Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải bài toán có lời văn theo mô hình trường học mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.57 KB, 13 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến:“Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải bài toán có
lời văn theo mô hình trường học mới”
2.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:Giáo viên dạy lớp 2 và học sinh lớp 2 ở các
trường Tiểu học.
3.Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Bích Hương

Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 14/02/1979
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Long Xuyên.
Điện thoại: 0936676527
4.Đơn vị áp dụng sáng kiến : Trường Tiểu học Long Xuyên - huyện Kinh
Môn - tỉnh Hải Dương
5.Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Có phòng học riêng,có
đầy đủ bảng, bàn ghế,trang thiết bị dạy học như: sách giáo khoa, sách giáo
viên,sách tham khảo,… Học sinh phải say mê,chịu khó tìm tòi,sáng tạo,có ý
thức học tập, biết hợp tác trong nhóm ,tổ…
6.Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: .Năm học 2016 - 2017.
TÁC GIẢ
(ký, ghi rõ họ tên)

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG
SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Bích Hương
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Như chúng ta đã biết, môn toán là một trong những môn học quan trọng
trong chương trình tiểu học. Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành phát
triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây
hứng thú học tập toán phát triển khả năng tư duy, suy luận biết diễn đạt đúng
bằng lời, góp phần rèn luyện phương pháp học tập. Bởi vậy việc giải toán có
lời văn cần xác định rõ ràng ngay từ đầu cấp. Việc giải toán có lời văn và kĩ
năng giải toán là nền tảng vững chắc cho các em học tốt ở lớp 2 và cả sau này.
Qua thực tế giảng dạy lớp 2 theo Mô hình trường hoc mới tôi nhận thấy
"Giải toán có lời văn" là mạch kiến thức khó nhất với học sinh. Vốn từ, vốn
hiểu biết và kĩ năng đọc hiểu, khả năng tư duy còn kém, chưa đáp ứng được
yêu cầu trình bày, kĩ năng suy luận và phân tích đề còn hạn chế. Với lí do trên
tôi đã chọn đề tài:
" Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải bài toán có lời văn theo Mô
hình trường học mới"
2.Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
- Về cơ sở vật chất: Có phòng học riêng,rộng rãi ,thoáng mát,đủ ánh sáng,bàn
ghế đúng quy cách, đầy đủ trang thiết bị dạy học...
- Về phía giáo viên: Giáo viên phải nắm vững chương trình,chuẩn kiến thức ,
kĩ năng,mục tiêu bài dạy...
- Về phía học sinh:Học sinh phải có đầy đủ sách vở.Xác định được nhiệm vụ
học tập.
- Về phía phụ huynh: Quan tâm tạo điều kiện tốt nhất cho con em học
tập.Thường xuyên phối hợp với giáo viên trong quá trình giáo dục con em
mình.
- Thời gian: Năm học: 2016 -2017.
- Đối tượng: Giáo viên dạy lớp 2 và học sinh lớp 2 ở các trường Tiểu học.
3. Nội dung sáng kiến



- Điều tra thực trạng kết quả đạt được của học sinh khối 2 về kĩ năng giải
toán có lời văn.
- Tích cực đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với
mỗi tiết dạy trong từng hoạt động với các nội dung cụ thể:
+ Hướng dẫn học sinh hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giải
toán có lời văn. Tăng cường cho học sinh hoạt động thực hành,vận dụng kiến
thức làm tốt các bài tập.
+ Đổi mới cách đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Qua quá trình giảng dạy và thực hiện giải pháp này với lớp 2 tôi chủ
nhiệm, tôi thấy các em đã làm quen với phương pháp học mới và đã đi vào nề
nếp học tập. Trong tiết học tôi thấy nhẹ nhàng hơn, tất cả các đối tượng học
sinh trong lớp đã biết trình bày hoàn chỉnh bài toàn có lời văn. Nhiều em học
khá giỏi có câu trả lời sáng tạo phù hợp với yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng.
4. Kết quả đạt được.
- Năm học 2016 -2017 tôi đã và đang thực hiện , áp dụng thành công kinh
nghiệm này tại trường nơi tôi công tác. Tôi cũng đã chia sẻ với các đồng
nghiệp trong khối cùng thực hiện và bước đầu cũng đã gặt hái được những
thành công nhất định.
5. Đề xuất , kiến nghị
- Giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình của môn học và chuẩn kiến
thức kĩ năng. Tích cực nghiên cứu đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học phù hợp với đối tượng hoc sinh.
- Các nhà trường, phòng giáo dục đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường chuyên đề
, hội thảo, hội giảng, báo cáo kinh nghiệm hay đẻ giáo viên có điều kiện học
tập nâng cao trình độ,chuyên môn nghiệp vụ.


