Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

CÂU HỎI VÀ CƯƠNG PHẦN THUYẾT TRÌNH HỘI THI “Báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi tuyên truyền Chỉ thị số 05CTTW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.94 KB, 16 trang )

1

CÂU HỎI VÀ ĐỀ CƯƠNG PHẦN THUYẾT TRÌNH
Hội thi “Báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi tuyên truyền
Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”
Câu 1: Đồng chí hãy trình bày tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
Nhân dân và đại đoàn kết dân tộc ?
Trả lời
* Về phạm trù Nhân dân
Đối với Hồ Chí Minh, Nhân dân là phạm trù cao quý nhất, một phạm trù
chính trị chủ đạo trong học thuyết cách mạng của Người. “Trong bầu trời không
gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của Nhân dân”. Đó là một minh chứng điển hình về niềm tin vào sức mạnh của
Nhân dân. Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào
cũng không địch nổi.
Người từng nói với cán bộ: “Nếu lãnh đạo khéo thì việc khó khăn mấy và
to lớn mấy, Nhân dân cũng làm được”. Đó là sự tổng kết thực tiễn cách mạng rất
sâu sắc: phải không ngừng học dân. “Nhân dân ta rất cần cù, thông minh và
khéo léo. Trong sản xuất và sinh hoạt, họ có rất nhiều kinh nghiệm quý báu”, do
vậy cán bộ ta “cần tham gia tổng kết những kinh nghiệm quý báu ấy”.
* Về không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân
Ngày 10-1-1946, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch
kiến quốc, Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc
lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà
dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ
giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
Là công bộc, là đày tớ của dân, thì Đảng, Chính phủ và mỗi cán bộ phải
chăm lo cho đời sống của Nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho Nhân dân. Người nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là:
“1. Làm cho dân có ăn.


2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”.
* Về đại đoàn kết toàn dân tộc
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái quát luận điểm
có tính chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết, đó là: Đoàn kết làm ra sức
mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh,
là then chốt của thành công”...
1


2

Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi
mà còn đoàn kết lâu dài... Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc
và phục vụ Nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải đứng vững
trên lập trường giai cấp công nhân để giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp dân tộc. Để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn
là lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt
gian, không phản bội lại quyền lợi của dân chúng là được.
Để xây đựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải kế thừa truyền thống
yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào Nhân dân, với đại đa
số là công nhân, nông đân. Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận
Liên - Việt toàn quốc, tháng 1-1955, Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước
hết phải đoàn kết đại đa số Nhân dân, mà đại đa số Nhân dân ta là công nhân,
nông dân và các tầng lớp Nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn
kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt,
còn phải đoàn kết các tầng lớp Nhân dân khác”.
Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người, trân trọng “phần

thiện”, dù nhỏ nhất ở mỗi con người để lôi kéo, tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực
lượng. Người viết: “Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay
nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình
thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì
tương lai chắc sẽ vẻ vang”. “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ
chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.
Câu 2: Đồng chí hãy nêu tính tất yếu khách quan của công tác xây
dựng chỉnh đốn Đảng? Những nội dung công tác xây dựng Đảng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại và
phát triển của Đảng.
1- Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn gắn với quá trình phát triển liên tục của
sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của điều kiện khách
quan, bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng
trách trước giai cấp và dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương
trước hết phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

2


3

Người chỉ rõ: Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu
của xã hội. Tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, giữ các chức vụ
đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và

cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu. Do đó, tổ chức đảng và mỗi
cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện. Đảng phải thường xuyên chú ý
đến việc chỉnh đốn Đảng.
Trên bình diện phát triển cá nhân, xây dựng chỉnh đốn Đảng, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, trở thành nhu cầu tự hoàn thiện, nhu cầu tự làm trong sạch
nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên.
Trong điều kiện Đảng Công sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, việc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng càng phải tiến hành thường xuyên hơn. Người chỉ rõ:
Quyền lực có tính chất hai mặt. Một mặt, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng. Mặt khác, quyền lực
cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất,
biến quyền lực của Nhân dân thành đặc quyền của cá nhân...
2- Nội dung công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
Nội dung xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: xây dựng đường lối chính
trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ
tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị...
Trong các nội dung trên, theo Hồ Chí Minh, đường lối chính trị là một vấn đề
cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Người cảnh báo nguy cơ sai lầm
về đường lối chính trị gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc,
sinh mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên và Nhân dân lao động.
Đảng cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự
cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh,
chính trị trong mọi hoàn cảnh.
b) Xây dựng Đảng về tổ chức
Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ. Chi bộ là tổ chức hạt nhân,
quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và
cũng là nơi giám sát đảng viên. Chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết
giữa Đảng với quần chúng Nhân dân.
Người luôn quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có

đức, có tài. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của người cán bộ trong
sự nghiệp cách mạng.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh phê bình mạnh mẽ việc cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ
theo hướng cục bộ, địa phương, “Một người làm quan cả họ được nhờ”.
c) Xây dựng Đảng về đạo đức

3


4

Đảng là đạo đức, là văn minh, nhờ đó Đảng mới trong sạch, vững mạnh.
Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng, Người nhấn mạnh, Đảng
là một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức để “Làm quan phát tài”.
Xây dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn
luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và Nhân
dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Cán bộ, đảng
viên không phải là thần thánh. Họ là con người, ai cũng có hai mặt tốt - xấu,
thiện - ác thường xuyên đấu tranh với nhau. Trong điều kiện môi trường tốt, nếu
cán bộ, đảng viên nỗ lực tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện thì mặt tốt, mặt thiện sẽ
nổi lên, đẩy lùi mặt ác, mặt xấu và ngược lại.
Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ
đó phải vừa có đức, vừa có tài. Trong đó, đạo đức là gốc, Người viết: “Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được Nhân dân”.
Câu 3: Đồng chí hãy trình bày những phẩm chất cơ bản của đạo đức
cách mạng theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Trả lời
* Trung với nước, hiếu với dân

Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, được Chủ tịch
Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trung với nước là trung
thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước, làm cho đất
nước “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Nước là của dân, dân làm chủ đất
nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của Nhân dân, “bao nhiêu quyền
hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”... Hiếu với dân nghĩa là cán bộ
đảng, cán bộ nhà nước vừa là người lãnh đạo, vừa là “đày tớ trung thành của
Nhân dân”.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách
mạng. Người dạy, mỗi cán bộ đảng viên phải “tuyệt đối trung thành với Đảng,
với Nhân dân”, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Trung với nước,
hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải
nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân
trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan
điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất
nước.
* Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân
loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là
4


5

phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ,
nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên,

kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Yêu
thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy,
phải thực hiện tự phê bình và phê bình, chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết
điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ. Yêu thương con người phải
biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
* Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nền tảng của đời sống mới, là
phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí
Minh, là mối quan hệ “với tự mình”. Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính
là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Chí
công vô tư là đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải
trọng lợi ích của cách mạng hơn tính mệnh của mình. Phải hy sinh lợi ích của
mình cho Đảng; việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân để lại sau. Theo Bác, chí
công vô tư là đạo đức cao nhất.
Muốn chí công vô tư thì phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân. Bởi
vậy, Hồ Chí Minh coi đây là chuẩn mực của ngưòi lãnh đạo, người “giữ cán cân
công lý”, không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô
tư. cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô
tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính.
* Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những
quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì
Người là “người Việt Nam nhất”, đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam
mang tầm vóc nhân loại, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong
trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh
thể hiện trong các điểm sau: Đoàn kết với Nhân dân lao động các nước vì mục
tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đoàn kết

quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn
phương vô sản đều là anh em”. Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công
lý và tiến bộ xã hội.
Câu 4: Nêu và phân tích những nguyên tắc xây dựng đạo đức mạng
theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Trả lời
5


