Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế tác PHẨM KINH tế và CHÍNH TRỊ TRONG THỜI đại CHUYÊN CHÍNH vô sản, sự vận DỤNG của ĐẢNG TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.65 KB, 22 trang )

TÁC PHẨM KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG THỜI ĐẠI
CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA

MỞ ĐẦU
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề lý luận căn bản đã được C.
Mác, Ph. Ăng-ghen đề cập một cách sâu sắc trong các tác phẩm của mình. Trong
tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô-ta, C. Mác khẳng định, giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã
hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị.
Như thế, thời kỳ quá độ thường được hiểu là thời kỳ chuyển biến từ trạng thái xã
hội cũ sang trạng thái xã hội mới. Ở đây là chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên
xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong các tác phẩm của mình, C. Mác và Ph. Ăng-ghen, khẳng định thời
kỳ quá độ là một tất yếu lịch sử cũng giống như các thời kỳ quá độ từ chế độ
cộng sản nguyên thủy lên chế độ chiếm hữu nô lệ, từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên
chế độ phong kiến và từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa đã từng
diễn ra. Hơn thế, các ông cũng khẳng định, thời kỳ quá độ diễn ra một cách lâu
dài và độ dài ngắn của thời kỳ quá độ ở mỗi nước phụ thuộc vào xuất phát điểm
của các dân tộc cụ thể khi bước vào thời kỳ quá độ, cũng như những nhân tố tác
động khách quan của thời đại. Theo các ông, thời kỳ quá độ bao giờ cũng diễn ra
với nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó chủ nghĩa xã hội được xem là giai đoạn
đầu của chủ nghĩa cộng sản.
Sau này, trên cơ sở những dự báo của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, và từ thực
tiễn của nước Nga sau hai năm chính quyền Xô Viết được thành lập, V.I.Lênin đã
tổng kết những kinh nghiệm của nhà nước Xô Viết đầu tiên trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ yếu ở hai lĩnh vực kinh tế và chính trị trong thời đại
chuyên chính vô sản và những vấn đề xung quanh thời kỳ quá độ, V.I.Lênin có ý
định viết cuốn sách nhỏ nhưng do điều kiện ông không thực hiện được nên
V.I.Lênin đã viết dưới dạng bài báo về nội dung định viết để các Đảng viên thảo
1



luận, bài báo có tiêu đề “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”

NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM
1. Hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm
Nhân dịp kỷ niệm 2 năm thành lập chính quyền Xô Viết (ngày 7-11-1917,
ngày 7-11-1919), V.I.Lênin có ý định viết một cuốn sách nhỏ, tiếp tục những tư
tưởng của tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết” đã
viết trước đây. Trong cuốn sách nhỏ này, V.I.Lênin muốn tổng kết những kinh
nghiệm của Nhà nước Xô Viết đầu tiên trên thế giới trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chủ yếu ở hai lĩnh vực kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên
chính vô sản và những vấn đề xung quanh thời kỳ quá độ. Nhưng do nguy cơ xâm
lược của các nước đế quốc và nội chiến cách mạng, nước Nga Xô Viết phải dốc
toàn lực để chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ nhà nước non trẻ. Vì vậy, ý định
viết cuốn sách nhỏ của V.I.Lênin cũng không thực hiện được. Do bận nhiều việc,
V.I.Lênin chỉ viết bài báo trình bày những tư tưởng chủ yếu nhất của cuốn sách
chưa kịp viết có tính chất đặt vấn đề để đảng viên thảo luận. Ngày 30 tháng 10
năm 1919, bài báo được viết xong và đăng ở Báo Sự thật số 250 ngày 7-11-1919
lấy tên là: Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản.
Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh nước Nga sau hai năm ra đời và tồn
tại của chính quyền Xô Viết. Đây là một trong những thời kỳ khó khăn và
nghiêm trọng nhất đối với nhà nước Xô Viết non trẻ.
Về quân sự, cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài để bảo vệ thành
quả cách mạng diễn ra quyết liệt. Mùa hè 1919, Mỹ, Anh, Pháp và các nước
thuộc khối đồng minh đã mở cuộc tiến công quân sự chống nước Nga Xô Viết.
Chúng âm mưu lôi kéo tất cả các nhà nước tư sản nhỏ lân cận vào một cuộc
chiến nhằm xoá bỏ Nhà nước Xô Viết.
2



