Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.36 KB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

NGUYỄN THỊ MINH HẰNG

B¶O TåN Vµ PH¸T HUY GI¸ TRÞ CñA LÔ
HéI LIM
ë B¾C NINH HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC


HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

NGUYỄN THỊ MINH HẰNG

B¶O TåN Vµ PH¸T HUY GI¸ TRÞ CñA LÔ
HéI LIM
ë B¾C NINH HIÖN NAY
Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. VĂN THỊ THANH MAI


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trìng nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của TS. Văn Thị Thanh Mai, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu
liên quan đã được đề cập trong luận văn. Các tài liệu trong luận văn là trung
thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn
của mình.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Minh Hằng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Sau Đại học và các
phòng ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho
tôi học tập, nghiên cứu tại quý trường. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
khoa Triết học đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất đến
TS. Văn Thị Thanh Mai, Phó Tổng biên tập Tạp chí Tuyên Giáo, Ban Tuyên
giáo Trung ương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.
Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã hết lòng quan

tâm giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Minh Hằng


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN......................................................................................................
Tôi xin cam đoan đây là công trìng nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của TS. Văn Thị Thanh Mai, có kế thừa một số kết
quả nghiên cứu liên quan đã được đề cập trong luận văn. Các
tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan
và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng............................................................
MỤC LỤC 3
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu............................................................................................2
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu lễ hội.............................................................
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội Lim................................................
3. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................7
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu...................................................................7
5. Giả thuyết khoa học...........................................................................................8
6. Nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................................8
7. Phạm vi nghiên cứu...........................................................................................8
8. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................8
9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn...................................8
10. Kết cấu của luận văn........................................................................................9

Chương 1 10
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI LIM Ở BẮC NINH HIỆN
NAY.....................................................................................................
1.1. Lễ hội trong đời sống của người Việt............................................................10
1.1.1. Quan niệm về lễ hội, lễ hội cổ truyền....................................................
Một là, giá trị hướng về cội nguồn...............................................................19
Hai là, giá trị văn hóa tâm linh.....................................................................21


Ba là, giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa tinh thần.................................22
Bốn là, giá trị cố kết cộng đồng...................................................................23
Năm là, giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc........24
Sáu là, giá trị kinh tế du lịch........................................................................26
1.2. Nguồn gốc, lịch sử và diễn trình của lễ hội Lim...........................................27
1.2.1. Vài nét về địa danh, phong tục của huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh............27
1.2.2. Quá trình diễn ra lễ hội Lim...................................................................
* Diễn biến của lễ hội Lim...........................................................................40
Chương 2 70
THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ.......................
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI LIM Ở BẮC NINH HIỆN
NAY.....................................................................................................
2.1. Quan điểm về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim.......................70
* Về phát huy...................................................................................................
2.2. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim............................79
2.2.2. Hạn chế..................................................................................................
2.3. Phương hướng, giải pháp và khuyến nghị bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
lễ hội Lim............................................................................................................93
2.3.1. Phương hướng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim..............
2.3.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim......................

2.3.3.Khuyến nghị bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim..................
Tiểu kết chương 2..................................................................................................
KẾT LUẬN...........................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ LỄ HỘI LIM...................................................................
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lễ hội truyền thống có từ rất lâu đời trong lịch sử nhân loại, bắt nguồn và
phát triển từ hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội; từ sự giao lưu, tiếp biến văn
hóa của cộng đồng. Hầu như quốc gia nào, dân tộc nào, châu lục nào cũng có lễ
hội, tuy hình thức và nội dung có thể không giống nhau. Lễ hội truyền thống là
một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần, chứa đựng những khát vọng, những
ước muốn tâm linh vừa thiêng liêng, vừa trần tục của cộng đồng dân cư trong
những hoàn cảnh cụ thể. Đây là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân tộc,
được giữ gìn trong suốt chiều dài lịch sử của mỗi quốc gia dân tộc.
Cha ông ta qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã để lại cho
các thế hệ chúng ta hôm nay và mai sau những di sản truyền thống vô cùng
quý giá, trong đó có hệ thống lễ hội văn hóa đặc sắc. Lễ hội, một di sản văn
hóa quý báu đã đồng hành, tồn tại và tạo nên ký ức văn hóa của dân tộc. Vượt
qua thời gian, lễ hội đã lan tỏa và có sức sống lâu bền trong đời sống nhân
dân. Những năm qua, khi đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ trong tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đời sống vật chất và
tinh thần của đại bộ phận nhân dân được nâng cao. Do đó, lễ hội và việc tham
gia các lễ hội truyền thống càng trở thành một nhu cầu, một món ăn tinh thần
không thể thiếu của người dân. Nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng,
phong phú và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân, vấn đề bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa của các lễ hội truyền thống ở các địa phương;

trong đó, một mặt, khai thác, phát huy những giá trị đặc sắc của mỗi lễ hội,
mặt khác khắc phục được những hạn chế, tiêu cực từ công tác tổ chức và các
hoạt động của lễ hội đã trở thành yêu cầu bức thiết.
Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, năm 2015, cả nước hàng năm có