6

Xây dựng đạo đức mạng theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm những
nguyên tắc sau:
* Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm
trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi
sau, của lãnh đạo với nhân viên... là rất quan trọng. Người yêu cầu, cha mẹ làm
gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu,
lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên... Đảng viên phải làm gương trước
quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán
chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người
có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn Nhân dân, mình phải làm mực thước cho
người ta bắt chước”.
* Xây đi đôi với chống
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt
đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với
những yêu cầu của đạo đức mới, chống “chủ nghĩa cá nhân”. Xây đi đôi với
chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì phải chống chủ nghĩa cá nhân.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia

đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Người đã phát động cuộc thi đua “ba
xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo
đức, lối sống.
* Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ mới thành. Tu dưỡng đạo đức, tự rèn luyện hằng ngày có vai trò rất
quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ
xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào
con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện
để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức
phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong
sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.
Câu 5: Nêu và phân tích quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về suy thoái tư tưởng chính trị?
Trả lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính
trị, trước hết là những biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng. Ngay từ tháng
10/1947, hai năm sau khi giành được chính quyền, Người đã yêu cầu cán bộ,
đảng viên sửa đổi lối làm việc, chỉ rõ phải đấu tranh với những hiện tượng thờ ơ
trước những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái: “Nghe những lời bình luận
không đúng, cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí nghe những lời phản
6


7

cách mạng cũng không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng
mặc kệ”.
Người phê phán những đảng viên dao động, thiếu lý tưởng cách mạng:
Người kiên quyết chống những nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng

của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Người kiên quyết chống những biểu hiện không chấp hành nghiêm các
nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong
công tác: “Vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm”.
Trong tự phê bình, phê bình, Người kiên quyết chỉ ra và đấu tranh với
những biểu hiện không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu
thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật.
Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo
vệ, thấy sai không đấu tranh: Người lấy ví dụ: “Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các
đồng chí trông thấy, lại lấy cớ "nể Cụ" không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở
trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà
không nói cho người ta sửa tức là hại người... Thấy cái xấu của người mà không
phê bình là một khuyết điểm rất to. Không phê bình, tức là để cho cái xấu của
người ta phát triển”.
Người cũng chỉ ra nhiều biểu hiện lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng
nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá
nhân không trong sáng:
Hồ Chí Minh chỉ ra và kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện nói trong
hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác.
Người phê phán những biểu hiện duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý
mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác
Kiên quyết chống những biểu hiện tham vọng chức quyền, không chấp
hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác
Người đấu tranh với những biểu hiện tranh thủ bổ nhiệm người thân,
người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích và gọi đó là: “Tư túng Kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức
này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài.
Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai”.


Câu 6: Nêu và phân tích quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về suy thoái đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”?
Trả lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn khá nhiều về suy thoái đạo đức, lối sống,
7


8

Người thẳng thắn đấu tranh với mọi biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ,
thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập
thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình. Người
gọi đó là các căn bệnh: "Óc hẹp hòi" - Ở trong Đảng thì không biết cất nhắc
những người tốt, sợ người ta hơn mình. Ở ngoài Đảng thì khinh người, cho ai
cũng không cách mạng, không khôn khéo bằng mình. Vì thế mà không biết liên
lạc hợp tác với những người có đạo đức tài năng ở ngoài Đảng. Vì thế mà người
ta uất ức và mình thành ra cô độc”; và “Bệnh tham lam - Những người mắc phải
bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó
mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để
theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc
đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào.
Người kiên quyết chống “Bệnh hẹp hòi
Người cũng đấu tranh với các biểu hiện che giấu khuyết điểm:
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sớm chỉ ra các bệnh có các biểu hiện quan
liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm
chắc tình hình:
- Óc quân phiệt quan liêu. Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ông
vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe.
- Làm việc lối bàn giấy. Thích làm việc bằng giấy tờ thật nhiều. Ngồi một

nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống địa phương kiểm tra công tác và để chỉ
vạch những kế hoạch thi hành chỉ thị, nghị quyết của đoàn thể cho chu đáo...
- Bệnh mệnh lệnh tỏ ra ở chỗ hay dựa vào chính quyền mà bắt dân làm, ít
tuyên truyền giải thích cho dân tự giác, tự động.
Người yêu cầu chống các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước
những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của Nhân dân.
Những biểu hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà
nước, đất đai, tài nguyên... cũng được Người chỉ ra từ rất sớm trong một số cán
bộ, đảng viên.
Người cũng kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, lợi dụng chức
vụ, quyền hạn cấu kết với các đối tượng khác để trục lợi.
Ngay từ đầu năm 1947, Hồ Chí Minh đã nêu và kiên quyết đấu tranh với
các biểu hiện thao túng trong công tác cán bộ, mà Người gọi là: Óc bè phái: Ai
hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai
không thân với mình thì dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải
mấy cũng không nghe và Kéo bè kéo cánh lại là một bệnh rất nguy hiểm nữa. Từ
bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc
dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Bệnh này rất tai hại
cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và
không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn
8


9

kết giữa đồng chí. Nó gây ra nhũng mối nghi ngờ.
Nguyên nhân của những biểu hiện suy thoái có nhiều, nhưng chủ yếu là
do chủ nghĩa cá nhân sinh ra.
Câu 7: Đồng chí hãy nêu và phân tích việc xây dựng phong cách làm
việc dân chủ, quần chúng của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Trả lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phong cách dân chủ hay “cách làm việc
dân chủ” là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có. Người chỉ rõ:
Đảng ta thực hiện “ Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản
của các cơ quan nhà nước trong chế độ ta” và “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư
tưởng phải được tự do”. Vì thế, người cán bộ, đảng viên phải tạo ra được không
khí dân chủ thực sự trong nội bộ bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho
cán bộ, đảng viên, quần chúng, cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình.
Được như vậy thì cấp dưới và quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến, “học
hỏi sáng kiến của quần chúng để lãnh đạo quần chúng”. Những sáng kiến đó
được coi trọng, được khen ngợi thì những người có sáng kiến càng thêm hăng
hái làm việc. Phong cách dân chủ của người cán bộ không chỉ khơi nguồn sáng
tạo, phát huy tinh thần cống hiến của cấp dưới và quần chúng nhân dân mà còn
làm cho tổ chức cơ quan, đoàn thể thêm gắn bó.
Người có phong cách dân chủ là thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách”. Làm như vậy thì chắc chắn người cán bộ sẽ được nhân
dân yêu mến, cấp dưới nể trọng, sẵn sàng đóng góp sáng kiến.
Phong cách dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ có định
hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập trung chứ không phải dân chủ
quá trớn, dân chủ vô tổ chức.Một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức
và sinh hoạt Đảng là “tập trung dân chủ”.
Phong cách dân chủ yêu cầu người cán bộ, đảng viên phải sâu sát quần
chúng, chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến mọi
mặt đời sống nhân dân; tin yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến
và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê
bình của quần chúng và sửa chữa khuyết điểm của mình.
Gắn bó mật thiết với phong cách dân chủ là phong cách quần chúng.
Người yêu cầu cán bộ phải có phong cách làm việc quần chúng, xuất phát từ vấn
đề có tính nguyên tắc về vai trò của quần chúng nhân dân: “Dễ mười lần không

dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Người cán bộ phải thường
xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, tìm hiểu thực trạng đời sống, tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng. Người khẳng định: nếu “cách xa dân chúng,
không liên lạc chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất
định thất bại”.
9