MÔ TẢ SÁNG KIẾN

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Mô hình trường tiểu học mới tại Việt Nam (Dự án GPE- VNEN) được áp
dụng từ năm học 2010 - 2011 tại một số địa phương, hiện nay được mở rộng
cả nước. Dự án về trường học kiểu mới nhằm xây dựng mô hình nhà trường
tiên tiến, hiện đại phù hợp với môi trường phát triển và đặc điểm của giáo dục
Việt Nam hiện nay. Năm học 2016 – 2017, trường chúng tôi là 1 trong 6
trường của huyện tham gia dạy thí điểm theo Mô hình trường Tiểu học mới
(VNEN) đối với khối 2, 3 .
Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp
mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy - học
theo nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong
các hoạt động dạy học giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức và tạo mọi điều
kiện tốt nhất để mọi học sinh được tham gia vào quá trình học tập. Học sinh
được học ở môi trường học tập thân thiện, thoải mái, không gò bó, gần gũi
bạn bè thầy cô, được sự giúp đỡ của bạn bè trong nhóm, trong lớp và thầy cô
giáo. Ngoài ra mô hình trường Tiểu học mới còn giúp học sinh rèn phương
pháp: “Tự học, tự giác, tự quản, tự trọng, tự tin, tự đánh giá, tự hợp tác” rèn
luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tế, nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện.
Như chúng ta đã biết, môn toán là một trong những môn học quan trọng
trong chương trình tiểu học. Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành phát
triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây
hứng thú học tập toán phát triển khả năng tư duy, suy luận biết diễn đạt đúng
bằng lời, góp phần rèn luyện phương pháp học tập. Bởi vậy việc giải toán có
lời văn cần xác định rõ ràng ngay từ đầu cấp. Việc giải toán có lời văn và kĩ
năng giải toán là nền tảng vững chắc cho các em học tốt ở lớp 2 và cả sau này.
Qua thực tế giảng dạy lớp 2 theo Mô hình trường hoc mới tôi nhận thấy
"Giải toán có lời văn" là mạch kiến thức khó nhất với học sinh. Vốn từ, vốn
hiểu biết và kĩ năng đọc hiểu, khả năng tư duy còn kém, chưa đáp ứng được



yêu cầu trình bày, kĩ năng suy luận và phân tích đề còn hạn chế. Với lí do trên
tôi đã chọn đề tài:
" Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải bài toán có lời văn theo Mô
hình trường học mới"
2.Cơ sở lí luận
- Người giáo viên muốn dạy tốt phải nắm vững chương trình, nắm vững
đặc trưng của môn toán, chuấn bị tốt các phương tiện, các đồ dùng cần thiết
cho tiết học. Luôn chọn cho mình phương pháp dạy phù hợp nhất cho từng
bài toán. Và bên cạnh đó người giáo viên phải nắm vững phương pháp dạy
học mới theo mô hình trường học mới Việt Nam.
- Các em học sinh muốn học tốt thì trước hết phải tập trung học tập, phải
suy nghĩ kĩ và đọc đề toán nhiều lần. Tuy nhiên trong thực tế ý thức học tập
ở học sinh lớp 2 còn thấp, không chịu đọc đề vì các em còn nhỏ, đặc điểm
tâm sinh lý chưa ổn định, còn ham chơi. Việc dạy học theo mô hình trường
học mới học sinh phải ngồi học theo nhóm nên các em các em dễ quay cóp
khi làm bài nên từ đó suy tính ỷ lại không chịu tập trung suy nghĩ.
- Những bài toán có lời văn ở lớp 2 là những bài toán thực tế, nội dung bài
toán thông qua những câu nói về những quan hệ tương đương và phụ thuộc,
có liên quan đến cuộc sống hằng ngày. Cái khó ở đây là làm thế nào để lược
bỏ những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán.Hay
nói một cách khác làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố
toán học chứa đựng trong bài văn và tìm ra được những câu lời giải, phép
tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
3. Thực trạng của vấn đề.
Qua một năm giảng dạy lớp 2 theo mô hình trườn học mới, tôi nhận thấy
học sinh khi giải toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập
khác. Các em rất lúng túng khi viết câu lời giải tuy rằng các em biết ghi
phép tính đúng. Nhiều em nêu câu lời giải không phù hợp với yêu cầu đề

