Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ THU HOẠCH tác PHẨM, bàn về cái gọi là vấn đề THỊ TRƯỜNG của v i lê NIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.27 KB, 24 trang )

Thu hoạch tác phẩm
“BàN Về CáI GọI Là VấN Đề THị TRƯờNG”
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm.
Tác phẩm

“bàn về cái gọi là vấn đề thị trường” ra đời vào

những năm cuối thế kỷ XIX trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nước
Nga nổi lên những vấn đề cơ bản sau:
Về chính tị - xã hội. Nước Nga vẫn tồn tại chế độ quân chủ
chuyên chế, phong kiến đang suy tàn và thối nát. Thời điểm này chủ
nghĩa tư bản ở Châu Âu cũng đã tràn vào và phát triển nhanh chóng ở
nước Nga, làm cho giai cấp công nhân Nga ra đời và phát triển mạnh
mẽ. Nước Nga chứa đựng đầy mâu thuẫn; mâu thuẫn giữa nhân dân Nga
với chế độ quân chủ chuyên chế, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với
giai cấp tư sản, giữa dân tộc Nga với sự can thiệp của tư bản nước
ngồi. Cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân Nga phát triển mạnh mẽ,
từng bước khẳng định vai trò, sứ mệnh của mình. Tuy nhiên sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân Nga đang bị cản trở bởi những quan
điểm lạc hậu, phản động của phái dân tuý về các vấn đề liên quan đến
chủ nghĩa Mác, trong đó có vấn đề; luận giải về sự phát triển chủ nghĩa
tư bản ở Nga. Phái dân tuý cho rằng; việc đưa chủ nghĩa Mác vào Nga
làm phá sản nước Nga, sự nghiệp cách mạng ở nước Nga do giai cấp
nông dân Nga lãnh đạo, phái dân tuý phủ nhận vai trị, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp cơng nhân Nga. Họ lý giải chủ nghĩa Mác là một học
thuyết trừu tượng, là sản phẩm của tư duy, tư biện chưa được chứng
minh trên thực tế. Với luận điệu, sự biến đổi của lịch sử xã hội loài
người là do những vĩ nhân quyết định, lực lượng chủ yếu của cách
mạng làm biến đổi lịch sử là nông dân, do trí thức lãnh đạo, họ hướng
vào cơng xã nơng thơn để xây dựng chủ nghĩa xã hội... Những người
dân tuý tự do là tôi tớ của chủ nghĩa tư bản, họ sống công khai hợp




pháp với chế độ Nga hồng, cơng khai chống chủ nghĩa Mác, ủng hộ cải
cách của Nga hồng, mục đích muốn biến nước Nga thành nước “quân
chủ tư sản”. Phái dân tuý tự do nhân danh cái gọi là “những người bạn
dân”, cho rằng: Chỉ có họ là bạn dân, những người Mác xít là những
người chống lại nhân dân, chủ nghĩa Mác khơng thích hợp với nước
Nga, vì chủ nghĩa Mác sinh ra ở Châu Âu có nền cơng nghiệp phát
triển, cịn ở nước Nga thời điểm đó là một nước nông nghiệp. Theo họ,
chủ nghĩa xã hội chỉ thành công ở những nơi tư bản phát triển. Họ nhận
thức rằng chủ nghĩa tư bản ở Nga là hiện tượng ngẫu nhiên, không phát
triển được và giai cấp vô sản Nga cũng không thể phát triển.
Về kinh tế. Trong những năm cuối thế kỷ XIX, công nghiệp đã
phát triển mạnh ở các thành phố lớn, chủ nghĩa tư bản đã thực sự xâm
nhập vào nước Nga. Nước Nga được xếp vào 1 trong 5 nước công
nghiệp lớn của châu Âu thời kỳ đó. Phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã và đang khẳng địmh được vai trò và địa vị của mình trong đời
sống kinh tế của nước Nga. Nền kinh tế Nga có sự phân hố mạnh mẽ,
với nhiều loại hình kinh tế khác nhau như kinh tế tự nhiên, kinh tế sản
xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong đó sự vượt trội của
nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa đã đe doạ đế sự tồn tại của chế
độ kinh tế phong kiến của Nga hoàng. Nền kinh tế phát triển trong sự
kìm hãm của tư tưởng phong kiến trong giai đoạn suy tàn. Do vậy, cần
có những đành giá, nhìn nhận khách quan về sự cần thiết cũng như luận
giải về sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga
Trong điều kiện hồn cảnh đó thì cuộc đấu tranh giữa đảng xã
hội dân chủ do Lênin đứng đầu với các đảng phái khác diễn ra gay gắt.
Tác phẩm “bàn về cái gọi là vấn đề thị trường” ra đời là một tất yếu
trong cuộc đấu tranh đó. tác phẩm này được Lênin viết vào mùa thu
năm 1893 là một trong những tác phẩm đầu tay trong thời kỳ đầu hoạt



động cách mạng của Người và được in lần đầu tiên vào ngày 7 tháng
mười một năm 1937 trên tạp chí “ Người bơn-sê-vích” số 21, năm 1938
được in thành sách riêng. Hiện nay tác phẩm được trình bày trong Lênin
toàn tập, tập I từ trang 85 đến trang 146 do nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơ-va phát hành năm 1974.
Về phương pháp nghiên cứu, trong tác phẩm này Lênin đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như; phương pháp lơgíc kết hợp với
lịch sử, phương pháp phân tích thống kê, phương pháp toán học,
phương pháp diễn dịch quy nạp để chứng minh, bảo vệ và phát triển
những luận điểm của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa tư bản. Đồng thời bác
bỏ những luận điệu sai trái của phái dân t khi họ cố tình phủ nhận
chủ nghĩa Mác thơng qua những biện minh vô căn cứ về cái gọi là
không thể phát triển chủ nghĩa tư bản ở nước Nga. Trên cơ sở đó Lênin
rút ra những kết luận khoa học để bảo vệ và phát triển lý luận của
C.Mác trong điều kiện kinh tế xã hội của Nga lúc bấy giờ.
2. Kết cấu nội dung chủ yếu của tác phẩm.
Về tư tưởng chủ yếu của tác phẩm, đây là cuộc tranh luận của
Lênin với đại biểu của phái dân tuý trong một cuộc họp của tiẻu tổ Mác
xít ở Pê-téc-pua khi thảo luận về bản thuyết trình của G.B.Craxin (đại
biểu của Dân túy) về đề tài Vấn đề thị trường, Lênin đã có bài phát biểu
của mình về vấn đề này và đã gây ấn tượng lớn đối với những người có
mặt tại cuộc họp. Trong bài phát biểu của mình tại phiên họp của tiểu tổ
và sau đó trong bản thuyết trình với nhan đề : “Bàn về cái gọi là vấn đề
thị trường” Lênin đã chỉ ra những sai lầm của G.B.Craxin. Đồng thời đã
nghiêm khắc phê phán các quan điểm của phái dân túy tự do chủ nghĩa
về vận mệnh của chủ nghĩa tư bản ở Nga cũng như quan điểm của
những người đại diện cho Chủ nghĩa Mác xít hợp pháp đang ra đời.
Đồng thời đưa ra quan điểm của mình về nền kinh tế hàng hoá, kinh tế