1


hơn 8.000 lễ hội, trong đó, tại Bắc Ninh có gần 600 lễ hội với quy mô lớn nhỏ
khác nhau. Miền đất Kinh Bắc xưa là nơi địa linh nhân kiệt, quê hương của
Kinh Dương Vương, Lý Bát Đế, nơi hội tụ của kho tàng văn hóa nghệ thuật
đặc sắc với những làn điệu Quan họ trữ tình đằm thắm đã được UNESCO
công nhân là Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Con người Bắc Ninh
mang trong mình truyền thống văn hóa Kinh Bắc, mang đậm nét dân gian của
vùng trăm nghề như; tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, vẽ tranh
dân gian... Bắc Ninh cũng là vùng đất có nền văn hóa lâu đời , với nhiều lễ hội
truyền thống, đặc sắc nhất là lễ hội Lim - cơ sở, điều kiện để văn hóa Quan họ
ra đời và phát triển. Lễ hội Lim đã khơi dậy truyền thống tốt đẹp của quê
hương, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hóa tâm linh và văn hóa tinh
thần của đông đảo tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân, nên sự
độc đáo, ý nghĩa nhân văn của lễ hội Lim; trong đó hát Quan họ, đấu võ, đấu
vật đầu cờ... đã có những biến tướng, gây phản cảm với du khách tham gia lễ
hội. Hát Quan họ với cảnh ngửa nón xin tiền gây bức xúc, cảnh đấu võ dẫn
đến đấu lộn tại lễ hội, các hiện tượng tiêu cực, mê tín dị đoan, thương mại hóa
trong lễ hội… là nỗi trăn trở của các cơ quan chức năng, quản lý và cả du
khách. Từ thực tế đó, việc nghiên cứu về lễ hội Lim, thông qua đó góp phần
làm sâu sắc hơn giá trị văn hóa của lễ hội Lim, nâng cao chất lượng việc bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội là một việc làm hết sức cần thiết,
thiết thực xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng nhu

cầu phát triển bền vững của đất nước. Trên tinh thần đó, tác giả chọn đề tài:
“Bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay” làm đề tài
Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Triết học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Từ rất sớm, đã có rất nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu và khảo

2


sát về lễ hội truyền thống nói chung và lễ hội Lim nói riêng, với nhiều góc độ
nhìn nhận khác nhau nhằm tìm kiếm, giữ gìn và phát huy những giá trị văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu lễ hội
Trước Cách mạng Tháng Tám, các công trình nghiên cứu về lễ hội ít
được chú trọng nghiên cứu. Một số học giả thời kỳ này đã đề cập đến lễ hội
trong các công trình nghiên cứu văn hóa như: “Việt Nam phong tục” của Phan
Kế Bính; “Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh; “Góp phần
nghiên cứu văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Văn Huyên. Sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đến năm 1954, do hoàn cảnh cả nước tiến hành cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, nên hầu như lễ hội ít được quan tâm,
nghiên cứu, sưu tầm.
Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm thời bị chia cắt, các công
trình nghiên cứu về lễ hội ở hai miền Nam - Bắc cũng khác nhau. Miền Bắc
có các công trình nghiên cứu: “Một số tục cổ và trò chơi Việt Nam trong tết
nguyên đán và xuân” của Nguyễn Đổng Chi; "Thời Đại Hùng Vương” của Lê
Văn Lan; "Hà Nội nghìn xưa” của Trần Quốc Vượng... Miền Nam có một số
công trình nghiên cứu như: "Lễ tế xuân hay Đám rước thần nông” của
Nguyễn Bửu Kế; "Nhớ lại hội hè đình đám” của Nguyễn Toại; "Mùa xuân với
đời sống tình cảm Việt Nam”, "Trẩy hội hành hương” của Nguyễn Đăng
Thục; "Nếp cũ hội hè đình đám quyển thượng” của Toan Ánh.

Từ 1975 đến nay đã có nhiều học giả quan tâm nghiên cứu sâu sắc về lễ
hội như “Đất lề quê thói” của Nhất Thanh; "Lễ hội truyền thống và hiện đại"
của Thu Linh - Đặng Văn Lung; “60 lễ hội truyền thống Việt Nam" của Thạch
Phương - Lê Trung Vũ; “Lễ hội Việt Nam” của Lê Trung Vũ - Lê Hồng Lý;
"Lễ hội cổ truyền" do Lê Trung Vũ chủ biên; "Lễ hội truyền thống trong đời
sống xã hội hiện đại" do Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng chủ biên; “Ý nghĩa