toán đặt ra. Tất cả các nhóm khi làm đến dạng toán có lời văn đều đưa thẻ
cứu trợ để giáo viên đến hướng dẫn.
- Để giải được các bài toán có lời văn,trước hết các em phải có các kĩ năng
đọc, viết số, kĩ năng đặt tính, kĩ năng vận dụng các tính chất của phép tính,
kĩ năng tự kiểm tra.
- Tập cho học sinh từng bước biết xem xét các đối tượng toán dưới nhiều
hình thức khác nhau và tập diễn đạt theo lời văn của mình.
- Hình thành cho học sinh làm quen với các thao tác tư duy, phân tích, tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa, ...
- Hình thành và phát triển ở các em các năng lực quan sát, ghi nhớ, tưởng
tượng, tư duy qua bài toán.


- Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, lớp 2 đối với học sinh là một khó khăn lớn
với người giáo viên, do đó trong giờ học toán bên cạnh việc tìm tòi và sáng
tạo tìm câu lời giải của học sinh thì mỗi giáo viên cần động viên và giúp đỡ
các em khi các em cần cứu trợ bằng cách dùng những câu hỏi gợi mở như:
Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu gì? Và dựa vào yêu cầu của đề toán
mỗi em nêu lên lời giải. Trên thực tế chúng ta thấy vẫn còn nhiều em ghi câu
lời giải chưa đúng, chưa hay và cũng có một số em không ghi lời giải.
Nguyên nhân này không thể đổ lỗi cho học sinh mà phấn lớn là do phương
pháp dạy học, cách áp dụng cũng như truyền đạt của người giáo viên chưa
đạt yêu cầu.
- Trong giờ học Toán, bên cạnh việc tìm tòi và sáng tạo phưong pháp dạy
phù hợp với yêu cầu bài học và đối tượng học sinh, mỗi giáo viên cần phải
giúp các em có phương pháp lĩnh hội tri thức Toán học . Học sinh có
phương pháp học Toán phù hợp với từng dạng bài Toán thì việc học mới đạt
kết quả cao, Từ đó khuyến khích tinh thần học tập của các em cao hơn.
3.1 Thực trạng ban đầu của lớp 2B:
Đầu năm học 2016- 2017, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2B

Lớp 2B có 28 học sinh, trong đó có 14 em nữ.
Chất lượng đầu năm:
Toán: Giỏi: 10 em =35,7 % ; K: 12 em = 42,9% ;
TB: 5 em = 17,8.%; Y: 3 em = 10,7%
Tuy 100% các em có đầy đủ bố mẹ, có một em thuộc diện gia đình nghèo
và đa số các em là con gia đình nông dân, cha mẹ ít quan tâm đến việc học
hành của con em mình. Thực sự đây là lớp mà GV chủ nhiệm nào khi gặp
cũng cần có sự quan tâm và lo lắng.
.Nhìn chung phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học
Toán nói chung và việc giải toán có lời văn nói riêng của học sinh nên phụ
huynh chưa có sự đầu tư đúng mức. Đầu năm học, đối với chương trình môn
toán lớp 2. Nhìn chung các em đều thực hiện được các phép tính cộng, trừ
có nhớ trong phạm vi 100, nắm được tên gọi, thành phần và kết quả phép
cộng, trừ, hay tìm x trong bài toán, nhưng ở phần giải toán có lời văn thì lớp
2B có 59,3% học sinh giải và trình bày được, 10% các em biết tóm tắt bài
toán, ghi đúng lời giải nhưng thực hiện phép tính thì sai. 30,7% các em chưa
biết ghi lời giải của bài toán, chưa có em nào có sáng tạo hay có lời giải hay
hơn, gọn hơn. Đặc biệt là những em trung bình, yếu, việc đọc, viết đã chậm
thì giải toán có lời văn lại càng khó khăn hơn rất nhiều .
3.2 Về phía giáo viên:
Trong quá trình dạy học theo mô hình trường học mới người giáo viên chưa
có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để học sinh nắm vững được lượng
kiến thức, đặc biệt là dạng giải toán có lời văn. Nguyên nhân là do giáo viên


