Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Đường lối đối ngoại của đảng cộng sản việt nam trước và trong thời kì đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.99 KB, 32 trang )

MỤC 1LỤC
-

1

-


CHƯƠNG 1 GIỚI
THIỆU
3
-

-

1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tình hình thế giới tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó
lường về ngoại giao giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Toàn cầu hoá
tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn
nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà
bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế hàng đầu của mỗi quốc gia, phản ánh
đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.
Sau khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã
lớn mạnh, có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, môi
trường hoà bình. Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong tiến
hành công cuộc Đổi mới với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp
tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm:
“Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã và


đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để cùng
nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói
nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy,…
Những nỗ lực của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với
bạn bè ở khu vực và quốc tế. Việt Nam sẽ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hợp tác quốc tế, độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an
ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc…
Chính vì những lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Đường lối đối
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trước và trong thời kì đổi mới”.

3


1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
5
Thông qua quá trình xác định chính
sách đối ngoại theo đường lối đổi
-

-

mới toàn diện đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy cảm
chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính
sách đối ngoại phù hợp với chính sách đối nội và xu thế thời đại để hội nhập
với cộng đồng quốc tế vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Chính sách đối ngoại của Đảng là một đề tài rộng khoá luận đề cập tới
những vấn đề sau.Thời gian và không gian đề cập là từ năm (1986 – đến nay) ở
Việt Nam. Đây là thời kỳ Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm

đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của đất nước và đáp ứng xu thế thời đại.
1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Theo phương pháp luận sử học, đồng thời dựa vào phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và
kết hợp chặt chẽ các phương pháp lịch sử với so sánh, thống kê nhằm làm nổi
bật những thắng lợi trong đường lối chính sách đối ngoại của Đảng gần 20 năm
qua.

5


CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRƯỚC
7
THỜI KÌ ĐỔI
MỚI
-

-

1.1. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của chính
sách đối ngoại
Giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền
vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và

các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua
thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.Củng cố
và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các
phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở
rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động,
linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”. Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động
của nhân dân thế giới, tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp
tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.Chủ
động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối thoại với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền.
Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn
đề “dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội
bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính
trị của Việt Nam.

7


Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn
9 và song phương, phục vụ lợi ích đất
với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực
-

-

nước làm mục tiêu. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình,
phù hợp với chiến lược phát triển đất nước. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký

kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan
hệ hợp tác toàn diện có hiệu quả với các nước ASEAN, châu Á – Thái Bình
Dương… Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa
đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán,
ổn định và minh bạch.
Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến thương mại đầu tư,
phát triển thị trường, sản phẩm và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh
nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn
đầu tư ra nước ngoài.Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp
phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước. Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại
vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có
đạo đức và phẩm chất tốt.Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu
về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và
các nhà khoa học.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại
của Đảng, Nhà nước và nhân dân; chính trị và kinh tế đối ngoại; đối ngoại,
quốc phòng và an ninh; thông tin trong và ngoài nước.
1.1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt
Nam luôn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, gian khổ. Qua những thăng
trầm ấy, ngoại giao Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát triển, vừa
mang đậm bản sắc dân tộc, vừa kết tinh những tinh hoa của nhân loại để tạo
nên một bản sắc riêng của nền ngoại giao Việt Nam.

9



Ngoại giao Việt Nam truyền thống bắt nguồn từ ý chí đấu tranh kiên
11 nhiều tấm gương điển hình như Lý
cường cho độc lập, tự do của dân tộc với
-

-

Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi… và nhiều bài học sâu sắc và bổ
ích về quan hệ với lân bang, ứng xử trong đối ngoại… Đó còn là lòng mong
muốn hòa bình, hòa hiếu, thủy chung, xuất phát từ bản chất nhân văn sâu sắc
và truyền thống yêu chuộng hòa bình vốn có của người Việt… Lịch sử đấu
tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã mang lại cho
ngoại giao Việt Nam tính chiến đấu cao, bản chất hòa bình, hòa hiếu, nhân
nghĩa, thủy chung, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường
bạo”.
Tư tưởng đối ngoại và phong cách ngoại giao của Người là sự kết tinh
truyền thống của dân tộc và tinh hoa của nhân loại, trong đó ngoại giao nhân
dân là một “binh chủng” đa kênh và đa năng quan trọng, cùng với ngoại giao
Đảng và Nhà nước hợp thành nền ngoại giao tổng hợp của quốc gia
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, các nước tiến hành các hoạt động ngoại
giao dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng quy tụ lại thành hai loại chính là
ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Ngoại giao nhà nước là mối quan
hệ giữa chính phủ với chính phủ của các nước có chủ quyền, giữa các nhà lãnh
đạo của các nước. Các quan chức làm việc trong các đại sứ quán hoặc cơ quan
đại diện ngoại giao của một nước ở nước ngoài là những người đại diện cho
chính phủ ở nước sở tại. Ngoại giao nhân dân là một hình thức hoạt động quan
hệ đối ngoại do các tổ chức, các đoàn thể, hoặc cá nhân thuộc nhiều lĩnh vực
tiến hành, không mang tính chất chính thức của Chính phủ.
Hoạt động của ngoại giao nhân dân là phát huy “sức mạnh mềm” của
một nước, hỗ trợ cho ngoại giao nhà nước để thực hiện chính sách đối ngoại

