Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Trình bày diễn biến lãi suất tín dụng trên thị trường trong thời gian vừa qua, chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung Ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.59 KB, 22 trang )

Đề tài : “ Trình bày diễn biến lãi suất tín dụng trên thị trường trong
thời gian vừa qua, chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung Ương ”

Lời mở đầu
Kinh tế là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với chính sách phát triển của từng
quốc gia. Nó khẳng định sự tồn tại vị trí của quốc gia đó trên trường quốc tế.
Thế mới thấy từ năm 2007 đến nay, nền kinh tế thế giới diễn biến khá phức tạp
và khó lường, nhất là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
đã tác động sâu rộng đến kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới tất nhiên
trong đó có Việt Nam. Theo đó, tình hình lãi suất Việt Nam cũng biến động hết
sức phức tạp, ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế chung của Việt Nam. Đặc
biệt là từ năm 2010 đến nay, lãi suất Việt Nam có những “bước nhảy” rất đáng
quan tâm. Đó là một hiện tượng kéo theo và bị kéo theo bởi nhiều yếu tố quan
trọng khác như: lạm phát, mức cung tiền tệ, các quan điểm chính sách của nhà
nước, v.v… Nên việc tìm hiểu về lạm phát yêu cầu chúng ta có những hiểu biết
cơ bản về những vấn đề kinh tế trên, song nó cũng giúp cho chúng ta hiểu rõ
hơn về các vấn đề kinh tế vốn dĩ rất phức tạp ở Việt Nam nói riêng và các nước
trên thế giới nói chung. Giải quyết và áp dụng lãi suất cũng là một bài toán toán
khó cho các nhà kinh tế Việ Nam trong thời gian hiện nay. Nhìn ở những
hướng tích cực nhìn thấy rõ nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển từng
bước hội nhập là một tín hiệu đáng vui.
Có thể thấy lãi suất là một vấn đề dai dẵng và gây tác động đến nền kinh tế
của Việt Nam. Việc tìm hiểu nguyên nhân cốt lõi của lãi suất, tình hình biến
động của lãi suất và đưa ra những giải pháp xử lý đúng đắn, hiệu quả sẽ có ý
nghĩa quan trọng trong việc điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô. Đó là
những gì chúng tôi sẽ trình bày trong Đề tài này : “ Trình bày diễn biến lãi
suất tín dụng trên thị trường trong thời gian vừa qua ,và chính sách lãi suất
của Ngân hàng Trung Ương ”
Bài thảo luận gồm 2 phần :
Phần I: Lý thuyết chung về lãi suất
Phần II: Diễn biến lãi suất tín dụng trên thị trường trong thời gian vừa qua ,và


chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung Ương


Phần 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LÃI SUẤT
I.

Khái niệm
- Khái niệm: Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng
phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Tỷ lệ
phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được
gọi là lãi suất. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng
tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối
với việc trì hoãn chi tiêu.

Lãi suất tín dụng là tỉ lệ phần trăm giữa lợi tức thu được với tổng số tiền cho
vay trong một khoảng thời gian nhất định.
Lãi suất TD = 100%
Đơn vị tính của lãi suất tín dụng là %/năm (ngày, tháng)
II.

Các loại lãi suất tín dụng
1. Căn cứ vào nghiệp vụ tín dụng
• Lãi suất huy động vốn: Là lãi suất phát sinh trong các hình thức huy động
vốn của NHTM, các trung gian tài chính khác...
• Lãi suất cho vay: Là loại lãi suất phát sinh trong các hình thức cho vay của
NHTM và các trung gian tài chính khác
• Lãi suất chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình
thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn
thanh toán của khách hàng.
• Lãi suất tái chiết khấu: Áp dụng khi NHTW cho các ngân hàng trung gian

vay dưới hình thức chiếy khấu lại thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn
hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này.
• Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho
nhau vay trên thị trường liên ngân hàng.
• Lãi suất LIBOR: Lãi suất của liên ngân hàng London công bố vào 11h trưa
hàng ngày tại London.
• Lãi suất LIBID: Là lãi suất bình quân mà các ngân hàng lớn ở London huy
động tiền gửi bằng EURO từ các ngân hàng khác.
• Lãi suất LIMEAN: Là lãi suất bình quân của LIBOR và LIBID.



2.



Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn
định mức lãi suất kinh doanh của mình.
Căn cứ vào việc loại trừ ảnh hưởng của giá trị tiền tệ
Lãi suất thực tế: Là loại lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị
tiền tệ , như tỷ lệ lạm phát hoặc tỷ lệ thiểu phát tiền tệ.
Lãi suất danh nghĩa: Là loại lãi suất được xác định theo giá trị danh nghĩa
của tiền tệ hay nói cách khác là loại lãi suất loại trừ ảnh hưởng bởi sự biến
động giá trị của tiền tệ.

Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực Tỷ lệ lạm phát (thiểu phát) dự đoán
3.




Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất
Lãi suất cố định: Là loại lãi suất được ấn định bằng một tỷ lệ cố định trong
suốt thời gian huy động vốn hoặc cho vay.
Lãi suất thả nổi: Là loại lãi suất có thể điều chỉnh theo lãi suất thị trường
trong thời hạn tín dụng.

Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất

III.

1. Mức cung cầu về tiền tệ (vốn) trên thị trường

- Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến việc hình thành lãi suất trên thị
trường. Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để thanh toán trên
thị trường. Cầu tiền tệ là nhu cầu về tiền của các đơn vị, cá nhân, tổ
chức để làm phương tiện giao dịch, trao đổi hàng hoá, dịch vụ…. Lãi
suất cân bằng được xác định là giao điểm của đường cung và cầu tiền
(đồ thị ). Nhà nước có thể tác động vào mức cung và cầu tiền tệ này và
không chế lãi suất để thực hiện các mục tiêu kinh tế và xã hội của mình.
Giả sử khi Chính phủ, Ngân hàng TW lo sợ nền kinh tế có nguy cơ bị
suy thoái thì NHTW sẽ tằng mức cung tiền bằng cách bơm tiền vào lưu
thông và lãi suất sẽ có xu hướng giảm. Còn khi nền kinh tế phát triển
quá nóng và có thể xảy ra lạm phát thì nhà nước sẽ thực hiện các biên
pháp nhằm làm giảm lượng cung tiền và khi đó lãi suất sẽ tăng lên. Như
vậy qua đây chúng ta có thể thấy được mức cung cầu tiền tệ trên thị
trường là nhân tố hình thành và hưởng rất lớn đến thay đổi lãi suất tín
dụng trên thị trường.
2.

