Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Một số giải pháp nhằm thu hút trực tiếp vốn đầu tư nước ngoài trên địa bản tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.51 KB, 55 trang )

Trang 1
MỞ ĐẦU

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam được ban hành lần đầu tiên vào tháng 12/1987. Qua
hơn 15 năm kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã
hội của đất nước.
Như Nghò quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
khẳng đònh “thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ trương quan trọng, góp
phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế,
tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển đất nước”. Thật vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một
trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển; có tác dụng thúc
đẩy sự chuyển dòch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở ra
nhiều ngành nghề, sản phẩm mới; nâng cao năng lực quản lý và trình độ
công nghệ, mở rộng thò trường xuất khẩu; tạo thêm nhiều việc làm mới, góp
phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế thế giới.
Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong những
năm qua Bình Dương đã tích cực thực hiện công tác thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Trong giai đoạn 5 năm
(1997-2002), GDP của tỉnh tăng bình quân 15,58% hàng năm, cao hơn gấp 2
lần so với năm 1997. Cơ cấu kinh tế chuyển dòch theo hướng tăng dần tỷ
trọng công nghiệp, nông nghiệp tuy tăng khá nhưng giảm dần tỷ trọng (do
công nghiệp tăng rất nhanh). Đến năm 2002, cơ cấu kinh tế của tỉnh là: công
nghiệp - dòch vụ - nông nghiệp với tỷ trọng tương ứng 60,6% - 25,94% -
13,46%.
Riêng về lónh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tính đến hết tháng
06/2003 tổng số dự án đầu tư nước ngoài trên đòa bàn tỉnh Bình Dương là 694
dự án, với tổng số vốn đầu tư là 3 tỷ 292 triệu đô la Mỹ. Nhận thức rõ tầm


quan trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và của Bình Dương nói
riêng, tỉnh cần có những giải pháp thiết thực trong việc thực hiện mời gọi, thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn ra đầu tư trên đòa bàn tỉnh trong thời
gian tới.
Từ những lý do trên, tôi xin chọn đề tài "Một số giải pháp nhằm tăng
cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên đòa bàn tỉnh Bình
Trang 2
Dương giai đoạn từ nay - 2010" làm luận văn tốt nghiệp cao học kinh tế
ngành quản trò kinh doanh năm 2003.
 Mục đích của luận văn:
Luận văn này nhằm nghiên cứu những vấn đề sau:
1/ Đánh giá khái quát tình hình thu hút FDI ở nước ta nói chung và
thực trạng ở tỉnh Bình Dương nói riêng. Đặc biệt là đánh giá những tác động
của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong thời gian qua.
2/ Qua đó đề xuất một số các giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên đòa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn từ nay đến
2010.
 Phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
Đề tài không nhằm nghiên cứu hoạt động đầu tư nước ngoài nói
chung cũng như hoạt động thực tiễn kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài mà chỉ đi sâu nghiên cứu hoạt động thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên đòa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn từ nay đến
2010.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có liên quan đến nhiều lónh vực
khác nhau và đã đạt được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, nghiên
cứu. Do đó, ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu
kinh tế như phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phân tích... tác giả
còn sử dụng một số kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trước đây.
 Kết cấu luận văn:

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các
phụ lục... luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Tổng quan về hoạt động đầu tư nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng tình hình thu hút FDI trên đòa bàn tỉnh Bình
Dương trong thời gian qua (1997-2002).
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI trên đòa bàn
tỉnh Bình Dương giai đoạn từ nay đến 2010.
Trang 3
Chương 1: Tổng quan về hoạt động đầu tư nước
ngoài.

1.1 Giới thiệu khái quát về hoạt động đầu tư nước ngoài.
1.1.1 Một số khái niệm và đặc điểm cơ bản về đầu tư nước ngoài.
Để hiểu được bản chất của đầu tư quốc tế và các hình thức hoạt động
của nó, trước hết ta cần làm rõ khái niệm về đầu tư. Mặc dù còn khá nhiều
quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng có thể đưa ra một khái niệm cơ
bản về đầu tư được nhiều người thừa nhận, đó là "đầu tư là việc sử dụng một
lượng tài sản nhất đònh như vốn, công nghệ, đất đai... vào một hoạt động kinh
tế cụ thể nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu lợi nhuận".
Ngày nay, hoạt động đầu tư quốc tế diễn ra ngày càng phổ biến và có
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của các nước, kể cả nước
đầu tư lẫn nước nhận đầu tư. Đầu tư quốc tế được thực hiện chủ yếu dưới ba
hình thức cơ bản là: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và tín dụng quốc tế.
1.1.1.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): là hình thức đầu tư quốc
tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lónh vực sản
xuất hoặc dòch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ
tự bỏ vốn đầu tư. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đầu tư trực tiếp
nước ngoài được hiểu là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy
đònh của luật pháp Việt Nam. Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp:

− Các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu, tùy
theo quy đònh của luật đầu tư từng nước, thí dụ như Luật Đầu tư của Việt
Nam quy đònh " số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng
30% vốn pháp đònh của dự án".
− Quyền hành quản lý phụ thuộc vào mức độ góp vốn, nếu đóng
góp 100% vốn thì toàn bộ do chủ đầu tư nước ngoài điều hành.
− Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc
vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Lời, lỗ được chia
theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp đònh sau khi đã nộp thuế lợi tức (nay là
thuế thu nhập doanh nghiệp) cho nước chủ nhà.
− Đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức:
+ Đóng góp vốn để xây dựng xí nghiệp mới.
+ Mua lại toàn bộ hoặc từng phần xí nghiệp đang hoạt động.
+ Mua cổ phiếu để thôn tín hoặc sát nhập.
1.1.1.2 Đầu tư gián tiếp: là hình thức đầu tư mà chủ tư bản chuyển
vốn vào một quốc gia khác để mua cổ phần hoặc chứng khoán trên thò trường
Trang 4
tài chính nhằm thu lợi nhuận dưới hình thức cổ tức hoặc thu nhập chứng
khoán. Đặc điểm của hình thức đầu tư gián tiếp:
− Tùy theo quy đònh của từng nước mà mỗi chủ đầu tư nước ngoài
bò khống chế mức độ góp vốn, thøng là dưới 10-25% vốn pháp đònh.
− Các chủ đầu tư nước ngoài kiếm lời qua cổ tức hoặc thu nhập
chứng khoán.
− Chủ đầu tư nước ngoài không được phép trực tiếp điều hành
hoạt động của xí nghiệp mà họ bỏ vốn mua cổ phiếu hoặc chứng khoán.
− Nhà đầu tư bỏ vốn ra kinh doanh thông qua thò trường tài chính.
1.1.1.3 Hình thức tín dụng quốc tế: là hình thức đầu tư dưới dạng cho
vay và kiếm lời thông qua lãi suất tiền vay. Về thực chất đây cũng là một
hình thức đầu tư gián tiếp, nhưng do có những đặc thù riêng nên trong thực tế
hình thức này vẫn được phân loại như một hình thức độc lập. Trong đó, ODA

(Official Development Assistance - Hỗ trợ phát triển chính thức) được xem là
hình thức tín dụng quốc tế đặc biệt. Đây là hình thức viện trợ không hoàn lại
hoặc cho vay vốn với những điều kiện đặc biệt ưu đãi: cho vay dài hạn, lãi
suất thấp, phương thức trả nợ thuận lợi... nhằm giúp các nước chậm và đang
phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội.
Nhìn chung, FDI là hình thức đầu tư chủ yếu so với các hình thức đầu
tư quốc tế khác. Nếu ODA và hình thức đầu tư gián tiếp có những hạn chế
nhất đònh thì FDI lại tỏ ra là hình thức đầu tư có hiệu quả. Vay thương mại
với lãi suất cao sẽ dể trở thành gánh nặng về nợ nước ngoài đối với nước vay
nợ trong tương lai. Đầu tư gián tiếp tuy không trở thành nợ, nhưng sự thay đổi
đột ngột dòng vốn đầu tư nước ngoài ảnh hưởng mạnh đến thò trường vốn, tác
động tiêu cực đến sự ổn đònh kinh tế vó mô của nước nhận đầu tư. Trong khi
đó, hình thức FDI hầu như khắc phục được những bất lợi đã nêu.
FDI được đánh giá là hình thức đầu tư không trở thành gánh nặng về
nợ cho nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài cũng không dễ dàng
rút vốn trong thời gian ngắn. Trái lại, FDI còn tạo điều kiện cho nước nhận
đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước. Bên cạnh
đó, FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư, mà thông qua đó còn
giúp tiếp thu được kỹ thuật công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh
doanh của các nhà đầu tư nước ngoài. Từ đó, tác động tích cực đến việc nâng
cao năng lực của các ngành sản xuất và dòch vụ trong nước, thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Mặt khác, FDI còn góp phần làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo
hướng công nghiệp và dòch vụ, làm cho tính hiệu quả của sự phát triển kinh
tế được nâng lên. Góp phần nâng cao mức sống của nước tiếp nhận đầu tư
thông qua giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo đội ngũ lao động có trình
Trang 5
độ và tay nghề. Ngoài ra, FDI còn giúp đẩy nhanh tiến trình hội nhập của
quốc gia với nền kinh tế thế giới vì đầu tư trực tiếp là nhân tố tác động mạnh
tới tiến trình hoàn thiện thể chế, chính sách đến môi trường đầu tư.