mà chính phủ nước đó đề ra. Ngoại giao nhân dân là lực lượng quan trọng của
mặt trận ngoại giao và ưu thế của ngoại giao nhân dân là có thể đi đầu, có thể
đi trước tại những nước, những khu vực và về một số vấn đề mà ngoại giao
chính thức của nhà nước chưa có điều kiện triển khai.
Hồ Chí Minh chủ trương đối ngoại rộng mở, mở rộng lực lượng theo
phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tránh đối đầu “không gây thù oán với một
11


ai”, tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể nhằm tập
hợp lực lượng, hình thành mặt trận đoàn13kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều tầng,
-

-

nhiều nấc. Người từng nói: “Đường lối tấn công vào lòng người, chinh phục
bằng đạo lý, chuyển hóa bằng nhân tình, thuyết phục lòng người để nhân lên
sức mạnh của chính nghĩa”. Như vậy, với Hồ Chí Minh, ngoại giao không chỉ
là sự nghiệp của toàn dân, mà còn phải lôi kéo, thuyết phục bằng chính nghĩa
để nhân dân và bạn bè thế giới ủng hộ, giúp đỡ mình.
Ngoại giao Việt Nam hiện đại bắt đầu từ khi Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời (1945) và vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp
dẫn dắt và rèn luyện. Ngoại giao Việt Nam hiện đại là sự kết hợp tài tình giữa
ngoại giao truyền thống Việt Nam với những tư tưởng ngoại giao của Chủ tịch
Hồ Chí Minh được vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Trải qua những giai đoạn khác nhau, trong thời chiến cũng như trong thời bình,
ngoại giao Việt Nam hiện đại đã kế thừa xứng đáng truyền thống cha ông, góp
phần không nhỏ vào bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước
ngày càng phồn thịnh.
1.2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và xu thế

của thế giới
1.2.1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước
Năm 1975 nước ta hoàn toàn giải phóng, tổ quốc hòa bình, thống nhất cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được
thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số
thành tựu quan trọng. Chiến tranh vừa kết thúc thì nước ta phải tập trung vào
công cuộc khắc phục hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh, thì lại xảy
ra hai cuộc chiến là chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia, và cuộc
chiến biên giới phía Bắc với Trung Quốc. Hai cuộc chiến này đã làm suy giảm
tiềm lực của đất nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những âm
mưu thâm độc phá hoại nước ta. Đại hội Đảng lần V (3-1982) nhận định “Nước
ta đang ở trong tình thế vừa có hòa bình vừa phải đương đầu với một kiểu
chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Mặt khác do tư tưởng chủ quan, nóng vội,

13


muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngắn đã dẫn đến những
khó khăn về kinh tế xã hội.

15

-

-

1.2.2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới
Trong khi đó trên thế giới, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh
mẽ; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế

giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa hoãn của các
nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương, hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới
phát triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống nước xã hội chủ nghĩa đã và
đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mạnh. Tuy nhiên, đến giữa
thập kỉ 70, tình hình kinh tế – xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự
trì trệ và mất ổn định. Trong các nước xã hội chủ nghĩa cũng xuất hiện những
mâu thuẫn bất đồng, Đông Nam Á cũng đã có những chuyển biến mới. Sau
năm 1975, Mỹ đã rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa: khối quân sự SEATO tan
rã; ngày 24/02/1976, các nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở
Đông Nam Á (gọi tắt là hiệp ước Bali), mở ra cục diện hòa bình hợp tác trong
khu vực.
1.3. Đường lối đối ngoại của Việt Nam trước đổi mới.
1.3.1. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng:
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là
“Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn
những vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội ở nước ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố
và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam
với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng
có lợi.
15


Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách
17
đối ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường

hợp tác về mọi mặt với Liên Xô
-

-

là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra
sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia
đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á
hoà bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982)xác định: Công tác đối ngoại phải
trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại
chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước
ta.Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác
toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn đá tảng
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đăc biệt Việt NamLào-Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi
các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng
để giải quyết các trở ngại; nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa
bình và ổn định; chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc
trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; chủ trương thiết lập và mở
rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ
thuật, với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị.
Thực tế cho thấy ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai
đoạn (1975-1986) là xây dựng quan hệ hợp tác.Từ năm 1975 đến năm 1977,
nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15-9-1976, Việt
Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Qũy tiền tệ quốc tế (IFM); ngày 219-1976, tiếp ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB); ngày 23-91976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); ngày 20-9-177, tiếp nhận
ghế thành viên Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động trong phong
trào không liên kết… Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác
kinh tế với Việt Nam.Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối
năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết

lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
17


Những kết quả đối ngoại trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách
19 toàn diện với các nước xã hội chủ
mạng Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác
-