Lạm phát

- Có thể nói rằng là lạm phát là một trong những nhân tố chủ chốt ảnh
hưởng đến lãi suất tín dụng. Lạm phát là một hiện tượng của tiền tệ,
chính bởi vậy chúng ta không thể tránh khỏi nó mà chỉ có kiềm chế nó


ở mức ít hay nhiều. Vậy ở đây lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đến
lãi suất? Khi lạm phát tăng lên một trong những biện pháp của Nhà
nước để giảm phát chính là áp dụng các biện phát để hút bớt lượng tiền
lưu thông về. Đồng thời các cá nhân ,tổ chức trong nền kinh tế đang
nắm dữ lượng vốn, tiền cũng sẽ không dám cho vay do lo sợ đồng vốn
của mình sẽ bị mất giá, bởi vậy họ sẽ chuyền hướng sang dự trữ các loại
hàng hoá như vàng, ngoại tệ hay đầu tư ra nước ngoài. Hai điều này
khiến cho khả năng cung ứng vốn trên thị trường sẽ giảm nhanh chóng,
như đã nói ở trên thì khi cung ứng vốn giảm thì tất yếu sẽ khiến cho lãi
suất tăng. Khi áp dụng các biện phát nhằm kiềm chế lạm phát cho sản
xuất, đầu tư sẽ bị thu hẹp khiến cho nền kinh tế có khả năng đi vào suy
thoái. Chính bởi vậy một khi lạm phát đã được kiềm chế, giảm phát thì
Ngân hàng TW sẽ giảm lãi suất tín dụng nhằm giúp cho các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn.
Để có thể mở rộng sản xuất, đầu tư giúp cho nền kinh tế phục hồi.
Trong nền kinh tế thị trường thì lạm phát và lãi suất có mối quan hệ
chặt chẽ và tác động qua lại mật thiết với nhau.
3.

Chính sách tiền tệ của chính phủ
- Như chúng ta đã biết một khi lãi suất tín dụng tăng quá cao hay giảm
thấp thì đều có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế. Chính bởi vậy mà
nhà nước đã thực hiện các chính sách tiền tệ của mình thông qua Ngân
hàng TW với vai trò chỉ huy toàn bộ hệ thống ngân hàng của một quốc
gia (với các công cụ như lãi suất tái chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc) để

điều chỉnh lãi suất, bình ổn nền kinh tế.
- Một khi lãi suất tăng làm cho nhu cầu tiêu dùng và đầu tư giảm thì
Ngân hàng Trung Ương sẽ áp dụng chính sách giảm lãi suất tái chiết
khấu cho các ngân hàng thương mại, và khi các ngân hàng thương mại
được giảm lãi suất tái chiết khấu (là lãi suất ngắn hạn mà ngân hàng
TW cho các ngân hàng thương mại vay) thì họ cũng sẽ hạ lãi suất cho
vay đối với các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Làm cho toàn bộ hệ thống lãi suất giảm và các khoản cho vay tăng lên.
Khi lãi suất thị trường giảm, thừa tiền trong thị trường thì Ngân hàng
TW sẽ tăng lãi suất tái chiết khấu để giảm bớt khối lượng tín dụng của
các ngân hàng thương mại nhằm buộc các ngân hàng thương mại phải
tăng lãi suất tín dụng đối với các thành phần trong nền kinh tế, các
khoản cho vay sẽ giảm, lượng tiền trong lưu thông cũng sẽ giảm.
- Thông qua lãi suất tái chiết khấu mà Ngân hàng TW đã điều chỉnh
được lãi suất tín dụng. Mỗi khi lãi suất tái chiết khấu hay giảm đều làm
thay đổi lượng vay của các ngân hàng thương mại hay nói cách khác là


thay đổi lượng tiền cung ứng cho thị trường của các ngân hàng này và
cuối cùng làm thay đổi lãi suất thị trường. Ngoài ra, Ngân hàng TW còn
có một biện pháp nữa để kiểm soát lãi suất tín dụng và lượng tiền cung
ứng thị trường đó chính là tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Khi ngân hàng TW tăng
hay giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc cũng tức là đã tác động đên lượng vốn
khả dụng của các ngân hàng thương mại. Gây ra những khó khăn ngân
quỹ, hạn chế tín dụng hay là sự dư giả vốn và tín dụng của các ngân
hàng.
- Giả sử tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc khiến cho lượng vốn và tín dụng của
các ngân hàng bị thu hẹp khiến họ buộc phải tăng lãi suất và ngược lại.
Từ đó có thể thấy được tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng gián tiếp đến lãi
suất thị trường. Như vậy thông qua việc thực hiện các chính sách tiền tệ

của mình, Chính phủ đã có những thay đổi ,điều chỉnh về lãi suất tín
dụng trên thị truờng nhằm đảm bảo mục tiêu ổn định, phát triển kinh tế
- xã hội mà nhà nước đã đề ra.
4.

Rủi ro và kì hạn tín dụng
- Có thể nói khi đầu tư vào bất cứ ngành nghề hay lĩnh vực nào đều có
những rủi ro nhất định, trong tín dụng cũng vậy. Mức độ rủi do cao hay
thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan.
- Các yếu tố khách quan như là: môi trường kinh tế, sự phát triển liên
ngành, môi trường pháp lý... Các yếu tố chủ quan như là: hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp, tổ chức vay tín dụng; tính tin cậy và khả năng
trả nợ của các doanh nghiệp khi đến hạn.
- Rủi do tín dụng xuất phát từ hoạt động tín dụng khi mà bên vay tín
dụng vi phạm các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Để giảm bớt các
rủi ro cho bên cho vay mà ở đây chủ yếu là các ngân hàng thì lãi suất
tín dụng là 1 biện pháp tốt nhất, những khoản vay tín dụng có rủi ro
càng lớn thì lãi suất càng cao và ngược lại.
- Kì hạn cho vay tín dụng cũng vậy, ngắn hạn thì lại suất thấp còn dài
hạn thì cao hơn. Nói chung, khi mà thời hạn cho vay dài, độ rủi ro lớn
thì lãi suất cho vay sẽ cao, ngược lại thời hạn cho vay ngắn, độ an toàn
cao thì lãi suất cho vay sẽ thấp

5. Một số nhân tố khác
a.

Sự ổn định về kinh tế chính trị
- Nền kinh tế ổn định và phát triển là một yếu tố kiên quyết để lãi suất
tín dụng được ổn định. Khi nền kinh tế phát triển quá nóng hay là rơi



vào suy thoái thì nhà nước đều có những chính sách, biện pháp điều
chỉnh lãi suất để kìm hãm hay kích thích nền kinh tế, phù hợp với thực
trạng của nền kinh tế. Sự ổn định của nền chính trị cũng rất quan trọng,
nếu nền chính trị bất ổn, mỗi khi chính trị biến động, chính quyền thay
đổi ----> chính sách kinh tế mới khiến cho lãi suất biến động.
b. Các thể chế tài chính trung gian
- Các thể chế, định chế tài chính trung gian này có ảnh hưởng lớn đến
lãi suất thị trường như là quỹ tín dụng, bảo hiểm, thị trường cổ phiếu,
bất động sản… Một khi các thể chế tài chính trung gian này phát triển
thì sẽ cần đến 1 lượng vốn vô cùng lớn, khi đo cầu về vốn (tiền tệ) trên
thị trường sẽ tăng và kéo theo đó là làm cho lãi suất tín dụng tăng theo
và ngược lại.
c. Tỷ giá hối đoái
- Nó tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu của
một quốc gia. Khi tỷ giá tăng (tức là đồng ngoại tệ tăng giá ) thì sẽ
khiến cho tăng giá của các mặt hàng nhập khẩu, chi phí sản xuất đầu
vào tăng, giá hàng hoá tăng ---> lợi nhuận giảm ---> nhu cầu đầu tư
giảm ---> cầu tiền tệ giảm ---> lãi suất tín dụng sẽ giảm. Và ngược lại
khi tỷ giá hối đoái giảm thì sẽ khiến cho lãi suất tín dụng tăng. Chính vì
thế, mỗi khi tỷ giá có những biến động lớn thì Ngân hàng TW sẽ có
những chính sách tiền tệ thích hợp để điều chỉnh tỷ giá hối đoái về mức
hợp lý.
d.