3


xã hội và văn hóa của hội lễ dân gian và văn hóa dân gian Việt Nam với sự
phát triển của xã hội Việt” của Đinh Gia Khánh; “Lễ hội cổ truyền của người
Việt ở Bắc Bộ” của Lê Trung Vũ… cùng một số công trình khác như: Hội
thảo khoa học quốc tế “Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại”;
Đề tài khoa học cấp Bộ Văn hóa - Thông Tin về “Quản lý lễ hội cổ truyền:
thực trạng và giải pháp” (Nguyễn Thu Linh - Phan Văn Tú)... Trong đó:
Hội thảo quốc tế về Lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội và hiện đại
của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (nay là Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam), 1993, đã luận bàn về vai trò của lễ hội truyền thống trong xã hội
đương đại. Tác giả Vũ Ngọc Khánh đã cho rằng: Lễ hội không phải là một
hiện tượng văn hóa bất biến, mà nó có sự đổi thay qua thời gian. Sự biến đổi
và tiếp tục của các lễ hội chính là sự hài hòa của nó đối với không gian và
thời gian nhất định.
Thừa nhận sự trường tồn của lễ hội cổ truyền, các nhà nghiên cứu cho
rằng: Lễ hội là sự luyến tiếc quá khứ, để lui vào huyền thoại, cô lập con người.
Lễ hội cũng không phải tồn tại để con người quay ra tìm sự huyền bí với những
cảm giác bồng bềnh, ngây ngất, nhằm mục đích thoát ly cuộc sống, mà lễ hội là
ký ức, là những giá trị văn hóa tinh thần được lưu truyền, trao truyền cho các thế
hệ sau. Bên cạnh đó, GS. Lê Hữu Tầng đã đặt ra câu hỏi: Lễ hội có thực sự là
nhu cầu của đa số người dân hay không? hay đó chỉ là nhu cầu do một số

người muốn lợi dụng lễ hội để tiến hành các hoạt động mê tín dị đoan, nhất là
kinh doanh lễ hội để kiếm lời khai thác? Những biến đổi kinh tế - xã hội sẽ
tác động ra sao đối với nhu cầu hội lễ của người dân và ngược lại?...
Từ những ý kiến trên, nhận xét có tính khẳng định của GS. Ngô Đức Thịnh
là: Lễ hội có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội nói chung và
đời sống xã hội đương đại nói riêng. Trong xã hội đương đại, lễ hội truyền thống
giữ năm giá trị cơ bản là: Một là, giá trị cộng đồng, trong đó, lễ hội chính là “sự

4


biểu dương sức mạnh của cộng đồng” và là chất kết dính tạo nên “sự cố kết cộng
đồng”. Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm “cộng mệnh” và
“cộng cảm” của sức mạnh cộng đồng. Hai là, giá trị hướng về nguồn: Lễ hội có
nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc cộng đồng. Chính vì vậy, lễ hội thường gắn với
hành hương - du lịch. Ba là, giá trị cân bằng đời sống tâm linh: Lễ hội góp phần
làm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người. Bốn là, giá trị sáng tạo
và hưởng thụ văn hóa: Lễ hội do nhân dân tự tổ chức, làm tái hiện các sinh hoạt
văn hóa cộng đồng, và cũng chính bản thân họ là những người hưởng thụ các sinh
hoạt văn hóa đó. Năm là, giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc: Lễ hội truyền thống là một bảo tà`ng sống về văn hóa dân tộc, nhờ đó, nền
văn hóa ấy được hồi sinh, tái tạo và truyền giao qua các thế hệ.
Đề tài khoa học cấp Bộ Văn hóa - Thông tin “Quản lý lễ hội cổ truyền:
thực trạng và giải pháp” của nhóm nghiên cứu Nguyễn Thu Linh và Phan
Văn Tú nhấn mạnh: “Con người các thế hệ đã biết và hiểu về lịch sử - văn hóa
dân tộc/địa phương mình qua các trải nghiệm hội hè. Rất nhiều trò chơi, trò
diễn dân gian có giá trị tìm lại được môi trường phục sinh và tôn tạo. Hàng loạt
các nghề thủ công - mỹ nghệ, ẩm thực truyền thống… được củng cố và phát
triển tạo ra những cơ hội việc làm và thu nhập cho không ít lao động, góp phần
bảo vệ di sản công nghệ dân gian đang có cơ trở thành hàng hóa có giá trị trong

xã hội hiện đại” [57, tr.15 ].
Các ý kiến nêu trên đã khẳng định rằng, lễ hội đang trở thành một sản
phẩm của ngành du lịch, có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển
kinh tế- văn hóa ở nhiều địa phương nói chung, trong đó có tỉnh Bắc Ninh. Các
công trình trên đã giúp tôi có cái nhìn tổng quan về vị trí, vai trò của lễ hội
trong đời sống, nhất là nhu cầu về văn hóa, tinh thần. Đồng thời những tư liệu
này giúp tôi thêm hiểu biết về hệ thống lễ hội truyền thống, giúp chúng tôi kế
thừa trong quá trình giải quyết yêu cầu của luận văn.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội Lim
Trong những năm qua cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, kinh tế xã

5


hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng
cao, nhu cầu tìm về với những giá trị truyền thống ngày càng lớn. Lễ hội Lim
- một lễ hội đặc sắc, mang đậm nét văn hóa dân tộc của người Kinh Bắc - Bắc
Ninh thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều giới. Đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về lễ hội Lim như: “Hội xứ Bắc” của Sở Văn hóa thông
tin Hà Bắc; “Địa chí Hà Bắc” của Trần Linh Quý; “Hội hè đình đám” của
Toan Ánh; “Bắc Ninh thổ tạp kỹ” của Thư viện Thông tin Khoa học Xã hội Hà
Nội; “Một số vấn đề về dân ca Quan họ” của Lê Thị Nhâm Tuyết; “Từ những
lề lối của hát Quan họ” của Mã Giang Lân; “Quan họ, nguồn gốc và quá trình
phát triển” của Trần Linh Quý, Đặng Văn Lung, Hồng Thao; “60 lễ hội truyền
thống của người Việt Nam” của Thạch Phương, Lê Trung Vũ; “Hội Lim truyền
thống và hiện đại” (Sở văn hóa thông tin Tỉnh Bắc Ninh); “Các di tích lịch sử
văn hóa Bắc Ninh” của Lê Viết Nga; “Quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di
tích lịch sử văn hóa tỉnh Bắc Ninh gắn với hoạt động du lịch” của Sở Văn hóa
thể thao Bắc Ninh; “Góp phần tìm hiểu lễ hội ở Hà Bắc” của Trần Đình Luyện;
“Những yếu tố cơ bản để xây dựng lễ hội ở Hà Bắc” của Lê Hồng Lý...