1.1.2 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời đến nay đã hơn 15 năm
(từ 12/1987), kể từ đó tới nay đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và hiện nay
luật thừa nhận có 4 hình thức FDI cơ bản và một số hình thức đầu tư đặc biệt
khác:
1.1.2.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh (A business co-operation
contract).
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc
nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh) quy đònh trách nhiệm và phân chia
kết quả kinh doanh cho mỗi bên (nước ngoài và sở tại) để tiến hành đầu tư
kinh doanh ở Việt Nam mà không thành lập pháp nhân. Đặc điểm của hình
thức này là:
− Các bên Việt Nam và nước ngoài hợp tác với nhau để tiến hành
kinh doanh tại Việt nam trên cơ sở văn bản hợp đồng đã ký giữa hai hoặc
nhiều bên, trong hợp đồng quy đònh rõ nghóa vụ, quyền lợi và trách nhiệm
của mỗi bên tham gia.
− Các bên tiến hành hoạt động kinh doanh mà không cần lập ra
một pháp nhân mới, tức không cho ra đời công ty, xí nghiệp mới.
− Thời hạn của hợp đồng hợp tác kinh doanh do các bên tự thỏa
thuận, phù hợp với tính chất hoạt động kinh doanh và sự cần thiết để hoàn
thành mục tiêu của hợp đồng.
− Mỗi bên làm nghóa vụ tài chính đối với nước chủ nhà theo những
quy đònh riêng.
1.1.2.2 Doanh nghiệp liên doanh (A Joint Venture Enterprise).
Là doanh nghiệp mới được thành lập trên cơ sở góp vốn hai bên hoặc
nhiều bên Việt Nam và nước ngoài. Đặc điểm của hình thức này là:
− Doanh nghiệp được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn, mang tư cách pháp nhân Việt Nam.
− Vốn pháp đònh của liên doanh ít nhất bằng 30% vốn đầu tư, đối
với những dự án đầu tư vào hạ tầng cơ sở, trồng rừng, đầu tư vào các vùng

kinh tế khó khăn có thể chấp nhận vốn pháp đònh thấp đến 20% nhưng phải
được cơ quan cấp giấy phép chấp thuận.
− Phần vốn đóng góp của bên phía nước ngoài không thấp hơn
30% vốn pháp đònh trừ trường hợp đặc biệt có thể cho phép thấp đến 20%.
− Thời gian đầu tư cho phép không quá 50 năm, trong trường hợp
đặc biệt có thể kéo dài đến 70 năm.
Trang 6
Tùy vào quy mô của vốn đầu tư và lónh vực đầu tư mà nhà nước quy
đònh thời hạn đầu tư khác nhau.
− Tổng giám đốc điều hành liên doanh có thể là người nước ngoài,
trong trường hợp đó phó tổng giám đốc thứ nhất là người Việt Nam, thường
trú tại Việt Nam.
− Hội đồng quản trò là cơ quan lãnh đạo của doanh nghiệp liên
doanh. Số thành viên của hội đồng quản trò do các bên quyết đònh, mỗi bên
cử người của mình tham gia hội đồng quản trò ứng với phần vốn đóng góp
trong vốn pháp đònh. Bên ít nhất là hai người.
− Lời, lỗ được chia cho mỗi bên căn cứ vào tỷ lệ góp vốn trong vốn
pháp đònh (trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác đi).
1.1.2.3 Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (Enterprise with
one hundred (100) percent Foreign owned capital).
Đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
lập tại Việt Nam, tự tổ chức quản lý và chòu trách nhiệm về kết quả hoạt
động kinh doanh của mình. Đặc điểm của hình thức này là:
− Doanh nghiệp được lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu
hạn, mang tư cách pháp nhân Việt Nam.
− Vốn pháp đònh của doanh nghiệp ít nhất phải bằng 30% vốn đầu
tư, trừ trường hợp đầu tư vào những vùng kinh tế khó khăn thì tỷ lệ này có
thể thấp đến 20% vốn pháp đònh.
− Trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp đònh, tăng
vốn pháp đònh phải xin phép.

1.1.2.4 Doanh nghiệp cổ phần
Căn cứ Nghò đònh số 38/2003 của Thủ tướng chính phủ ban hành ngày
15/04/2003 về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài sang hoạt động công ty cổ phần thì hình thức này được hiểu là "Doanh
nghiệp cổ phần là doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia làm nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần, trong đó các cổ đông sáng lập nước ngoài nắm giử
ít nhất 30% vốn điều lệ; được tổ chức hoạt động theo hình thức công ty cổ
phần... được hưởng các đảm bảo của nhà nước Việt Nam và ưu đãi theo Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam".
Có ba điều kiện để một doanh nghiệp nước ngoài từ hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn chuyển sang công ty cổ phần:
− Doanh nghiệp đã góp đủ vốn pháp đònh theo quy đònh tại giấy
phép đầu tư.
− Đã chính thức hoạt động ít nhất ba năm trong đó năm cuối trước
khi chuyển đổi phải có lãi.
− Có hồ sơ đề nghò chuyển đổi.
Trang 7
Ngoài ra tại Việt Nam, còn có các hình thức đầu tư đặc thù khác là:
 Hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT - Build-
Operate-Transfer): là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình
kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất đònh; hết thời hạn, nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
Cần phân biệt với hình thức BTO và BT:
Hình thức xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO): là văn bản ký
kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước
ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà
đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam, chính
phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một
thời hạn nhất đònh để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.

Hình thức xây dựng - chuyển giao (BT): là văn bản ký kết giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
 Hình thức khu chế xuất (Export Processing Zone): đây là một khu
vực lãnh thổ được nhà nước quy hoạch riêng nhằm thu hút các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài vào hoạt động để chế biến ra hàng công nghiệp
phục vụ xuất khẩu.
 Hình thức phát triển KCN (Industrial Zone, Industrial Park): ngày
24/4/1997, chính phủ đã ban hành quy chế khu chế xuất, khu công nghiệp,
khu công nghệ cao gọi chung là khu công nghiệp thay thế cho hai Nghò đònh
là Nghò đònh sốâ 322-NĐ/HĐBT ngày 18/10/1991 và Nghò đònh sốâ 192-NĐ/CP
ngày 28/12/1994. Như vậy, KCN tại Việt Nam được hiểu là: "KCN là khu tập
trung các doanh nghiệp KCN, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các
dòch vụ hổ trợ sản xuất công nghiệp, có ranh giới đòa lý xác đònh, không có
dân cư sinh sống và do Chính phủ quyết đònh thành lập".
1.2 Vò trí, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với
tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
1.2.1 Vò trí:
Đầu tư nước ngoài chiếm vò trí khá quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những nguồn vốn
quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dòch cơ cấu
theo hướng CNH-HĐH; mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới; nâng cao
năng lực quản lý và trình độ công nghệ, mở rộng thò trường xuất khẩu; tạo
thêm nhiều việc làm mới, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động
hội nhập kinh tế thế giới.
Trang 8
Như Nghò quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
khẳng đònh kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở nước ta, được

khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
Thu hút vốn FDI là chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực
trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục
vụ sự nghiệp CNH-HĐH, phát triển đất nước.
1.2.2 Vai trò của đầu tư quốc tế:
Có thể nói, hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng thể hiện rõ vai trò to
lớn trong việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và thương mại ở các nước
(nùc đầu tư lẫn nước tiếp nhận đầu tư).
1.2.2.1 Đối với nước đầu tư:
Giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thông qua việc tận dụng
những lợi thế sản xuất của nơi tiếp nhận đầu tư như nguồn tài nguyên, vật
liệu rẻ tiền, giúp hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của
vốn đầu tư. Đồng thời có thể tạo ra nguồn cung cấp nguyên vật liệu đầu vào
ổn đònh với giá phải chăng cho nước đầu tư.
Bên cạnh đó, đầu tư quốc tế còn là phương tiện để các nhà đầu tư có
thể tiếp cận và mở rộng thò trường tiêu thụ ra bên ngoài, tạo lập được mối
quan hệ với khách hàng và các kênh phân phối hàng hóa tại đòa phương,
tránh được hàng rào bảo hộ mậu dòch của các nước thông qua việc xây dựng
các nhà máy sản xuất và thò trường ở bên ngoài. Ngoài ra, đầu tư vốn ra nước
ngoài giúp các chủ đầu tư phân tán bớt rủi ro khi tình hình trong nước bất ổn
hay khi thò trường trong nước có dấu hiệu suy thoái, bão hòa...
1.2.2.2 Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
Có thể khái quát luồng vốn đầu tư quốc tế hiện nay chảy vào hai khu
vực: các nước tư bản phát triển và các nước chậm và đang phát triển. Nhìn
chung, đầu tư quốc tế đều có vai trò quan trọng đặc biệt, nhưng vai trò này
được thể hiện khác nhau giữa hai khu vực này:
a/ Đối với các nước tư bản phát triển (như Mỹ, EU, Nhật bản...) đầu
tư của nước ngoài có ý nghóa quan trọng, nó giúp giải quyết khó khăn về các
vấn đề kinh tế xã hội trong nước như: thất nghiệp, lạm phát... Và cũng qua
đó, các nhà đầu tư nước ngoài có thể mua lại những công ty, xí nghiệp làm

ăn thua lỗ có nguy cơ bò phá sản, giúp cải thiện tình hình thanh toán, tạo công
ăn việc làm mới cho người lao động.
Mặt khác đầu tư nước ngoài còn góp phần tăng thu ngân sách quốc
gia, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và
thương mại trong nước. Ngoài ra, nó còn giúp các nhà quản lý trong nước có
thể học hỏi được kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ các nước khác.
Trang 9
b/ Đối với các nước chậm và đang phát triển
Đầu tư quốc tế giúp các nước này đẩy mạnh tốc độ phát triển nên
kinh tế thông qua việc tạo ra các xí nghiệp, các nhà máy mới hoặc tăng quy
mô của các đơn vò kinh tế. Qua đó góp phần phát triển những ngành nghề
mới, phát triển nguồn nhân lực và tạo công ăn việc làm mới, thu hút thêm
nhiều lao động, từ đó tăng thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện tăng
tích lũy trong nước.
Thông qua tiếp nhận đầu tư quốc tế các nước chậm và đang phát triển
có điều kiện tiếp nhận được kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của nước ngoài. Từ đó, tạo động lực thúc đẩy sự đổi mới công nghệ của
các nước, góp phần tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm.
Đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng bù đắp
cho sự thiếu hụt về vốn của các nước. Đặc biệt đối với các nước chậm và
đang phát triển thì đầu tư nước ngoài đã góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư
trong nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài được đánh giá là có ưu thế nổi bật hơn so với các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài khác như vay nợ, viện trợ... do không gây nợ cho nước nhận đầu
tư.
Đầu tư nước ngoài tác động mạnh đến cạnh tranh và độc quyền trong
nước, từ đó thúc đẩy cạnh tranh, làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả
hơn, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Ngoài ra, nhờ có đầu tư
nước ngoài cơ cấu nền kinh tế của các nước này chuyển dòch nhanh chóng
theo chiều hướng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp và dòch vụ,

giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp, khai thác trong GDP, đẩy mạnh sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Vai trò của các MNC đối với dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài: Ngày
nay, các MNC đã trở thành lực lượng chủ yếu, nòng cốt thúc đẩy quá trình
toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế giới, thông qua tác động to lớn của
các MNC trong việc phân bố nguồn lực của nền kinh tế thế giới, thúc đẩy
quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế ở các quốc gia. Phần lớn các hoạt động
FDI được thực hiện bởi các MNC, nên việc tăng trưởng nhanh của các công
ty này đã thúc đẩy mạnh dòng lưu chuyển vốn đầu tư giữa các nước.
Các MNC cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải kỹ
thuật, công nghệ, thúc đẩy quá trình CNH-HĐH ở các nước đang phát triển.
các nước đang phát triển, hầu hết các công nghệ hiện đại trong các ngành
kinh tế quan trọng như dầu khí, điện tử, viễn thông, ô tô... được chuyển giao
thông qua con đường FDI. Mặt khác, công nghệ của các nhà đầu tư nước
ngoài là các MNC có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện chiến lược
“đi tắt đón đầu” để CNH-HĐH nền kinh tế.
Trang 10
Thông qua FDI, các MNC không chỉ bổ sung vốn đầu tư, chuyển giao
công nghệ, kiến thức quản lý cho các nước đang phát triển mà còn xây dựng
các cơ sở nghiên cứu và phát triển, đào tạo kỹ thuật cho đội ngũ lao động ở
nước chủ nhà để phục vụ cho các dự án đầu tư của họ. Nhờ đó, góp phần
nâng cao năng suất lao động trong quá trình công nghiệp hóa ở các nước
nhận đầu tư. Do đó, chiến lược đầu tư phát triển của các MNC có tác động
rất lớn đến dòng đầu tư và xu hướng vận động của FDI.
Bên cạnh đó, nó còn tạo ra các liên kết với các công ty nội đòa thông
qua mối quan hệ cung cấp nguyên vật liệu đầu vào và các dòch vụ, thúc đẩy
đầu tư nội đòa, gắn kết các công ty trong nước với thò trường thế giới, tạo ra
thò trường cho các nước đang phát triển. Ngoài ra, nhờ quá trình quốc tế hóa
sản xuất (chủ yếu do các MNC thực hiện) mà các nước đang phát triển khai
thác được có hiệu quả các nguồn lực sản xuất của mình, đặc biệt là nguồn tài

nguyên thiên nhiên phong phú và lao động dồi dào.
Việt Nam, nếu không có FDI thì các nguồn lực có lợi thế sẽ không
được khai thác có hiệu quả, trong khi đó lại rất cần các yếu tố như vốn, công
nghệ, kiến thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và mạng lưới phân phối toàn
cầu của các MNC để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Và
nhờ có các hoạt động xúc tiến thương mại của các MNC, các doanh nghiệp
trong nước có thể nắm bắt được nhu cầu và tình hình của thò trường thế giới.
Từ đó, có cơ sở thực tế để điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình cho
phù hợp với nhu cầu của thò trường hơn.
1.2.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế đất nước:
Qua hơn 15 năm kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam (1987), hoạt động FDI ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của
đất nước trong thời gian qua. Sự đóng góp to lớn của FDI trong quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế thể hiện qua các mặt sau:
 Trước hết, FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát
triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong
nước. Có thể nói, vốn là yếu tố có tính quyết đònh đối với tăng trưởng kinh tế
của một quốc gia. Việt Nam, khi tích lũy nội bộ từ nền kinh tế còn thấp,
nguồn thu ngân sách còn hạn chế thì tốc độ tăng trưởng sẽ phụ thuộc quan
trọng vào nguồn vốn từ bên ngoài.
Đầu tư nước ngoài là kênh vốn quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta, giai đoạn 1991-1995 vốn đầu tư nước
ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; giai đoạn 1996-2000 số
Trang 11
vốn đầu tư nước ngoài tăng lên 1,8 lần so với giai đoạn trước đó, và chiếm
24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
 Các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần tăng thu ngân sách, cải
thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia. Với hàng ngàn dự

án được cấp phép hoạt động, tỷ lệ đóng góp vào GDP của Việt Nam trong
một số năm qua của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng lên
đáng kể: năm 1993 chiếm 3,6%, đến năm 1997 là 9,1%, năm 1998:10%, năm
1999: 12,2% và từ năm 2000-2002 mỗi năm đều chiếm trên 13% GDP.
Biểu số 1: Đóng góp của các dự án FDI đối với sự phát triển kinh tế Việt
Nam.
Năm
1992 1993 1994 1995 1996
Tỷ trọng trong
GDP (%)
2 3,6 6,1 6,3 7,4
Năm
1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tỷ trọng trong
GDP (%)
9,1 10 12,2 13,2 13,5 13,8
Nguồn: http:/www.vneconomy.com.vn/số liệu thống kê.

Tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực này hơn hẳn tốc độ tăng trưởng
của khu vực trong nước. Đồng thời nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN) từ
khu vực này cũng tăng lên đáng kể. Năm 1994 nộp NSNN: 128 triệu USD,
năm 1998: 370 triệu USD và năm 2002: 459 triệu USD. Việt Nam, đầu tư
nước ngoài đã tác động tích cực đến cán cân thương mại và cán cân thanh
toán quốc tế thông qua việc tiếp nhận khá lớn nguồn vốn FDI (tổng vốn thực
hiện là 24,63 tỷ USD tính đến 3/2003).
Bên cạnh đó, khu vực kinh tế có vốn FDI cũng đã góp phần tích cực
trong việc mở rộng thò trường trong nước cũng như thò trường xuất khẩu. Nếu
không kể dầu khí thì kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài giai đoạn 1991-1995 đạt trên 1,12 tỷ USD; giai đoạn 1996-2000
đạt trên 10,4 tỷ USD; năm 2001 đạt 3,67 tỷ USD và năm 2002 là 4,5 tỷ USD.

Biểu số 2: Tình hình xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Đơn vò tính: triệu USD.
Năm
1991 1992 1993 1994 1995 1996
Xuất khẩu 52 112 269 352 336 788
Năm
1997 1998 1999 200 2001 2002
Xuất khẩu 1.790 1.982 2.547 3.300 3.670 4.500
Nguồn: http:/www.vneconomy.com.vn/số liệu thống kê.
Trang 12
 Các dự án đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong chuyển
dòch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, phát triển lực lượng sản xuất, góp
phần đáng kể trong tăng trưởng giá trò sản xuất công nghiệp cả nước, nâng
cao trình độ kỹ thuật và năng lực công nghệ cho nền kinh tế.
Thông qua các dự án đầu tư nước ngoài, nhiều công nghệ mới, hiện
đại đã được đưa vào sử dụng ở nước ta như trong các ngành thăm dò và khai
thác dầu khí, bưu chính viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản xuất máy
tính, ô tô... Các dự án này đã đóng góp đáng kể trong việc gia tăng khả năng
cạnh tranh của công nghệ Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Trong thời kỳ đầu, đầu tư nước ngoài chủ yếu thực hiện trong các lónh
vực kinh doanh bất động sản như xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê,
KCN, KCX... trong giai đoạn từ 1997-1998 trở lại đây, đầu tư trực tiếp nước
ngoài có xu hướng thực hiện nhiều hơn vào các ngành sản xuất công nghiệp
và dòch vụ. Hiện đầu tư nước ngoài chiếm gần 35% sản lượng công nghiệp
của cả nước với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 20%.
Biểu số 3: Đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đối với sự
phát triển kinh tế của Việt Nam.
Năm
1991 1992 1993 1994 1995 1996
Tốc độ tăng giá trò sản

xuất công nghiệp (%)
45,6 40,4 13,6 12,8 8,8 21,7
Năm
1997 1998 1999 200 2001 2002
Tốc độ tăng giá trò sản
xuất công nghiệp (%)
23,2 24,4 20 23 12,1 14
Năm
1991 1992 1993 1994 1995 1996
Tỷ trọng trong
công nghiệp (%)
22,4 26,2 26,2 26,2 25,1 26,2
Năm
1997 1998 1999 200 2001 2002
Tỷ trọng trong
công nghiệp (%)
28,9 32 34,4 36 35,4 35
Nguồn: http:/www.vneconomy.com.vn/số liệu thống kê.
Ngoài ra, việc áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại ở các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tạo ra động lực kích thích các
doanh nghiệp nội đòa đầu tư đổi mới công nghệ, góp phần tạo ra những sản
phẩm có chất lượng với giá thành thấp, cạnh tranh được với các doanh nghiệp
khác trên thò trường nội đòa và xuất khẩu.
 Đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong vấn đề giải quyết
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao trình độ cho người lao động. Khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã đem lại một bộ phận đáng kể
thu nhập cho người lao động và tăng sức mua cho thò trường.
Trang 13
Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng gia tăng. Một số lượng đáng kể các nhà quản lý và công

nhân lao động được đào tạo trong và ngoài nước đã góp phần nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực trong nước. Đây là nhân tố quan trọng góp phần làm
cho môi trường đầu tư của Việt Nam nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh
với các nước khu vực và trên thế giới.
Biểu số 4: Số lượng việc làm do khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
tạo ra:
Đơn vò tính: 1.000 người.
Năm
91-95 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Giải quyết
việc làm (*)
200 220 250 270 296 379 439 472
Ghi chú: (*) tính tới cuối năm báo cáo, không kể lao động gián tiếp.
Nguồn: http:/www.vneconomy.com.vn/số liệu thống kê.
Ngoài ra các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế thò trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế nước ta hội nhập
nhanh với nền kinh tế khu vực và thế giới. Cho đến nay đã có trên 74 quốc
gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở nước ta, trong đó có hơn 80 công ty đa
quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Chính những dự án này có tác động không
nhỏ tới việc thay đổi cơ chế chính sách quản lý kinh tế của Việt Nam theo
hướng hội nhập quốc tế.
Như vậy, có thể nói những gì mà FDI mang lại cho kinh tế xã hội Việt
Nam là điều không thể phủ nhận, đã góp phần đưa nền kinh tế nước ta lên
một tầm cao mới, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Việt Nam trong phát triển
và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
1.3 Các điều kiện cơ bản thu hút FDI:
1.3.1 Tình hình chính trò xã hội ổn đònh:
Có thể nói môi trường chính trò xã hội ổn đònh là yếu tố hấp dẫn hàng
đầu đối với các nhà đầu tư, là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh
doanh quốc tế, có tác động lớn đến việc thu hút đầu tư từ bên ngoài và là

điều kiện đầu tiên, cơ bản nhất để các nhà đầu tư quyết đònh có nên bỏ vốn
ra đầu tư hay không. Bởi vì tình hình chính trò không ổn đònh thường dẫn tới
đường lối phát triển không nhất quán. Và khi có những bất ổn về tình hình
chính trò xã hội như sự mất ổn đònh trong nước, sự xung đột với bên ngoài,
hay có những xu hướng thay đổi trong nội các Chính phủ... thì sẽ ảnh hưởng
đến sự an toàn về sở hữu tài sản của các nhà đầu tư.
Do đó, trong hầu hết luật pháp về đầu tư nước ngoài của các nước đều
quy đònh rất rõ sẽ đảm bảo không quốc hữu hóa tài sản hợp pháp của các nhà
đầu tư. Và việc đảm bảo an toàn tài sản cho các nhà đầu tư nước ngoài luôn
Trang 14
chiếm vò trí quan trọng hàng đầu trong các chính sách về đầu tư nước ngoài
của nước chủ nhà. Chính sách này nhằm tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước
ngoài, để họ có thể yên tâm tập trung vào hoạt động kinh doanh của mình
nhằm khai thác hiệu quả dự án đầu tư.
Ngay trong điều đầu tiên của Luật Đầu tư nước ngoài Việt Nam cũng
đã thể hiện "nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền
lợi hợp pháp khác của các nhà đầu tư nước ngoài". Để thực hiện chính sách
trên, nước chủ nhà thường ký các Hiệp đònh đảm bảo đầu tư với các nước đầu
tư. Trong đó thường bao gồm các nội dung cơ bản về việc không quốc hữu
hóa, tòch thu tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài; bồi thường những thiệt
hại về tài sản cho các nhà đầu tư trong trường hợp tài sản của họ bò trưng
dụng vào mục đích công; cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được chuyển
lợi nhuận, vốn đầu tư và các tài sản hợp pháp khác ra khỏi biên giới.
Tình hình chính trò ổn đònh là điều kiện tiên quyết để đảm bảo các
cam kết của chính phủ đối với các nhà đầu tư về sở hữu vốn đầu tư, các chính
sách ưu tiên đầu tư và đònh hướng phát triển (cơ cấu đầu tư) của nước nhận
đầu tư. Đồng thời nó còn là điều kiện thiết yếu để duy trì sự ổn đònh về tình
hình kinh tế xã hội. Đây là nhân tố quan trọng tác động đến tính rủi ro của
các hoạt động đầu tư và là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước
ngoài.