Tình hình cân đối ngân sách và chính sách tài khoá của nhà nước
- Một khi ngân sách nhà nước rơi vào tình trạng bội chi hay nhà nước
thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt thì sẽ cần phải thu hút, huy động
vốn lớn. Để làm được như vậy thì nhà nước có thể tăng lãi suất lên.
Ngược lại, khi nhà nước thực hiện chính sách tài khoá nới lỏng thì lãi

suất sẽ được giảm xuống.

e.

Tình hình tài chính quốc tế
- Trong thời kì hiện nay hầu hết các quốc gia đều thực hiện chính sách
mở cửa, không ngừng tăng cường các mối quan hệ kinh tế quốc tế nói
chung mà các mối quan hệ tài chính, tín dụng nói riêng. Các mối quan
hệ này phát triển nhanh chóng, tình hình tài chính, tín dụng bây giờ
không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố trong mỗi quốc gia mà nó còn phụ
thuộc rất nhiều vào tình hình tài chính trên thế giới.


- Khi mà tình hình tài chính quốc tế ổn định thì tình hình tài chính của
mỗi quốc gia cũng sẽ không có nhiều biến động. Nhưng một khi tình
hình tài chính quốc tế bất ổn, rơi vào khủng hoảng thì nó sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến tình hình tài chính và tín dụng của mỗi quốc gia. Khiến cho
sản xuất kinh doanh, đầu tư, nền kinh tế có nhiều biến động và điều tất
nhiên là lãi suất tín dụng cũng sẽ có nhiều thay đổi (Điển hình là cuộc
khủng hoảng tài chính quốc tế cuối năm 2008 và đầu năm 2009).
- Như vậy, sau khi đi tìm hiểu và phân tích chúng ta có thể thấy được
lãi suất tín dụng chịu ảnh hưởng của khá nhiều yếu tố như là: cung cầu
tiền tệ, lạm phát, rủi ro và kì hạn tín dụng, các chính sách của nhà nước,
tỷ giá, tài chính quốc tế…Lãi suất tín dụng có vai trò rất quan trọng
trong việc điều tiết, bình ổn nền kinh tế.
- Việc lãi suất tín dụng biến động trong mỗi nền kinh tế là điều không
thể tránh khỏi, đặc biệt là trong thời kỳ nền kinh tế bất ổn và không
ngừng biến động như hiện nay. Chính vì vậy mà mỗi quốc gia, Chính
phủ cần phải có những giải pháp, chính sách vĩ mô thích hợp để có thể
điều chỉnh, kiểm soát được lãi suất tín dụng. Để có thể đảm bảo được sự

ổn định và phát triển cho nền kinh tế và xã hội.



IV.

Như vậy, sau khi đi tìm hiểu và phân tích chúng ta có thể thấy được lãi
suất tín dụng chịu ảnh hưởng của khá nhiều yếu tố như là: cung cầu tiền
tệ, lạm phát, rủi ro và kì hạn tín dụng, các chính sách của nhà nước, tỷ
giá, tài chính quốc tế…Lãi suất tín dụng có vai trò rất quan trọng trong
việc điều tiết, bình ổn nền kinh tế.Việc lãi suất tín dụng biến động trong
mỗi nền kinh tế là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt là trong thời kỳ
nền kinh tế bất ổn và không ngừng biến động như hiện nay.

Vai trò của lãi suất tín dụng
1.

2.

Là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư
- Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các
khoản tiết kiệm của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay đáp ứng
nhu cầu của nền kinh tế.
Ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp


3.

4.


- Chính sách lãi suất là một bộ phận trong chính sách tiền tệ của nhà
nước nhằm điều tiết lưu thông tiền tệ kích thích điều tiết và hường hoạt
động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế.
Là công cụ điều tiết vĩ mô
- Lãi suất tạo nên khoản chi phí của người đi vay vì vậy sự biến động
của lãi súaat có tác động đến đầu tư , đến tiêu dùng qua đó tác động đến
các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô.
Là công cụ đo lường tình trạng nền kinh tế
- Thông thường, nhìn vãou hướng biến động của lãi suất ta có thể thấy
được tình trạng sức khỏe của nền kinh tế. Lãi suất là biến số thường
xuyên biến động trong nền kinh tế, căn cứ vào đó người ta có thể dự
đoán được các yếu tố khác của nền kinh tế như tính sinh lời của các cơ
hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt của ngân sách, dựa vào
đó để dự bào tình hình kinh tế trong tương lai.

Phần 2: DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TÍN DỤNG TRÊN THỊ TRƯỜNG
VỪA QUA VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHTW
I.
1.

DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TÍN DỤNG TRÊN THỊ TRƯỜNG VỪA QUA
VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHTW NĂM 2013
Thực trạng

Năm 2013, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tín dụng linh hoạt theo
hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng,
kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay ngoại tệ phù hợp với chủ trương của
Chính phủ về hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế.
- Trong năm 2013, NHNN đã giảm 2%/năm đối với các mức lãi suất
điều hành, giảm 3%/năm đối với trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND

dành cho các lĩnh vực ưu tiên, giảm 1%/năm trần lãi suất tiền gửi VND,
cho phép các TCTD tự ấn định lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn 6 tháng trở
lên.
- Ngày 12/12, nguồn vốn huy động tăng 15,61% so với cuối năm
2012, trong đó tiền gửi ngoại tệ tăng 13,7%, tiền gửi VND tăng
15,93%. Thanh khoản của hệ thống các TCTD tiếp tục cải thiện, đảm


2.

bảo khả năng thanh toán và chi trả của toàn hệ thống. Trong năm 2013,
mặt bằng lãi suất ổn định và tiếp tục giảm.
- Đến cuối năm 2013, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng dao động
quanh mức 2-5%/năm tùy theo kỳ hạn, lãi suất huy động và cho vay
VND trên thị trường giảm 2-5%/năm
Tác động
- Thay đổi trong điều hành lãi suất năm 2013 của Ngân hàng Nhà nước
đã tác động tích cực đếncơ cấu tín dụng tiếp tục được cải thiện theo
hướng tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là những lĩnh
vực ưu tiên, tín dụng đối với lĩnh vực không khuyến khích giảm cả về tỉ
trọng và con số tuyệt đối. giúp kích thích giải quyết nợ xấu nhanh hơn.
- Ngày 25/3/2013, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban
hành Quyết định số 643/QĐ-NHNN về việc giảm các mức lãi suất chủ
chốt thêm 1%; ban hành Thông tư số 08/TT-NHNN giảm 0,5% trần lãi
suất tiền gửi VND kỳ hạn từ 01 tháng đến dưới 12 tháng từ 8%/năm
xuống 7,5%/năm, lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên sẽ do các
tổ chức tín dụng (TCTD) tự ấn định trên cơ sở cung cầu vốn trên thị
trường. NHNN cũng ban hành Thông tư số 09/TT-NHNNgiảm 1% lãi
suất cho vay ngắn hạn tối đabằng VND đối với các lĩnh vực ưu
tiênxuốngcòn 11%/năm.