tư bản chủ nghĩa, thị trường và sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở
Nga là hợp qui luật và hoàn toàn đúng với lý luận của chủ nghĩa Mác.
Về nội dung chính của tác phẩm. Đây là tác phẩm được trình
bày dưới dạng bút chiến bằng phương thức phân tích những cơ sở khoa
học để bác bỏ những luận điệu sai trái của phái dân tuý. Nên kết cấu tác
phẩm không theo cách giới thiệu thông thường mà trình theo từng vấn
đề đấu tranh, trong tác phẩm Lênin phân chia nội dung của tác phẩm
thành tám mục. Nội dung chủ yếu của tác phẩm cũng được tác giả
nghiên cứu khái quát theo trình tự các mục mà Lênin đã trình bày trong
tác phẩm.
Mục thứ I (từ trang 89 đến trang 90): Lênin khái quát một
cách hết sức cô đọng những lập luận của phái dân túy về khả năng phát
triển của chủ nghĩa tư bản ở nước Nga. Phái dân túy nêu vấn đề: “Chủ
nghĩa tư bản liệu có thể phát triển được ở Nga khơng và liệu có thể
phát triển hồn tồn được khơng, một khi quần chúng nhân dân thì
nghèo khổ và ngày càng nghèo khổ?” và họ lập luận rằng: Chủ nghĩa
tư bản muốn phát triển thì phải có thị trường rộng lớn ở trong nước;
khơng có thị trường trong nước cho nên chủ nghĩa tư bản ở Nga khơng
thể phát triển. Cịn ngun nhân làm cho thị trường trong nước bị thu
hẹp là do quần chúng nhân dân bị bần cùng hóa.
Mục thứ II (từ trang 89 đến trang 90): Trong mục này những
vấn đề được nêu ra dựa vào hai quan điểm của thuyết trình viên (đại
biểu của phái dân tuý) và Lênin. Nghĩa là cuộc tranh luận được Lênin
trình bày ythơng qua bài viết của mình. Thuyết trình viên trình bày nội
dung chương 21, QII bộ tư bản, phần 3 Tái sản xuất và lưu thông của
tổng tư bản xã hội. Lênin trình bày tóm tắt học thuyết tái sản xuất tư
bản xã hội của CMác để làm cơ sở phê phán một số quan điểm sai lầm
của thuyết trình viên ở mục III và rút ra kết luận về qui luật ưu tiên



phát triển sản xuất tư liệu sản xuất. Trong quá trình trình bày lý luận tái
sản xuất tư bản xã hội của C.Mác, Lênin chỉ trình bày nội dung cốt lõi,
hết sức cô đọng mà đã giản lược rất nhiều điểm mà C.Mác đã phân tích
tỉ mỉ như; lưu thơng tiền tệ, hao mòn dần dần của tư bản cố định...thông
qua hai vấn đề sau:
Một là; nếu như nghiên cứu sản xuất và tái sản xuất tư bản cá
biệt chỉ cần phân tích các bơ phận cấu thành tư bản và của sản phẩm
căn cứ vào giá trị của các bộ phận đó là c + v + m; thì nghiên cứu tái
sản tư bản xã hội cần phải phân tích sản phẩm, cơ cấu vật chất của nó.
Do vậy phải phân chia nền sản xuất xã hội thành hai khu vực: khu vực I
sản xuất tư liệu sản xuất (sản xuất ra các yếu tố của tư bản sản xuất);
khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng, tức sản xuất hàng hoá dùng cho
tiêu dùng cá nhân.
Hai là; Lênin trình bày tóm tắt sơ đồ của CMác về tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng từ đó Lênin rút ra các điều kiện thực
hiện của tái sản suất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Mục thứ III (từ trang 95 đến trang 101): Từ sự nghiên cứu
khái quát, cô đọng lý thuyết tái sản xuất tư bản xã hội của Mác ở mục
II, Lênin đã phê phán một số mâu thuẫn mà phái dân túy gặp phải:
Thuyết trình viên cho rằng, trong khu vực II chế tạo tư liệu sản xuất sự
tích lũy được tiến hành một cách độc lập không phụ thuộc vào sự vận
động của vật phẩm tiêu dùng, cũng không phụ thuộc vào tiêu dùng cá
nhân của bất cứ người nào (trang95). Đó là quan điểm sai. Trên thực tế
như Lênin chỉ ra, 2 khu vực này có quan hệ khăng khít với nhau ở hai
khía cạnh:
Thứ nhất; ở khu vực I muốn tái sản xuất mở rộng ngồi việc
phải có thêm C thì cần phải có V phụ thêm để sử dụng C đó, điều này rõ
rằng là cần phải có thêm tư liệu tiêu dùng.



Thứ hai; khu vực II phụ thuộc vào tích lũy của khu vực I, tức
qui mơ tích lũy của khu vực II phụ thuộc vào khu vực I.
Vấn đề đặt ra là vì sao? trong tác phẩm này Lênin lại bàn về vấn
đề tái sản xuất. Vì, Phái dân túy và phái Mác xít hợp pháp đã dùng sơ
đồ tái sản xuất để lập luận rằng: muốn thực hiện được giá trị sản phẩm
thì phải có thị trường ngồi nước vì thị trường trong nước bị thu hẹp.
Tức phải có ngoaị thương, mà C.Mác lại trừu tượng hóa vấn đề ngoại
thương. Do vậy Lênin phải bảo vệ lý luận tái sản xuất của C.Mác.
Lênin đã đi sâu làm rõ: Mối tương quan giữa hai khu vực của nền sản
xuất xã hội, phê phán quan điểm của phái dân túy khi họ cho rằng 2 khu
vực đó khơng quan hệ gì với nhau. Xác định sự ưu tiên phát triển của
khu vực I so với khu vực II, chỉ ra qui luật kinh tế của tái sản xuất mở
rộng, của nền sản xuất lớn đó là ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu sản
xuất (hiện nay vẫn đang cịn có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề
này). Lênin phát triển lý luận tái sản xuất của CMác trong điều kiện cấu
tạo hữu cơ của tư bản ( c/v ) thay đổi. Đồng thời Lênin đã có sự phát
triển lý luận về tái sản xuất của C.Mác khi cho rằng, muốn tái sản xuất
mở rộng thì cần phải có tư bản khả biến phụ thêm, do vậy cần phải có
vật phẩm tiêu dùng. Muốn chứng minh, tư liệu sản xuất phát triển
nhanh hơn tư liệu tiêu dùng chỉ cần nghiên cứu kỹ sơ đồ tái sản xuất
của C.Mác với điều kiện đưa tiến bộ kỹ thuật vào. Vì nếu khơng đưa
tiến bộ kỹ thuật vào thì hai khu vực đó sẽ phát triển song song. Đó chỉ
là sự giả định, cịn trên thực tế thì sự tiến bộ kỹ thuật vẫn diễn ra và
theo đó thì C/V tăng lên hay V/C giảm xuống. Sau khi phân tích sơ đồ
tái sản xuất mở rộng trong điều kiện C/V thay đối Lênin rút ra kết luận:
“Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, sản xuất tư liệu sản xuất tăng nhanh
hơn sản xuất tư liệu tiêu dùng”.
Mục thứ IV (từ trang 101 đến trang 106) : Trong mục này