Trong cuốn sách Hội xứ Bắc, Sở Văn hóa thông tin Hà Bắc, tập 2,
1989, tác giả Khổng Đức Thiêm với phần trình bày: Hội Lim, hồn nước gọi ta
về, đã nêu rõ về nguồn gốc, diễn biến của hội Lim khá chi tiết.
Cuốn sách 60 lễ hội truyền thống của người Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội của các tác giả Thạch Phương, Lê Trung Vũ xuất bản năm
1995, có dành một phần trong sách để nói về lễ hội Lim, với những làn điệu
dân ca Quan họ từ hát trong nhà, hát ngoài đồi, đến hát trên thuyền, thi cỗ
chay, thi dệt vải, đấu vật,...
Cuốn sách Các di tích lịch sử văn hóa Bắc Ninh của tác giả Lê Viết
Nga, Nxb Bảo tàng Bắc Ninh, 2005, đã liệt kê các di tích lịch sử trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh; trong đó có dành một chương trình bày về lễ hội Lim với

6


những nét tiêu biểu, độc đáo.
Ngày 2-11-2004, Sở văn hóa thông tin tỉnh Bắc Ninh đã phối hợp với
Ủy ban nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh tổ chức Hội thảo khoa học:
Hội Lim truyền thống và hiện đại. Với 21 tham luận trên tổng số 29 tham luận
của các nhà khoa học gửi đến, đây là lần đầu tiên, hội Lim được xem xét về
nhiều mặt góp phần làm sâu sắc hơn những giá trị tinh thần của hội Lim trong
đời sống người dân Việt Nam nói chung và người dân Bắc Ninh nói riêng.
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều bài viết nghiên cứu về lễ hội Lim đăng
trên báo Nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Văn học, Văn hóa - Nghệ
thuật,.... Các trang báo điện tử như: tiendu.bacninh.gov.vn, nhandan.com.vn,
daidoanket.vn, quanhobacninh.vn, dantri.com, lehoithegioi.com,... như: “Lễ
hội Lim”, “Nguồn gốc và ý nghĩa ngày hội Lim 13.1 âm lịch”, “Ghé về Bắc
Ninh tham gia lễ hội Lim đặc sắc”, “Lễ hội Việt Nam: Lễ hội Lim”... cũng đã
đề cập và tìm hiểu khá toàn diện, làm sáng tỏ những vấn đề về lễ hội Lim.
Những công trình nghiên cứu, tài liệu trên là nguồn tài liệu tham khảo

quý báu giúp tác giả tìm hiểu và kế thừa những kết quả nghiên cứu của những
người đi trước trong quá trình triển khai luận văn. Tuy nhiên, chưa có công
trình nghiên cứu chuyên sâu nào về “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của
lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay”. Vì vậy, đề tài của luận văn là mới và không
trùng lặp với các công trình nghiên cứu và luận văn, luận án đã công bố.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
của lễ hội Lim ở Bắc Ninh, đề ra phương hướng, giải pháp và kiến nghị, góp
phần nâng cao chất lượng bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội
Lim ở Bắc Ninh hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Những giá trị văn hóa của lễ hội Lim
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc bảo tồn

7


và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay
5. Giả thuyết khoa học
Nếu phân tích, làm rõ được những thực trạng của lễ hội Lim, thì từ đó
sẽ đề ra được những biện pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của
lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải thực hiện được
các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ nguồn gốc của lễ hội Lim, thực trạng cách thức tổ chức lễ hội
Lim xưa và nay.
- Nghiên cứu những giá trị văn hóa của lễ hội Lim.
- Đề ra phương hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa của lễ hội Lim.

7. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Phần lễ, phần hội trong lễ hội Lim ở tỉnh Bắc Ninh.
- Thời gian: Lễ hội Lim ngày xưa và hiện nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên lập trường thế giới quan của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa nói chung, bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội truyền thống nói riêng, luận văn sử dụng
các phương pháp của phép biện chứng duy vật và lịch sử để luận giải các vấn
đề có liên quan. Đồng thời luận văn kết hợp phương pháp logic và lịch sử,
phương pháp liên ngành và chuyên ngành, tổng hợp và phân tích... để giải
quyết yêu cầu của đề tài.
9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
Những luận điểm cơ bản
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa

8


của lễ hội Lim.
- Những giá trị văn hóa của lễ hội Lim.
- Thực trạng, giải pháp, kiến nghị về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay.
Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn nghiên cứu có hệ thống về lễ hội Lim, cung cấp cho người
đọc một hệ thống tư liệu phong phú, những giá trị văn hóa đích thực của lễ
hội Lim trong đời sống của người Việt.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa lễ hội Lim, luận văn sẽ đề ra phương hướng, giải pháp, kiến nghị, góp
phần nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo, quản lý lễ hội cổ truyền nói
chung, lễ hội Lim nói riêng.