1.3.2 Các chính sách kinh tế vó mô ổn đònh
Các chính sách kinh tế vó mô ổn đònh cũng là một trong những điều
kiện cơ bản và quan trọng nhất để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Trình độ
quản lý kinh tế vó mô có ảnh hưởng lớn đến sự ổn đònh kinh tế vó mô trong
nước. Duy trì sự ổn đònh các chính sách kinh tế vó mô nhằm giảm bớt những
biến động ngắn hạn trong nền kinh tế và khuyến khích tăng trưởng kinh tế,
góp phần tạo nên môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư.
Các hoạt động đầu tư nước ngoài chòu tác động bởi nhiều chính sách
của nước chủ nhà, trong đó có các chính sách tác động trực tiếp như quy đònh
về lónh vực được đầu tư, mức sở hữu của nước ngoài, miễn giảm thuế đầu tư,
quy đònh tỷ lệ xuất nhập khẩu, tư nhân hóa, cạnh tranh, bảo hộ... và các chính
sách có ảnh hưởng gián tiếp như chính sách về tài chính tiền tệ, thương mại,
văn hóa-xã hội, đối ngoại...
Việc duy trì sự ổn đònh các chính sách, mức độ đầy đủ và hợp lý của
các chính sách này có ảnh hưởng mạnh đến việc thu hút dòng vốn đầu tư trực
tiếp từ bên ngoài. Ngoài ra, sự ổn đònh các chính sách kinh tế vó mô trong
nước giúp cho các nhà đầu tư có thể giảm bớt các yếu tố không lường trước
được trong quá trình đầu tư và dự tính khá chính xác kết quả đầu tư của mình.

Trang 15

1.3.3 Cơ sở hạ tầng đảm bảo cho đầu tư phát triển
Cơ sở hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật, các công trình,
các phương tiện tồn tại trên một lãnh thổ nhất đònh được dùng làm điều kiện
sản xuất và điều kiện sinh hoạt nói chung, bảo đảm sự vận hành liên tục,
thông suốt các luồng của cải vật chất, các luồng thông tin và dòch vụ nhằm
đáp ứng nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất và đời sống. Sự phát triển của
cơ sở hạ tầng và dòch vò sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi và giảm những
chi phí phát sinh cho các hoạt động đầu tư.
Để thu hút vốn đầu tư, các quốc gia cần thiết phải có được cơ sở hạ

tầng tương đối hoàn chỉnh, đảm bảo đáp ứng cho các hoạt động kinh tế xã hội
diễn ra liên tục và thông suốt. Và để tiếp nhận được càng nhiều vốn đầu tư
nước ngoài, các nước đã không ngừng đầu tư, hoàn thiện cơ sở hạ tầng bên
trong của mình từ hệ thống giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc... đến hệ
thống các dòch vụ hỗ trợ có liên quan đến hoạt động của các nhà đầu tư nhằm
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư. Đây là các yếu tố
ảnh hương trực tiếp đến việc vận hành các hoạt động kinh doanh và điều
kiện sống của các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, chất lượng các dòch vụ về lao động, tài chính, công nghệ,
điều kiện sinh hoạt cho các nhà đầu tư nước ngoài hay như sự sẵn có của
những đối tác tin cậy, những nhà cung ứng hàng hóa và dòch vụ, những đối
tượng tiêu thụ, sự khuyến khích cạnh tranh của nhà nước... cũng không kém
phần quan trọng và luôn là các yếu tố được cân nhắc kỹ trước khi quyết đònh
đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
1.3.4 Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư
Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, các quốc gia thường có nhiều chính
sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư khác nhau như các chính sách khuyến
khích về thuế, bảo hộ thò trường trong nước, chính sách không phân biệt đối
xử, tỷ lệ sở hữu, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng... và các trợ cấp ưu đãi khác.
Trong các chính sách khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài của các nước,
các khuyến khích về tài chính luôn chiếm vò trí quan trọng và được coi là
điểm mấu chốt để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Các khuyến khích về
tài chính thường bao gồm các mức thuế ưu đãi, thời hạn miễn giảm thuế,
hoàn thuế, ưu đãi tín dụng, lệ phí, quy đònh thời gian khấu hao... Đây là
những công cụ quan trọng không chỉ tạo nên sự hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư nước ngoài mà còn hướng hoạt động đầu tư của họ theo đúng đònh hướng
phát triển kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư.
Mức độ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc rất lớn vào việc
quy đònh các mức thuế đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Nếu các mức
Trang 16

thuế đầu tư này thấp và hợp lý sẽ góp phần giảm được chi phí đầu tư, nhờ đó
tăng cơ hội thu được lợi nhuận cao. Do đó, để khuyến khích đầu tư nước
ngoài theo đònh hướng phát triển của nước chủ nhà thì các lónh vực, các đòa
bàn, các hình thức đầu tư... ưu tiên thường được áp dụng với mức thuế suất
thấp.
Thời hạn miễn, giảm thuế đầu tư cũng được quốc gia áp dụng để hấp
dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, và để tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu
tư, nước chủ nhà thường kéo dài thời gian miễn giảm thuế cho các nhà đầu tư
nước ngoài. Cùng với những ưu đãi trên, nhiều nước còn áp dụng chính sách
miễn, giảm thuế xuất nhập khẩu đối với các máy móc, thiết bò và nguyên vật
liệu cho các dự án xuất khẩu, dự án công nghệ cao hoặc dự án đầu tư vào các
lónh vực, đòa bàn được khuyến khích đầu tư. Ngoài ra, nước chủ nhà còn sử
dụng nhiều ưu đãi tài chính khác để khuyến khích đầu tư nước ngoài như
giảm thuế thu nhập, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, tái đầu tư...
1.4 Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước khu vực châu Á.
1.4.1 Đối với một số nước ASEAN
Có thể nói, một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng tốc độ
phát triển kinh tế và ngoại thương của các nước ASEAN là do các nước này
rất chú trọng đến công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngay từ khi thành
lập (8/1967), các nước này đã lần lượt xây dựng khung pháp lý làm cơ sở cho
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, do những điều kiện và đặc
điểm riêng của mỗi nước nên cách thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng
khác nhau. Do đó, nghiên cứu kinh nghiệm của họ có thể giúp cho Việt Nam
có những bước đi thích hợp trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thái Lan: là một nước có các điều kiện kinh tế gần giống với Việt
Nam, từ một nước dựa vào nông nghiệp là chủ yếu đang dần trở thành nước
công nghiệp mới nhờ vào chính sách "mở cửa" nền kinh tế. Từ thời điểm "mở
cửa" nền kinh tế, nền kinh tế Thái Lan phát triển qua 3 giai đoạn. Qua từng
giai đoạn đó, chính sách đầu tư của Thái Lan cũng được sửa đổi phù hợp với
các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Luật Đầu tư nước ngoài

của Thái Lan có một số điểm cơ bản cần lưu ý:
− Chính phủ Thái Lan tiếp tục không quy đònh mức lương lao động
tối thiểu.
− Cho phép bán đất cho các công ty liên doanh giữa doanh nghiệp
Thái và các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nếu các liên doanh mà số vốn
đóng góp của bên nước ngoài trên 50% vốn pháp đònh thì việc mua đất của
các liên doanh này sẽ gặp khó khăn.
− Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp Thái Lan đầu tư ra
nước ngoài.
Trang 17
Tuy nhiên, trong lónh vực đầu tư nước ngoài ở Thái Lan cũng còn một
số tồn tại cần xem xét rút kinh nghiệm:
− Phiền hà về trình tự, thủ tục đăng ký cấp giấy phép đầu tư, thời
gian xét duyệt cấp giấy phép khá chậm (từ 56-90 ngày).
− Sử dụng các dòch vụ công cộng khó khăn (điện, nước, thông tin
liên lac...).
− Văn bản hướng dẫn không rõ ràng, chế độ thuế khóa thiếu ổn
đònh.
− Khó khăn khi xin giấy phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài.
− Cơ sở hạ tầng tuy phát triển khá mạnh nhưng vẫn chưa theo kòp
nhu cầu phát triển.
Indonesia: là nước có diện tích và dân số lớn nhất trong khối ASEAN.
Thực hiện chính sách mở cửa từ năm 1967, Luật Đầu tư nước ngoài của
Indonesia ra đời nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho phát triển
kinh tế.
Sau đó, năm 1970 Luật Đầu tư nước ngoài của Indonesia có sự sửa
đổi theo hướng khuyến khích các nhà đầu tư trong nước tham gia góp vốn
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Và đến tháng 06/1994,
Luật Đầu tư nước ngoài của Indonesia thay đổi theo hướng nới lỏng những
hạn chế về lónh vực được nhận vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể, cho phép các