Lênin trình bày khái quát lập luận của thuyết trình viên về vấn đề thị
trường và điều kiện mà chủ nghĩa tư bản không thể phát triển ở nước
Nga. Thuyết trình viên cho rằng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản sẽ
lấn át kinh tế tự nhiên, lấn át sản xuất tư liệu tiêu dùng. Nếu căn cứ
vào sơ đồ mà họ trình bày thì sản xuất tư bản chủ nghĩa muốn phát triển
phải dựa vào thị trường bên ngoài, dựa vào tiêu dùng của quần chúng,
nhưng tiêu dùng của quần chúng càng ngày càng ít đi và chủ nghĩa tư
bản không thể phát triển đều khắp, bao trùm toàn quốc được.
Mục thứ V(từ trang 106 đến trang114): Nội dung của mục
này là Lênin đưa ra quan điểm của mình về kinh tế hàng hố và luận
giải sự chuyển hoá của kinh tế tự nhiên thành kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Về kinh tế hàng hóa Lênin viết: “Sản xuất hàng hóa chính là cách tổ
chức cuả kinh tế xã hội, trong đó sản phẩm đều do những người sản
xuất cá thể, riêng lẻ, sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một thứ sản
phẩm nhất định, thành thử muốn thỏa mãn nhu cầu của xã hội thì cần
phải mua bán sản phẩm, vì vậy sản phẩm trở thành hàng hóa trên thị
trường..(trang 106). Như vậy kinh tế hàng hóa chỉ là cách thức hay hình
thức tổ chức sản xuất xã hội chứ không phải là một phương thức sản
xuất, khơng thể đồng nhất kinh tế hàng hóa với chủ nghĩa tư bản. Lênin
còn chỉ rõ: Chủ nghĩa tư bản chính là một giai đoạn phát triển của sản
xuất hàng hóa, trong đó khơng những sản phẩm của lao động con người
trở thành hàng hóa mà sức lao động của con người cũng trở thành hàng
hóa. Trên cơ sở đó Lênin rút ra những kết luận :
Một là; chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn của sản xuất hàng
hóa, vậy sản xuất hàng hóa có nhiều giai đoạn, cả trước, trong và sau
chủ nghĩa tư bản.
Hai là; Lênin đã khẳng định đặc trưng nổi bật của kinh tế hàng
hóa tư bản chủ nghĩa để phân biệt nó với các giai đoạn khác là: sức lao



động trở thành hàng hóa. Như vậy, cũng có thể hiểu ở đâu sức lao động
là hàng hóa thì ở đó sẽ có sự tồn tại của sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ba là; sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga phụ thuộc vào 2
nhân tố, đó là sự chuyển hóa từ kinh tế tự nhiên thành kinh tế hàng hóa;
sự phân hóa người sản xuất thành nhà tư bản và người làm thuê. ở Nga
lúc đó diễn ra đồng thời cả hai q trình đó. (Lênin đã đưa các số liệu
để chứng minh cho kết luận của mình).
Mục thứ VI (từ trang 114 đến trang122): Trong mục này
Lênin đã trình bày những kết luận của mình về thị trường như sau:
Kết luận 1: Khái niệm thị trường không thể tách ra khỏi khái
niệm phân công lao động xã hội, vì chính khái niệm này là cơ sở của
mọi nền sản xuất hàng hóa, nó cũng là cơ sở của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. ở đâu, khi nào có phân cơng lao động xã hội và có sản xuất hàng
hóa thì ở đó có thị trường. Có phân cơng lao động xã hội mới có thị
trường, muốn có thị trường phải có sản xuất hàng hóa. Giới hạn của thị
trường trong xã hội tư bản chủ nghĩa là do giới hạn của chun mơn
hóa lao động, mà sự chun mơn hóa đó xét về bản chất của nó là vơ
cùng vơ tận, cũng như sự tiến bộ kỹ thuật vậy. Từ kết luận đó có thể rút
ra:
Thứ nhất; Sẽ là sai lầm khi cho rằng trong xã hội tư bản chủ
nghĩa sự mở rộng thị trường...tất phải chấm dứt ngay khi tất cả những
người sản xuất tự cung, tự cấp đã biến thành những người sản xuất hàng
hóa (trang116).
Thứ hai; “Khơng có thị trường ngồi nước chủ nghĩa tư bản
không thể phát triển được, nhưng là do khi một nền sản xuất phát triển
đến một trình độ cao thì nó khơng thể chỉ đóng khung trong một quốc
gia dân tộc được nữa, sự cạnh tranh bắt buộc các nhà tư bản phải ngày
càng mở rộng sản xuất và đi tìm thị trường bên ngồi để tiêu thụ được



nhiều sản phẩm của họ .
Kết luận thứ 2: Sự bần cùng hóa quần chúng nhân dân khơng
những khơng làm trở ngại cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà
trái lại chính là biểu hiện của sự phát triển đó và chính là điều kiện của
chủ nghĩa tư bản và làm cho chủ nghĩa tư bản mạnh thêm.
Kết luận thứ 3: Lênin giải thích lại và khẳng định qui luật ưu
tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất.
Ngồi các kết luận trên Lênin cịn đưa ra 2 nhận xét:
Thứ nhất; những phân tích ở trên khơng phủ nhận mâu thuẫn
trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa Cơng nhân với tính cách
là người mua hàng hóa, thì rất quan trọng đối với thị trường. Nhưng về
mặt họ là người bán hàng hóa của mình (sức lao động) thì xã hội tư bản
chủ nghĩa lại có khuynh hướng hạn chế khoản trả cho công nhân ở mức
giá thấp hơn. Lênin cịn trích lại ý của Mác trong Bộ tư bản rằng, sự
phát triển của sản xuất tư liệu sản xuất để phát triển sản xuất tư liệu
tiêu dùng chỉ đẩy lùi mâu thuẫn đó, chứ khơng tiêu diệt mâu thuẫn,
muốn tiêu diệt mâu thuẫn phải tiêu diệt bản thân phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai; khi xét tương quan sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
và sự mở rộng thị trường thì khơng thể bỏ qua qui luật... chủ nghĩa tư
bản sẽ làm cho mức nhu cầu của toàn thể dân cư và giai cấp vơ sản tăng
lên. Sở dĩ như vậy là vì giai cấp cơng nhân ngày càng được giác ngộ, họ
có thể đấu tranh thắng lợi chống lại xu hướng tham tàn của chủ nghĩa tư
bản.
Mục thứ VII (từ trang 123 đến trang 142): Trong mục này
Lênin phê phán quan điểm của thuyết trình viên về vấn đề thị trường
thơng qua phân tích tình hình thực tiễn của thị trường nước Nga. Lênin
đã dùng các số liệu và tình hình kinh tế của nước Nga để chống lại lập