10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm có 2 chương, 5 tiết.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI LIM Ở BẮC NINH
HIỆN NAY
1.1. Lễ hội trong đời sống của người Việt
1.1.1. Quan niệm về lễ hội, lễ hội cổ truyền
∗ Lễ hội
Đất nước Việt Nam là một dân tộc có nền văn hóa lâu đời, với nhiều
cộng đồng dân tộc cùng sinh sống trên một lãnh thổ thống nhất, cùng tạo lên
phong tục tập quán mang bản sắc riêng của mỗi vùng miền, dân tộc, tôn
giáo...; đã góp phần làm lên một nền văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc.
Trong đó, lễ hội là thành tố đặc biệt vừa mang nét đặc trưng riêng biệt cho
mỗi dân tộc, vừa làm cho văn hóa của dân tộc Việt ngày càng phong phú và
đặc sắc hơn.
Ngày nay, khái niệm về lễ hội vẫn còn rất nhiều cách hiểu và lý giải
khác nhau trong giới nghiên cứu. Trên thực tế đã xuất hiện một số ý kiến về
cấu trúc của lễ hội đã nói chung về lễ hội, hoặc nói riêng về từng phần lễ hay
hội. Các ý kiến đó dựa trên thực tế có những sinh hoạt văn hóa dân gian có lễ
mà không có hội hoặc ngược lại.
Lễ hội theo học giả Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương gọi
là đại hội (vào đám hay vào hội) [1, tr.255]. Về sau, nhiều học giả đã thay
thuật ngữ này bằng các thuật ngữ tương đương. Tuy nhiên, trong các công
trình nghiên cứu qua tên sách, tên bài viết đã có nhiều cách gọi khác nhau.

Tác giả Toan Ánh trong cuốn sách “Nếp cũ hội hè đình đám” đưa ra
quan niệm: hội hè đình đám là những cuộc tổ chức hội họp tại các thôn xã

10


nhân dịp vào đám và trong dịp đám này có nhiều trò mua vui cho dân thôn
giải trí [4, tr.9]. Quan niệm đó đã nhấn mạnh ý nghĩa tích cực của các hoạt
động vui chơi, sinh hoạt tập thể có ý nghĩa giải trí, các yếu tố thuộc về nghi
thức mang tính tâm linh tín ngưỡng thì chưa được đề cập sâu.
Theo tác giả Bùi Thiết, “Lễ là các hoạt động đạt tới trình độ nghi lễ, hội
là các hoạt nghi lễ đạt trình độ cao hơn, trong đó có các hoạt động văn hóa
truyền thống” [91, tr.125]. Khác với Bùi Thiết, nhà nghiên cứu Thu Linh lại
cho rằng: “Lễ (cuộc lễ) phản ánh những sự kiện đặc biệt, về mặt hình thức lệ
trong các dịp này trở thành hệ thống những nghi thức có tính chất phổ biến
được quy định một cách nghiêm ngặt nhiều khi đạt đến trình độ một “cải diễn
hóa” cùng với không khí trang nghiêm đóng vai trò chủ đạo. Đây chính là
điểm giao thoa giữa lễ với hội, và có lẽ cũng vì vậy người ta thường nhập hai
từ lễ hội” [52, tr. 27].
Nguyễn Quang Lê, cho rằng bất kỳ một lễ hội nào cũng bao gồm hai hệ
thống đan xen, hòa quện và giao thoa với nhau: 1) Hệ thống lễ: Bao gồm các
nghi lễ của tín ngưỡng dân gian và tôn giáo cùng với các lễ vật được sử dụng
làm đồ lễ mang tính linh thiêng, được chuẩn bị rất chu đáo và nghiêm túc.
Thông qua các nghi lễ này con người được giao cảm với thế giới siêu nhiên là
các thần thánh (các nhiên thần và nhân thần), do chính con người tưởng tượng
ra và họ cầu mong các thần thánh bảo trợ và có tác động tốt đẹp đến tương lai
cuộc sống tốt đẹp của mình. 2) Hệ thống hội: Bao gồm các trò vui, trò diễn và
các kiểu diễn xướng dân gian, cụ thể là các trò vui chơi giải trí, các đám rước
và ca múa dân gian...- chúng đều mang tính vui nhộn, hài hước, song đôi khi
chưa thể tách ra khỏi việc thờ cúng [49, tr.5-9].