10

Phong cách quần chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng
Phong cách quần chúng là phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với
trình độ, năng lực thực tế của quần chúng, không chủ quan, duy ý chí, áp đặt
thực tiễn theo ý mình.
Phong cách quần chúng của cán bộ, đảng viên thể hiện rõ trong các thói
quen sinh hoạt hàng ngày. Người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng,
không cho phép mình hưởng điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Khi
người cán bộ thấm nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân
dân yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công.
Câu 8: Đồng chí hãy nêu và phân tích phong cách khoa học theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Trả lời
Phong cách làm việc khoa học đòi hỏi khi xem xét và quyết định mọi việc
đều phải điều tra, nghiên cứu, phân tích toàn diện, phải tôn trọng quy trình ra
quyết định, tranh thủ ý kiến của tập thể lãnh đạo và quần chúng. Người chỉ rõ:
“Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: vì sao có vấn đề này? xử trí như thế này,
kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm
liều. Chớ gặp sao làm vậy", cần phải làm thử, làm điểm trước khi quyết định.
Tuyệt đối không ra quyết định khi chưa có thông tin đầy đủ, chưa có phương án
tính toán hiệu quả. Tránh chủ quan duy ý chí, che giấu khuyết điểm để chạy theo

thành tích.
Phong cách làm việc khoa học là làm việc phải có mục đích và kế hoạch
rõ ràng, thiết thực. Muốn có kế hoạch khoa học thì người cán bộ phải “Việc
chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp
việc nào, làm việc ấy”. Hết sức tránh chuyện vạch ra “Chương trình công tác thì
quá rộng mà kém thiết thực” và căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” gây lãng phí tiền
của, nhân lực và thời gian của nhân dân.
Phong cách làm việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ
nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một
thời gian ngắn nhất. Người từng nói: “ Thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của
cải, của cải hết còn có thể làm thêm khi thời gian đã qua rồi không bao giờ kéo
lại được.... Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng cũng phải
biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải quyết dứt
điểm từng công việc;” Không nên “nay lần mai lữa” không ôm đồm, làm quá
nhiều việc, những nhiều việc không dứt điểm, không hiệu quả. Người giải thích:
“Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn
trúng đích nào”.
Phong cách làm việc khoa học yêu cầu người cán bộ giải quyết công việc
trên cơ sở dữ liệu khách quan, dựa trên nền tảng thực tế để lựa chọn ra phương
án khả thi nhất và phương án ấy phải đặt trong tổng thể chiến lược lâu dài.
Không được rơi vào “Bệnh cận thị - không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to
10


11

tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”. Người cán bộ không
được vì cái lợi nhỏ trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích to lớn, lâu dài.
Theo Hồ Chí Minh, phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ
phải có cách đánh giá đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý;lại

phải biết cách kiểm tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả, qua
đó thấy được việc thi hành đường lối, nghị quyết của Đảng như thế nào và cần
điều chỉnh cái gì…Người nói: “tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng
phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta
không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá
thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế”. Kiểm tra còn có tác dụng
phân loại, đánh giá cán bộ, vì “Có kiểm tra… mới biết rõ năng lực và khuyết
điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”. Cán bộ lãnh đạo làm việc
khoa học, chặt chẽ thì cấp dưới không thể “qua mặt”.
Phong cách khoa học đòi hỏi người cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút
ra kinh nghiệm cho lần sau và cho người khác.
Câu 9: Đồng chí hãy nêu và phân tích phong cách nêu gương theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Trả lời
Theo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải làm gương trong mọi
công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt; phải cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, nói phải đi đôi với làm. Người yêu cầu tất cả cán bộ,
đảng viên đều phải nêu gương về đạo đức.
Về vai trò của nêu gương, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Trước mặt
quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu
mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức: "Muốn hướng
dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Tự mình phải
chính trước mới giúp người khác chính. Mình không chính, mà muốn người
khác chính là vô lý".
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là
phẩm chất đạo đức cách mạng chủ yếu, là nhân cách của con người. Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời,

Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một nội dung cơ bản không thể
thiếu trong phong cách làm việc và nhân cách của những người lãnh đạo, quản
lý.
11