luận của phái dân túy về vấn đề do không có thị trường nên chủ nghĩa
tư bản ở Nga khơng thể phát triển khắp nơi được. Từ thực trạng nền
kinh tế Nga Lênin kết luận:
Một là; sự phát triển của chủ nghĩa tư bản lẫn sự bần cùng hóa
nhân dân khơng cịn là hiện tượng ngẫu nhiên.
Hai là; hiện tượng đó tất nhiên phải đi kèm với sự phát triển của
kinh tế hàng hóa dựa trên sự phân cơng lao động xã hội.
Do vậy khơng cịn tồn tại vấn đề thị trường như phái dân túy rêu
rao bởi thị trường chẳng qua là biểu hiện của sự phân cơng đó và của
sản xuất hàng hóa.
Mục thứ VIII (từ trang 142 đến trang 146) : Trong mục này
Lênin trình bày thêm những kết luận của mình trên cơ sở phân tích
những luận điểm đầy mâu thuẫn của ông Nicôlaiôn đại diện cho phái
dân túy của Nga: Thông qua luận điểm: “Điều trở ngại lớn nhất cho sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga...là sự thu hẹp thị trường trong
nước” sự giảm bớt sức mua của nông dân...thủ công nghiệp trở thành
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã chèn lấn việc sản xuất ở gia đình...
chủ nghĩa tư bản đã tự đào mơ chơn mình đưa kinh tế nhân dân đến
khủng hoảng... Thực ra thì tình hình kinh tế Nga không phải như
vậy...qui luật tư liệu sản xuất phát triển nhanh hơn có làm phân hóa,
bần cùng hóa nơng dân lại chính là điều kiện để phát triển phân cơng
lao động xã hội và mở rộng thị trường.
Tóm lại; trong tác phẩm này, Lênin đã tập trung phê phán quan
điểm của phái dân túy về khả năng và điều kiện phát triển của chủ
nghĩa tư bản ở Nga, khi phái này cho rằng, ở Nga chủ nghĩa tư bản
không thể phát triển, đó là do thị trường bị thu hẹp, mà nguyên nhân thị
trường bị thu hẹp là do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm phá sản
người sản xuất nhỏ. Để khắc phục tình trạng này, họ cho rằng phải mở



rộng thị trường ngoài nước bằng chiến tranh xâm lược thuộc địa, phát
triển sản xuất nhỏ. Lênin khẳng định rằng, vấn đề thị trường gắn với
phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội phát triển sẽ làm
phá vỡ kinh tế tự nhiên, hình thành phát triển kinh tế hàng hóa. Và cũng
do phân cơng lao động xã hội sẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng
hóa tư bản chủ nghĩa, đồng thời chính sự phát triển của kinh tế hàng
hoá lại thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, phân hóa
ngưới sản xuất thành hai cực và chính đó là tiền đề cho sự tồn tại của
chủ nghĩa tư bản. Lênin đã chứng minh sự phân hóa đó làm cho thị
trường trong nước được mở rộng chứ không phải bị thu hẹp như phái
dân túy nói. Tác phẩm này nhằm tập trung chống lại phái mác xít hợp
pháp và dân túy khi họ cho rằng: cần phái có thị trường ngoài nước để
thực hiện giá trị thặng dư; hai khu vực của nền sản xuất xã hội khơng
có quan hệ gì với nhau. Thơng qua tác phẩm này Lênin đã đấu tranh và
bảo vệ những vấn đề lý luận về kinh tế hàng hóa và về tái sản xuất của
C.Mác. Đây tác phẩm thể hiện sự đấu tranh không khoan nhượng của
Lênin với phái dân tuý nga thông qua tranh luận với thuyết trình viên
của họ. Qua đó Lênin đã bảo vệ tính đúng đắn cách mạng, khoa học của
lý luận tái sản xuất tư bản xã hội của C.Mác, cũng như bổ sung phát
triển nó cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Đồng thời Lênin đã luận
giải một cách khoa học cho việc vận dụng chủ nghĩa Mác vào nước nga
là hoàn toàn đún đắn và phù hợp với xu thế của thời đại.
3. ý nghĩa của tác phẩm đối với nhiệm vụ bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin hiện nay.
Tác phẩm “Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường” của Lênin ra đời
trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội chưa trở thành hiện thực, chủ nghĩa
Mác đang trong quá trình xâm nhập vào phong trào của giai cấp cơng
nhân trên tồn thế giới và đã tồn tại được gần 120 năm . Nhưng tác



phẩm vẫn cịn ngun giá trị và tính thời sự của nó trong việc đấu tranh,
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Đây là một tác phẩm mẫu mực về sự vận dụng sáng tạo lý luận kinh tế
của Mác vào nghiên cứu chế độ kinh tế xã hội ở nước Nga vào cuối thế
kỷ XIX. Tác phẩm này cũng để lại cho chúng ta bài học sâu sắc về đấu
tranh chống lại các quan điểm cơ hội xét lại trong điều kiện lịch sử mới
và cần phải tiếp tục phát triển học thuyết kinh tế Mác khi điều kiện đã
thay đổi.
Nhỡn lại lịch sử từ khi Học thuyết Mỏc ra đời, đặc biệt sau khi
Cỏch mạng xó hội chủ nghĩa Thỏng Mười Nga thành cụng đến nay, cỏc
thế lực thự địch và những phần tử cơ hội, xột lại khụng lỳc nào ngừng
cụng kớch, chống phỏ chủ nghĩa Mỏc- Lờnin và chủ nghĩa xó hội. Vậy
vỡ sao cỏc thế lực thự địch lại hết sức hoảng sợ, luụn tỡm trăm phương
ngàn kế để phản bỏc chủ nghĩa Mỏc- Lờnin và chủ nghĩa xó hội hiện
thực như vậy?
Sau sự kiện ở Liờn Xụ và cỏc nước Đụng Âu những năm 90 của
thế kỷ XX, trong hàng ngũ cộng sản và nhõn dõn, cú người đó nhiễm
phải những luận điệu tuyờn truyền hết sức tinh vi và thõm độc của cỏc
thế lực thự địch, từ đú nảy sinh tư tưởng bi quan, dao động, thậm chớ
đỏnh mất niềm tin vào chủ nghĩa Mỏc- Lờnin và chủ nghĩa xó hội.
Trước thực tế đú, những người cộng sản chõn chớnh cần phải bỡnh tĩnh,
tăng cường đoàn kết thống nhất để bảo vệ cỏc giỏ trị đớch thực của chủ
nghĩa Mỏc- Lờnin và toàn bộ thành quả cỏch mạng xó hội chủ nghĩa.
Chỳng ta đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mỏc- Lờnin với tinh thần cỏch
mạng và khoa học, với tư duy đổi mới và sỏng tạo, trờn quan điểm toàn
diện, lịch sử, cụ thể và phỏt triển. Trong bảo vệ chủ nghĩa Mỏc- Lờnin,
cần nhận thấy cú một số luận điểm được Mỏc, Ăng- ghen đưa ra trước
đõy là đỳng đắn, song trong điều kiện lịch sử mới cú những vấn đề