mới tiếp cận với chương trình dạy học theo kiểu mới này. Thời gian dành
nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học mới này còn hạn chế. Bên
cạnh đó việc ý thức về tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn của các
em chưa đầy đủ. Từ đó dẫn đến tình trạng học sinh lên lớp 3 vẫn còn nhiều
em chưa ghi được lời giải và phép tính đúng cho một bài toán.

3. 3 Về phía học sinh
Nguyên nhân là do các em không hiểu hết các từ trọng tâm trong đề toán để
phân tích, suy luận tìm ra cách giải. Bên cạnh đó một số em đọc còn chậm
không theo kịp tiến độ. Vì vậy khi gặp bài toán có lời văn, đọc đề bài các em
chưa hiểu hết, chưa tư duy, chưa phân tích được đề bài. Các em còn mơ hồ
lúng túng làm việc còn áp dụng theo mẫu.
4. Phạm vi đề tài.
4.1. Trong đề tài này tôi hướng vào việc hướng dẫn học sinh giải bài toán
có lời văn cho học sinh trong lớp nhất là những em yếu về môn toán. Giúp các
em có tư duy, kĩ năng tính toán và kĩ năng phân tích đề, trình bày đúng bài
toán có lời văn. Học sinh không còn lúng túng khi gặp những bài toán có lời
văn.
* Hoạt động cá nhân: Học sinh tự đọc đề bài, tự phân tích đề và trình bày
được bài toán có lời văn.
* Hoạt động nhóm: Sự hợp tác mỗi cá nhân trong nhóm, nhóm trưởng
điều khiển nhóm làm việc, hỗ trợ các bạn trong nhóm. Kiểm tra đánh giá lẫn
nhau, giúp bạn thi đua hoàn thành nhiệm vụ.
* Hoạt động lớp: Phát huy vai trò tự quản, tự giác làm việc của lớp. Giáo
viên là người tổ chức lớp, hướng dẫn, hỗ trợ khi cần thiết và quan tâm đến tất
cả các đối tượng học sinh.
4.2. Đề tài này được thực hiện ở lớp 2B, trường tiểu học đang vận dụng
Mô hình trường tiểu học mới VN.
5. Thuận lợi - khó khăn
5.1. Thuận lợi
- Trường tôi đang trong giai đoạn thử nghiệm dạy học theo Mô hình
trường học mới VN ở khối 2.


- Được sự quan tâm và giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, tạo mọi
điều kiện tốt để tôi hoàn thành công việc của mình theo Mô hình trường tiểu

