trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết kinh tế - xã hội

của đất nước trong từng thời kỳ, do đó còn phải chịu sự điều chỉnh, quản lý của
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không thể xem các quan hệ thị trường hoạt
động theo quy luật, biệt lập hồn tồn với kế hoạch hố định hướng và các chính
sách kinh tế của nhà nước.


23
Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể
hiện rõ các mặt cơ bản:
Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa nhà nước của dân, do dân và vì dân là
nhân tố đóng vai trò nhân vật trung tâm và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm tạo
dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế xã hội thuận lợi cho các doanh
nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo
cơng bằng xã hội; can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế để đạt được các
mục tiêu đặt ra.
Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố trung gian của nền kinh tế, Đóng vai
trị trung gian giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Một vấn đề quan trọng nước ta quản lý nền kinh tế - xã hội theo nguyên tắc
kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo về lợi ích của người lao động và của tồn
thể nhân dân.
III. GIẢI PHÁP CỦA Q TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1. Những khó khăn của q trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thị trường nước ta hình thành chưa đồng bộ hồn thiện cịn nhiều bất cập.
Sự cạnh tranh trên thị trường cịn nhiều yếu tố bất bình đẳng. Vì vậy, sự phân
phối và sử dụng nguồn lực như đất đai, lao động, nguồn vốn còn kém hiệu quả.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế chưa thật ổn định và vững chắc. Sự tăng
trưởng này chủ yếu theo đầu tư vốn và lao động. Chưa tạo lập được một hệ thống

thị trường đầy đủ theo yêu cầu của cơ chế thị trường, thị trường hàng hố và dịch
vụ tuy có hoạt động sôi nổi nhưng chỉ tập trung ở thành phố, đô thị lớn và một số
tỉnh biên giới, về cơ bản là tự phát, lộn xộn rất khơng bình thường, thị trường
nông thôn không được quan tâm. Trong khu vực kinh tế nhà nước, thị trường lao
động chỉ tồn tại ở trình độ thấp, cịn có 1/3 doanh nghiệp nhà nước làm ăn chưa
có lãi hoặc thua lỗ. Tình trạng kinh doanh phi pháp rất nghiêm trọng. Nạn tham
nhũng, buôn lậu, làm hàng giả ngày càng gia tăng phá hoại sản xuất nội địa gây


24
thiệt hại cho lợi ích người tiêu dùng và gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
Trình độ lực lượng sản xuất thấp kém có nguy cơ tụt hậu so với nhiều nước. Mặt
khác kết cấu hạ tầng trong kinh tế còn quá kém, việc phát triển nguồn lực con
người nhằm tạo ra lực lượng lao động có kĩ thuật còn hạn chế, cơ sở quan trọng
nhất cho sự cất cánh của nền kinh tế còn quá hạn hẹp. Sự phân hoá giàu nghèo
trong xã hội đang diễn ra khá nhanh và có xu hướng ngày càng gia tăng.
2. Giải pháp khắc phục khó khăn phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Hình thành, tạo lập phát triển đồng bộ các loại thị trường
Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các loại thị trường quan trọng
nhưng hiện chưa có hoặc cịn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ...
Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ phát huy vai trò nòng cốt, điều tiết
và định hướng của kinh tế nhà nước trên thị trường, đáp ứng nhu cầu đa dạng và
nâng sức mua của nhân dân, mở rộng thị trường mới ở nước ngoài, chủ động hội
nhập thị trường quốc tế, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mở rộng thị trường lao động trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, tạo
cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, khuyến khích người lao động
tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, tay nghề.

Tổ chức thị trường khoa học và công nghệ, thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí
tuệ, đẩy mạnh các dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ.
Phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị
trường bảo hiểm, hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ, tăng khả năng chuyển
đổi của đồng tiền Việt Nam.
Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử
dụng đất; từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước
ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư.
Phát triển đồng bộ cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của
cơ chế thị trường, triệt để xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò điều


25
tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách
nhiễu, gây phiền hà. Tạo mơi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh
nghiệp cạnh tranh, hợp tác để phát triển
Đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Đổi
mới cơng tác kế hoạch hố, nâng cao chất lượng xây dựng và chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường thông tin kinh tế. Bảo đảm
minh bạch, công bằng trong thu, chi ngân sách, nâng cao hiệu quả các chương
trình quốc gia, nhất là các chương trình giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn. Hồn
thiện phương thức quản lý vốn nhà nước đầu tư phát triển, vốn đầu tư xây dựng
cơ bản, tăng cường quản lý nợ chính phủ, nợ nước ngoài. Tiếp tục cải thiện hệ
thống thuế phù hợp theo hướng đơn giản, thống nhất không phân biệt đầu tư
trong nước, đầu tư nước ngồi; ni dưỡng nguồn thu, hiện đại hố cơng tác
quản lý thuế của Nhà nước.
Xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước thành các doanh
nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức cạnh
tranh; thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt; tách tín dụng ưu đãi của Nhà nước

khỏi tín dụng thương mại, lập ngân hàng chính sách.
Các giải pháp mà chúng ta vừa xem xét ở trên là giải pháp tác động tới cả
tầng vĩ mô và vi mô của nền kinh tế, mỗi giải pháp đều thể vai trị của nó trong
một lĩnh vực riêng biệt nhưng giữa chúng lại có mối liên hệ qua lại biện chứng
với nhau với một mục đích thống nhất là xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước
ta ngày càng phát triển hơn. Các giải pháp này phải được thực hiện đồng bộ với
sự cân nhắc trước khi thực hiện và tránh tình trạng chủ quan duy ý chí trong việc
cải cách nền kinh tế vốn là lĩnh vực nhạy cảm nhất đối với những tác động từ
bên ngồi. Các giải pháp trên thúc đẩy hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam
với màu sắc riêng của Việt Nam.
- Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng
Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát
triển kinh tế hàng hố,cần phải mở rộng phân cơng lao động xã hội, phân bố lại
lao động và dân cư trong phạm cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng
theo hướng chun mơn hố, hợp tác hố nhằm khai thác mọi quyền lực, phát


×