khụng cũn phự hợp, cú những vấn đề cần được nghiờn cứu bổ sung và
phỏt triển.
Trong nhiều thập kỷ qua, cỏc thế lực thự địch và cỏc phần tử cơ
hội, xột lại liờn tục cụng kớch, chống phỏ quyết liệt chủ nghĩa MỏcLờnin cả về lý luận và thực tiễn. Trờn bỡnh diện lý luận, chỳng tỡm
mọi cỏch bỏc bỏ từng luận điểm riờng lẻ, từng bộ phận của Học thuyết,
rồi đi đến phủ nhận toàn bộ chủ nghĩa Mỏc- Lờnin. Trờn bỡnh diện thực
tiễn, chỳng vin cớ sự sụp đổ của mụ hỡnh chủ nghĩa xó hội ở cỏc nước
Đụng Âu và Liờn Xụ để suy diễn một cỏch lố bịch rằng “mụ hỡnh đổ
thỡ học thuyết đổ theo”; rằng nội dung thời đại ngày nay đó thay đổi!?
Hiện nay, cỏc thế lực thự địch cựng cỏc phần tử cơ hội, xột lại
vẫn khụng ngừng cụng kớch, phủ bỏc chủ nghĩa Mỏc- Lờnin, ra sức tỏn
dương cỏc quan điểm ngoài Mỏc- xớt. Nhưng trong lịch sử nhõn loại từ
trước đến nay, liệu đó cú học thuyết nào mang tớnh nhõn văn, nhõn đạo
cao cả, cú sức cổ vũ, thuyết phục, tập hợp được hàng trăm cỏc dõn tộc
cựng hàng tỷ người trờn thế giới đứng lờn đấu tranh để xoỏ bỏ mọi ỏp
bức, búc lột, lệ thuộc, như học thuyết Mỏc- Lờ nin? Nếu khụng cú Cỏch
mạng Thỏng Mười Nga năm 1917, khụng cú chủ nghĩa xó hội được xõy
dựng và phỏt triển trờn đất nước Nga Xụ- viết, thỡ làm sao loài người
cú thể tiờu diệt được những con “quỏi vật” chủ nghĩa phỏt xớt trong
chiến tranh thế giới thứ hai? Nếu khụng cú một hệ thống xó hội chủ
nghĩa hựng mạnh, thỡ nhõn loại sẽ ra sao? Và chắc chắn nhõn loại sẽ
cũn phải chứng kiến khụng ớt cuộc chiến tranh tàn khốc do cỏc thế lực
hiến chiến gõy ra... Trong những thập kỷ tới của thế kỷ XXI, chủ nghĩa
xó hội cũn gặp nhiều khú khăn, trắc trở. Song, cần khẳng định rằng, chủ
nghĩa Mỏc- Lờnin vẫn cú ảnh hưởng rất sõu sắc trong đời sống nhõn
loại, vẫn đứng vững trong cuộc đấu tranh của những người cộng sản và
nhõn dõn lao động, kể cả ở những nước mà chế độ xó hội chủ nghĩa tan



ró. Hỡnh ảnh cỏc nước xó hội chủ nghĩa cũn lại như Trung Quốc, Việt
Nam, Cu Ba...luụn vững vàng, hiờn ngang trước mọi sự tấn cụng ỏc
hiểm của cỏc thế lực thự địch và bọn phản động quốc tế, là bằng chứng
hựng hồn về sức sống hiện thực của chủ nghĩa Mỏc- Lờnin. Đõy chớnh
là nguồn cổ vũ lớn lao cho những người cộng sản chõn chớnh và nhõn
dõn cỏc dõn tộc trờn thế giới trong cuộc đấu tranh vỡ lý tưởng xó hội
chủ nghĩa cao đẹp của nhõn loại.
Thụng qua tổng kết quỏ trỡnh đấu tranh trong lịch sử chủ nghĩa
Mỏc-Lênin, thỡ sự chống phỏ cỏc cỏc thế lực thự địch thường diễn ra
hai tỡnh huống sau:
Một là, những kẻ thự đủ mọi loại của chủ nghĩa Mỏc thường
xuyờn tạc, phờ phỏn, bỏc bỏ C. Mỏc một cỏch cú dụng ý, thậm chớ để
chống C.Mỏc, nhiều khi chỳng phải khoỏc ỏo mỏc-xớt. Điều đú, theo
Lờ-nin chỉ càng núi lờn giỏ trị, sức sống của chủ nghĩa Mỏc.
Hai là, những người gọi là "Mỏc-xớt" theo đuổi chủ nghĩa Mỏc,
ra sức truyền bỏ và thực hành tư tưởng của chủ nghĩa Mỏc, tưởng như
tất cả đều trung thành và bảo vệ C.Mỏc nhưng trong thực tế, khụng ớt
người đó làm mất tớn nhiệm, làm tổn thương giỏ trị của chủ nghĩa Mỏc,
dự là khụng tự giỏc, do thiếu hiểu biết khoa học, do bị cầm tự bởi chủ
nghĩa giỏo điều. Họ đó vụ tỡnh biến tư tưởng khoa học thành những
giỏo điều, tớn điều bất biến, tạo ra những rào chắn mọi khả năng tỡm
tũi sỏng tạo. Học thuyết khoa học và cỏch mạng bị họ làm cho mất sinh
khớ lý luận và thực tiễn vốn cú của nú.
Trước tỡnh hỡnh biến đổi sõu sắc trờn thế giới về cỏc mặt kinh
tế, chớnh trị, quõn sự, khoa học-kỹ thuật...Trong đú cú nhiều chấn động
bất ngờ, nhiều sự kiện biến hoỏ khụng lường, đầy kịch tớnh, thỡ yờu
cầu bảo vệ và phỏt triển chủ nghĩa Mác - Lênin đũi hỏi phải đối chỉếu
với thực tiễncủa thời đại, với những luận điểm, nguyờn lý của chủ



nghĩa Mác - Lênin và cả với nhận thức của chỳng ta trước đõy về vấn
đề đú nhằm là sỏng tỏ được cỏc vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất; những luận điểm gỡ trước đõy đỳng bõy giờ vẫn đỳng
thỡ tiếp tục vận dụng.
Thứ hai; những luận điểm gỡ trước đõy đỳng nhưng ta nhận
thức sai, bõy giờ phải nhận thức lại.
Thứ ba; những luận điểm gỡ trước đõy đỳng nhưng bõy giờ
khụng cũn phự hợp nữa do thực tiễn thay đổi thỡ phải bổ sung phỏt
triển.
Thứ tư; những luận điểm gỡ vốn trước đõy đõy khụng phự hợp
thỡ cần loại bỏ.
Thứ năm; những luận điểm gỡ mới cần bổ sung vào lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin do đũi hỏi của thực tiễn mới đặt ra.
Để thực hiện được cỏc vấn trền đó xỏch định ở trờn thỡ cỏc nhà
Mỏc-xớt chõn chớnh đồi hỏi phải cú cỏch tiếp cận, nhận thức biện
chứng về chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghĩa là phải đồng thời tỡm được
những hạn chế do điều kiện lịch sử và những thiếu sút sai lầm cú tớnh
chất phổ biến của những người kế tục chủ nghĩa Mác - Lênin.
Về những hạn chế do điề kiện lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin
được giỏo sư, tiến sỹ Lờ Hữu Nghĩa trỡnh bày trong sỏch “Thời đại
chung ta và sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin” do nhà xuất bản
Chớnh trị quốc gia phỏt hành năm 2002 bao gồm cỏc vấn đề sau:
Một là; trong cơ sở lich sử của chủ nghĩa Mác - Lênin cũn thiếu
lịch sử phương đụng, do vậy chỳng ta cần đưa thờm tư liệu lịch sử dõn
tộc học phương đụng làm phonng phỳ thờm chủ nghĩa Mác - Lênin khi
vận dụng vào phương đụng và khẳng đing chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ cũn
đỳng cả ở phương đụng.
Hai là; chủ nghĩa Mác - Lênin đó cú những dự bỏo chưa chớnh