Giáo sư Đinh Gia Khánh đã đưa ra quan niệm cho rằng: “Đặc điểm cơ
bản của văn hóa dân gian (trong đó có lễ hội) là tính nguyên hợp... tức nói rằng
quan hệ nghệ thuật ấy người ta nhận thức hiện thực như một tổng thể chưa bị
chia cắt” [42, tr.12]. Cùng quan điểm trên Trần Bình Minh cho rằng: “Lễ và

11


hội hòa quện, xoắn xít với nhau để cùng nhau biểu thị một giá trị nào đó của
một cộng đồng. Trong lễ cũng có hội và trong hội cũng có lễ” [69, tr. 120].
Do đó, dù có khác nhau về cách diễn đạt, miêu tả song các nhà nghiên
cứu đều thống nhất với nhau hai thành tố cấu trúc nên lễ hội (phần lễ tức là
nghi lễ, là mặt thứ nhất: tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng, linh thiêng; phần hội
tức là hội hè, là mặt thứ hai: vật chất, văn hóa nghệ thuật, đời thường).
Từ những quan điểm trên, chúng tôi đã nhận thức như sau:
Lễ: Đó là hệ thống các hành vi, các động tác nhằm biểu hiện lòng tôn
kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của
con người trước cuộc sống mà chính bản thân con người chưa có khả năng
thực hiện được.
Hội: Đó là tập hợp tất cả các trò diễn có tính nghi thức, các cuộc vui
chơi, giải trí tại một thời gian nhất định, thường tổ chức trong khuôn viên các
hoạt động tôn giáo hay ở sát chúng, có đông người tham gia. Là đời sống văn
hóa tinh thần hàng ngày và một phần không thể thiếu đời sống tinh thần của
cá nhân và cả cộng đồng, nhân kỷ niệm một sự kiện quan trọng đối với một
cộng đồng xã hội.
Lễ hội là sản phẩm của xã hội quá khứ, được truyền lại tới ngày nay và
nó được người dân, cộng đồng tiếp nhận và thực hành trong đời sống sinh
hoạt văn hóa, tín ngưỡng.
Như vậy, có thể thấy lễ và hội luôn gắn kết chặt chẽ với nhau, không có
lễ thì sẽ không có hội. Lễ hội thuộc phạm trù thiêng liêng của thế giới linh

thiêng. Ngôn ngữ biểu tượng là ngôn ngữ của lễ hội, vượt lên trên đời sống
hiện hữu thường nhật. Vì vậy, phần hội luôn gắn với phần lễ, là bộ phận sinh
thái của phần lễ, nó gắn với cái thiêng liêng, với các vị thần, nhân vật mà con
người thờ phụng. Trong các sinh hoạt vui chơi, giải trí, các trò diễn trong lễ

12


hội mang tính nghi lễ phong tục chứ không phải đơn thuần chỉ là trò chơi, trò
diễn thuần túy trần tục (mà trò diễn ở đây đã được thiêng liêng hóa).
∗ Lễ hội cổ truyền
Sinh hoạt văn hóa dân gian tổng hợp là một loại hình của lễ hội, vừa
phong phú đa dạng, vừa độc đáo của dân tộc Việt Nam, có nguồn gốc phát
sinh và phát triển từ rất lâu đời trong lòng lịch sử văn hóa dân tộc nước nhà.
Có thể nói rằng lễ hội cổ truyền là hình ảnh thu nhỏ của nền văn hóa dân gian
mang đậm bản sắc cổ truyền dân tộc. Bởi, trong lễ hội cổ truyền đã bao hàm
hầu như đầy đủ tất cả các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian, như: Về văn
học dân gian: trong đó có truyền thuyết, thần thoại, thần tích, thần phả, văn tế,
văn bia, hoành phi câu đối, ca dao, hò vè ... Về nghệ thuật biểu diễn dân gian:
trong đó có diễn xướng, sân khấu dân gian, các làn điệu dân ca, dân vũ, dân
nhạc... Về tôn giáo: trong đó có phong tục và tín ngưỡng dân gian gồm các
nghi lễ, nghi thức, trò chơi, trò diễn, trò chơi dân gian, tục lệ, đối tượng thờ
cúng, đức tin và kỵ hèm dân gian... Vì vậy, lễ hội cổ truyền không chỉ là một
hiện tượng lịch sử xã hội, mà còn là một hiện tượng văn hóa dân gian. Lễ hội
đã phản ánh khá sâu sắc, trung thực và rõ nét cốt cách, khắc họa sâu sắc bản
lĩnh và bản sắc dân tộc, cùng với tâm linh, nguyện vọng của nhân dân trong
suốt thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt.
Lễ hội cổ truyền hình thành và tồn tại đã được bảo tồn và phát huy
trong lòng lịch sử - văn hóa dân tộc, phản ánh khá sinh động và đầy đủ đời
sống văn hóa - xã hội đã trải qua. Rất nhiều yếu tố văn hóa tinh thần đã được

lễ hội cổ truyền lưu giữ và trao truyền từ đời này sang đời khác, thực sự đã trở
thành những di sản văn hóa truyền thống vô giá. Đó cũng chính là một kho
tàng vô giá các giá trị thuộc về tinh hoa văn hóa, khắc họa rõ nét bản lĩnh và
bản sắc dân tộc Việt Nam.
Khái niệm cổ truyền được Từ điển tiếng Việt cắt nghĩa như sau:
“Cổ: Thuộc về thời xa xưa trong lịch sử”; “Truyền: Để lại cái mình

