Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận Xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh và xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.11 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA SAU ĐẠI HỌC
--------------------------

BÀI THẢO LUẬN
LUẬT KINH TẾ NÂNG CAO
Tên đề tài: Xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh và xử lý
hành vi hạn chế cạnh tranh là không giống nhau
Nhóm thực hiện: 6

Giáo viên hướng dẫn:

Lớp: CH21B.QTKD.N

TS. Trần Thị Thu Phương

Hà Nội – 2016


BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
STT

Họ tên

Mã học viên
Tự ĐG

1

Bùi Thị Nhung


15B M0102042

2

Trần Thị Lê Nhung 15B M0102043

3

Trịnh Ngọc Phúc

15B M0102045

4

Dương Thị Hoa
Phượng

15B M0102047

5

Hoàng Văn Tài

15B M0102050

6

Ngô Thị Thủy

15B M0102053


7

Dương Thị Thùy
Tiên

15B M0102054

8

Lê Quỳnh Trang

15B M0102055

9

Nguyễn Anh Tuấn

15B M0102060

10

Nguyễn Thị Tuyến

15B M0102061

11

Phạm Xuân Tùng


15B M0102062

12

Đỗ Thị Thanh Vân

15B M0102063

13

Hoàng Hoài Sơn

Đánh giá
Nhóm
trưởng ĐG

Giáo viên
ĐG

Ghi
chú


MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
Cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng đóng vai trò trụ cột, đảm bảo sự vận hành
hiệu quả của cơ chế thị trường. Pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp
trong kinh doanh, và Việt Nam trong nỗ lực tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi

cho phát triển kinh tế, theo đó Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật
Cạnh tranh số 27/2004/QH11 vào ngày 03/12/2004 và luật này đã có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01/7/2005
Vấn đề chống cạnh tranh không lành mạnh và chống hạn chế cạnh tranh (độc
quyền) tiếp tục là vấn đề nóng bỏng và sôi động của khoa học pháp lý nói chung và
khoa học pháp lý kinh tế nói riêng không chỉ đối với các quốc gia đã có nền kinh tế thị
trường phát triển mà cả ngay ở các quốc gia mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, trong đó có Việt Nam. Tuy là vấn đề còn mới, nhưng những năm qua, ở nước
ta đã thu hót được sự quan tâm của nhiều giới, nhiều nhà khoa học và một số công
trình nghiên cứu vấn đề này lần lượt ra đời vì: sự vận động của các quan hệ kinh tế
trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi pháp luật phải thực sự trở thành công cụ điều tiết
có hiệu quả của nhà nước. Pháp luật vừa góp phần bình ổn các quan hệ kinh tế vừa
điều chỉnh quan hệ kinh tế để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh, ổn định, có
tổ chức, theo định hướng, mục tiêu đã định. Chính vì vậy, để nghiên cứu thêm về vấn
đề này, em xin chọn đề tài: “Xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh và xử lý
hành vi hạn chế cạnh tranh là không giống nhau” làm đề tài cho bài tập lần này.

4


NỘI DUNG CHÍNH
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm về cạnh tranh.
Cạnh tranh xuất hiện từ khi có nền sản xuất hàng hóa vào thế kỷ XIV - XV
trong cuộc cách mạng tư sản và công nghiệp. Cạnh tranh là sự đua tranh của những
người sản xuất hàng hoá để giành ưu thế, lợi ích cho mình trên thị trường. Như vậy,
trong thời kỳ chưa có nền sản xuất hàng hoá, thị trường chưa hình thành và phát triển
thì không thể có hiện tượng cạnh tranh giữa những người sản xuất với nhau
Trong cơ chế thị trường, người tiêu dùng và các nhà sản xuất, cung cấp dịch vụ
tác động qua lại lẫn nhau trên thị trường để xác định xem cần phải sản xuất cái gì?