học mới VN.
- Cơ sở vật chất tốt, đầy đủ. Trường lớp sạch sẽ, thân thiện.
- Bản thân tôi nhiệt tình, có tay nghề vững vàng và được tham gia đầy đủ
các lớp tập huấn về phương pháp, nội dung dạy học theo Mô hình trường tiểu
học mới VN.
- Tài liệu học tập của học sinh được cấp phát đầy đủ, có màu sắc, tranh ảnh
đẹp thuận tiện cho dạy và học. Hoạt động học tập rõ ràng nên thu hút được sự
hứng thú học tập của học sinh.
- Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học của con em. Phối hợp tốt giữa
gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục học sinh.
- Các em ngoan, chăm học, lễ phép, vâng lời.
- Ở lớp 1 bước đầu các em đã làm quen với dạng toán có lời văn.
5.2. Khó khăn
- Qua khảo sát đầu năm và quá trình giảng dạy lớp 2 theo Mô hình trường
học mới, tôi thấy học sinh còn hạn chế về kĩ năng giải toán có lời văn như
sau:
- Các em từ lớp 1 lên lớp 2 chưa nắm chắc các bước giải toán có lời văn,
chưa biết lựa chọn phép tính để giải bài toán.
- Một số em chưa biết tóm tắt bài toán.
6 Các giải pháp,biện pháp thực hiện.,
6.1. Giúp các em nắm được các bước giải toán có lời văn, biết lựa chọn
phép tính để giải
6.1.1. Ôn lại các bước giải bài toán có lời văn
Do ở lớp 1các em mới bước đầu làm quen với dạng toán có lời văn, vì vậy
khi học đến lớp 2 và bài đầu tiên của dạng toán có lời văn, tôi đã hướng dẫn
các em ôn lại kiến thức đã học, nêu được các bước giải một bài toán có lời
văn các em đã học.
Tôi cho học sinh thảo luận nhóm, làm vào phiếu bài tập.



Phiếu bài tập.
Câu 1: Để làm tốt bài toán có lời văn bước đầu tiên em phải làm gì?
Câu 2: Muốn đặt lời giải đúng em cần dựa vào phần nào của bài toán?
Câu 3: Một bài toán giải có lời văn đầy đủ gồm có mấy phần?
- Nhóm trưởng đọc từng câu hỏi cho cả nhóm nghe, mỗi em tự suy nghĩ tìm
ra câu trả lời của mình, sau đó nêu ý kiến của mình để nhóm thống nhất.
- Trong quá trình học sinh thảo luận nhóm tôi quan sát các nhóm làm việc.
Nhóm nào gặp khó khăn giơ thẻ cứu trợ tôi đến nhóm đó hỗ trợ cho các em.
Bước 1: Tìm hiểu đề
Trước khi làm bài mỗi em đều phải tự đọc đề toán (những em đọc chậm,
giáo viên hỗ trợ học sinh thêm) để hiểu rõ đề bài.
Sau khi đọc đề, học sinh tìm hiểu đề toán theo hệ thống câu hỏi trong
phiếu bài tập. Nhóm trưởng hỏi, các thành viên trả lời và thống nhất kết quả.
- Bài toán cho biết gì? (Những gì đã cho)
- Bài toán hỏi gì? (Những gì cần phải tìm)
- Bài toán thuộc dạng toán gì?
Bước 2: Tóm tắt bài toán
Tóm tắt bài toán bằng hình vẽ, hoặc ngôn ngữ ngắn gọn, giúp học sinh
minh họa rõ hơn các mối quan hệ, tạo điều kiện thuận lợi để tìm phép tính giải
phù hợp.
Bước 3: Tìm lời giải
Muốn viết được câu lời giải đúng em cần dựa vào phần nào của bài toán?
(Muốn viết được câu lời giải đúng em cần dựa vào phần câu hỏi của bài toán)
Bước 4: Tìm phép tính đúng
Muốn tìm ra được phép tính thích hợp, chúng ta cần chú ý tới các từ nào
trong bài toán? ( ta cần chú ý các từ trọng tâm trong các bài toán như: thêm,
bớt, tất cả, còn lại, nhiều hơn, ít hơn, chia thành ...)
Bước 5: Trình bày bài toán hoàn chỉnh