- Đây là một bước tiếp theo trong gói giải pháp tổng thể, từng bước
tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế trong bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng
tháng 3/2013 giảm 0,19% so với tháng 2, nhu cầu tiêu dùng yếu ớt,
hàng hóa tồn đọng còn nhiều và khu vực doanh nghiệp chưa thoát khỏi
khó khăn.
- Ngay từ ngày đầu tuần, một số TCTD đã điều chỉnh giảm lãi suất
tiền gửi dưới 1 năm về mức 7-7,5%, giảm lãi suất tiền gửi trung dài hạn
xuống khoảng 10,5%/năm từ 11-12%/năm trước đây. Nhìn chung, các
TCTD đã có nhiều nỗ lực trong việc hạ lãi suất huy động, tính toán các
mức lãi suất theo hướng ưu tiên tiền gửi dài hạn, làm cơ sở để giảm lãi
suất cho vay, hàng loạt chương trình cho vay qui mô lớn với lãi suất ưu
đãi đã được triển khai nhằm chia sẻ khó khăn cùng doanh nghiệp. Do
đó, tăng trưởng tín dụng tính đến ngày 21/3 đã tăng 0,31% so với cuối
tháng trước, riêng tín dụng VND tăng 0,69%.
- Sự chỉ đạo sát sao của NHNN và động thái của các TCTD về việc
giảm lãi suất được coi là đang diễn ra theo tín hiệu thị trường, nổi bật là




3.

diễn biến lạm phát. NHNN đã tính toán cụ thể qui mô và mức độ can
thiệp cần thiết, tránh tác động tiêu cực đến nền kinh tế vốn đang ở trong
tình trạng khó khăn, nếu hạ lãi suất dưới mức lạm phát hay đánh thuế
tiền gửi thì sẽ gây tác hại về mặt tâm lý, thậm chí có thể dẫn đến tình
trạng rút tiền ồ ạt như đang xảy ra tại Cộng hòa Síp. Hơn nữa, nếu có
đánh thuế tiền gửi tiết kiệm thì cũng không dễ hướng được dòng tiền
vào sản xuất kinh doanh, người gửi tiền sẽ tính toán chuyển một phần
tiền gửi sang vàng và ngoại tệ.

- Về phía NHNN, hạ mặt bằng lãi suất xuống mức nào là vấn đề phải
được cân nhắc kỹ lưỡng, sau khi đã liên tục điều chỉnh giảm các mức
lãi suất chủ chốt trong thời gian rất ngắn. Về vấn đề này, việc cho phép
các TCTD tự ấn định lãi suất tiết kiệm dài hạn cũng nhằm đảm bảo
quyền lợi của người gửi tiền, đồng thời giúp các TCTD tái cơ cấu
nguồn vốn theo hướng tăng dần tỉ trọng tiền gửi dài hạn, qua đó sẽ đáp
ứng tốt hơn nhu cầu về vốn trung dài hạn của nền kinh tế.
- Tín hiệu khả quan là thị trường tài chính đã có dấu hiệu khởi sắc, hệ
thống ngân hàng vẫn ổn định, an toàn và đang có xu hướng phát triển
bền vững. Với dấu hiệu tích cực này, cộng với nỗ lực của các TCTD
trong việc phối hợp cùng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hy
vọngtừ quý 2/2013, tín dụng sẽ tăng trở lại, góp phần tích cực cho việc
thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 6% trong năm nay.
Thị trường tài chính đã có dấu hiệu khởi sắc, hệ thống ngân hàng vẫn
ổn định, an toàn và đang có xu hướng phát triển bền vững.
Nguyên nhân tác động tới lãi suất
a. Một là, tổng cầu suy giảm gây khó khăn cho việc hấp thụ vốn
- Tuy tăng trưởng tín dụng từ quý II trở đi đã bắt đầu dương và tăng
đều đặn qua các tháng nhưng vẫn không thể đạt được mục tiêu đề ra do
khả năng hấp thụ vốn rất thấp nên dù hiện nay, lãi suất cho vay đã giảm
rất nhiều, nhưng dòng vốn vẫn chưa thể luân chuyển thông suốt.
- Một mặt là do nợ xấu tồn đọng, các DN không dễ trả được, kể cả
phát mại TSBĐ, khiến cho các ngân hàng cũng thận trọng hơn. Mặt
khác là do các DN gặp nhiều khó khăn nên nhu cầu vay vốn cũng giảm
đi.
- Thực tế cho thấy, lợi nhuận của các DN niêm yết ngành cao su quý
III/2013 giảm trên 30%, ngành khoáng sản giảm gần 60%,… Vì vậy, dù


b.


c.

lãi suất đã hạ, nhiều gói ưu đãi được thiết kế, song không thể giải quyết
được nên việc mở rộng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng khoản vay
vẫn rất khó khăn.
Hai là, nợ xấu vẫn là rào cản đối với hoạt động ngân hàng .
- Dù nhìn vào các con số thì có thể thấy rằng nợ xấu đang giảm đi
nhưng mức độ giảm thực tế ra sao thì vẫn chưa thể đánh giá được, bởi
việc xử lý nợ xấu phụ thuộc nhiều vào các điều kiện kinh tế vĩ mô và thị
trường, trong khi tiêu thụ hàng hoá còn chậm, năng lực tài chính và khả
năng trả nợ của DN còn thấp.
- Thị trường BĐS chậm phục hồi, TTTC trì trệ càng gây khó khăn cho
việc bán, xử lý TSBĐ tiền vay để thu hồi nợ. Trong khi đó các giải pháp
điều hành kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho SXKD, hỗ trợ thị trường
BĐS luôn có độ trễ và cần phải có thời gian phát huy tác dụng. -- Đã
vậy, các giải pháp xử lý nợ xấu lại chưa được triển khai đồng bộ mà chủ
yếu vẫn là TCTD tự xử lý nợ xấu nên đã làm giảm mức độ lành mạnh
tài chính, hiệu quả kinh doanh của TCTD trong ngắn hạn.
- Cơ chế, chính sách xử lý TSBĐ còn nhiều rất vướng mắc, phức tạp,
chậm được khắc phục, hoàn thiện để tạo điều kiện thuận lợi cho xử lý
nợ xấu. VAMC đã được thành lập, đã mua nợ, song việc giải quyết số
nợ này ra sao là cả một vấn đề.
Ba là, khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thực hiện tái cơ cấu
chậm.
- Hơn 1 năm qua, tiến trình cổ phần hóa vẫn hết sức chậm chạp, năm
2012 cả nước chỉ cổ phần hóa có 13 DN, bằng 14% kế hoạch. 7 tháng
đầu năm nay, cũng chỉ có thêm 16 DN được cổ phần hóa. Việc thoái
vốn thì ì ạch vì thị trường BĐS, TTCK đều đi xuống.
- Thoái vốn còn theo tư duy bán để cắt lỗ, chứ không phải là để phân