12

Theo Hồ Chí Minh, kẻ thù của lòng chí công vô tư chính là chủ nghĩa cá
nhân, chỉ thấy lợi ích riêng của mình, không thấy lợi ích chung của tập thể, chỉ
muốn tự tư tự lợi.
Cần nêu gương trên ba mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối
với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn học tập cầu tiến bộ,
luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự
phê bình mình như rửa mặt hằng ngày.
Muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm. Nói đi đôi với làm
không chỉ là một chuẩn mực trong đạo đức truyền thống mà còn là chuẩn mực
đạo đức công vụ tối thiểu.
Việc nói đi đôi với làm mang lại cho quần chúng lòng tin và sự tôn trọng
đối với người cán bộ, do đó, người cán bộ dễ dàng thực thi quyền lãnh đạo của
mình. Muốn rèn luyện được phong cách nói đi đôi với làm, người cán bộ phải
thường xuyên tự kiểm điểm, soi xét chính mình, đồng thời phải khuyến khích
cấp dưới và quần chúng nhận xét, phê bình, góp ý cho mình, nhắc nhở mình về
những điều mình đã hứa.
Trong gia đình, cha mẹ phải là tấm gương cho các con, anh chị là tấm
gương đối với các em. Trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho
học trò. Trong cơ quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới,
người này có thể nêu gương cho người khác.

Trong các nội dung nêu gương, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nêu
gương về tinh thần phục vụ nhân dân. Vì vậy mà cán bộ, đảng viên phải xông
xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân
cả về lời nói và việc làm.
Câu 10: Đồng chí hãy nêu và phân tích phong cách lãnh đạo dân chủ,
nhưng quyết đoán theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí
Minh?
Trả lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải “gom góp mọi ý kiến
rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành
những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng,
làm nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực
hành ý kiến đó.Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý
kiến đó đúng hay không.Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển
những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho
quần chúng giữ vững và thực hành.
Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn
lần trước.
Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt”.
12


13

Phong cách lãnh đạo dân chủ là phải dựa vào quần chúng; là cán bộ lãnh
đạo, nhất là người đứng đầu không được quan liêu, hách dịch, coi thường quần
chúng nhân dân. Phải biết đời sống thực của nhân dân như thế nào, khả năng
thực của nhân dân ra sao? Họ đang nghĩ và đang mong muốn những gì? Mỗi lời
nói, mỗi việc làm của người cán bộ phải phù hợp với quần chúng, phản ánh
đúng được khát vọng của quần chúng. Cán bộ phải biết được những băn khoăn

trăn trở của dân để kịp thời uốn nắn và tháo gỡ cùng dân.
Người phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ không dân chủ, dẫn đến
tình trạng người có ý kiến không dám nói, người muốn phê bình không dám phê
bình, làm cho cấp trên cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời
nhau, không còn sáng kiến, không còn hăng hái trong khi làm việc.
Nếu cán bộ không nói năng, không ý kiến, không phê bình, thậm chí tâng
bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói,
nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là
nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không
dám nói, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản”.
Người đòi hỏi phải có phong cách làm việc thực sự dân chủ chứ không
phải giả tạo, hình thức để che lấp ý đồ xấu của cá nhân. Bởi vì mọi sự giả tạo
đều làm suy yếu, thậm chí phá vỡ tập thể, mọi thói hình thức chủ nghĩa sớm
muộn sẽ làm xói mòn, thậm chí triệt tiêu dân chủ.
Cán bộ lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu, là người có trọng trách
trong một tập thể, vừa phải thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến của tập thể,
đồng thời, phải quyết đoán, nhận thức đầy đủ trách nhiệm và dám ra quyết định,
dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Theo Hồ Chí Minh, một người dù tài giỏi đến đâu cũng không thể nắm
được hết mọi mặt của một vấn đề, cũng không thể biết hết được mọi việc trong
đơn vị cũng như đời sống xã hội.
Cá nhân phụ trách là nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, người quản
lý. Có ý thức tập thể cao, tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và
lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng không có tính quyết
đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những
quyết định kịp thời, đáp ứng yêu cầu và công việc cũng không thể tiến triển
được.
Trách nhiệm của người đứng đầu phải được đề cao, đôi khi mang tính
quyết định đến hiệu quả công việc. Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý đúng đắn là phải kết hợp thống nhất giữa cách làm việc dân chủ,

tập thể với tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, kịp thời
đưa ra những quyết định đúng. Trong những thời điểm quyết định, người lãnh
đạo, quản lý phải dám nghĩ, dám làm, dám quyết… điều đó liên quan trực tiếp
đến việc tận dụng được thời cơ.
13