xỏc về việc nổ ra cỏch mạng vụ sản ở nước này hay nước khỏc trũng
thời đại của mỡnh ( vớ dụ C.Mỏc và Ăngghen đó dự bỏo về cỏch mạng
năm 1848).
Ba là; chủ nghĩa Mác - Lênin đỏnh giỏ chưa thật đầy đủ về sức
sống tương đối lõu dài của chủ nghĩa tư bản, dự đoỏn về tiến trỡnh lịch
sử chủ nghĩa xó hội thay thế chủ nghĩa tư bản trờn toàn thế giới diễn ra
quỏ sớm.
Bốn là; do điều kiện lịch sử lỳc bấy giờ chưa cho phộp nờn
C.Mỏc và Ăngghen chư thấy hết vị trớ, tầm quan trọng của vấn đề dõn
tộc, tớnh phức tạp của lĩnh vực dõn tộc, cỏc con đường hỡnh thành dõn
tộc. Vỡ vậy, lý luận về vấn đề dõn tộc chưa chiếm được vị trớ tương
xứng như lý luận về giai cấp, về nhà nước trong di sản lý luận của
mỡnh. Về sau này Lênin đó cú cụng đúng gúp lớn vào lý luận vấn đề
dõn tọc trong thời đại lịch sử mới.
Năm là: vỡ chưa cú thực tiễn xó hội chủ nghĩa nờn C.Mỏc và
Ăngghen mới đưa ra một số dự bỏo về chủ nghĩa xó hội nhưng cũn
chưa đầy đủ, dự bỏo quỏ sớm về sự thủ tiờu sản xuất hàng hoỏ, kinh tế
thị trường, tư tưởng về nhà nước phỏp quyền chưa rừ. Lênin phỏt triển
vấn đề về chủ nghĩa xó hội của C.Mỏc và Ăngghen là về thời kỳ quỏ độ
thụng qua chớnh sỏch kinh tế mới (NEP).
Về những thiếu sút, sai lầm cú tớnh hất phổ biến do những
người kế tục chủ nghĩa Mác - Lênin trong quỏ trỡnh chỉ đạo hoạt động
thực tiễn được biểu hiện thành cỏc vấn đề sau:
Một là; nhận thức khụng đầy đủ, giản đơn về tớnh chất khú
khăn, phức tạp và lõu dài của cụng cuộc xõy dựng chủ nghĩa xó hội, vỡ
vậy thường rơi vào ảo tưởng đốt chỏy giai đoạn.
Hai là; nhận thức và vận dụng khụng đỳng một số quy luật
khỏch quan, nhất là quy luật về sự phự hợp của quan hệ sản xuất với



trỡnh độ phỏt triển của lực lượng sản xuất, nờn thường mắc phải bệnh
núng vội chủ quan, duy ý chớ.
Ba là; đối lập một cỏch tuyệt đối, mỏy múc giữa chủ nghĩa xó
hội với chủ nghĩa tư bản, từ đú cú xu hướng phủ định sạch trơn chủ
nghĩa tư bản.
Bốn là; muốn xoỏ bỏ tnền kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quỏ độ, xu hướng quốc doanh hoỏ và tập thể hoỏ tràn lan mà coi nhẹ
năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động; cú thành kiến với kinh tế
cỏc thể và kinh tế tư bản tư nhõn.
Năm là; thành kiến với sản xuất hàng hoỏ, kinh tế thị trường,
quy luật giỏ trị, nặng về kế hoạch hoỏ tập trung, kộo dài quỏ mức cơ
chế tập trung bao cấp.
Sỏu là; cường điệu hoỏ, tả khuynh trong vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp, cho răng trong chủ nghĩa xó hội đấu tranh giai cấp ngày
càng gay gắt (Xtalin), đồng thời cú cả quan điểm hữu khuynh, phủ nhận
đấu tranh giai cấp, mơ hồ mất cảnh giỏc.
Bảy là: chưa chỳ trọng đỳng mức đến việc xõy dựng nền dõn
chủ chủ nghĩa xó hội và cơ chế bảo đảm dõn chủ, trong thực tế tỡnh
trạng chuyờn quyền độc đoỏn mất dõn chủ khỏ phổ biến trong cỏc nước
xó hội chủ nghĩa.
Việc thừa nhận những hạn chế của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
như sai lầm của những người kế tục Lênin, khụng đồng nghĩa với việc
xột lại chủ nghĩa Mác - Lênin. Bởi vỡ, cú dỏm nhận khuyết điểm và sửa
chữa sai lầm khuuyết điểm là vấn đề cốt lừi để chủ nghĩa Mác - Lênin
khụng bao giờ trở nờn lỗi thời với thực tiễn. Càng khẳng định chủ nghĩa
Mác - Lênin vẫn là lý luận, phương phỏp luận khoa học cho việc phõn
tớch và nhận thức thời đại mà khụng cú một học thuyết nào thay thế
được vai trũ đú.



Từ tỏc phẩm “Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường” của Lênin,
chỳng ta rỳt ra được ý nghĩa trong việc bảo vệ và phỏt triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, cần tuõn thủ cỏc vấn đề cú tớnh nguyờn tắc sau:
Thứ nhất; khi nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin
phải tuõn thủ theo đỳng những giả định của cỏc luận điểm mà chủ nghĩa
Mác - Lênin đó nờu. Nếu thực tiễn đỳng với giả định thỡ chỳng ta ỏp
dụng, cũn thực tiễn cú những điểm khỏc với giả định thỡ chỳng ta phải
vận dụng và phỏt triển quan điểm đú cho phự hợp với thực tiễn.
Thứ hai; khi nhận thức, vận dụng cỏc quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin phải trung thành với tinh thần cơ bản và phương phỏp tiếp
cận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đú, khụng được suy diễn cỏ
nhõn và bỏ qua cỏc chỡa khoỏ cơ bản của vấn đề mà chủ nghĩa Mác Lênin đề cập.
Thứ ba; khụng ngừng tổng kết thực tiễn để bổ sung và phỏt triển
chủ nghĩa Mác - Lênin cho phự hợp với sự biến đổi của thực tiễn, ủng
hộ và bảo vệ cỏi mới, cỏi tiến bộ, kiờn quyết đấu tranh loại bỏ cỏi cũ,
cỏi lạc hậu. Tuy nhiờn khụng phải bao giờ cỏi mới cũng được thực tiễn
chấp nhận ngay khi nú mới ra đời, mà phải trải qua một quỏ trỡnh đấu
tranh phức tạp để tự khẳng định chớnh mỡnh.
Việc nhận thức trờn cú ý nghĩa vụ cựng quan trọng trong nhiệm
vụ bảo vệ và phỏt triển chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi cú biết được cỏc
hạn chế, khuyết điểm của nội tại quỏ trỡnh vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn thỡ mới cú cỏc giải phỏp khắc phục triệt để sai lầm.
Làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng được bổ sung và phỏt triển
theo kịp với sự biến đổi mau lẹ của thực tiễn. Trờn cơ sở đú nắm vững
cỏc nguyờn lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin để đấu tranh cú hiệu
quả với cỏc luận điệu chống phỏ của cỏc thế lực thự địch. Điều đú cú
nghĩa là cỏc nhà Mỏc–xớt chõn chớnh phải nắm vững, làm sỏng tỏ bản