công ty nước ngoài tham gia vào các lónh vực mà trước đây không được phép
như: cảng biển, viễn thông, tàu biển, hàng không dân dụng, cung cấp nước
uống, điện nguyên tử...
Các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài được đưa ra:
− Miễn thuế nhập khẩu và thuế doanh thu đối với các loại máy móc,
trang thiết bò, nguyên vật liệu và các hàng hóa khác đưa vào góp vốn trong xí
nghiệp liên doanh.
− Miễn thuế giá trò gia tăng trong 5 năm kể từ sản xuất có tính
thương mại đối với các ngành kinh doanh dòch vụ khách sạn, văn phòng, hoạt
động của các trung tâm thương mại...
− Miễn thuế giá trò gia tăng đối với các ngành sản xuất và dòch vụ
hàng xuất khẩu.
− Được nhập khẩu hàng hóa, nguyên vật liệu dùng để sản xuất hàng
xuất khẩu nều như giá của những hàng nhập này thấp hơn giá nội đòa, nhằm
giúp các nhà sản xuất hàng xuất khẩu hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh
tranh của sản phẩm xuất khẩu trên thò trường quốc tế.
Kinh nghiệm trong lónh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài của
Indonesia được rút ra là muốn tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài phải
cố gắng tạo ra được những điều kiện cơ bản sau:
Trang 18
− n đònh về chính trò và kinh tế.
− Hệ thống pháp luật đầy đủ, dễ hiểu và nghiêm minh.
− Chính phủ đầu tư thích đáng để cải thiện cơ sở hạ tầng hấp dẫn
các nhà đầu tư nước ngoài.
− Nâng đỡ các nhà đầu tư trong nước để họ đủ sức cạnh tranh với
bên ngoài.
Malaysia: trước thời kỳ thực hiện mở cửa kinh tế, Malaysia vốn là
một quốc gia nông nghiệp, có trình độ phát triển thấp. Nhờ chính sách mở
cửa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài hiệu quả, đến nay Malaysia đã trở thành
một trong những nhà xuất khẩu linh kiện điển tử hàng đầu thế giới.

Trong chính sách đầu tư nước ngoài của Malaysia có một số điểm cơ
bản cần lưu ý:
− Thủ tục và chính sách ưu đãi trong đầu tư nước ngoài của
Malaysia rất rõ ràng, nhất quán và ổn đònh.
− Khuyến khích phát triển tất cả các loại hình đầu tư, từ hình thức
100% vốn đầu tư nước ngoài đến hình thức liên doanh.
− Chính phủ lên quy hoạch phát triển 158 khu công nghiệp để giúp
các nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn và đònh hướng phát triển kinh
doanh lâu dài.
− Ngoài mức giá thuê đất được quy đònh, các nhà đầu tư còn được
giảm một tỷ lệ nhất đònh trong các trường hợp đầu tư nhanh đưa vào hoạt
động, đầu tư sớm, đầu tư vào các ngành ưu tiên phát triển.
Các biện pháp khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài trong trường
hợp:
− Giảm thuế hoặc miễn thuế lợi tức trong 5 năm kể từ khi có lãi đối
với các công ty, xí nghiệp xuất khẩu 50% tổng giá trò sản phẩm sản xuất và
trong sản phẩm sản xuất sử dụng trên 50% nguyên liệu của Malaysia.
− Cho phép tính tăng 2-4% với giá thành sản xuất nếu doanh nghiệp
sử dụng chi phí này để bảo vệ môi trường, xử lý chất thải...
− Trong giá thành sản phẩm, khoản mục chi phí nghiên cứu đào tạo
được phép nhân hệ số 2 để khuyến khích các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài quan tâm đến việc nâng cao tay nghề, đào tạo cán bộ quản lý và công
nhân trong nước.
Kinh nghiệm của Malaysia rút ra trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
− Xây dựng một hệ thống chính trò ổn đònh và đoàn kết dân tộc.
− Hệ thống giáo dục vững mạnh, khuyến khích đào tạo và nâng cao
tay nghề.
− Đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở hiện đại.
Trang 19
− Có kế hoạch phát triển đầu tư ngắn hạn và dài hạn với mục tiêu rõ

ràng.
− Có chính sách khuyến khích xuất khẩu.
− Đẩy mạnh phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường.
Singapore: là quốc gia có diện tích nhỏ nhất trong khối, dân số chỉ
khoảng 5 triệu người, tài nguyên lại ít... nhưng lại là nước thu hút vốn đầu tư
nước ngoài lớn nhất trong khối ASEAN. Bí quyết thành công của Singapore
trong chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài thể hiện qua một số điểm sau:
− Cơ sở pháp lý để thực hiện đầu tư mang tính rõ ràng và thông suốt
bằng luật đầu tư nước ngoài.
− Singapore có một kế hoạch đònh hướng để lái các luồng đầu tư
nước ngoài cũng như trong nước vào phục vụ cho công cuộc phát triển đất
nước theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa cao. Chẳng hạn, việc ban
hành quy chế của ngành "công nghiệp tiên phong" cho phép miễn giảm thuế
lợi tức từ 5-10 năm đối với các dự án đầu tư vào các ngành kỹ nghệ cao cấp
như: ngành chế tạo máy, công nghiệp vũ trụ, hóa dầu, sản xuất thiết bò quang
học, điện tử tin học...
− Tạo ra môi trường kinh tế - xã hội - tài chính ổn đònh để khuyến
khích các chủ đầu tư nước ngoài yên tâm bỏ vốn đầu tư.
− Cơ sở hạ tầng phát triển tốt, hiện đại cũng là nguyên nhân hấp
dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư.
− Chính phủ hạn chế tối đa việc chỉnh luật có liên quan đến đầu tư
nước ngoài để tạo môi trường pháp lý ổn đònh, giúp các nhà đầu tư nước
ngoài hoạch đònh các chiến lược kinh doanh dài hạn của mình. Việc đối xử
bình đẳng giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước là nét đặc thù trong
chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của đất nước này và đã mang lại
kết quả khả quan.
− Các xí nghiệp nước ngoài được tự do chuyển vốn, lãi cổ phần về
nước có sự bảo đảm cho công cuộc đầu tư bởi chính phủ.
− Để hỗ trợ cho hoạt động đầu tư, chính phủ Singapore đặc biệt chú
ý đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Chính vì thế mặc dù lương nhân công ở

đây cao hơn so với các nước trong khu vực, nhưng vẫn hấp dẫn các nhà đầu
tư đến phát triển các ngành công nghệ kỹ thuật cao.
1.4.2 Đối với Trung Quốc:
Là nước ở châu Á thu hút lượng vốn FDI trên 50 tỷ USD (năm 2002),
Trung Quốc đã trở thành nước đứng đầu thế giới về tiếp nhận vốn đầu tư
nước ngoài. Để đạt được thành tựu này, chính phủ Trung quốc đã áp dụng rất
nhiều các biện pháp nhằm cải thiện và nâng cao sức cạnh tranh của môi
Trang 20
trường đầu tư, tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu
tư.
− Thường xuyên rà soát để hoàn thiện, xây dựng mới luật và các
văn bản có liên quan để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư nước
ngoài. Đồng thời mạnh dạn bãi bỏ những luật, văn bản cản trở việc thu hút
vốn đầu tư. Môi trường chính sách và luật pháp lành mạnh là điều then chốt
thu hút đầu tư nước ngoài.
− Mở cửa môi trường đầu tư thông qua việc nới rộng danh mục
khuyến khích đầu tư và giảm danh mục hạn chế đầu tư, tạo những điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đi vào.
− Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư: giảm thuế, khung giá thuê đất,
hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng và di dời cho các dự án đầu tư.
− Kích thích phát triển kinh tế trong nước, ổn đònh đồng tiền, xây
dựng môi trường tài chính lành mạnh để tạo ra môi trường kinh doanh hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư.
− Chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong nước: giao thông,
điện, nước, thông tin liên lạc... là yếu tố rất quan trọng tăng cường thu hút
vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc.
− Tích cực hợp tác với các nước khu vực và hội nhập nhanh vào nền
kinh tế thế giới (gia nhập WTO năm 2001) để mở thò trường thuận lợi cho các
nhà đầu tư.
− Huy động tối đa các nguồn lực phục vụ cho sự phát triển, kể cả

việc huy động lực lượng người Hoa ở hải ngoại trở về đầu tư. Chính phủ
Trung Quốc có chính sách hỗ trợ cho thò trường chứng khoán phát triển, cho
phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của hầu hết các doanh nghiệp
Trung Quốc (trừ một số liên quan đến an ninh quốc gia và có ý nghóa đặc biệt
về mặt kinh tế) nhằm tạo vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế đất nước.