như thế nào? và cho ai? Do đó người tiêu dụng luôn giữ vị trí trung tâm, là đối tượng
hướng tới của các nhà sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ cùng loại hoặc hàng hoá, dịch
vụ thay thế - đối thủ tham gia cạnh tranh.
Cạnh tranh vận động theo sự biến đổi của quan hệ cung cầu trên thị trường,
chịu sự chi phối của quy luật giá trị, quy luật hình thành giá cả và các quy luật kinh tế
khách quan khác. Cạnh tranh chỉ có thể diễn ra khi các bên cung cầu có khả năng lựa
chọn, thay thế còn được tự do tham gia kinh doanh, tự do khế ước mà không bị bất kỳ
một cản trở nào tức là được bảo hộ về mặt pháp luật.
Rõ ràng cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp có thể tiếp cận ở
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ sản xuất, kinh doanh trong điều kiện
của cơ chế thị trường, khái niệm cạnh tranh có thể được hiểu một cách chung nhất như
sau: "Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các thành viên tham gia kinh tế thị trường
nhằm tối đa hoá lợi nhuận".
1.2. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh
tranh.
Luật Cạnh tranh phân nhóm các hành vi chịu sự điều chỉnh bởi luật thành hai
nhóm hành vi là hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
và hai nhóm hành vi này được định nghĩa bởi Luật Cạnh tranh như sau:
“Hành vi hạn chế cạnh tranh” (Practices in restraint of competition): là hành vi
của doanh nghiệp nhằm làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao
5


gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm
dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.
“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh” (Unfair competitive practices): là hành
vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực
thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu
dùng.

2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
2.1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật Việt Nam.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Đặc điểm cơ bản của hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
- Chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các chủ thể kinh
doanh trên thương trường.
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi trái với các chuẩn
mực thông thường về đạo đức kinh doanh.
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc của
người tiêu dùng.
Từ năm 2004, chúng ta (Việt Nam) đã ban hành Luật cạnh tranh, qui định thế
nào là những hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình
tự và thủ tục giải quyết các vụ việc tranh chấp về cạnh tranh … mục đích là bảo đảm
một “sân chơi” lành mạnh giữa các doanh nghiệp có cùng ngành nghề kinh doanh.
Tại Điều 39 qui định về các hành vi được xem là cạnh tranh không lành mạnh,
bị cấm. Chủ yếu gồm 9 hành vi sau :
“1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
6


5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;”
Cụ thể như sau:
- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
Là việc doanh nghiệp sử dụng những thông tin chỉ dẫn (chẳng hạn trên bao bì,
nhãn hàng, các pano quảng cáo ...) gây ra sự nhầm lẫn về tên thương mại, logo, chỉ
dẫn địa lý ... để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ của mình.
Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 2 Điều 130 của Luật Sở hữu trí tuệ gồm
các đối tượng sở hữu công nghiệp (nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý) và các
đối tượng sau đây:
+ Nhãn hàng hóa,
+ Khẩu hiệu kinh doanh,
+ Biểu tượng kinh doanh,
+ Kiểu dáng bao bì hàng hóa
- Xâm phạm bí mật kinh doanh;
Là việc doanh nghiệp có các hành vi như tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí
mật kinh doanh của doanh nghiệp khác, tiết lộ, sử dụng thông tin, bí mật kinh doanh
mà không được phép của chủ sở hữu chân chính...
- Ép buộc trong kinh doanh;
Là việc doanh nghiệp ép buộc, đe dọa khách hàng, đối tác kinh doanh của
doanh nghiệp đối thủ không cho họ giao dịch hoặc phải ngừng giao dịch với doanh
nghiệp đó.
- Gièm pha doanh nghiệp khác;
Gièm pha doanh nghiệp khác là việc doanh nghiệp bằng hành vi trực tiếp hoặc
gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng
tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.