Trong nước, bọn Bạch vệ và các lực lượng phản động, tay sai của chế
độ Nga hoàng dựa vào sự ủng hộ của các thế lực đế quốc đã nổi dậy, âm mưu
lật đổ chính quyền Xô Viết, xoá bỏ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tiêu biểu là ở Miền Nam nước Nga có đội quân Nga hoàng do tên đầu sỏ
bạch vệ Đênikin chỉ huy. Ở vùng Uran, Xibêri, Viễn Đông có sự nổi dậy của
đội quân do Côntsắc đô đốc hạm đội Nga hoàng cầm đầu. Ở mặt trận Tây Bắc có các lực lượng quân đội Nga hoàng do tướng Bạch vệ Iuđêních tổng
chỉ huy. Các thế lực đế quốc cấu kết với bọn phản động trong nước tấn công
mãnh liệt vào lực lượng Hồng quân và các mục tiêu quan trọng của đất nước.
Chúng đã chiếm được một phần lãnh thổ quan trọng, chia cắt đất nước, uy
hiếp trực tiếp Matxcơva và Pêtơrôgrát. Tình hình đó đe dọa trực tiếp đến sự
tồn vong của nước Nga Xô Viết non trẻ. Đảng Cộng sản đã phái ra mặt trận
những đội quân công nhân đông đảo gồm phần lớn là đảng viên cộng sản và
đoàn thanh niên cộng sản để củng cố quân đội, quyết tâm bảo vệ và giữ vững
chính quyền cách mạng. Để phân hoá kẻ thù, giảm bớt sự nguy hiểm đối với
chính quyền Xô Viết, V.I.Lênin đã ký với Đức hiệp ước Brétlitôp nhằm tranh
thủ những ngày hoà bình để xây dựng và củng cố chính quyền.
Về kinh tế, các nước đế quốc ra sức cô lập, bao vây kinh tế, đẩy nước Nga
Xô Viết lâm vào cảnh thiếu lương thực, thiếu nhiên liệu, bị chia cắt, giao thông
rối loạn, dịch bệnh hoành hành khắp trong nước. Bọn gian thương, địa chủ, phú
nông lợi dụng hoàn cảnh khó khăn ra sức đầu cơ, nâng giá nhất là với lương
thực, làm cho đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn và hỗn loạn.
Về chính trị, các lực lượng chính trị phản cách mạng như bọn dân chủ lập
hiến, bọn Mensêvích, bọn xã hội chủ nghĩa cách mạng, bọn dân tộc chủ nghĩa tư
sản, và tất cả những kẻ chống chính quyền Xô viết ra sức xuyên tạc, nói xấu và đả
phá chính quyền Xô viết. Tình hình đó làm cho lòng tin của quần chúng với Đảng
bị giảm sút, tư tưởng của một bộ phận cán bộ đảng và chính quyền dao động.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, V.I.Lênin viết tác phẩm trình bày những vấn đề
chủ yếu nhất về lý luận và thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm
vũ trang cho quần chúng và cán bộ đảng viên hiểu thực chất thời kỳ quá độ và các

3


nhiệm vụ đặt ra cho đất nước, hiểu được đường lối chính sách của Đảng Cộng sản
và chính quyền Xô Viết. Trên cơ sở đó định hướng tư tưởng, củng cố lòng tin của
quần chúng đối với Đảng và chính quyền Xô Viết trong cuộc đấu tranh bảo vệ
thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, thông qua đó bảo vệ và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác về vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, về
lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực; phê phán các quan điểm của bọn cơ
hội, xét lại xuyên tạc chủ nghĩa Mác.
Tác phẩm: "Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản" gồm
lời mở đầu và 5 phần.
Lời mở đầu: V.I.Lênin giới thiệu đây là tư tưởng chính yếu nhất của một
cuốn sách đang sơ thảo, với một mục đích nho nhỏ: nêu vấn đề và đưa ra những
nét chính để các đồng chí cộng sản ở các nước thảo luận.
Phần 1: Thời kỳ quá độ và bản chất của nó.
Phần 2: Kết cấu kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ và nhiệm vụ chủ yếu
của nhà nước chuyên chính vô sản.
Phần 3: Tình hình sản xuất và phân phối lương thực: Những con số nói
lên đặc điểm kinh tế - giai cấp chủ yếu của nước Nga trong thời kỳ quá độ.
Phần 4: Đấu tranh xoá bỏ sự khác biệt giai cấp và chính sách của nhà
nước chuyên chính vô sản.
Phần 5: Kết cấu giai cấp - xã hội và nhiệm vụ cơ bản của chuyên chính vô
sản. Sự khác nhau giữa dân chủ vô sản và tư sản. Ý nghĩa lịch sử của chuyên
chính vô sản.
Nội dung tư tưởng cơ bản của tác phẩm: Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hai năm
đầu của chính quyền Xô Viết, những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của chuyên chính vô
sản, qua đó làm rõ thực chất của thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế - giai cấp của thời kỳ
quá độ, về đấu tranh giai cấp và nhiệm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản; đấu tranh
chống lại những tư tưởng cơ hội, xét lại xuyên tạc lý luận Mácxít.

2. Nội dung chính của tác phẩm
2.1. Tính tất yếu, đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ
4


C.Mác là người đầu tiên trình bày tư tưởng về thời kỳ quá độ trong tác
phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta. C.Mác đã dự báo những nét cơ bản nhất của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. C.Mác cho rằng giữa xã hội tư bản chủ
nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và
nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản. C. Mác cũng chỉ rõ, hình thái kinh tế-xã hội CSCN
phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp (CNXH) và giai đoạn cao (chủ nghĩa
cộng sản). Giai đoạn đầu là TKQĐ lâu dài, ở đó vừa có kế thừa, phủ định biện
chứng CNTB, vừa xây dựng những yếu tố của CNXH, đến khi xã hội mới hoàn
toàn vận động trên cơ sở nền tảng của nó, thì chuyển dần lên chủ nghĩa cộng sản.
Kiểu quá độ của C.Mác là quá độ về chính trị. Quá độ trực tiếp chỉ cần
thay đổi kiến trúc thượng tầng của giai cấp tư sản, quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa là có ngay những điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã nghiên cứu toàn diện
thời kỳ quá độ với tính cách là một thời đại lịch sử mở đầu hình thái kinh tế
cộng sản chủ nghĩa được thể hiện trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
Còn trong tác phẩm này, V.I.Lênin tiếp tục nghiên cứu thời kỳ quá độ trên cơ sở
tổng kết kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Xô viết.
- Về tính tất yếu lịch sử của thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử chuyển biến từ hình thái kinh tế -xã
hội cũ lên hình thái kinh tế-xã hội mới, tiến bộ.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó
không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu

kinh tế xã hội ấy”.
Về thực tiễn: “Không riêng gì đối với một người mácxít, mà cả đối với bất
cứ một người trí thức nào đã hiểu theo cách này hay cách khác thuyết tiến hóa,
thì tính tất yếu của cả một thời đại lịch sử mang những đặc điểm ấy của một thời
5


kỳ quá độ, tự nó cũng đã là hiển nhiên rồi”1.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn khẳng định thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là tất yếu với mọi nước và là quy luật tiến hoá của lịch sử.
- Đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ là thời kỳ còn tồn tại 2 kết cấu kinh tế - xã hội: chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa tư bản. Trước đây, trong tác phẩm: "Bệnh ấu trĩ tả
khuynh..." V.I.Lênin cũng chỉ rõ “thời kỳ quá độ bao gồm cả những thành phần,
bộ phận, mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội” và vấn đề mấu chốt
chính là ở chỗ đó để xem xét, phân tích kết cấu kinh tế giai cấp thời kỳ quá độ.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ của đấu tranh giai cấp “giữa chủ nghĩa tư bản
đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác,
giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa
cộng sản đã phát sinh những vẫn còn rất non yếu”. Đó là thời kỳ chuyển hoá về
so sánh lực lượng có lợi cho giai cấp vô sản, là thời kỳ cái mới là chủ nghĩa xã
hội ra đời phát triển, nhưng còn non yếu. Do đó, cần chống tư tưởng cơ hội, điều
hoà hai lực lượng, chống tư tưởng hoà bình, cải lương; khẳng định đấu tranh giai
cấp là tất yếu và khẳng định vai trò lãnh đạo xã hội thuộc về giai cấp vô sản giai cấp tiêu biểu cho chiều hướng tiến bộ của lịch sử. V.I.Lênin cũng đã phê
phán những người phái dân chủ tiểu tư sản, trong đó có những đại biểu của
Quốc tế II như: Mác Đônan, Giăng Lôngghe, Phriđrich Átlơ, Causky, v.v... Họ
không thừa nhận thời kỳ quá độ và cho rằng, chủ nghĩa tư bản tự nhiên tiến lên
chủ nghĩa cộng sản; phủ nhận tính tất yếu thời kỳ quá độ, qua đó phủ nhận đấu
tranh giai cấp. Họ giả danh chủ nghĩa xã hội, nhưng chính họ là đại biểu của
phái dân chủ tư sản.

Việc xác định đúng thời kỳ quá độ có ý nghĩa rất lớn đối với các Đảng
Cộng sản trong việc đề ra đường lối chiến lược, sách lược trong thời kỳ quá độ;
phân biệt được những người cộng sản chân chính với những người cải lương, cơ
hội, xét lại...
2.2. Đặc điểm kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ
1

. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr. 309,310.

6


Đặc điểm phổ biến của các nước đi lên chủ nghĩa xã hội là tồn tại nhiều
thành phần, nhiều lực lượng và hình thức kinh tế. V.I.Lênin cho rằng, “ở nước
Nga, những lực lượng cơ bản, những hình thức cơ bản của nền kinh tế giống như
bất cứ nước tư bản nào khác quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Các hình thức cơ bản
là: chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư sản, tiểu sản xuất hàng hóa. Các lực lượng cơ
bản là: giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản (nhất là nông dân), giai cấp vô sản”.
Tính đặc thù nền kinh tế nước Nga ở thời kỳ quá độ “là một nước tiểu tư
sản và rất lạc hậu, … tất nhiên phải có những đặc điểm khác với những nước
tiên tiến”. Đặc điểm khác đó chính là tồn tại trên phạm vi rộng lớn kinh tế tiểu
sản xuất hàng hoá và kinh tế nông dân gia trưởng. Trong tác phẩm "bệnh ấu trĩ
tả khuynh và tính tiểu tư sản” V.I.Lênin chỉ ra ở nước Nga có 5 thành phần kinh
tế: kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế nông dân gia trưởng.
Các thành phần khác nhau của kết cấu kinh tế - xã hội đó đều xen kẽ
với nhau, đấu tranh với nhau phản ánh tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. V.I.Lênin cũng chỉ rõ, danh từ quá độ vận dụng vào kinh tế là trong
chế độ hiện nay có những thành phần, bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư
bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Nhưng điểm then chốt của vấn đề lại chính ở chỗ phải

suy nghĩ xem các thành phần, kết cấu kinh tế-xã hội khác nhau hiện có ở Nga.
Ở nước Nga tồn tại 5 thành phần vừa phản ánh đặc điểm chung của các
nước đi lên chủ nghĩa xã hội vừa mang tính đặc thù do tình trạng kinh tế lạc hậu
của một nước tiểu nông. Tỷ trọng các thành phần kinh tế cũng do đặc thù mỗi
nước quy định. Thực tiễn lịch sử các nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã chứng
minh điều đó.
Từ kết cấu kinh tế đó, V.I.Lênin khẳng định đấu tranh giai cấp trên lĩnh
vực kinh tế ở Nga là “cuộc đấu tranh của những bước đầu của lao động liên hiệp
theo nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa – trên phạm vi quốc gia rộng lớn - chống lại
nền tiểu sản xuất hàng hóa và chủ nghĩa tư bản đang được duy trì và phục hồi
7