Tôi đọc câu hỏi cho các em thảo luận và trình bày trong nhóm, thống nhất
kết quả.
Một bài giải của bài toán có lời văn, được trình bày đúng quy định gồm có
mấy phần? (Gồm có 3 phần: Câu lời giải, phép tính (với đơn vị viết trong
ngoặc và ở sau kết quả), đáp số (với đơn vị viết bình thường, không có ngoặc
đơn)).
Sau khi các em được ôn lại các bước giải toán có lời văn, tôi yêu cầu mỗi
nhóm thảo luận và thống nhất viết lại 3 phần trong một bài giải toán có lời
văn, rồi dán lên góc học tập để giúp các em nhớ cách làm bài.
Phần 1: Câu lời giải
Phần 2: Phép tính
Phần 3: Đáp số
6.1.2. Một số dạng toán thường học
6.1.2.1. Dạng toán "nhiều hơn"
Theo tài liệu hướng dẫn học Toán 2, tập 1A, bài 6: "Bài toán về nhiều hơn",
nhiệm vụ 4 trang 28 là: Bạn Hòa có 4 bông hoa, bạn Bình có nhiều hơn bạn
Hòa 2 bông hoa. Hỏi bạn Bình có mấy bông hoa? Khi dạy bài này tôi thấy
học sinh chỉ áp dụng được một phương pháp đó là làm theo mẫu có sẵn trong
tài liệu. Học sinh khó phát triển kĩ năng phân tích đề và tóm tắt bài toán. Vì
vậy tôi đã thay đổi hình thức học tập bằng các bước cụ thể sau:
- Học sinh làm việc trrong nhóm.
Bước 1: Đọc đề và tìm hiểu đề bài toán
- Đây là một bước rất quan trọng tôi đã nhắc nhở học sinh đọc đề bài toán
trong sách tài liệu, hướng dẫn học Toán 2 đọc nhiều lần trong nhóm để hiểu.
Tôi cho các nhóm thảo luận. Trong khi học sinh thảo luận tôi đến từng nhóm
hướng dẫn thêm, tuyên dương khen thưởng cá nhân, nhóm làm tốt bằng hình
thức trao hoa tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Học sinh đọc đề bài, tìm hiểu đề, sau đó tự nêu cho nhau nghe theo hệ
thống câu hỏi sau:
+ Bài toán cho biết những gì? (bạn Hòa có 4 bông hoa, bạn Bình có nhiều

hơn bạn Hòa 2 bông hoa)


+ Bài toán hỏi gì? (Bạn Bình có mấy bông hoa ?)
+ Bài toán thuộc dạng toán nào? (dạng toán nhiều hơn)
+ Tìm từ trọng tâm trong bài? (nhiều hơn)
+ Muốn biết bạn Bình có mấy bông hoa ta phải làm phép tính gì? (phép
tính cộng).
- Khi học sinh làm việc trong nhóm tôi phải quan sát, nếu có nhóm nào giơ
thẻ cứu trợ tôi đến nhóm đó để hướng dẫn các em. Trường hợp có nhiều nhóm
cần cứu trợ thì tôi cho cả lớp cùng quay mặt lên bảng để tôi hướng dẫn.
Bước 2: Hướng dẫn các em tóm tắt bài toán
- Đây là bước diễn đạt đề toán ngắn gọn, tóm tắt đúng giúp các em có
cách giải dễ dàng hơn. Nhìn vào tóm tắt ta có thể định ra được các bước giải
toán.
- Tùy vào dạng toán, bài toán mà tôi hướng dẫn các em tóm tắt một cách
phù hợp như bằng lời, bằng hình vẽ.
- Tôi đưa ra hệ thống câu hỏi gợi ý cho học sinh (sẽ làm rõ ở mục 2)
Tóm tắt bằng lời:

Tóm tắt bằng hình vẽ:

Hòa:.... bông hoa

Hòa:

Bình nhiều hơn: ... bông hoa

Bình:


Hỏi Bình: .....bông hoa?
? bông hoa
- Mỗi em tự chọn cách tóm tắt của mình, làm vào giấy nháp và sau đó trình
bày bài của mình cho nhóm nghe. Kết hợp, tôi đi kiểm tra, hướng dẫn thêm
cho các em và nghiệm thu kết quả.
Bước 3: Tìm lời giải đúng và cách ghi
Việc đặt lời giải đúng trong phần bài giải tôi để học sinh tự diễn giải, yêu
cầu viết ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, đúng ý, tôi lưu ý cho học sinh khi viết lời
giải, đầu câu viết hoa cuối câu có dấu hai chấm.
Học sinh tự suy luận từ câu hỏi của bài toán đến dữ kiện đã cho để tìm lời
giải của bài toán, tôi gợi ý cho học sinh căn cứ vào câu hỏi cuối bài (Hỏi bạn
Bình có mấy bông hoa?) hoặc dòng tóm tắt cuối cùng (hỏi Bình:.... Bông