Trang 21
Chương 2: Thực trạng tình hình thu hút FDI trên
đòa bàn tỉnh Bình Dương trong thời gian qua.
2.1 Giới thiệu khái quát về đặc điểm, tiềm năng của tỉnh.
2.1.1 Về điều kiện tự nhiên
ª Vò trí đòa lý:
Bình Dương là một tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam bộ, được tách
ra từ tỉnh Sông Bé (cũ) từ ngày 1/1/1997, có diện tích tự nhiên 2.681,01 km
2

(chiếm 0,83% diện tích cả nước). Phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Nam
giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây giáp
tỉnh Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh.
Bình Dương có một thò xã, 6 huyện với 79 đơn vò hành chính cấp xã
phường, thò trấn. Tỉnh lỵ là thò xã Thủ Dầu Một, trung tâm hành chính - kinh
tế - văn hóa của tỉnh Bình Dương. Bình Dương, Đồng Nai, Bà Ròa-Vũng Tàu
và thành phố Hồ Chí Minh tạo thành trung tâm phát triển vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam; đầu mối giao lưu quốc tế lớn của cả nước; nơi có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao.
ª Đòa hình:
Bình Dương là tỉnh có đòa hình tương đối bằng phẳng, nền đòa chất ổn
đònh, vững chắc, phổ biến là những dãy đồi phù sa cổ nối tiếp nhau với độ
dốc không quá 3-15

O
.
Với đòa hình cao trung bình từ 6-60 m, nên trừ một vài thung lũng dọc
sông Sài Gòn và sông Đồng Nai, đất đai ở Bình Dương ít bò lũ lụt, ngập úng,
thuận lợi cho việc mở mang hệ thống giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây
dựng các khu, cụm công nghiệp, khu dân cư...
ª Khí hậu:
Khí hậu mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm với 2 mùa rõ rệt:
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ khoảng tháng 12 năm trước
đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1800-2000 mm với
số ngày có mưa là 120 ngày.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,5
O
C nhiệt độ trung bình tháng cao
nhất 29
O
C (tháng 4), tháng thấp nhất 24
O
C (tháng 1). Chế độ gió tương đối ổn
đònh, không chòu ảnh hưởng trực tiếp của bão và áp thấp nhiệt đới. Chế độ
không khí ẩm tương đối cao, trung bình 80-90% và biến đổi theo mùa. Nói
chung, Bình Dương có khí hậu tương đối hiền hòa, ít bò ảnh hưởng bởi thiên
tai như bão, lũ lụt...
2.1.2 Về tiềm năng và nguồn lực
ª Dân số và lao động:
Trang 22
Theo số liệu báo cáo đến hết năm 2002, dân số tỉnh Bình Dương là
810.190 người. Trong đó, nam có 384.734 người, nữ có 425.456 người; số dân
thành thò có 239.849 người, chiếm 29,6%, nông thôn có 570.341 người, chiếm
70.4%. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động là 504.784

người, chiếm 62,3% dân số.
Cơ cấu lao động đến năm 2002 được phân chia như sau:
− Lao động công nghiệp, xây dựng chiếm khoảng 43,95%.
− Lao động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 35,67%.
− Lao động trong các ngành dòch vụ khoảng 20,38%.
Hàng năm có khoảng 15-20 nghìn lao động trẻ tham gia lực lượng lao
động. Đó là nguồn nhân lực dồi dào phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH, phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh.
ª Về tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên đất: Bình Dương có cơ cấu đất khá phong phú, thích hợp
với nhiều loại cây công nghiệp dài và ngắn ngày, xây dựng dân dụng và
công nghiệp.
Tài nguyên nước: về nước mặt, có 3 sông chính thuộc hệ thống sông
Sài Gòn - Đồng Nai chảy qua đòa phận tỉnh Bình Dương đó là sông Bé, sông
Đồng Nai và sông Sài Gòn. Ngoài 3 sông chính, còn có sông Thò Tính (chi
lưu của sông Sài Gòn), rạch Bà Lô, Bà Hiệp, Vónh Bình, rạch cầu Ông Cộ...
Về nước ngầm, nước ngầm của tỉnh Bình Dương tương đối phong phú, được
tồn tại dưới 2 dạng là lổ hổng và khe nứt và được chia làm 3 khu vực nước
ngầm:
Khu vực giàu nước ngầm: phân bố ở phía Tây huyện Bến Cát đến
sông Sài Gòn, khả năng tàng trữ và vận động nước tốt, tầng chứa nước dày từ
15-20 m.
Khu vực giàu nước trung bình: phân bố ở huyện Thuận An (trừ vùng
trũng phèn), tầng chứa nước dày từ 10-12 m.
Khu vực nghèo nước : phân bố ở vùng Đông và Đông Bắc Thủ Dầu
Một hoặc rải rác các thung lũng ven sông Sài Gòn, Đồng Nai thuộc trầm tích
đệ tứ.
Tài nguyên khoáng sản: Bình Dương có nguồn tài nguyên khoáng
sản tương đối đa dạng, nhất là khoáng sản phi kim loại có nguồn gốc magma,
trầm tích và phong hóa đặc thù. Đây là nguồn cung cấp nguyên liệu cho

những ngành công nghiệp truyền thống và thế mạnh của tỉnh như gốm sứ, vật
liệu xây dựng, khai khoáng... Qua kết quả thăm dò đòa chất ở 82 vùng mỏ lớn
nhỏ cho thấy Bình Dương có các loại khoáng sản chủ yếu, bao gồm: kaolin;
sét; các loại đá xây dựng, cát xây dựng; cuội sỏi; laterit và than bùn.
ª Về cơ sở hạ tầng:
Trang 23
Giao thông: tỉnh Bình Dương nằm cạnh thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương có thuận lợi là sử dụng các công trình hạ tầng của thành phố như sân
bay, bến cảng, đường giao thông... Trung tâm tỉnh cách sân bay Tân Sơn
Nhất, cảng Sài Gòn khoảng 30 km, cách cảng biển Vũng Tàu (Thò Vãi, Bến
Đình, Sao Mai) khoảng từ 110-115 km đường bộ. Hệ thống giao thông của
tỉnh nối liền với các đường giao thông quốc gia, các trục giao thông chính của
vùng như quốc lộ 1A, quốc lộ 13, 14, 22, 51, đường cao tốc Biên Hòa-Tân
Uyên-quốc lộ 13...
Bên cạnh đó, hệ thống đường nội tỉnh cũng đã và đang được mở rộng,
nâng cấp khá hoàn chỉnh trong những năm gần đây như ĐT741, ĐT743,
ĐT745, ĐT746, ĐT747, các đường liên huyện Tân Uyên-Thuận An-Dó An...
Ga xe lửa Sóng Thần cũng là trung tâm vận tải hàng hóa bằng đường sắt
quan trọng của tỉnh. Ngoài ra, sông Sài Gòn và sông Đồng Nai là 2 tuyến vận
tải đường sông quan trọng của tỉnh, hiện có 2 cảng sông Bà Lụa, Bình An và
bến Lái Thiêu.
Hệ thống cấp điện: Bình Dương có nhiều tuyến lưới điện quốc gia đi
qua từ Nam đến Bắc: tuyến 66 KV Thủ Đức - Lái Thiêu - Thủ Dầu Một,
tuyến 500 KV điện lưới quốc gia Bắc - Nam, tuyến 220 KV Trò An - Hóc
Môn, tuyến 110 KV Thác Mơ chạy qua đòa bàn tỉnh là điều kiện rất thuận lợi
đối với việc quy hoạch xây dựng trạm nguồn, đảm bảo đáp ứng đủ cho sản
xuất với chất lượng ổn đònh.
Hiện đã đầu tư xây dựng mới trạm Sóng Thần công suất 40 MVA,
trạm Tân Đònh công suất 40 MVA, đường dây Đồng Xoài -Phước Hòa và
trạm Phước Hòa tổng công suất 140 MVA; đầu tư xây dựng nhà máy nhiệt