trên cơ sở nền tiểu sản xuất” 2. Lao động được tổ chức theo nguyên tắc cộng sản
chủ nghĩa được xác lập là do, một là quyền tư hữu tư liệu sản xuất đã bị thủ tiêu
thông qua tịch thu, quốc hữu hoá các cơ sở kinh tế, ruộng đất của tư bản và địa
chủ. Hai là, chính quyền nhà nước vô sản đã tổ chức và xác lập được các xí
nghiệp quốc doanh, các nông trường quốc doanh, và các hình thức hợp tác xã
tiểu nông; tổ chức phân phối được lao động cho các ngành kinh tế, cho các xí
nghiệp của nhà nước, phân phối được sản phẩm tiêu dùng cho người lao động.
Tuy vậy, những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa cộng sản được xác lập mới
chỉ là bước đầu, vì theo V.I.Lênin “tất cả những điều kiện ấy ở nước nga chỉ mới
thực hiện được có một phần, chỉ mới ở giai đoạn đầu”.
V.I.Lênin đặc biệt chú ý tính đặc thù của nước Nga là nền tiểu sản xuất
hàng hoá, đây là một cơ sở vô cùng rộng lớn, rất sâu, rất chắc để chủ nghĩa tư
bản duy trì, phục hồi và đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản. Điều này đặt ra
nhiệm vụ mới cho Nhà nước chuyên chính vô sản trong việc tổ chức xây dựng
nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống tính tự phát tư bản chủ
nghĩa, nhất là chống buôn lậu và đầu cơ lúa mì.
V.I.Lênin đã dẫn ra những số liệu thống kê thực tế mà Bộ Dân uỷ lương

thực đã báo cáo về việc thu mua và phân phối lúa mì cho người lao động. Qua
đó khảng định: “Đứng về phương diện sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản đối
với chủ nghĩa tư bản mà nói thì những con số ấy biểu hiện rõ rệt là tình hình của
chúng ta đang được cải thiện từ từ và liên tục… và có một điều không thể chối
cãi được là, sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản đối với chủ nghĩa tư bản là điều
được bảo đảm”3.
2.3. Chủ nghĩa xã hội là sự xóa bỏ giai cấp
Đây là vấn đề V.I.Lênin đặc biệt chú ý. V.I.Lênin phân tích kết cấu giai cấp
trong thời kỳ quá độ, nhận thức được tính tất yếu đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ, điều kiện mới của cuộc đấu tranh giai cấp. Đánh giá đúng so sánh lực
lượng, từ đó có chính sách phù hợp để cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ sự tồn tại các giai cấp là tất yếu do nền kinh tế nhiều
2
3

. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr. 311.
. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr. 313.

8


thành phần quy định. Các giai cấp, các lực lượng xã hội căn bản đại biểu cho nền
kinh tế nhiều thành phần đó là: giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản (chủ yếu là nông
dân), giai cấp vô sản. Các giai cấp sẽ tồn tại suốt trong thời kỳ quá độ, do đó cần phải
củng cố và tăng cường chuyên chính vô sản để tiến tới xoá bỏ giai cấp.
V.I.Lênin chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội là sự xóa bỏ giai cấp và đưa ra các điều
kiện để xóa bỏ giai cấp.
Muốn xóa bỏ giai cấp, trước hết cần phải đánh đổ bọn địa chủ và tư bản.
Ở nước Nga nhiệm vụ này đã thực hiện và hoàn thành từ cách mạng tháng Mười
năm 1917 như, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân, quốc hữu hóa,

tịch thu tài sản, nhà máy của tư bản thành lập các xí nghiệp quốc doanh do công
nhân quản lý..., nhưng nhiệm vụ này chỉ mới hoàn thành một phần và không
phải là phần khó khăn nhất. Muốn xóa bỏ giai cấp, hai là, cần phải xóa bỏ sự
khác biệt giữa công nhân và nông dân, làm cho tất cả mọi người đều trở thành
người lao động. Nhiệm vụ này không thể làm một lần là xong ngay được, đó là
nhiệm vụ khó khăn và lâu dài.
V.I.Lênin nêu ra các giải pháp để thực hiện điều kiện thứ hai:
Một là, cải tạo toàn bộ nền kinh tế xã hội, chuyển nền kinh tế hàng hóa
nhỏ, cá nhân, riêng lẻ sang nền kinh tế tập thể lớn. Bước quá độ này tất nhiên là
rất dài.
Hai là, tuyệt đối không được dùng biện pháp luật pháp hay hành chính
hấp tấp và không thận trọng, nếu không chỉ làm cho bước quá độ đó kéo dài
thêm, và chỉ thêm khó khăn cho nó mà thôi.
Ba là, giúp đỡ làm cho nông dân có khả năng, trên những quy mô to lớn,
cải tiến được toàn bộ kỹ thuật canh tác và cải tạo được triệt để nền kỹ thuật ấy.
Bốn là, về mặt chính sách với nông dân, giai cấp vô sản phân biệt được
tính hai mặt của người nông dân: “Người nông dân lao động với người nông dân
tư hữu - giữa người nông dân lao động với người nông dân con buôn - giữa
người nông dân cần lao với người nông dân đầu cơ. Tất cả thực chất của chủ
nghĩa xã hội nằm trong sự phân định ranh giới đó”4. Trên cơ sở đó phát huy mặt
4

. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr. 316.