14

Câu 11: Đồng chí hãy nêu và phân tích phong cách lãnh đạo sâu sát,
khéo dùng người, trọng dụng người tài theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Trả lời
*Phong cách lãnh đạo sâu sát
Trong thực tiễn, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về phong cách lãnh đạo
sâu sát. Theo tài liệu thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh, chỉ tính trong 10 năm
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1955-1965), không quản tuổi cao, công
việc bề bộn, Người đã thực hiện hơn 700 lượt đi thăm các địa phương, công
trường, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ đội…, từ miền núi đến hải đảo, để thăm
hỏi chiến sĩ và đồng bào, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Ngoài ra, hằng
ngày qua đọc báo, đọc thư của nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần
tiếp thu, những việc gấp cần giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại,
chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết.
Lãnh đạo sâu sát sẽ nâng cao được tính khách quan, minh bạch, tăng
cường được công tác kiểm tra, giám sát, từ đó kiểm soát tốt hơn đối với việc
thực thi quyền lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng tài sản của Nhà
nước, của nhân dân, góp phần phòng chống tham nhũng có hiệu quả. Hồ Chí
Minh yêu cầu dựa vào quần chúng nhân dân để giám sát, kiểm tra, nhằm loại trừ
các hành vi trục lợi, ăn cắp, tham ô, đục khoét, biến của công thành của riêng…
Theo Người sau khi nghị quyết đã được ban hành, phải tổ chức tốt việc

thực hiện để nghị quyết đi vào cuộc sống. Điều đó gắn liền với công việc kiểm
tra, giám sát. Muốn tốt, “phải đi tận nơi, xem tận chỗ”.
Sau kiểm tra, giám sát, thì cái sai cần khắc phục, sửa chữa ngay và cái
đúng, cái tốt phải được động viên khen thưởng, kịp thời, vì khen thưởng đúng
người, đúng việc, đúng lúc sẽ động viên, giáo dục, thúc đẩy người lao động hăng
say làm việc. Mỗi khi đọc trên báo chí, thấy tấm gương “người tốt, việc tốt” nào,
nhất là những người đi đầu khởi xướng phong trào, Người liền cử cán bộ đi xác
minh và tặng “Huy hiệu Bác Hồ” cho người có thành tích xứng đáng. Cả nước
có khoảng 5.000 người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng “Huy hiệu
Bác Hồ” qua phong trào “Người tốt, việc tốt”.
Hồ Chí Minh từng yêu cầu: “Tôi ra lệnh cho Bộ Tổng tư lệnh mau chóng
khen thưởng những đơn vị và những chiến sĩ đã lập nhiều chiến công oanh liệt”.
Trong “những việc cần phải làm ngay” gửi cán bộ, chiến sĩ tỉnh Hòa Bình, Lào
Cai, Người nhắc nhở: “Xét kỹ và báo cáo những đơn vị và cá nhân có công trạng
đặc biệt để Chính phủ khen thưởng”.
*Khéo dùng người, trọng dụng người tài
Theo Bác, người lãnh đạo giỏi thì phải khéo dùng người và trọng dụng
nhân tài. Xuất phát từ mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ những trí thức được đào tạo cơ bản từ các nước
phương Tây, quan lại của triều đình phong kiến cũ.
14


15

Người xác định, việc dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường
của họ, đúng người, đúng việc, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn” và phải
cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải phụ trách. Dùng người mà không
đúng công việc sẽ không chạy, không được việc, làm thui chột nhân tài, có hại
cho Đảng và cũng thể hiện sự yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng.