bổ lại nguồn lực. Vì thế, không những không thực hiện được chức năng
là “lực đẩy” cho phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng lớn tới hoạt động
kinh doanh ngân hàng, bởi đây là đối tượng khách hàng rất lớn của các
NHTM, là nơi hấp thụ vốn của nền kinh tế và cũng là nơi tạo ra của cải
vật chất cho xã hội nên tháo gỡ nút thắt từ phía DNNN được coi mà giải
pháp quan trọng để cải thiện hoạt động tín dụng.
- Tái cơ cấu nền kinh tế thông qua cổ phần hóa DNNN là một nhiệm
vụ cấp bách trước bối cảnh suy thoái kinh tế gần đây. Không những thế,


4.

II.

cần nâng cao năng lực cạnh tranh cho những DN này để làm đầu tàu
cho nền kinh tế những năm tới. Muốn vậy, các DN này phải được định
giá tài sản chính xác dựa trên tính công khai, hiệu quả, có chế độ tài
chính phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Chính sách của NHNN
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã đề ra mục tiêu và nhiệm
vụ của ngành Ngân hàng trong năm 2013 là: Tiếp tục điều hành linh
hoạt và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ; chủ động điều hành
cung ứng tiền nhằm ổn định thị trường tiền tệ và đảm bảo tính thanh
khoản của các tổ chức tín dụng (TCTD), góp phần kiềm chế lạm phát ở
mức thấp và ổn định kinh tế vĩ mô.
- NHNN tiếp tục điều hành tín dụng linh hoạt theo hướng mở rộng tín
dụng đi đôi với an toàn hoạt động của các TCTD, kiểm soát chặt chẽ
hoạt động cho vay ngoại tệ phù hợp với chủ trương của Chính phủ về
hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế.
- Áp dụng lãi suất cho vay mới ở mức hợp lý, xem xét tiếp tục điều

chỉnh giảm lãi suất cho vay cũ xuống dưới 13%/năm trên cơ sở khả
năng tài chính nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp; thực hiện các
biện pháp tháo gỡ khó khăn trong quan hệ vay vốn giữa doanh nghiệp
với các TCTD như gia hạn nợ, xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, tính
toán miễn và giảm lãi vay, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp
cận được những khoản vay mới.
- Bên cạnh các biện pháp điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông để
giảm dần mặt bằng lãi suất, NHNN tiếp tục giảm lãi suất cho vay ngắn
hạn VND. Cụ thể là, điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn
bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên theo xu hướng giảm của trần lãi
suất tiền gửi VND.
- NHNN đã tiến hành hỗ trợ nguồn vốn và giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc
đối với 7 TCTD để khuyến khích các TCTD tiếp tục cho vay phát triển
kinh tế nông nghiệp nông thôn.
DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TÍN DỤNG TRÊN THỊ TRƯỜNG VỪA QUA
VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHTW NĂM 2014

1. Thực trạng


Trong năm 2014, Việt Nam đã đạt được những thành công trong điều hành
chính sách tiền tệ nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế vĩ mô như kiểm
soát lạm phát, góp phần thúc đẩy tăng trưởng ở mức khá và bảo đảm an sinh
xã hội.
- Việc điều hành chính sách tiền tệ không chỉ thực hiện được mục tiêu
ổn định tiền tệ trên cả 3 góc độ: kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) trên thị trường xã hội; ổn định giá trị đối ngoại của đồng Việt
Nam (tức tỷ giá); người dân hạn chế việc mua vàng để tìm nơi trú ẩn tài
sản; mà còn thúc đẩy tăng trưởng GDP và góp phần giải quyết an sinh
xã hội.

- Bên cạnh đó, còn có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa,
hỗ trợ cân đối ngân sách nhà nước trong quá trình điều hành. Việc nhận
định chính sách tiền tệ tại Việt Nam phải thực hiện đa mục tiêu cần
được nhìn nhận rộng hơn với thực tế rõ ràng là, trong điều hành tỷ giá
và quản lý ngoại hối, bao gồm cả quản lý thị trường vàng, chính sách
này còn phải thực hiện mục tiêu giảm thâm hụt cán cân thương mại, hạn
chế nhập siêu.
- Kết quả thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ năm 2014 đã rất rõ
ràng: CPI chỉ tăng 4,09%; tỷ giá VND/USD năm 2014 tăng 0,56% so
với năm 2013, . Kết thúc năm 2014, Việt Nam xuất siêu trên 2,1 tỷ
USD; quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia đạt trên 35 tỷ USD; GDP tăng
5,98%, cao hơn mức 5,4% của năm 2013.
- Mặt bằng lãi suất của năm 2014 đã trở về tương đương mặt bằng lãi
suất của 10 năm trước đây (giai đoạn 2003 - 2004) và giảm khoảng 1%
- 1,5% so với năm 2013. Tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống các tổ chức tín
dụng tại thời điểm hết tháng 12-2014 cao gấp khoảng 1,4 lần theo quy
định tối thiểu của pháp luật.
- Đạt được các mục tiêu đa chiều nói trên, phải thừa nhận vai trò hàng
đầu của chính sách tiền tệ. Đặc biệt, trong bối cảnh chính sách tiền tệ
phải thực hiện đa mục tiêu trong điều kiện cụ thể của nền kinh tế Việt
Nam giai đoạn hiện nay là đang hội nhập sâu rộng với cộng đồng kinh
tế quốc tế.
a. Về sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính

- Mặc dù có thời điểm một số ý kiến cho rằng, chính sách tài chính lấn
át chính sách tiền tệ, hoặc chính sách tiền tệ thì thắt chặt còn chính sách
tài chính lại nới lỏng, song cần nhìn nhận việc thực thi lãi suất huy động


vốn của ngân sách nhà nước, trong phát hành trái phiếu chính phủ và

trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trong quản lý tiền gửi của Kho bạc
Nhà nước,… là khá đồng bộ, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu
kinh tế vĩ mô.
b. Về thực hiện mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động

- Trong điều hành chính sách tiền tệ, đó là lãi suất ngắn hạn và dự trữ
của ngân hàng thương mại hay chính là thanh khoản của ngân hàng
thương mại. Trong những năm qua, Việt Nam cũng có những vấn đề về
thanh khoản, lãi suất ngắn hạn của hệ thống ngân hàng thương mại,
nhưng đến nay đã được xử lý ổn thỏa.
- Đặc biệt, trong năm 2014, vấn đề thanh khoản, lãi suất ngắn hạn,…
bên cạnh việc được xử lý có hiệu quả thông qua sự linh hoạt trong điều
hành thị trường mở, trong việc cho vay tái cấp,… còn được xử lý linh
hoạt trong quá trình thực hiện đề án tái cơ cấu ngân hàng thương mại.
Theo đó, ngân hàng thương mại có quy mô lớn, có vốn của Nhà nước
chi phối, hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ quản trị điều hành ngân hàng
thương mại yếu về khả năng thanh toán…


2.