điện 150 MVA của khu công nghiệp Việt Nam-Singapore. Xây dựng nhà
máy nhiệt điện cung cấp khoảng 150-200 MVA cho các khu công nghiệp.
Dự kiến đến 2010, toàn tỉnh có 11 trạm nguồn với tổng công suất cấp
điện lưới quốc gia 1.250 MVA, đảm bảo đáp ứng đủ điện cho vùng động lực
phát triển công nghiệp - dòch vụ và phát triển các đô thò trong tỉnh.
Hệ thống cấp thoát nước: tỉnh đã huy động đầu tư xây dựng bằng
nhiều nguồn vốn khác nhau nhằm nâng cao năng lực khai thác nước mặt cung
cấp cho các KCN và đô thò, nhất là khu vực thò xã Thủ Dầu Một và Nam
Bình Dương. Hiện đã đầu tư nâng công suất nhà máy nước thò xã Thủ Dầu
Một, xây dựng mới các nhà máy nước mặt Dó An (giai đoạn 1), Tân Ba, Uyên
Hưng, Dầu Tiếng, Phước Vónh... và các hệ cấp nước tập trung ở các khu trung
tâm, các thò trấn, đô thò... Về thoát nước, hiện đã đầu tư xây dựng hệ thống
thoát nước đô thò và các KCN (hệ thống thoát nước thò xã Thủ Dầu Một, kênh
tiêu nước Bình Hòa, Sóng Thần-Đồng An, khu công nghiệp Việt Nam-
Singapore, rạch Chòm Sao...).
Trang 24
Dự kiến đến năm 2010, khoảng 80-85% nhu cầu sản suất ở các KCN
và đô thò được cấp nước mặt, trên 95% dân số đô thò và 90-95% dân nông
thôn được cung cấp nước sạch.
Thông tin liên lạc: hiện tỉnh có 100% cơ sở thông tin với kỹ thuật số
hóa và tổng đài kỹ thuật số; các dòch vụ điện thoại, fax, telex, gentex, truyền
dẫn số liệu tự động hóa hai chiều đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống cáp quang
đã được đầu tư xây dựng ở thò xã Thủ Dầu Một, huyện Thuận An và các
KCN, cụm công nghiệp. Đến hết năm 2002, toàn tỉnh có 112.927 máy, đạt
13,9 máy điện thoại/100 dân và dự kiến đến năm 2010 đạt 20 máy điện
thoại/100 dân.
Cơ sở hạ tầng KCN:
Trên đòa bàn tỉnh Sông Bé trước đây đã quy hoạch tổng thể 15 KCN
tập trung trên diện tích 6.200 ha, và sau khi tái lập tỉnh Bình Dương điều
chỉnh còn lại 13 KCN, chủ yếu tập trung trên đòa bàn huyện Thuận An, Dó

An, Thò xã Thủ Dầu Một và Bến Cát. Đến nay, trên đòa bàn tỉnh Bình Dương
có 9 KCN được cấp phép hoạt động, với diện tích quy hoạch chi tiết 1.779,8
ha; chiếm 31% tổng diện tích của 13 KCN được quy hoạch đến năm 2010. Cụ
thể KCN Sóng Thần 1 (180,3ha), Sóng Thần 2 (319ha), Bình Đường (24ha),
Việt Hương (46ha), Đồng An (122,5ha), Việt Nam-Singapore (500ha), Tân
Đông Hiệp A (47ha), Tân Đông Hiệp B (164ha) và Mỹ Phước (377ha).
Trong đó, tổng diện tích đất công nghiệp được đầu tư phát triển hạ tầng là
1.124 ha, chiếm 63,4% diện tích quy hoạch chi tiết được duyệt và đến tháng
3/2003 đã cho thuê lại được 634 ha, đạt 56,4%.
Về đầu tư và phát triển các KCN, tỉnh đang tiếp tục chỉ đạo triển khai
thực hiện các thủ tục đầu tư Khu liên hợp Công nghiệp - Dòch vụ - Đô thò
Bình Dương, giai đoạn 3 KCN Việt Nam-Singapore và mở rộng KCN Mỹ
Phước. Chấp thuận chủ trương quy hoạch đầu tư 3 KCN vừa và nhỏ với tổng
diện tích là 725 ha tại Tân Uyên và Bến Cát. Thực hiện rà soát để điều chỉnh
quy hoạch phát triển các KCN tập trung và cụm công nghiệp (KCN vừa và
nhỏ) trên đòa bàn tỉnh.
Nhìn chung, cơ sở hạ tầng bên trong các KCN được chủ đầu tư đầu tư
xây dựng khá hoàn chỉnh, bao gồm: hệ thống đường giao thông nội khu, hệ
thống cung cấp điện, hệ thống cấp thoát nước, thông tin liên lạc, xử lý chất
thải... Bên cạnh đó, hệ thống các dòch vụ đi kèm như các chi nhánh ngân
hàng, chi cục hải quan trong các khu công nghiệp, bưu điện, bảo hiểm, doanh
nghiệp vận tải, hệ thống kho bãi... cũng đảm bảo cung cấp các dòch vụ khá
tốt cho các nhà đầu tư.
Về phát triển các dự án nhà ở - khu dân cư: toàn tỉnh hiện có 122 khu
dân cư, khu nhà ở bao gồm: 55 dự án khu dân cư mới, 7 dự án nhà ở dạng
Trang 25
biệt thự, 13 dự án nhà ở cho công nhân và người có thu nhập thấp, 11 khu tái
đònh cư cho các hộ phải giải tỏa, di dời và 36 khu, nhóm nhà ở cán bộ công
nhân viên các đơn vò đã hình thành từ trước.
Với điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng thuận lợi, tiềm năng và nguồn

lực dồi dào, gần thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế lớn của cả nước,
gần sân bay, bến cảng, nhà ga... giao thông vận tải thuận tiện, dễ dàng... đã
tạo ra lợi thế cạnh tranh của tỉnh Bình Dương so với các tỉnh, các khu vực,
các vùng lân cận trong việc kêu gọi, thu hút vốn FDI.
Có thể nói, sự phát triển bước đầu về cơ sở hạ tầng và việc quy hoạch
phát triển các KCN tập trung, các cụm quy hoạch công nghiệp... đã tạo điều
kiện thuận lợïi trong việc thu hút một lượng đáng kể các nhà đầu tư nước
ngoài vào đầu tư trên đòa bàn tỉnh trong thời gian qua.
2.2 Thực trạng tình hình thu hút FDI trên đòa bàn tỉnh Bình Dương trong
thời gian qua.
2.2.1 Tổng quan tình hình thu hút FDI ở Việt Nam
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kể từ khi ban hành Luật
Đầu tư nước ngoài (12/1987) đến hết tháng 12/2002, trên đòa bàn cả nước đã
thu hút được 3.669 dự án đầu tư nước ngoài (chỉ tính dự án còn hiệu lực), với
tổng vốn đầu tư đạt trên 39,1 tỷ USD.
@ Về tốc độ thu hút vốn đầu tư: (xin xem chi tiết phụ biểu 1)
Theo số liệu tổng hợp tình hình thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, thời kỳ 1988-1990 nước ta chỉ thu hút
được 214 dự án với tổng vốn đăng ký là 1,582 tỷ USD. Do đây là giai đoạn
khởi đầu nên số dự án trong thời gian này chưa nhiều, mức tăng trưởng vốn
đầu tư còn chậm.
Nếu như thời kỳ 1988-1990 được coi là giai đoạn khởi đầu thì thời kỳ
1991-1995 được đánh giá là giai đoạn tăng trưởng nhanh và thay đổi về chất
lượng đầu tư nước ngoài. Tổng số dự án cấp mới giai đoạn này là 1.397 dự án
với tổng vốn đăng ký là 16,244 tỷ USD, tăng 6,53 lần về số dự án và hơn
10,26 lần về vốn đăng ký so với thời kỳ trước. Các dự án trong thời kỳ này
được phân bố hợp lý trong nhiều lónh vực, nhiều ngành công nghiệp mới đã
ra đời như công nghiệp điện tử, chế tạo ô tô, xe máy... nhiều dự án có quy
mô lớn được triển khai, một số KCN, KCX bắt đầu được đầu tư xây dựng...
Và trong giai đoạn 1996-2000, cả nước thu hút được 1.676 dự án với

tổng vốn đăng ký là 20,768 tỷ USD, chỉ tăng 1,28 lần so với tổng vốn đăng
ký thời kỳ trước (một phần do chòu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ châu Á giai đoạn 1997-1999). Riêng năm 2001 đã cấp mới 523
dự án với vốn đăng ký là 2,536 tỷ USD và năm 2002 là 694 dự án với vốn
đăng ký là 1,379 tỷ USD. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhiều chỉ tiêu cơ bản

×