13


đang nắm giữ cho người khác, thường thuộc thế hệ sau”; “Cổ truyền: Từ xưa
truyền lại, vốn có từ xưa” [112, tr. 203, 204, 1053].
Lễ hội cổ truyền theo quan điểm của GS. Ngô Đức Thịnh cho rằng: 1)
Một hình thức diễn xướng dân gian bao gồm nhiều hình thức diễn xướng nhỏ,
kết hợp hữu cơ với nhau tạo thành tổng thể diễn xướng lễ hội. 2) Một hình thức
diễn xướng tâm linh không còn là thế giới hiện thực mà đã vươn lên thế giới biểu
tượng linh thiêng. Nó tái hiện lại lịch sử tự nhiên, lịch sử xã hội trong một thời
điểm mạnh, thời điểm có giá trị đặc biệt, thời điểm thiêng, khác với thời gian
thường ngày. 3) Diễn xướng lễ hội cổ truyền đạt tới hiệu quả xã hội nhiều mặt,
tạo nên và biểu trưng cho sức mạnh cố kết cộng đồng, nó là niềm cộng cảm và
cộng mệnh của cộng đồng thỏa mãn ước vọng vươn tới sự hòa đồng giữa con
người với thiên nhiên, với cội nguồn [93, tr. 17 - 22].
Ngoài ra,lễ hội cổ truyền là sinh hoạt văn hóa diễn ra theo định kỳ,
mang tính cộng đồng (thường là cộng đồng làng), góp phần gắn kết tinh thần
đoàn kết cộng đồng trong đời sống của người dân.
1.1.2. Đặc trưng của lễ hội cổ truyền
Lễ hội là một trong những loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần cổ
truyền của rất nhiều vùng miền, dân tộc ở nước ta cũng như trên thế giới. Lễ
hội chính là hình ảnh khắc họa trung thực đời sống văn hóa tinh thần của mỗi
dân tộc. Lễ hội cổ truyền có hai đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, lễ hội cổ truyền - một “hiện tượng văn hóa dân gian tổng
thể”. Là, “một hiện tượng văn hóa mang tính phức thể, mà trong phức thể ấy,
một yếu tố văn hóa dân gian nào đó giữ vai trò chủ đạo đó và cũng như gắn
kết đa chiều với thực tại xã hội” [95, tr. 334]. Tổng thể của lễ hội như một số
nhà nghiên cứu quan niệm không phải chỉ là tổng thể “chia đôi” giữa phần lễ
và phần, mà nó được hình thành dựa trên cơ sở của một cốt lõi nghi lễ, tín
ngưỡng nào đó (tường là tôn thờ một vị thần linh lịch sử, hay một thần linh

14


nghề nghiệp, thần linh huyền thoại...); rồi chính từ đó mà nó hình thành và
tích tụ các hiện tượng sinh hoạt văn hóa phái sinh để tạo nên một tổng thể lễ
hội hoàn chỉnh. Do đó, trong lễ hội, phần lễ là gốc rễ, chủ đạo, phần hội là
phần phái sinh tích hợp.
Có thể thấy nhìn một cách tổng thể, thì lễ hội chủ yếu vẫn thuộc phạm
trù cái thiêng, của thế giới thiêng liêng chứ không phải cái thuộc về đời sống
trần tục, “cái tục”. Ngôn ngữ biểu tượng là ngôn ngữ trong lễ hội, vượt lên
trên tất cả đời sống hiện hữu thường nhật. Ngay một số trò chơi, giải trí, thi tài
diễn ra trong lễ hội, như chọi gà, đánh đu, đấu vật, kéo co,... thậm chí các trò
chơi mang tính phồn thực vẫn mang tính nghi lễ, phong tục chứ không còn
mang tính “trần tục” thuần túy, mà đã trở thành “cái tục” của thế giới thiêng
liêng. Từ đó có thể rút ra một hệ quả mang tính thực tiễn là, hiện nay con
người chúng ta đang phục hồi, phát huy lễ hội cổ truyền thì phải luôn nhận
thức lễ hội thuộc phạm trù cái thiêng, cái biểu tượng, vượt lên trên thế giới
trần tục, thực tại; nếu biến lễ hội thành cái trần tục, thì lễ hội sẽ không còn
những giá trị ý nghĩa của nó nữa.
Phải tiếp cận lễ hội như một hệ thống, phân biệt đâu là yếu tố tạo hệ
thống, đâu là yếu tố tích hợp, tái sinh, tìm ra mối quan hệ hữu cơ giữa chúng
và mối quan hệ giữa lễ hội với thực tại xã hội vì lễ hội là một hiện tượng văn

hóa dân gian tổng hợp. Hay nói cách khác, chúng ta phải nhận thức được diện
mạo, bản chất của xã hội như thế nào thì sẽ sản sinh ra hiện tượng lễ hội như
thế đó.
Thứ hai, lễ hội cổ truyền - một hình thức diễn xướng tâm linh. Chính
là một loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng, một hình thức diễn xướng
tâm linh. Trong đó, “tâm” là vô hình và là động lực ở chiều sâu thúc đẩy
thế giới vật chất và toàn bộ cơ thể, hoạt động của con người. Còn “linh” là
linh diệu, linh cảm, linh nghiệm, linh ứng và linh thiêng, khó nắm bắt, cảm