9


tốt, mặt tích cực của người nông dân hạn chế mặt tiêu cực của họ, thực hiện tốt
liên minh giai cấp giữa công nhân và nông dân lao động.
Theo V.I.Lênin, chủ nghĩa xã hội là sự xóa bỏ giai cấp, nhưng không thể

nào ngay một lúc mà xóa bỏ được giai cấp. Và các giai cấp vẫn tồn tại và sẽ tồn
tại trong suốt thời đại chuyên chính vô sản. Nhưng chuyên chính sẽ trở nên vô
ích, khi các giai cấp không còn nữa. Các giai cấp sẽ không biến mất đi, nếu
không có chuyên chính vô sản.
Quan điểm này của V.I.Lênin chống lại những đại biểu của Quốc tế II mơ
hồ về lập trường giai cấp, muốn nhanh chóng xóa bỏ giai cấp trước chủ nghĩa xã
hội. Thực chất đó là âm mưu muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vì
giai cấp vô sản không còn, tất yếu Đảng Cộng sản cũng không có lý do để tồn tại.
2.4. Chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là sự xóa bỏ giai cấp, chuyên chính vô sản là công cụ để
thực hiện công cuộc xóa bỏ ấy. Trong thời kỳ quá độ, chuyên chính vô sản là tất
yếu vì: “Trong thời đại chuyên chính vô sản, các giai cấp vẫn tồn tại, nhưng bộ
mặt của mỗi một giai cấp đều có thay đổi; quan hệ qua lại giữa các giai cấp cũng
biến đổi”5.
V.I.Lênin tập trung phân tích địa vị các giai cấp trong thời kỳ quá độ:
- Giai cấp vô sản dưới chủ nghĩa tư bản bị áp bức, bị tước đoạt tư liệu sản
xuất, là giai cấp trực tiếp và hoàn toàn đối lập giai cấp tư sản, giai cấp duy nhất
có khả năng làm cách mạng đến cùng. Sau khi lật đổ giai cấp tư sản giành chính
quyền, giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị nắm chính quyền nhà nước,
lãnh đạo các giai cấp trung gian, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột,
thực hiện những nhiệm vụ của đấu tranh giai cấp.
- Các giai cấp bóc lột (địa chủ và tư bản) bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu
diệt hẳn, không thể mất đi ngay lập tức sau khi mất quyền lực chính trị và mất
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Chúng còn lực lượng, nhưng sức mạnh
của chúng không chỉ ở số lượng mà sức mạnh đó lớn hơn nhiều so với số lượng
của nó trong dân cư. Chúng còn cơ sở quốc tế (Chủ nghĩa tư bản quốc tế và giai
5

. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr. 318


10


cấp tư sản quốc tế), còn một phần tư liệu sản xuất, còn tiền, tài sản. Chúng có liên
hệ xã hội rất rộng rãi là cơ sở nền sản xuất nhỏ và các giai cấp khác. Đặc biệt
chúng có ưu thế rất lớn về "nghệ thuật " quản lý nhà nước, quân đội, kinh tế. Sự
phản kháng của chúng sẽ tăng lên gấp trăm, gấp nghìn lần.
Do đó, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản
trở nên vô cùng ác liệt, Theo V.I.Lênin, nói đến cách mạng phải hiểu điều đó,
nếu không hiểu chỉ là ảo tưởng, cải lương.
- Giai cấp nông dân và các giai cấp tiểu tư sản nói chung họ giữ một vị trí
đứng giữa, trung gian.
V.I.Lênin phân tích tính chất hai mặt của nông dân:
Một mặt, họ là số quần chúng lao động khá đông đảo. Đối với nước Nga
thì "vô cùng đông đảo", họ đoàn kết vì lợi ích chung của người lao động là giải
thoát khỏi chế độ bóc lột. Lần đầu tiên họ được tự do, bình đẳng thật sự.
Mặt khác, họ là những người tư hữu nhỏ. Họ có tư tưởng, thói quen của
người sản xuất hàng hoá nhỏ, tính bảo thủ và sức ỳ. Trong thời kỳ đấu tranh giai
cấp ác liệt, họ có thể dao động ngả nghiêng, đổi chiều chuyển hướng, hoặc
lưỡng lự. Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, họ có thể trở thành
người đầu cơ, buôn lậu, kẻ thù của giai cấp công nhân. Họ thể hiện vừa là người
lao động (đồng minh của giai cấp vô sản) có thể là người bóc lột (kẻ thù của giai
cấp vô sản). “Chuyên chính vô sản là tiếp tục đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ, với trình độ cao hơn, chi phối hết thảy mọi hình thức”6.
Cuộc đấu tranh giai cấp chưa chấm dứt dưới thời chuyên chính vô sản mà
nó diễn ra trong điều kiện mới. Điều kiện mới đó là, giai cấp vô sản đã giành
được chính quyền, lãnh đạo xã hội. Giai cấp bóc lột (Tư bản và địa chủ) đã bị
tiêu diệt nhưng bị tiêu diệt hẳn, vẫn còn những cơ sở kinh tế, vẫn còn mối liên
hệ quốc tế và xã hội rộng lớn, nên sự phản kháng của chúng càng tăng lên. Giai
cấp nông dân, các tầng lớp lao động được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, tự do

và bình đẳng, “lần đầu tiên, dười thời chuyên chính vô sản, người nông dân
được làm việc cho mình và ăn uống đầy đủ hơn người thành thị. Lần đầu tiên
6

. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr. 320.