Do đó, nhìn chung thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam
được bảo đảm, lãi suất ngắn hạn giảm và ổn định. Mặt bằng lãi suất của
năm 2014 đã trở về tương đương mặt bằng lãi suất của 10 năm trước đây
(giai đoạn 2003 - 2004) và giảm khoảng 1% - 1,5% so với năm 2013. Tỷ lệ
an toàn vốn của hệ thống các tổ chức tín dụng tại thời điểm hết tháng 122014 cao gấp khoảng 1,4 lần theo quy định tối thiểu của pháp luật. Cơ
cấu nguồn vốn của các tổ chức tín dụng dịch chuyển theo hướng ổn định
hơn và ít phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng.
Tác động
- Thay đổi trong điều hành lãi suất năm 2014 của Ngân hàng Nhà

nước đã tác động tích cực đến cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn tại các ngân
hàng thương mại. Nguồn vốn huy động có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên
của các ngân hàng thương mại được gia tăng hơn. Nhiều người lựa
chọn gửi kỳ hạn tới 24 và 36 tháng vì dự báo lãi suất sẽ tiếp tục giảm
trong năm 2015. Lãi suất huy động kỳ hạn dài chênh lệch kỳ hạn ngắn
từ 1,6% - 2,6%/năm, đường cong lãi suất trở về đúng với bản chất vốn

của
nó.
- Xem xét riêng diễn biến lãi suất bình quân của các ngân hàng


thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại nhà nước đã cổ phần
hóa, khối này chiếm trên 50% thị phần huy động vốn và cho vay trong
năm 2014 thì có thể thấy, lãi suất cho vay đã giảm tới 3%, lãi suất huy
động vốn cả 2 kỳ hạn đều giảm 1%. Còn nhìn dài hạn hơn, so sánh thời
điểm hiện nay thì cả lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay nội tệ của các
tổ chức tín dụng đều giảm về mức thấp hơn mặt bằng lãi suất cách đây
10
năm.
- Nhìn chung, toàn bộ thị trường đến cuối tháng 12-2014, lãi suất
giảm từ 1,5% - 2% so với cuối năm 2013, nhưng người dân vẫn gửi tiền
vào hệ thống ngân hàng thương mại. Tính đến hết năm 2014, ước tính
tổng phương tiện thanh toán tăng 16%, huy động vốn tăng 15,5% so với
cuối năm 2013; trong đó huy động vốn VND tăng 16,5%, chủ yếu ở
khu vực dân cư; vốn huy động ngoại tệ tăng 8,2%. Thanh khoản của các
tổ chức tín dụng được bảo đảm và dư thừa.
3.

Nguyên nhân tác động tới lãi suất

- Nguyên nhân chủ yếu là do điều hành chính sách tiền tệ bảo đảm cho
người gửi tiền có lãi suất thực dương. Lãi suất tiền gửi nội tệ bình quân
lên tới 6% - 8%/năm, trong đó chỉ số CPI chỉ từ 2,08% - 2,2%, người
gửi tiền vẫn có thu nhập thực tế từ lãi suất khoảng 4% - 5,8%. Đầu tư
vào vàng, ngoại tệ, chứng khoán,… đều bị thua lỗ; đầu tư vào bất động
sản có nhiều rủi ro; bỏ vốn ra kinh doanh thì vẫn gặp nhiều khó khăn do
cầu của nền kinh tế yếu.
- Bên cạnh đó, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại đã đạt được những
kết quả quan trọng, nên người dân tin tưởng gửi tiền vào hệ thống tổ
chức tín dụng ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước cũng ổn định tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, tăng quy mô và linh hoạt điều hành thị trường mở, cho vay
tái cấp vốn, trung hòa số tiền bơm ra để mua ngoại tệ cho quỹ dự trữ
ngoại hối,…
- Kèm theo đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện quyết liệt đề án tái cơ
cấu, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của hệ thống ngân hàng. Nếu nhìn
vào động thái diễn biến lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước kể
từ giữa năm 2013 đến nay, rõ ràng là chính sách tiền tệ đang theo hướng


nới lỏng, song thực tế thì tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng
của năm 2014 chỉ tăng theo dự kiến.
- Về hoạt động tín dụng, đến hết năm 2014, tổng dư nợ cho vay của
nền kinh tế tăng khoảng 13% so với cuối năm 2013. Vấn đề ở đây là,
Ngân hàng Nhà nước tăng cường các hoạt động thanh tra, giám sát, áp
dụng các quy định mới về tỷ lệ an toàn và phân loại nợ, các tổ chức tín
dụng thực hiện nghiêm túc các quy định về cho vay,… mặc dù cả cơ
quan quản lý nhà nước và các tổ chức kinh doanh tiền tệ đều nỗ lực để
mở
rộng
tín

dụng.

4.

- Ngược lại cách đây khoảng 4 năm, tăng lãi suất, tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, phát hành tín phiếu đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước để thu hút
trên 20.000 tỷ đồng của các ngân hàng thương mại,… nhằm kiềm chế
lạm phát, song dư nợ tín dụng vẫn tăng cao, nhiều khoản cho vay bị
cuốn vào thị trường bất động sản, thanh khoản của hệ thống ngân hàng
thương mại nhiều thời điểm rơi vào khủng hoảng, lãi suất đẩy chi phí
vốn của sản xuất, kinh doanh tăng,… Do đó, quan niệm về thắt chặt hay
nới lỏng chính sách tiền tệ cần được nhìn nhận theo hướng linh hoạt,
phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, dù thắt chặt hay nới lỏng, dù thận
trọng hay chặt chẽ thì cùng với việc giảm lãi suất, bơm vốn ra thị
trường các quốc gia đều tiến hành kiểm soát chặt chẽ hoạt động của thị
trường tài chính, chấn chỉnh hệ thống ngân hàng, rà soát lại hệ thống
giám sát, theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô.
Chính sách của NHNN

Để hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và các vấn đề
an sinh xã hội khác, trong năm 2014, Ngân hàng Nhà nước điều hành linh
hoạt chính sách tiền tệ theo hướng tập trung tháo gỡ các khó khăn về mở rộng
tín dụng an toàn, đáp ứng nhu cầu vốn vay hợp lý cho các đối tượng khách
hàng, giảm các loại lãi suất,… Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện 2 lần cắt
giảm lãi suất điều hành như sau:
Lần thứ nhất, thực hiện vào ngày 17-3-2014: lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm
xuống 6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho
vay qua đêm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi



không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1,2%/năm xuống 1%/năm; lãi
suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ
7%/năm xuống 6%/năm. Từ thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước không khống chế
lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên như trước đó mà các tổ chức tín dụng
chủ động ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường. Lãi suất cho vay ngắn hạn 5
lĩnh vực ưu tiên giảm từ 9%/năm xuống 8%/năm.
Lần thứ hai, thực hiện vào ngày 29-10-2014: Lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND
từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6
tháng; giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa các lĩnh vực ưu tiên từ mức 8%/năm
xuống còn 7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD từ mức 1%/năm
xuống 0,75%/năm.
III.
1.

DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TÍN DỤNG TRÊN THỊ TRƯỜNG VỪA QUA
VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHTW TỪ 2015 ĐẾN NAY
Thực trạng
- Theo số liệu khảo sát tháng 12-2014, trong 2 quý đầu năm 2015, lãi
suất huy động bình quân giảm 0,11%, xuống 5,93%/năm so với mức
6,04%/năm và giữ nguyên so với cuộc khảo sát tháng 1-2015. Lãi suất
cho vay trung hạn giữa các ngân hàng có biên độ biến động khá hẹp (910,6%) với biên độ chênh giữa lãi suất cao nhất và thấp nhất là 1,6%.
- Tháng 2-2015, lãi suất huy động kỳ hạn ngắn gần như không thay
đổi so với tháng liền trước. Lãi suất cho vay doanh nghiệp ở mức 811%/năm, bình quân 9,59%/năm tại thời điểm cuối tháng 2-2015, thấp
hơn bình quân 9,88%/năm trong tháng 1-2015 và thấp hơn bình quân
10,04%/năm trong tháng 12-2014.
- Tuy nhiên, từ tháng 5-2015, mặt bằng lãi suất tăng nhẹ cả trên thị
trường liên ngân hàng và thị trường dân cư, tổ chức kinh tế. Cuối tháng
5, đầu tháng 6-2015, lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn dưới 12 tháng
tăng khoảng 0,2-0,5%/năm, mức tăng cao hơn chủ yếu là các kỳ hạn
dài.

- Hiện mặt bằng lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,81%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; từ
4,5-5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; từ
5,4-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng;


kỳ hạn trên 12 tháng ở mức từ 6,4-7,2%/năm.
- Trong khi đó, lãi suất cho vay duy trì ở mức cũ (từ năm 2014), cụ thể:
lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên phổ biến ở mức 7-8%/năm;
cho vay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác khoảng 9-10,5%/năm đối
với ngắn hạn; 11-12,5%/năm đối với trung và dài hạn; trong đó một số
doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, sản xuất
kinh doanh hiệu quả, lãi suất cho vay chỉ 6-7%/năm.
- Nhìn chung, theo số liệu thống kê của NHNN, trong sáu tháng đầu
năm 2015, mặt bằng lãi suất giảm khoảng 0,3%/năm; tăng trưởng tín
dụng bốn tháng đầu năm 2015 đạt 2,78% và năm tháng đạt 4,8% và sáu
tháng đạt 6,28% so với cuối năm ngoái - mức cao nhất so với cùng kỳ
ba năm qua và gấp hơn ba lần so với mức 2,03% cùng kỳ năm 2014);
huy động vốn tăng 4,58%; tổng phương tiện thanh toán tăng 5,09% so
với cuối năm 2014.
- Lãi suất kỳ hạn trên sáu tháng vẫn tương đối ổn định. Lãi suất huy
động giảm đã làm giảm nhẹ mức huy động, cụ thể trong sáu tháng đầu
năm, huy động vốn của các NHTM tăng 4,58% (thấp hơn mức tăng
5,26% của cùng kỳ năm trước). Tuy nhiên, về tổng thể, thanh khoản của
hệ thống NHTM tiếp tục được cải thiện, đảm bảo khả năng thanh toán
và chi trả của hệ thống. Trạng thái vốn khả dụng của toàn hệ thống hiện
vẫn dư thừa, NHNN vẫn phải liên tục hút bớt tiền về (đã hút ròng
khoảng 16,5 nghìn tỷ đồng qua repos và tín phiếu từ ngày 22-6 đến
ngày 3-7-2015).
- Về cơ cấu, điểm đáng chú ý nhất so với hai năm qua là tín dụng của
các NHTM đã bớt tập trung vào kênh trái phiếu Chính phủ và gia tăng

nguồn cung cho khu vực doanh nghiệp, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế xã
hội. Đồng thời, tính đến cuối tháng 6-2015, tín dụng bất động sản tăng
11% (chiếm tỷ trọng 8,3% trong tổng dư nợ tín dụng toàn ngành) cao
gần gấp đôi mức tăng dư nợ tín dụng chung và chủ yếu là cho vay xây
dựng nhà ở và cho thuê, góp phần kích thích tiêu dùng đối với các
nhóm hàng vật liệu xây dựng.
- Tuy vậy, Nghị quyết phiên họp tháng 6-2015 của Chính phủ vừa ban
hành đã đề cập đến nội dung yêu cầu “Giám sát chặt chẽ khi cho vay
các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro”, cụ thể là bất động sản, dự án có thời gian
thu hồi vốn dài.


Tác động
- Thực tế cho thấy, sự lên xuống của lãi suất, nhất là lãi suất cho vay,
có tác động mạnh mẽ tới đời sống kinh tế-xã hội, cũng như trong việc
thực thi mục tiêu của chính sách tiền tệ.
- Việc tăng lãi suất cũng được sử dụng như một công cụ để bảo vệ tỷ
giá hối đoái trước sự biến động nhanh chóng của các luồng vốn trên thị
trường quốc tế và trước những thiếu hụt trong cán cân thanh toán quốc
tế.
- Nâng lãi suất sẽ kích thích hạn chế tiêu dùng và sử dụng tiết kiệm
các khoản vay, làm giảm cầu tín dụng, thu hẹp nhập khẩu.
- Lãi suất cho vay quá cao sẽ hạn chế đầu tư xã hội, dẫn đến tăng đình
trệ suy thoái, thất nghiệp và phá sản. Ngoài ra, mức lãi suất cho vay cao
" ở đầu vào " sẽ được người vay tự động chuyển vào giá cả " ở đầu ra ",
làm tăng mức giá chung.

Bởi vậy, lãi suất cho vay cần ổn định trong trung - dài hạn hoặc suốt
vòng đời của dự án để tạo thuận lợi và kích thích doanh nghiệp tăng vay
để đầu tư lâu dài.

3. Nguyên nhân
a. Thứ nhất, tình hình lạm phát
- Một trong những sự kiện nổi bật nhất của kinh tế Việt Nam 6 tháng
đầu năm 2015 là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 0,55%, tăng thấp nhất trong
khoảng 10 năm trở lại đây. Lạm phát thấp mang đến nhiều cơ hội và
thách thách cho nền kinh tế. Các chính sách cần được điều chỉnh cho
phù hợp với diễn biến mới.
- Lạm phát tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội, trong đó
có hoạt động của các NHTM. Có thể nói lạm phát là một trong những
nhân tố chủ chốt ảnh hưởng đến lãi suất huy động vốn và cấp tín dụng
của ngân hàng. Lạm phát thấp mang lại niềm vui cho người tiêu dùng;
sự an tâm của các nhà đầu tư trong sản xuất, kinh doanh; tạo điều kiện
cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý, điều hành vĩ mô có cơ sở
để đề ra và thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, hỗ
trợ thị trường. Chính phủ có dư địa lớn hơn để nới lỏng chính sách tiền
tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.

b.