hoa?). Học sinh sẽ sửa lại câu hỏi thành câu lời giải hoàn chỉnh, lấy các từ
"Bạn Bình có ... bông hoa" trong câu hỏi của bài toán. Bỏ từ "mấy" sau đó
thêm chữ "số" vào vị trí chữ "mấy" và bỏ dấu "?" cuối câu hỏi thay vào đó
chữ " là", thêm dấu ":" ở cuối câu. Từ đó ta được lời giải của bài toán, đó là:
"Bạn Bình có số bông hoa là:"
Tôi khuyến khích các em đặt nhiều lời giải khác nhau mà vẫn phù hợp
với yêu cầu đề bài. Qua đó giúp các em tự tìm tòi, sáng tạo và rèn luyện óc
suy nghĩ linh hoạt, độc lập.
Chẳng hạn như:
- Bạn Bình có số bông hoa là:
- Số bông hoa của bạn Bình là:
- Số bông hoa bạn Bình có là:
Bước 4: Tìm phép tính đúng và đáp số
Đây là bước suy luận để tìm cách giải bài toán đúng và kết quả. Học sinh
có thể ghi sai phép tính hoặc không ghi tên đơn vị trong ngoặc đơn, viết đáp
số sai. Vì vậy tôi đã định hướng các em tìm từ trọng tâm trong bài, đó là từ

"nhiều hơn". Tôi hỏi các em suy nghĩ trả lời: Theo em "nhiều hơn" là làm
phép tính ? (Trong trường hợp này là phép tính cộng), lấy mấy cộng mấy?
Học sinh phải tự tư duy để tìm kết quả. Tôi đi đến từng nhóm để kiểm tra,
giúp đỡ học sinh. Nếu học sinh nào lúng túng tôi hướng dẫn thêm. Đối với
phần ghi đáp số, học sinh cũng thường nhầm lẫn, tôi hỏi thêm để các em nắm
chắc hơn, như: Bài toán hỏi gì? (Bạn Bình có bao nhiêu bông hoa?). Vậy theo
em "Bạn Bình có bao nhiêu bông hoa?"; (học sinh sẽ nêu "Bạn Bình có 6
bông hoa), vậy "6" chính là kết quả của phép tính, chữ "bông hoa" là tên đơn
vị. Khi viết phép tính, tên đơn vị viết vào trong ngoặc đơn, đáp số là kết quả
của phép tính, tên đơn vị không viết trong ngoặc đơn. Từ suy luận trên học
sinh có thể viết được phép tính và đáp số như sau:
4 + 2 = 6 (bông hoa)
Đáp số: 6 bông hoa
Bước 5: Trình bày bài toán hoàn chỉnh


- Sau khi tôi hướng dẫn các em tìm hiểu kĩ các bước giải toán, cho các em
trình bày bài toán hoàn chỉnh vào vở, rồi trình bày bài làm của mình cho cả
nhóm nghe trao đổi bổ sung, hỗ trợ nhau giữa các đối tượng học sinh trong
nhóm, các em đổi bài vòng tròn để đánh giá lẫn nhau. Tôi đi đến các nhóm
kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm. Kết quả các em có thể làm như sau:
Bài giải
Bạn Bình có số bông hoa là:
4 + 2 = 6 (bông hoa)
Đáp số: 6 bông hoa
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã lưu ý học sinh thêm như: từ "nhiều hơn"
khi dùng trong các văn cảnh khác nhau thường bị thay đổi đi một chút, chẳng
hạn:
- Khi nói về chiều dài (cao) ta dùng từ "dài hơn "hoặc"cao hơn".
- Khi nói về khối lượng, ta dùng từ "nặng hơn".

- Khi nói về tuổi tác, ta dùng từ "hơn".
- Khi nói về thời gian, ta dùng từ "lâu hơn" hoặc "muộn hơn"..
6.1.2.2. Dạng toán " ít hơn"

Tải tài liệu bản đầy đủ tại: />
Tải tài liệu bản đầy đủ tại: />Tải tài liệu bản đầy đủ tại: />------------------------------------------------------

Tổng Hợp Đề Tài Sáng Kiến Kinh Nghiệm Sư Phạm:
/>


×