11


người nông dân được hưởng tự do thật sự, tự do ăn chiếc bánh mỳ của mình, tự
do thoát khỏi nạn đói và được chia ruộng đất”7. Tuy vậy, do bản chất của họ
mang tính hai mặt và gắn với sản xuất nhỏ phân tán, tự phát tư bản chủ nghĩa
nên cần phải cải tạo và lôi cuốn họ.
V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản không chỉ là bạo lực đối với bọn
bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế của cách mạng bạo
lực đó, cái bảo đảm cho sức sống và thắng lợi của nó chính là việc giai cấp vô
sản đưa ra và thực hiện được kiểu tổ chức xã hội về lao động cao hơn chủ nghĩa
tư bản. Do đó, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản diễn ra trong suốt
thời kỳ quá độ với hình thức mới. Những hình thức mới đó là:
Nhà nước chuyên chính vô sản tổ chức cho toàn dân tham gia vào công
cuộc xây dựng (chức năng chủ yếu) nền kinh tế, xã hội mới; Sử dụng bạo lực
cách mạng trấn áp, đập tan sự phản kháng của bọn bóc lột, vì giai cấp bóc lột (tư
bản và địa chủ) đã bị đánh bại song không thể nào biến mất ngay dưới thời
chuyên chính vô sản. Chúng đã bị đánh đổ song chưa bị tiêu diệt hẳn. Chúng
còn phản kháng mạnh vì chúng còn cơ sở quốc tế (tư bản quốc tế ủng hộ), còn
một phần tư liệu sản xuất, còn tiền, còn mối quan hệ xã hội. Điều quan trọng, vì
chúng thất bại nên sự phản kháng của chúng gấp trăm ngàn lần.
Một hình thức mới của chuyên chính vô sản là đấu tranh chống bọn buôn lậu,
đầu cơ lương thực, thực hiện việc nhà nước tổ chức kiểm soát, phân phối sản phẩm
tiêu dùng thay cho tư thương.

Thực hiện liên minh công – nông cần phải đấu tranh, gây ảnh hưởng, tác
động đến giai cấp tư sản đã bị lật đổ, lôi kéo và lãnh đạo giai cấp tiểu tư sản dao
động ngả nghiêng. V.I.Lê nin chỉ rõ: “Giai cấp vô sản, khi lật đổ được giai cấp tư
sản, là đã bước được một bước hết sức quyết định trên con đường đi tới xóa bỏ
giai cấp; rằng muốn hoàn thành sự nghiệp ấy, giai cấp vô sản cần phải theo đuổi
cuộc đấu tranh giai cấp của mình, sử dụng bộ máy chính quyền nhà nước và áp
dụng những phương sách khác nhau để đấu tranh, ảnh hưởng, tác động đến giai
cấp tư sản đã bị lật đổ, và giai cấp tiểu tư sản dao động ngả nghiêng”8.
7
8

. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr. 315.
. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr 321.

12


Liên minh công nông là liên minh của hai giai cấp lao động có cùng lợi
ích chung, có cùng kẻ thù chung. V.I.Lênin phân tích trong thời kỳ quá độ khối
liên minh công nông được củng cố và xây dựng trên cơ sở mới. Đó là:
- Cả hai giai cấp vô sản và nông dân đã được giải phóng khỏi quan hệ tư
hữu, giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột. Đó là một bước tiến chưa từng có trong
lịch sử .
- Chuyên chính vô sản đã đem lại lợi ích cho giai cấp nông dân. Họ được
chia ruộng đất, lao động cho mình, được cải thiện về đời sống vật chất, được tư
do thật sự.
- Từ trước đến nay họ đều có chung kẻ thù, họ có cùng nguyện vọng
chống áp bức bóc lột.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Hàng bao thế kỷ người nông dân đã nuôi dưỡng cho
mình ý chí căm thù và lòng oắn ghét đối với những kẻ áp bức bóc lột đó; và sự

nuôi dưỡng do đời sống thực tế đem lại cũng buộc nông dân tìm cách biện minh
với công nhân chống lại bọn tư bản, bọn đầu cơ, bọn con buôn”. Vì thế nông dân
là người đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân. “Người nông dân đó
là một nông dân lao động, một người có đủ tư cách là đồng chí của công nhân xã
hội chủ nghĩa; người bạn đồng minh chắc chắn nhất và người anh em ruột thịt
của công nhân xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh chống ách tư bản”9.
Liên minh công nông là tiếp tục đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ.
Xem xét vấn đề liên minh giai cấp có một ý nghĩa rất quan trọng, giúp đánh giá
đúng so sánh lực lượng giai cấp, đề ra những nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu của
chuyên chính vô sản đồng thời, nhận thức được nội dung mới, hình thức mới của
đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ.
Tư tưởng về đấu tranh giai cấp, về chuyên chính vô sản là viên đá tảng
của chủ nghĩa Mác. V.I.Lênin phê phán tư tưởng cải lương, ảo tưởng của một số
người trong Quốc tế II và bọn cơ hội, xét lại. Chúng cho rằng, không cần đấu
tranh giai cấp, chỉ bằng con đường dân chủ sẽ chuyển hóa từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa cộng sản. V.I.Lênin cho rằng, “Quan niệm mà chúng ta thấy ở tất
9

. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr. 317.