15


nhận, đo lường, vượt qua lẽ thông thường, khác với hiện tượng đời thường
mà ai cũng biết, cũng cảm nhận được, đo lường được, nhưng không phải nó
hoàn toàn tách biệt mà cũng biến hóa trong đời thường. “Diễn xướng” được
hiểu với hàm nghĩa khá rộng, bao gồm những hành động và lời nói nhằm
biểu đạt một thông tin nào đó giữa một người hay một nhóm người với một
nhóm người khác.
Do vậy, có thể coi toàn bộ các sinh hoạt văn hóa dân gian tồn tại dưới
dạng các diễn xướng. Hay diễn xướng là một môi trường thể hiện, tồn tại và
biến đổi của văn hóa dân gian. Vì vậy, về mặt phương pháp luận thì mọi hiện
tượng văn hóa dân gian đều được tiếp cận trong môi trường diễn xướng. Từ
quan niệm chung như vậy, chúng ta có thể bàn tới lễ hội với tư cách là một
diễn xướng tâm linh [95, tr. 338].
Lễ hội cổ truyền, tính “diễn xướng” và tính “cộng đồng” đều được thể
hiện một cách khá rõ nét và sâu sắc. Thông qua hành động và lời nói của tập
thể những con người trong cộng đồng, người ta muốn tái hiện lại lịch sử, xã
hội, cội nguồn của tự nhiên và con người xa xưa. Tham dự lễ hội là toàn thể
cộng đồng người ở phạm vi làng xã, vùng hay toàn quốc. Ở lễ hội cổ truyền,
tất cả các thành viên đều tự nguyện tham gia trình diễn với tinh thần háo hức,

phấn khởi, vui tươi.
Thời điểm diễn ra lễ hội là thời điểm linh thiêng đó là ngày kỵ, giỗ của
thần linh (ngày sinh, ngày hóa). Đó là thời điểm mà ông cha ta tin rằng có
những giá trị hết sức đặc biệt, có ý nghĩ thiêng liêng, khác với thời điểm bình
thường của đời sống thường ngày.
Diễn xướng lễ hội có ngôn ngữ rất phong phú và đa dạng, như là: tế lễ,
rước, các trò diễn...Cụ thể: 1) Tế chính là nghi thức tưởng niệm, tôn vinh thần
linh, với lời nói, cử chỉ và ăn mặc theo quy định của từng địa phương. Ngoài
tế, trong lễ hội còn có nhiều nghi thức khác nhau, trong đó đặc biệt là lễ khai
hội và lễ rã hội. Đây cũng chính là những hình thức diễn xướng mang tính

16


chất thiêng liêng nhất của lễ hội. 2) Rước cũng chính là một nghi lễ linh
thiêng có ở tất cả các lễ hội, nó thể hiện sự tiếp đón thần linh, thể hiện sức
mạnh của cộng đồng. Rước thường là những màn trình diễn rất ấn trượng vừa
mang tính trang trọng lại vừa rất náo nhiệt và vui tươi, thu hút sự tham gia của
đông đảo cộng đồng với các nghi trượng, hoạt động tiêu biểu như cờ, kiệu, lễ
vật dâng cúng, chiêng, trống, lọng... và dàn nhạc bát âm. Tùy theo các di tích
thờ cúng là đền, đình hay chùa và đặc tính của các vị thần linh mà đám rước
có hình thức khác nhau. 3) Các trò diễn và diễn xướng cũng là một trong
những vị trí hết sức quan trọng trong các lễ hội. Có rất nhiều trò diễn và diễn
xướng khác nhau. Cả lễ hội là một đại diễn xướng, trong đó bao gồm nhiều
diễn xướng lớn, nhỏ khác nhau, chúng được kết hợp lại thành một thể thống
nhất và cấu trúc chặt chẽ, không thể thay đổi một cách tùy tiện. Diễn xướng
nghi lễ (lễ, tế, rước) thường đóng vai trò chủ đạo trong mọi lễ hội, nó được tổ
chức từ ngày mở đầu đến kết thúc lễ hội như: diễn xướng các cuộc thi tài,
diễn xướng các cuộc vui chơi giải trí.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra một số nhận xét sau: Một là, lễ

hội cổ truyền xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử là một hình thức diễn xướng
dân gian, trong đó bao gồm nhiều loại hình diễn xướng nhỏ, kết hợp hữu cơ
với nhau theo một chỉnh thể thống nhất tạo nên một tổng thể diễn xướng lễ
hội. Hai là, lễ hội cổ truyền vươn lên thế giới biểu tượng, linh thiêng là một
loại hình diễn xướng tâm linh, không còn là thế giới hiện thực, “trần tục” . Lễ
hội khác với thời gian thường ngày đã tái hiện lại lịch sử tự nhiên, lịch sử xã
hội trong một “thời điểm mạnh”, thời điểm có giá trị đặc biệt, thời điểm
thiêng . Ba là, diễn xướng ở lễ hội cổ truyền đã trở thành biểu trưng cho sức
mạnh cố kết cộng đồng, đó là niềm cộng cảm và cộng mệnh của cộng đồng
thỏa mãn ước vọng vươn tới sự hòa đồng giữa con người với thiên nhiên, với
cộng đồng dân tộc.
1.1.3. Giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền, lễ hội Lim

17


×