Thứ hai, tỷ giá và nhập siêu


c.

- Tính chung 6 tháng đầu năm 2015, nhập siêu ước tính 3,8 tỷ USD,
tương đương 4,8% kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, khu vực FDI xuất
siêu 6,07 tỷ USD, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu 9,83 tỷ
USD.Nhập siêu tăng do cả xuất khẩu tăng chậm và nhập khẩu tăng
nhanh. Nhập siêu tăng cao còn là sự kết hợp giữa những yếu tố bất lợi

trên thị trường thế giới (làm cho xuất khẩu của nhiều mặt hàng sụt
giảm) và sự phục hồi kinh tế trong nước dẫn đến sự tăng tốc của nhập
khẩu.
- Trên thực tế, nhập siêu không nằm ngoài dự đoán của các cơ quan
quản lý nhà nước nhưng nhập siêu cao ngay trong những tháng đầu năm
là diễn biến khá bất ngờ. Tuy nhiên, trong những tháng tiếp theo, nhập
siêu có thể được kiểm soát ở mức mục tiêu. Bên cạnh đó, cán cân thanh
toán tổng thể năm 2015 có thể dương khoảng 5 tỷ USD. Nghĩa là, cầu
về ngoại tệ, trong đó có bù đắp cho nhập siêu sẽ được đáp ứng đầy đủ
bằng các nguồn tài trợ khác như kiều hối, vay nợ nước ngoài và FDI.
- Ngoài ra, xuất khẩu của khu vực FDI cũng tăng cao nên cung và cầu
ngoại tệ của khu vực này có thể tự cân đối được. Chính vì vậy, dù nhập
siêu tăng cao nhưng ngay trong những tháng đầu năm, NHNN đã mua
được một lượng ngoại tệ khá lớn để tăng dự trữ ngoại hối. Đây là căn
cứ quan trọng để NHNN kiên trì thực hiện mục tiêu điều hành tỷ giá
hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ ba, thị trường bất động sản
- Tính đến cuối tháng 6 năm 2015, tín dụng bất động sản tăng 11%,
chiếm tỷ trọng 8,3% trong tổng dư nợ tín dụng. Tín dụng này chủ yếu
đổ vào lĩnh vực xây dựng nhà ở và cho thuê. Do vậy tín dụng bất động
sản (BĐS) không phải đổ vào kinh doanh bất động sản. Tín dụng này
cũng kích thích tiêu dùng đối với các nhóm hàng vật liệu xây dựng.
- Sau đúng hai tháng chỉ đạo gỡ khó về vốn cho lĩnh vực bất động sản,
nghị quyết phiên họp tháng 6/2015 của Chính phủ vừa ban hành đã đề
cập đến nội dung yêu cầu “Giám sát chặt chẽ khi cho vay các lĩnh vực
tiềm ẩn rủi ro” trong đó nêu cụ thể là bất động sản, dự án có thời gian
thu hồi vốn dài.Thị trường BĐS hiện nay chưa có bất cứ dấu hiệu nào
chứng tỏ “bong bóng” đã quay trở lại. Bởi lượng tồn kho khổng lồ với
hàng nghìn dự án BĐS nằm bất động khắp cả nước chưa giải quyết hết
thì không thể xảy ra “bong bóng” BĐS lần nữa.



- Song thị trường bất động sản có tăng trưởng nóng hay không còn phụ
thuộc vào phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước, trong đó có chính
sách tín dụng. Nếu có sự điều tiết tốt sẽ hạn chế thị trường bất động sản
tăng trưởng nóng và tránh đổ vỡ cho thị trường tài chính, tiền tệ.
Chính sách của NHNN
- Năm 2015, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặt mục tiêu tăng trưởng
tín dụng từ 13-15%. Tính đến ngày 21/12/2015, tổng phương tiện thanh
toán tăng 13,55% so với cuối năm 2014, phù hợp với kinh tế vĩ mô, tiền
tệ và các giải pháp điều hành của NHNN; huy động vốn tăng 13,59%,
tín dụng tăng 17,17%.
- Tăng trưởng tín dụng tăng cao hơn năm 2014. Ước cả năm 2015, tín
dụng có thể tăng khoảng 18%. Dòng vốn tín dụng tiếp tục được phân bổ
hợp lý, hướng tới các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, nhất là các ngành,
lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ, mang lại hiệu quả thiết thực cho nền
kinh tế.
NHNN đã chủ động, linh hoạt trong tổ chức sử dụng và phối hợp đồng bộ
công cụ chính sách tiền tệ, luôn quán triệt phương
châm: Nâng cao vị thế đồng Việt Nam (VND); phối
hợp chính sách lãi suất và tỷ giá, kiểm soát lạm phát.
Để đạt được kết quả đó, ngay từ đầu năm 2015, NHNN đã tổ chức thực hiện
các giải pháp về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ gia đình tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ
phát triển sản xuất- kinh doanh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng (TCTD) mở
rộng tín dụng đi đôi với an toàn, nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm cung cấp
vốn cho nền kinh tế.
4.

Kết luận

Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển .Sự cạnh tranh là bản
chất vốn có của nền kinh tế thị trường và ngày càng khốc liệt khi nền kinh tế
Việt Nam được mở cửa ngày càng hòa nhập nền kinh tế thế giới (tháng 11
năm 2007 Viêt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO và sắp tới là
thành viên của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP ), đây là sự
kiện quan trọng đánh dấu một bước phát triển của Việt Nam. Trước sự kiện
này chính sách của chính phủ sử dụng lãi suất như một công cụ quan trọng để
tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng cung tiền cung ứng. Lãi suất là một


phạm trù kinh tế, phản ánh mối giữa cung và cầu về tiền tệ,thực trạng kinh tế
của một nước.
Hiện tượng lãi suất vẫn đang biến động theo từng ngày từng giờ khắp
trong và ngoài nước. Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt
chẽ nhất trong nền kinh tế, sự dao động của lãi suất được dựa trên các phương
diện thông tin đại chúng, nó trực tiếp tác động đến các quyết định của chính
phủ, doanh nghiệp, cũng như nhiều hoạt động đến các tổ chức tín dụng và sự
thăng trầm của toàn bộ nền kinh tế. Là một bộ phận cấu thành của chính sách
tiền tệ quốc gia, là mục tiêu chính sách tiền tệ của quốc gia, ổn định tiền tệ,
đảm bảo mức lạm phát hợp lý kích thích tăng trưởng kinh tế, đảm bảo có sự
chênh lệch lãi suất kinh doanh, sử dụng vốn hiệu quả tăng sản phẩm xã hội
chính phủ Việt Nam thông qua NHNN. Trong thời gian tới chính sách lãi suất
sẽ còn tiếp tục điều chỉnh theo hướng tự do hóa lãi suất phù hợp với mức độ
thị trường tài chính khu vực và quốc tế theo chính sách thị trường quốc tế.



×