7



Nội dung được đưa ra rất đa dạng, như chất lượng sản phẩm, tình hình tài
chính, uy tín và đạo đức của người quản lý, về cổ phiếu… Những thông tin này tác
động đến nhận thức và đánh giá của khách hàng về sản phẩm dịch vụ cũng như tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp khác. Qua đó khách hàng sẽ quyết định có hay
không việc giao dịch hoặc tiếp tục giao dịch với doanh nghiệp bị gièm pha. Trong
trường hợp này quyền được thông tin của khách hàng đã bị xâm phạm để qua đó các
quyết định không giao dịch với doanh nghiệp bị gièm pha không còn đúng đắn.
Hậu quả của hành vi là gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và
họat động kinh doanh của doanh nghiệp. Uy tín của doanh nghiệp phản ảnh niềm tin
và sự yêu thích của khách hàng đối với doanh nghiệp hoặc sản phẩm dịch vụ. Sự giảm
sút uy tín thể hiện giảm sút giao dịch, giảm doanh số bán, giảm số lượng khách hàng.
- Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là việc một doanh nghiệp
có hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp “đối thủ”
- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
Đó là những trường hợp quảng cáo dùng từ :"nhất"; so sánh trực tiếp với đối
thủ…….
- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
+ Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng, không trung thực hoặc gây
nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng.
+ Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
+ Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi
hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để
dùng hàng hóa của mình;
Ví dụ trường hợp của Viettel trước đây, khuyến mại lên đến 100% để thu hút
khách hàng, trong khi theo luật chỉ tối đa 50%
- Phân biệt đối xử của hiệp hội;


8


Phân biệt đối xử của Hiệp hội được thể hiện bằng những hành vi sau đây:
+ Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu
việc từ chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi
trong cạnh tranh;
+ Hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có liên
quan tới mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên
- Bán hàng đa cấp bất chính;
Là việc doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây:
+ Yêu cầu người tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban
đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
+ Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho
người tham gia để bán lại;
+ Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ
yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
+ Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng
đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác
tham gia.
2.2. Khái niệm, vai trò của chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hình thức trách
nhiệm pháp lý được Nhà nước áp dụng đối với các chủ thể kinh doanh, buộc các chủ
thể đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do đã có hành vi cạnh tranh không lành
mạnh gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh và các chủ thể khác. Vai trò của các chế
tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, chống lại hành vi
cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp đối thủ.
- Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (khách hàng).
- Là công cụ góp phần tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành

mạnh, bình đẳng, công bằng.

9


2.2.1. Căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
a. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh có bản chất là hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh, hủy
hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi
tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo.
b. Thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh
Thiệt hại là một đặc điểm cơ bản của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và là
điểm phân biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Việc xác định thiệt hại (vật chất hoặc tinh thần) là một yêu cầu bắt buộc và cần thiết
để bên bị hại có căn cứ đòi bồi thường và cơ quan có thẩm quyền áp dụng chế tài bồi
thường thiệt hại.
c. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại
Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại là mối quan hệ trực tiếp,
nội tại, không phải là sự suy diễn chủ quan. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là
hành vi diễn ra trước, thiệt hại trực tiếp do hành vi đó gây ra xảy ra sau. Bên thực hiện
hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý và các chế tài
tương ứng khi gây ra thiệt hại nhất định cho đối thủ cạnh tranh, mà nguyên nhân trực
tiếp là hành vi cạnh tranh không lành mạnh của mình
d. Lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh
Lỗi được xác định là trạng thái tâm lý của người có hành vi vi phạm, phản ánh
nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Việc
xác định lỗi trong cạnh tranh thường phải dựa vào các tập quán nghề nghiệp. Hành vi
cạnh tranh bị coi là có lỗi và không lành mạnh là hành vi vi phạm các tập quán nghề
nghiệp, phá vỡ quan hệ bình đẳng, công bằng trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường.
2.2.2. Các hình thức chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh

a. Chế tài hành chính
Theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, các hình thức chế tài xử lý vi
phạm về cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu là các chế tài hành chính, được quy
định trong các quy phạm pháp luật mang tính xử phạt và khắc phục hậu quả do hành
vi vi phạm gây ra (Điều 117). Các hình thức xử lý đó đã được Nghị định 71/2014/NĐCP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định chi tiết, bao gồm:
10


- Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền đến 100 triệu đồng đối với cá nhân và 200
triệu đồng đối với tổ chức.
- Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;Tịch thu tang vật,
phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh bao gồm cả tịch thu
khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
Ngoài các hình thức xử phạt đó, đối tượng vi phạm còn có thể bị áp dụng biện
pháp khắc phục hậu quả khác được quy định tại khoản 3 Điều 3 của Nghị định.
b. Chế tài hình sự
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh được quy định tại Chương XVI "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế" của
Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009, biểu hiện dưới các tội danh như: Tội
sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực,
thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); tội sản xuất, buôn bán
hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,
giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158); tội lừa dối khách hàng (Điều 162); tội quảng cáo
gian dối (Điều 168); tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171); tội cố ý
công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều
181a); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b); tội thao
túng giá chứng khoán (Điều 181c).
Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thường là phạt tiền, cải tạo không
giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt rất nặng như tù

chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định.
c. Chế tài dân sự.
Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng trong hệ thống chế tài áp dụng
đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chức năng chủ yếu của bồi thường thiệt
hại là khôi phục, đền bù nhằm bù đắp những tổn thất về mặt vật chất và tinh thần mà

11


bên mang quyền phải gánh chịu do hành vi vi phạm các quy tắc trong kinh doanh của
bên kia gây ra. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh của nước nào cũng quy định chế định này.
Theo pháp luật cạnh tranh của Việt nam, khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt
hại thì phải dẫn chiếu đến pháp luật dân sự. Vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại
đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng theo các quy định về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Chương XXI Bộ luật dân sự 2005 và pháp luật có
liên quan khác.
Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại là một quyền mặc định được pháp luật thừa
nhận, nhằm đảm bảo quyền lợi một cách hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh. Vì
vậy, chế tài bồi thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với một chế tài khác.
d. Mối quan hệ giữa các hình thức chế tài.
Các chế tài có bản chất, nội dung, hậu quả trái ngược nhau thì không thể áp
dụng đồng thời. Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh có tính độc
lập nhất định, trừ một số biện pháp bổ sung, khắc phục hậu quả trong các chế tài hành
chính.
Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, không có sự chuyển hóa giữa vi
phạm hành chính với tội phạm theo lý thuyết thông thường. Hậu quả không phải là
căn cứ tiên quyết để xác định áp dụng chế tài hành chính hay chế tài hình sự, vì thiệt
hại luôn là dấu hiệu bắt buộc trong việc xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Tính chất nguy hiểm của hành vi không căn cứ vào sự phân tích tầm quan trọng của
quan hệ xã hội mà hành vi xâm hại, mà căn cứ vào những viện dẫn của Điều luật.
Những chế tài mang tính trách nhiệm vật chất thường có thể áp dụng đồng thời
với các chế tài khác. Vì vậy, khi doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh không
lành mạnh gây ra thiệt hại cho chủ thể khác thì tất yếu phải chịu trách nhiệm bồi
thường dân sự. Nghĩa là chế tài bồi thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với chế
tài hành chính hoặc chế tài hình sự.
3. Hành vi hạn chế cạnh tranh và biện pháp xử lý trong pháp luật Việt Nam.
Theo khoản 3, Điều 3 của Luật cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh là hành
vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Các
hành vi thuộc nhóm hạn chế cạnh tranh bao gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm
dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.
12


3.1. Thoả thuận hạn chế cạnh tranh.

Luật và các văn bản hướng dẫn không trực tiếp nêu khái niệm về thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, tuy nhiên theo cách tiếp cận của khoản 3, Điểu 3, Luật cạnh tranh,
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được hiểu là thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều
doanh nghiệp nhằm mục đích làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường.
Xét trên mức độ tác động tới môi trường cạnh tranh, Luật cạnh tranh phân các
hành vi thỏa thuận thành hai nhóm, gồm nhóm thỏa thuận bị cấm khi thị phần kết hợp
của các bên tham gia thỏa thuận chiếm từ 30% trở lên và nhóm thỏa thuận bị cấm
trong mọi trường hợp
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
- Nhóm thỏa thuận bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa thuận
chiếm từ 30%:
+ Thoả thuận ấn định giá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
+ Thoả thuận phân chia thị trường;

+ Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán;
+ Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
+ Thoả thuận áp đặt điều kiện ký kết hợp đồng hoặc buộc chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng hợp đồng.
Các Thỏa thuận này được quy định cụ thể tại Điều từ 14 đến 18 của Nghị định
116/2005/NĐ-CP.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật cạnh tranh các thỏa thuận dạng này chỉ
bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa thuận chiếm từ 30% trở lên và
có thể được miễn trừ theo quy định tại Điều 10, Luật cạnh tranh.
- Nhóm thỏa thuận bị cấm trong mọi trường hợp
+Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
+ Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các
bên của thoả thuận;
+ Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Các thỏa thuận dạng này bị cấm trong mọi trường hợp và không được miễn trừ.
13


Hình thức xử lý vi phạm
Trên cơ sở xem xét các yếu tố như mức độ gây hạn chế cạnh tranh do hành vi
vi phạm gây ra, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra, khả năng gây hạn chế
cạnh tranh của các đối tượng vi phạm, thời gian thực hiện hành vi vi phạm, khoản lợi
nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết
tăng nặng các doanh nghiệp vi phạm quy định về tập trung kinh tế có thể phải chịu
các hình thức xử lý vi phạm sau:
- Phạt tiền với mức phạt tối đa 10% tổng doanh thu của các doanh nghiệp vi
phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm;
- Phạt bổ sung: như tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện

hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực
hiện hành vi vi phạm;
- Các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc loại bỏ những điều khoản vi
phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh.
Mức phạt, các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định cụ
thể trong Luật cạnh tranh và Nghị định số 71/2014/NĐ-CP.
3.2. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Vị trí thống lĩnh thị trường
Theo Điều 11 Luật Cạnh tranh, vị trí thống lĩnh trên thị trường được xác định
dựa trên thị phần hoặc khả năng gây hạn chế cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc
một nhóm doanh nghiệp. Theo đó, Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị
trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Một nhóm doanh nghiệp cũng có thể được coi
là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và
thuộc một trong các trường hợp sau:
- Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan.
- Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan.
- Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.

14


Việc xác định doanh thu, doanh số, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường
liên quan được quy định chi tiết trong Điều 10, 11, 12 và 13 của Nghị định
116/2005/NĐ-CP.
Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của doanh nghiệp trên thị
trường liên quan được xác định trên cơ sở xem xét các yếu tố được quy định tại Điều
22 Nghị định 116/2005/NĐ-CP như sau:
“- Năng lực tài chính của doanh nghiệp

- Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp
- Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối
hoạt động của của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh
nghiệp
- Năng lực tài chính của công ty mẹ
- Năng lực công nghệ
- Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
- Quy mô của mạng lưới phân phối”
Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
Điều 13 của Luật Cạnh tranh cấm tất cả các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường. Các hành vi này bao gồm:
- Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh
- Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng
- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự
phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng
- Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo
bất bình đẳng trong cạnh tranh
- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá,
dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng
- Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
Hình thức xử lý vi phạm
15


Trên cơ sở xem xét các yếu tố như mức độ gây hạn chế cạnh tranh do hành vi
vi phạm gây ra, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra, khả năng gây hạn chế
cạnh tranh của các đối tượng vi phạm, thời gian thực hiện hành vi vi phạm, khoản lợi

nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết
tăng nặng doanh nghiệp vi phạm quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có
thể phải chịu một trong các hình thức xử lý vi phạm sau:
- Phạt tiền với mức phạt tối đa 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường hoặc từng doanh nghiệp thuộc nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi phạm.
- Phạt bổ sung với các hình thức như tịch thu tang vật, phương tiện được sử
dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu
được từ việc thực hiện hành vi vi phạm...
- Các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc loại bỏ những điều khoản vi
phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh liên quan, buộc cơ cấu lại
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường…
Mức phạt, các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối
với từng hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh được quy định cụ thể trong Luật cạnh tranh
và Nghị định số 71/2014/NĐ-CP.
3.3. Lạm dụng vị trí độc quyền
Vị trí độc quyền
Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào
cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên
quan (Điều 12, Luật Cạnh tranh)
Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Về bản chất, doanh nghiệp có vị trí độc quyền là doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh nắm giữ 100% thị phần trên thị trường liên quan. Do đó, các hành vi lạm dụng vị
trí độc quyền bị cấm bao gồm toàn bộ các hành vi bị cấm đối với doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường. Ngoài ra, Điều 14 Luật cạnh tranh còn quy định thêm hai
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm như sau:
- Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;

16



- Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã
giao kết mà không có lý do chính đáng.
Quy định cụ thể về các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm được đưa ra
tại các Điều từ 23 đến 33 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP.
Hình thức xử lý vi phạm
Trên cơ sở xem xét các yếu tố như mức độ gây hạn chế cạnh tranh do hành vi
vi phạm gây ra, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra, khả năng gây hạn chế
cạnh tranh của các đối tượng vi phạm, thời gian thực hiện hành vi vi phạm, khoản lợi
nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết
tăng nặng, doanh nghiệp vi phạm quy định về lạm dụng vị trí độc quyền có thể phải
chịu một trong các hình thức xử lý vi phạm sau:
- Phạt tiền với mức phạt tối đa 10% tổng doanh thu của các doanh nghiệp vi
phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
- Phạt bổ sung: như tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện
hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực
hiện hành vi vi phạm...
- Các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc loại bỏ những điều khoản vi
phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh liên quan, buộc khôi phục
các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp đã cản trở, buộc loại bỏ
các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng, buộc khôi phục lại các điều khoản hợp
đồng đã thay đổi mà không có lý do chính đáng, buộc khôi phục lại hợp đồng đã huỷ
bỏ mà không có lý do chính đáng.
Mức phạt, các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối
với từng hành vi lạm dụng vị trí độc quyền được quy định cụ thể trong Luật cạnh
tranh và Nghị định số 71/2014/NĐ-CP.
3.4. Tập trung kinh tế
Tâp trung kinh tế
Luật Cạnh tranh không đưa ra định nghĩa về tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các
loại hình hành vi. Cụ thể, Điều 16 Luật cạnh tranh quy định tập trung kinh tế là hành

vi của doanh nghiệp bao gồm: (i) sáp nhập doanh nghiệp; (ii) hợp nhất doanh nghiệp;
(iii) mua lại doanh nghiệp; (iv) liên doanh giữa các doanh nghiệp; (v) các hành vi tập
17


trung khác theo quy định của pháp luật. Điều 17, đưa ra định nghĩa cho từng hành vi
như sau:
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp
mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài
sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề
của doanh nghiệp bị mua lại.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng
nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình
thành một doanh nghiệp mới.
Kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế
Xuất phát từ sự cần thiết phải kiểm soát các hoạt động tập trung kinh tế để
tránh tình trạng hình thành các doanh nghiệp lớn có sức mạnh khống chế thị trường,
Luật cạnh tranh có nhiều điều khoản tạo hành lang pháp lý cho phép các cơ quan quản
lý nhà nước kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh không
kiểm soát tất cả các hoạt động tập trung kinh tế mà chỉ tập trung vào một số trường
hợp trên cơ sở đánh giá quy mô của doanh nghiệp hình thành sau hoạt động tập trung
kinh tế. Cụ thể:
- Đối với các trường hợp trong đó thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của
các doanh nghiệp tham gia dưới 30% hoặc trường hợp doanh nghiệp hình thành sau
khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định