chất cỏch mạng khoa học và tớnh thời sự của chủ nghĩa Mác - Lênin
thụng qua nghiờn cứu và sỏng tỏ cỏc vấn đề sau:

Thứ nhất, nghiờn cứu lịch sử hỡnh thành và cỏc giai đoạn phỏt
triển từ chủ nghĩa Mỏc đến chủ nghĩa Mỏc - Lờ-nin, trong đú cần chỳ ý
đến "giai đoạn Lờ-nin trong sự phỏt triển của chủ nghĩa Mỏc".
Thứ hai, nghiờn cứu nội dung lý luận trong từng bộ phận hợp
thành của chủ nghĩa Mỏc.
Thứ ba, nghiờn cứu di sản của Lờ-nin và những đúng gúp của
ụng trong sự truyền bỏ, vận dụng, phỏt triển chủ nghĩa Mỏc cũng như
trong sự phỏt triển từ chủ nghĩa Mỏc đến chủ nghĩa Mỏc - Lờ-nin.
Thứ tư, nghiờn cứu mối tương quan giữa chủ nghĩa Mỏc với chủ
nghĩa xó hội khoa học - theo cả nghĩa rộng và hẹp.
Thứ năm, nghiờn cứu mối tương quan giữa chủ nghĩa Mỏc - Lờnin với chủ nghĩa xó hội hiện thực.
Thứ sỏu, nghiờn cứu lịch sử phộp biện chứng mỏc-xớt.
Thứ bảy, nghiờn cứu cỏc tỏc phẩm cụ thể của cỏc nhà kinh điển
và của Chủ tịch Hồ Chớ Minh.
Thứ tỏm, nghiờn cứu tỏc phẩm và chựm tỏc phẩm theo chủ đề và
theo giai đoạn.
Thứ chớn, nghiờn cứu mối quan hệ giữa khoa học và cỏch mạng,
cỏch mạng và khoa học trong chủ nghĩa Mỏc - Lờ-nin.
Thứ mười, nghiờn cứu cỏc mối quan hệ giữa thế giới quan phương phỏp luận - hệ tư tưởng, giữa lý luận và phương phỏp, giữa lý
luận và tổng kết thực tiễn để phỏt triển lý luận và dự bỏo khoa học.
Nhận thức đỳng bản chất khoa học và cỏch mạng của chủ nghĩa
Mỏc - Lờ-nin, làm sỏng tỏ chõn giỏ trị và sức sống của nú trong tỡnh
hỡnh hiện nay là một vấn đề khụng đơn giản. Ở đõy, cú khụng ớt trở
lực cần vượt qua như nhận thức giỏo điều đối với chủ nghĩa Mỏc - Lờ-


nin. Sự phong phỳ của tư tưởng và sự sõu sắc, uyờn bỏc của trớ tuệ
khoa học thể hiện trong cỏc tỏc phẩm kinh điển đó bị giản lược húa,
làm nghốo nàn đi, thậm chớ bị thụng tục và tầm thường húa. Những giỏ
trị khoa học gắn liền với năng lực sỏng tạo cũng như tư tưởng núi

chung của cỏc ụng đó từng bị diễn giải một cỏch cứng nhắc, khuụn sỏo
và hỡnh thức. Những nguyờn lý của chủ nghĩa Mỏc được hỡnh thành và
phỏt triển trong một quỏ trỡnh lõu dài, thể hiện sự kết hợp hữu cơ giữa
nghiờn cứu lý luận nghiờm tỳc với tổng kết thực tiễn đấu tranh chớnh
trị một cỏch cụng phu, với tất cả sự phong phỳ của kinh nghiệm lịch sử,
dũng khớ phờ phỏn và tự phờ phỏn, tớnh nhất quỏn, triệt để về quan
điểm và phương phỏp, về tư tưởng và học thuật của cỏc nhà kinh điển
nhiều khi đó bị làm lu mờ đi.
Đối với Quõn đội, để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phỏt triển
chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay, cần nhận diện và làm
sỏng tỏ những vấn đề tỏc động đến nhiệm vụ quốc phòng - an ninh
trong quỏ trỡnh đất nước hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi cú nhận thức
được vấn đề đú thỡ Quõn đội mới cú những cơ sở khoa học để đấu
tranh với cỏc thự đoạn chống phỏ về mặt chớnh trị tư tưởng hũng thực
hiện mục tiờu phi chớnh trị hoỏ Quõn đội của kẻ thự. Việc nhận diện
õm mưu chống phỏ của cỏc thế lực thự địch đối với quốc phòng - an
ninh trong quỏ trỡnh chỳng ta hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện
trờn cỏc vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, các thế lực thù định sẽ lợi dụng những kẽ hở trong
chính sách, những thiếu sót, khuyết điểm trong tổ chức thực hiện, đặc
biệt các chính sách thuộc lĩnh vực kinh tế, đầu tư, dân tộc, tơn giáo để
gây nên những “điểm nóng”. Trên cơ sở đó, chúng tập trung tun
truyền, kích động, tổ chức đấu tranh, biểu tình. Nếu chúng ta giải quyết


vấn đề không khéo, chúng sẽ thực hiện bạo động chính trị, tạo cớ nhẩy
vào can thiệp.
Thứ hai, chúng sẽ tăng cường nuôi dưỡng, tiếp tay cho các hoạt
động chống phá ta của các tổ chức phản động, các phần tử bất mãn chế
độ ở trong nước và nước ngoài. Chúng tìm mọi cách kích động, lơi kéo