Việc trọng dụng nhân tài là phải làm thường xuyên, liên tục như “người
làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ,
trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta". Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, trọng dụng nhân tài phải biết tuỳ tài mà dùng người: “Tài to ta
dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt
ngay vào việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”. Bởi
vậy, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, trong lúc
còn bộn bề khó khăn, thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm
tìm người tài để xây dựng đất nước và Người chính là tấm gương sáng cho việc
tìm nhân tài và trọng dụng nhân tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một quốc gia, một đất nước không biết
sử dụng nhân tài là một khuyết điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và
Nhà nước trong xây dựng và kiến thiết.
Câu 12: Đồng chí hãy nêu và phân tích phong cách cách mạng, khoa
học, năng động, sáng tạo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ
Chí Minh?
Trả lời
Một yêu cầu quan trọng trong phong cách của người đứng đầu, người lãnh
đạo là phải có sự thống nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng
động, sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới. “Trung với Đảng”, “trung với nước,
hiếu với dân” là phẩm chất chính trị cơ bản, thể hiện trong mọi hoạt động của
người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, điều chủ chốt trong
phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo là phải: “Ra sức làm việc cho Đảng,
giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt
lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá
nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh
quên mình, gương mẫu trong mọi việc”.
Nhiệt tình cách mạng là yếu tố cơ bản trong phẩm chất của người cán bộ
đứng đầu, người lãnh đạo. Vì có nhiệt tình cách mạng, người cán bộ lãnh đạo
mới say mê, tận tuỵ với công việc để tìm ra những phương án sáng tạo nhằm

thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Tính cách mạng, lòng yêu nước, thương dân
là động lực lớn thôi thúc người lãnh đạo, quản lý chuyên tâm, lo toan, tận tuỵ,
say mê với công việc.
Người lãnh đạo phải có sự tìm tòi sáng tạo, đề xuất được những ý kiến
hay, những phương án tối ưu để thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
15


16

Hồ Chí Minh cho rằng, tính khoa học phải được đảm bảo bằng tri thức
khoa học. Nhiệt tình cách mạng chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi nó được thống
nhất với các tri thức khoa học và trên cơ sở khoa học.
Để có tri thức khoa học, người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải chịu
khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ về chính trị, văn hoá, nghiệp vụ
cũng như nắm được tình hình trong và ngoài nước. Chủ quan, tự mãn, ít nghiên
cứu lý luận và thực tiễn nên gặp thuận lợi dễ lạc quan, gặp thành công sớm dễ
mắc phải căn bệnh kiêu ngạo; khi gặp khó khăn thì dễ lúng túng, bị động, dẫn
đến bi quan, dao động, lập trường cách mạng không vững… theo Bác không ai
có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân
dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ
kịp nhân dân”.
Học tập, nghiên cứu, “học và hành” theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là
đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm.
Phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn trong công tác lãnh đạo. Vì: “Thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
Một trong những yêu cầu về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo,
người đứng đầu là phải nắm chắc lý luận, nhưng không được “lý luận suông”,
mà phải có năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn. Mọi chủ trương, đường lối

của Đảng một mặt phải xuất phát từ tình hình cụ thể,giải thích cho quần chúng
hiểu và thực hiện các chủ trương, chính sách đó như thế “lý luận mới không tách
rời thực tế”.
Trong mọi công tác, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, người lãnh đạo có thể sử
dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ
của mình.
Cùng với kiên định về nguyên tắc, những vấn đề chiến lược, thì sách lược
cách mạng, các hình thức, phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành phải
mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với thực tế để có thể đạt kết quả cao nhất.
Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu đặt ra phải được cụ thể trong từng giai đoạn.
Tính bất biến, mục tiêu trong tất cả các giai đoạn của cách mạng là độc lập,
thống nhất cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

16



×