của pháp luật thì các doanh nghiệp được tiến hành tập trung kinh tế mà không cần
phải thực hiện thủ tục thông báo bắt buộc
- Đối với các trường hợp trong đó thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của
các doanh nghiệp tham gia từ 30% đến 50% thì các doanh nghiệp được tiến hành tập
trung kinh tế tuy nhiên đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thực hiện thủ
tục thông báo cho Cục Quản lý Cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế. Để
18


tiến hành thủ tục thông báo, các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế cần hoàn
thiện Hồ sơ thông báo tập trung kinh tế theo mẫu do Cục Quản lý cạnh tranh ban
hành.
Luật cạnh tranh có quy định cấm thực hiện tập trung kinh tế đối với các trường
hợp trong đó thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia
chiếm trên 50% trên thị trường liên quan và doanh nghiệp hình thành sau hoạt động
tập trung kinh tế không thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp
luật (Điều 18, Luật Cạnh tranh). Tuy nhiên, các vụ việc tập trung kinh tế thuộc diện bị
cấm cũng có thể được xem xét và miễn trừ trong hai trường hợp: (i) một hoặc nhiều
bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng
phá sản; hoặc (ii) việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ (Điều 19, Luật Cạnh tranh).
Để được miễn trừ, các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế cần nộp Hồ sơ
đề nghị hưởng miễn trừ theo mẫu do Cục Quản lý cạnh tranh ban hành.
Các quy định cụ thể liên quan đến Tập trung kinh tế được quy định tại Mục 5,
Nghị định 116/2005/NĐ-CP. Thủ tục thực hiện các trường hợp miễn trừ được quy
định tại Mục 4, Luật Cạnh tranh và chi tiết tại Mục 6, Nghị định 116/2005/NĐ-CP.
Hình thức xử lý vi phạm.
Vi phạm quy định của pháp luật về tập trung kinh tế có thể bao gồm:
- Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế.
- Tập trung kinh tế trước khi có quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ quan có

thẩm quyền.
- Vi phạm quy định cấm tiến hành tập trung kinh tế.
Trên cơ sở xem xét các yếu tố như mức độ gây hạn chế cạnh tranh do hành vi
vi phạm gây ra, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra, khả năng gây hạn chế
cạnh tranh của các đối tượng vi phạm, thời gian thực hiện hành vi vi phạm, khoản lợi
nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết
tăng nặng các doanh nghiệp vi phạm quy định về tập trung kinh tế có thể phải chịu các
hình thức xử lý vi phạm sau:
- Phạt tiền với mức phạt tối đa 10% tổng doanh thu của các doanh nghiệp vi
phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
19


- Phạt bổ sung: như thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã cấp cho
doanh nghiệp hợp nhất, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với các liên
doanh vi phạm pháp luật cạnh tranh.
- Các biện pháp khắc phục hậu quả như chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập,
hợp nhất; buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua...
Mức phạt, các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối
với các hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế được quy định cụ thể trong Luật
cạnh tranh và Nghị định số 71/2014/NĐ-CP.

20


KẾT LUẬN
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành
theo cơ chế thị truờng đã và đang làm thay đổi nhiều vấn đề về nhận thức và phương
thức điều tiết của nhà nước trong hoạt động kinh tế.
Cùng với quá trình đổi mới, cạnh tranh đã từng bước được tiếp nhận như là một

nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế quốc dân. Cạnh
tranh là động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của nền kinh tế song ở phương
diện khác thì cạnh tranh lại gây ra nhiều hậu quả về kinh tế - xã hội mà pháp luật, với
tư cách là công cụ hữu hiệu của nhà nước phải được sử dụng để điều chỉnh kịp thời
những sai lệch đó.
Việc tiếp cận, nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống về cạnh tranh, chống
cạnh tranh không lành mạnh, góp phần tham gia xây dựng một chế định pháp lý điều
chỉnh vấn đề này là mục đích xuyên suốt của luận văn

21



×