những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, trong các tổ
chức tơn giáo, hình thành lực lượng chống đối chúng ta trong quá trình
triển khai và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X,
chống phỏ tiền trỡnh chuẩn bị và đại hội Đảng lần thứ XI.
Thứ ba, âm mưu phi chính trị hố qn đội và công an sẽ được
đẩy mạnh và tăng cường bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn.
Nếu chưa vô hiệu hố được qn đội và cơng an, chưa thể làm cho
quân đội và công an ta biến chất, trượt sang chính trị tư sản, thì chúng
cũng hy vọng tạo nên sự dao động nhất định về tư tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng ở một bộ phận cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang của
chúng ta. Để thực hiện âm mưu này, các hoạt động tình báo quân sự
cũng được chúng thực hiện ráo riết hơn. Hoạt động tình báo qn sự
khơng chỉ thu thập thơng tin, bí mật qn sự, bí mật quốc gia của ta mà
cịn thu thập những nguồn thông tin về nhân sự mới của Đảng ta, bằng
các thủ đoạn thâm độc, mua chuộc, chia rẽ, xun tạc, cơng kích vừa
trằng trợn cơng khai, vừa ngấm ngầm khó thấy.
Thứ năm, thơng qua việc chạy đua vũ trang, tuyên truyền kích
động, chúng sẽ kéo quân đội hướng ra ngồi, chạy theo đối phó với
“nguy cơ một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực, toàn cầu" để loại bỏ
công cụ sắc bén của Đảng ra khỏi cuộc “chiến tranh ngầm”. Chúng sẽ
tăng cường kích động, gây mâu thuẫn, chia rẽ các tổ chức, các lực
lượng xã hội nhằm cô lập lực lượng, gây phức tạp từ bên trong, làm cho


tình hình an ninh chính trị – xã hội ở nước ta trở nên phức tạp, khó giải
quyết, lúc đó sẽ có điều kiện để làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, chúng sẽ tìm mọi cách hợp tác quân sự – an ninh với ta
để tạo chỗ đứng quân sự tại Việt Nam. Các hoạt động chủ yếu của các
thế lực thù địch trong thực hiện âm mưu này là, áp dụng biện pháp thúc
ép ta tăng cường quan hệ hợp tác quân sự, an ninh với Mỹ; thúc đẩy

quan hệ quân sự giữa hai nước; cử các phái đoàn quân sự đến Việt Nam;
tranh thủ các tổ chức cựu chiến binh; lợi dụng các hoạt động
POW/MIA; rà phá bom, mìn để thúc đẩy quan hệ quân sự với ta. Chúng
sẽ tăng cường sử dụng quan hệ kinh tế để thúc ép ta mở rộng quan hệ
quân sự, coi đó là điều kiện để tăng cường quan hệ buôn bán, đầu tư;
đưa ra các khoản viện trợ quân sự kèm theo điều kiện để nhử mồi, thúc
đẩy quan hệ, gây mơ hồ, ảo tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, tạo ra mâu
thuẫn, phân hoá nội bộ lực lượng vũ trang ta. Ngoài ra, chúng sẽ vận
động, thúc ép ta tham gia các diễn đàn về cơ chế an ninh; tham gia một
số cuộc diễn tập trong khu vực; khuyến khích các nước đồng minh, bạn
bè của Mỹ mở rộng quan hệ song phương và đa phương về quốc phòng
- an ninh với Việt Nam; thổi phồng nguy cơ khủng bố để lôi kéo, ép
buộc Việt Nam hợp tác quân sự với Mỹ và các nước đồng minh. Chúng
sẽ ra sức tuyên truyền cho cái gọi là qn đội và cơng an phải “trung
lập”, “đứng ngồi chính trị”, “không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng
phái nào”, chỉ là “công cụ của quốc gia, dân tộc”. Nếu chưa thực hiện
được âm mưu đó, chúng cũng làm cho lực lượng vũ trang ta lơ là mất
cảnh giác, suy giảm sức chiến đấu, suy giảm lòng tin vào sự lãnh đạo
của Đảng.
Thứ bẩy, chúng tiếp tục gây mâu thuẫn, chia rẽ Quân đội với
Công an, làm suy yếu công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước.
Đây là, âm mưu vô cùng nguy hiểm mà các thế lực thù địch sẽ chú ý


trong thời gian tới chống phá cách mạng nước ta. Một mặt, các thế lực
thù địch đẩy mạnh quá trình “phi chính trị hố” qn đội và cơng an;
mặt khác, chúng sẽ ra sức gây mâu thuẫn giữa hai công cụ bạo lực này
của Đảng, Nhà nước ta. Chúng dựa vào những công lao, cống hiến của
quân đội, công an và chế độ đãi ngộ của Đảng, Nhà nước chúng kích
động, chia rẽ, gây mất đồn kết làm suy yếu lực lượng vũ trang của ta.

Đối với bản thõn, sau khi nghiờn cứu tỏc phẩm này của Lênin,
để lại nghĩa phương phỏp luận và thực tiễn vụ cựng to lớn. Về mặt
phương phỏp luận, muốn đấu tranh, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin cú
hiệu quả phải nắm vững được bản chất cỏch mạng khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Khi bỏc bỏ cỏc luận điểm cần tập hợp được cỏc
luận cứ và luụõn chứng khoa học. Phải đứng vững trờn lập trường giai
cấp để tiến hành đấu tranh, trong quỏ trỡnh đú khụng ngừng bổ sung
phỏt hiện cỏi mới, cỏi đỳng đắn phự hợp với quy luật hoạt động của
thực tiễn.
Về ý nghĩa thực tiễn, tỏc phẩm gúp phần củng cố niềm tin tất
thắng vào chủ nghĩa Mác - Lênin - tư tưởng Hồ Chớ Minh, vào mục
tiờu lý tưởng của Đảng, vào cụng cuộc đổi mới đất nước. Trang bị cho
chỳng ta phương phỏp đấu tranh, nhận diện đối với cỏc luận điệu của kẻ
thự. Khi xem xột đỏnh giỏ vấn đề phải quỏn triệt quan điểm lịch sử cụ
thể, bỏm sỏt sự biến đổi của thực tiễn để phõn tớch đưa ra kết luận.
Trong tranh luận khoa học cần thấm nhuần tư tưởng của Lênin về
phương phỏp diễn đạt, trỡnh tự tiến hành để đem lại hiệu quả cao trong
quỏ trỡnh học tập nghiờn cứu. Cần tớch cực học tập nghiờn cứu nắm
vững những nguyờn lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chớ Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chớnh sỏch và luật phỏp của
nhà nước, để vận dụng vào quỏ trỡnh nghiờn cứu, học tập, đấu tranh
trờn lĩnh vực văn hoỏ tư tưởng, làm thất bại õm mưu thủ đoạn chiến


lược “điễn biến hoà bỡnh” của kẻ thự. Đồng thời phải tớch cực nghiờn
cứu khỏi quỏt thực tiễn, cú quan điểm thực tiễn, để làm giàu thờm tri
thức của mỡnh, trỏnh tư tưởng mơ hồ ảo tưởng, dao động khi tiếp xỳc
với cỏc quan điểm sai trỏi. Cú nghĩa là, tự mỡnh phải trang bị sức đề
khỏng đối với cỏc sản phẩm văn hoỏ xấu độc và cỏc luận điểm chống
phỏ của kẻ thự, cú như vậy chỳng ta mới khụng bị ảnh hưởng bởi cỏc

quan điểm tư tưởng xấu chi phối. Đặc biệt trong thời đại bựng nổ cụng
nghệ thụng tin và sự chống phỏ điờn cuồng của kẻ thự của chủ nghĩa
Mác - Lênin thỡ tỏc phẩm này của Lênin thực sự cần thiết để trở thành
cuốn sỏch gối đầu giường cho những người cộng sản chõn chớnh.



×