13


cả những đại biểu của Quốc tế II, là phi lý biết bao về mặt lý luận và ngu xuẩn
biết chừng nào”10. V.I.Lênin cũng phê phán quan niệm nôn nóng về những khẩu
hiệu tự do, dân chủ, bình đẳng mà những người xã hội chủ nghĩa hay thổi phồng
quá mức. Đó chính là lập trường của giai cấp tư sản. Ông phân định rõ dân chủ
tư sản và dân chủ vô sản. Theo V.I.Lênin, để làm rõ khái niệm dân chủ phải đặt
rõ ràng: Tự do thoát khỏi sự áp bức của giai cấp nào? Bình đẳng của giai cấp
nào? Dân chủ trên cơ sở quyền tư hữu hay trên cơ sở cuộc đấu tranh để thủ tiêu

quyền tư hữu. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ăngghen đã vạch rõ từ lâu rằng:
Khái niệm bình đẳng, tức là sự phản ánh của quan hệ sản xuất hàng hóa, sẽ biến
thành thiên kiến, nếu người ta không hiểu bình đẳng theo nghĩa xóa bỏ giai cấp.
Do đó, trong thời kỳ chuyên chính vô sản ngay cả dân chủ cũng bước vào một
giai đoạn hoàn toàn mới, dân chủ vô sản.
II. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Vận dụng những quan điểm cơ bản mà V.I.Lênin đã nêu ra về đặc điểm
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở “những nước tiểu nông”, Đảng ta và nhân
dân ta đã có những thành quả bước đầu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ
độc lập tự do của Tổ quốc. Nhưng khoảng thời gian 1975-1985, chúng ta đã
phạm một số sai lầm trong tư duy và nhận thức về thời kì quá độ, trong đó có
biểu hiện chủ quan, nóng vội, giản đơn, nhất là về quản lý kinh tế: Đó là quá chú
trọng hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể một cách hình thức, thực
hiện quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, hành chính bao cấp của Nhà nước; nhận
thức chưa đúng quan điểm của V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế đan xen nhau,...trong thời kỳ quá độ, do đó
đã biến chế độ sở hữu toàn dân và tập thể trở nên trừu tượng, hình thức bề ngoài,
nhiều tư liệu sản xuất chung của xã hội, nhất là đất đai trở nên không có chủ cụ
thể...Đó là một trong những nguyên nhân làm triệt tiêu các động lực, các tiềm
năng của toàn dân ta, của đất nước ta và không phát huy hết nội lực, không tranh

10

. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr. 320

14


thủ được sự hợp tác quốc tế. Vì vậy, kinh tế - xã hội đã lâm vào trì trệ, khủng

hoảng...
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đánh dấu sự mở đầu chính
thức công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác
định đúng đắn, bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế. Đổi mới
toàn diện nhưng có trọng điểm đúng: Trên cơ sở ổn định, phát triển kinh tế, cải
thiện từng bước đời sống nhân dân, đồng thời và từng bước đổi mới hệ thống
chính trị để phát triển đất nước đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đã có nhận thức ngày càng rõ hơn về “thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”, có thể thấy rõ những bước cụ thể hoá về phát triển “bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa”. Đường lối đổi mới của Đảng ta đã khẳng định đó là “bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Đến Đại hội IX, Đảng ta nhận thức rõ hơn nữa:
“bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”.
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin Đảng ta xác định nội dung của thời kỳ
quá độ đó là:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp,
cho nên thời kỳ quá độ ở nước ta rất lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa con đường tư
bản chủ nghĩa và con đường xã hội chủ nghĩa, đấu tranh quyết liệt chống âm
mưu “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhưng cơ cấu, tính chất,
vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to
lớn về kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội là quan hệ
15



hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp
công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân
tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng
và nguồn lực của toàn xã hội.
Sau 30 năm đổi mới đó là một giai đoạn lịch sử quan trọng đánh dấu sự
trưởng thành về mọi mặt của Đảng ta, mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là
quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để về tư duy lý luận và hoạt động thực
tiễn cách mạng. Chính vì vậy, qua 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc XHCN như: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình, đang đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá,
chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa – xã
hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện…, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và
phát triển, khẳng định sự đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi
lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của
lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hiện nay nhiều vấn đề đặt
ra như: kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu
và thực tế nguồn lực được huy động. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các
vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu

quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Đổi mới chính trị
chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống
16


chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm
1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để lợi dụng
các phương tiện truyền thông, mạng internet để chống phá ta và những biểu hiện
như “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên
và nhân dân vào đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta có phần
giảm sút.
Chính vì vậy, hiện nay công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về
thời kỳ quá độ như: nhiệm vụ, bước đi… của thời kỳ quá độ đang đặt ra nhiều vấn
đề cần nghiên cứu và rút ra lý luận để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở
khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay…
Vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế, chính trị trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, chúng ta cần thực hiện tốt các nội dung cơ
bản sau:
Một là, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Kiên định chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng
tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Kiên định
những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng
lực của Đảng cầm quyền; nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách
phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để

phát triển.
Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàm thiện
hệ thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đẩy
mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa
17


học, lý luận cho việc hoạch định phương hướng nhiệm vụ, bước đi trong thời kỳ
quá độ.
Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, xác
định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều
kiện cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với Đảng cầm quyền.
Nâng cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà
nước bằng các trương chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường
lối, chủ trương của Đảng thành thành chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội, không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân về vật
chất và tinh thần.
Để thực hiện tốt nội dung trên cần tập trung thực hiện các giải pháp nâng
cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động. Thực hiện có hiệu quả ba đột
phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước nhất là CNH,HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Ba là, xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế

nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ
có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giả phóng sức sản
xuất. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế,
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các
nguồn lực của Nhà nước và công cụ chính sách, để định hướng, điều tiết nền
18


kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hoá, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư
tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của đất nước. Tiếp tục kế thừa và phát
huy tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại. Xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa có trí tuệ, đạo đức, lối sống, phong cách, có văn hoá, văn minh; có thể
chất và đời sống thẩm mỹ lành mạnh. Đấu tranh loại trừ các biểu hiện phản văn
hoá, văn minh, phi đạo lý, đạo đức...trái với giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta và của nhân loại tiến bộ, trái với mục tiêu và bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
Năm là, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát
huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Phải cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng về đại đoàn kết dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế,
chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc giải quyết những vấn đề lớn
của đất nước.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân, phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế XHCN.
Sáu là, Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; giữ vững mội trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua
thách thức, thực hiện có hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục
nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
Tóm lại, nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn và triệt để về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn
19


về những thuận lợi và khó khăn mà chúng ta với quyết tâm chính trị cao phải
phấn đấu vượt qua, tránh được căn bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí.
Từ những vấn đề lý luận đã nêu trên, thực tiễn của công cuộc đổi mới do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo 30 năm qua với những thành
tựu hết sức khả quan cho phép chúng ta khẳng định dưới sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng và sự đồng thuận của nhân dân, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam nhất định kết thúc thắng lợi.
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết đồng thuận một lòng xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh và văn
minh trên con đường quá độ đi lên CNXH. Làm cho vị thế của Việt Nam ngày
càng trở nên quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Dân tộc Việt Nam bước
đến đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới.

20


Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Qua tác phẩm Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản,

V.I.Lênin đã nêu ra những tư tưởng rất cơ bản về thời kỳ quá độ, về đấu tranh
giai cấp, về chuyên chính vô sản và dân chủ vô sản; phân tích tình hình thực
trạng kinh tế-xã hội, cơ cấu giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại
chuyên chính vô sản ở nước Nga. Trên cơ sở đó, trang bị cho giai cấp vô sản,
nhân dân lao động vũ khí lý luận để nhận thức rõ tính chất gay go phức tạp của
cuộc đấu tranh giai cấp những năm đầu của thời kỳ quá độ, những vấn đề nóng
hổi, cấp bách phải giải quyết.
Những vấn đề lý luận, thực tiễn về kinh tế và chính trị trong tác phẩm còn
giúp Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô Viết có cơ sở để đề ra đường lối chính sách
trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Củng cố lòng tin của cán bộ
đảng viên, quần chúng và Hồng quân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong
công cuộc chống thù trong giặc ngoài, củng cố chính quyền Xô Viết non trẻ.
Những tư tưởng trong tác phẩm còn góp phần bảo vệ và phát triển lý luận
chủ nghĩa Mác về đặc điểm kinh tế, cơ cấu giai cấp và đấu tranh giai cấp trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước mà chủ nghĩa tư bản chưa phát
triển. Đấu tranh, vạch trần những tư tưởng của chủ nghĩa cơ hội, xét lại của một
số đại biểu trong Quốc tế II, đồng thời còn có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội xét lại, cải lương ngày nay.
Đối với các nước đang trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, những tư
tưởng của tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, nhất là các
vấn đề về đặc điểm kinh tế, giai cấp, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, nội
21


dung mới, hình thức mới của đấu tranh giai cấp và vai trò của nhà nước chuyên
chính vô sản, vấn đề củng cố tăng cường chuyên chính vô sản.
Tác phẩm này còn có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn đối với quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nó trang bị thế giới quan, phương pháp
luận khoa học cho Đảng và Nhà nước ta trong phân tích đánh giá thực trạng kinh tế
giai cấp trong thời kỳ quá độ ở một nước còn lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, trên

cơ sở đó đề ra đường lối, chính sách đúng đắn. Là một tác phẩm ngắn nhưng có nội
dung phong phú, có ý nghĩa thiết thực và vẫn còn giá trị thời sự nóng hổi đối với
cách mạng Việt Nam, nhất là vấn đề cải tạo nền sản xuất nhỏ, vấn đề nông dân,
nông thôn và liên minh giai cấp, vấn đề củng cố nhà nước chuyên chính vô sản và
sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới hiện nay. Tác phẩm còn là bài học lớn về
cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống các tư tưởng cơ hội, xét lại, cải lương
hòa bình chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin.

22



×