-

nghĩa và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước hệ thống chủ nghĩa
đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau
chiến tranh; việc trở thành thành viên chính thức của Qũy tiền tệ quốc tế; Ngân
hàng thế giới; Ngân hàng phát triển châu Á và thành viên chính thức của Liên
hợp quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết,
đã tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước , các tổ chức quốc tế đồng
thời phát huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Việc thiết lập quan
hệ ngoại giao với các nước trong tổ chức ASEAN đã tạo thuận lợi để triển khai
các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây dựng Đông Nam Á trở
thành khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
1.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Nhìn tổng quát, từ năm 1975- 1986, quan hệ hợp tác của Việt Nam gặp
những khó khăn trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây, cộ lập trong đó đặc biệt từ
cuối thập kỷ 70 đến thế kỷ XX, lấy cớ “sự kiện campuchia” các nước ASEAN
và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam…
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, là do trong quan hệ đối ngoại
giai đoạn này chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hòa
hoãn và chay đua kinh tế trên thế giới. Do đó, đã tranh thủ được các nhân tố
thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển

kinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi mối quan hệ đối ngoại phù hợp với
tình hình. Nguyên nhân những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn
(1975 -1986) đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “bệnh chủ quan,
duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng
chủ quan”.

19


CHƯƠNG 2 : ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRONG
21 MỚI
THỜI KÌ ĐỔI
-

-

2.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ
(1986-1995)
2.1.1. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)
Hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam được bắt đầu từ
năm 1986. Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (tháng 7/1986) chủ trương
chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Đến
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng nhấn mạnh: “Ra sức kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ hòa bình ở Đông Dương, góp
phần giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
Quốc…”. Hòa bình ở khu vực và thế giới có quan hệ gắn kết với nhau, thế giới
có hòa bình thì các khu vực mới có hòa bình và ngược lại. Đổi mới toàn diện,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) của Đảng đề ra chính
sách đối ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Đại hội khẳng

định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và
hữu nghị”. Về quan hệ với các nước khu vực Đông Nam Á: “Chúng ta mong
muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các
vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây dựng Đông
Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác”. Đại hội VI nhấn mạnh
nhiệm vụ hàng đầu là “… Tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”… và “cần hoà bình để phát triển
kinh tế”. Nghị quyết của Đại hội VI và các Nghị quyết của Trung ương đã
chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ
với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác
nhau, thi hành chính sách hữu nghị, phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu
thế phát triển chung của thế giới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo, sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng
thời là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia nhập ASEAN
của Việt Nam.
21


Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và Nhà nước xác định mục
tiêu và những chính sách đối ngoại lớn. 23
Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam lúc
-

-

này là hòa bình và phát triển. Đảng và Nhà nước ta quyết tâm giải quyết vấn đề
Campuchia, từ đó giải quyết vấn đề bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc,
ASEAN và Hoa Kỳ.
Từ giữa những năm 80, các nước lớn và ASEAN đi vào hòa hoãn, hợp
tác giải quyết các vấn đề khu vực, trong đó có vấn đề Campuchia. Đại hội VI

đã khẳng định “chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực
thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng
tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và
hợp tác”. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI 20/5/1988) là mốc khởi
đầu của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng
ta. Nghị quyết khẳng định nước ta “lại càng có những cơ hội lớn để có thể giữ
hòa bình và phát triển về kinh tế” và xác định “với một nền kinh tế mạnh, một
nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,
chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội hơn”. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thay chủ trương 10 năm
trước tăng cường liên minh 3 nước Đông Dương làm đối trọng với các nước
ASEAN. Ngược lại, chúng ta khẳng định không đối lập nhóm 3 nước Lào, Việt
Nam, Campuchia, xã hội chủ nghĩa với nhóm ASEAN, tư bản chủ nghĩa.
Nghị quyết nêu rõ chúng ta cần có chính sách toàn diện với Đông Nam
Á, trước hết là tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt với Indonexia, phá vỡ
bế tắc trong quan hệ với Thái Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa
học – kỹ thuật, văn hóa với các nước trong khu vực, thúc đẩy việc xây dựng
khu vực hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt nghị quyết cũng nhắc
lại lời cảnh báo của nghị quyết 32 khóa V về nguy cơ tụt hậu xa hơn “nếu
chúng ta lại để lỡ những cơ hội lớn đó thì sẽ gặp những thách thức mới và sẽ bị
thua kém về mọi mặt so với nhiều nước trên thế giới”. Ra sức tranh thủ sự đồng
tình của thế giới, làm thất bại âm mưu cô lập ta về kinh tế và chính trị; lợi dụng

23


sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong
phân công lao động quốc tế.

25


-

-

Thực hiện chủ trương trên, ta đã mời ngoại trưởng Indonexia sang thăm
và ký Thông cáo chung Việt Nam – Indonexia tại thành phố Hồ Chí Minh ngày
29/07/1987, vừa khai thông quan hệ song phương, mở đường cho xu thế đối
thoại, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia. Việt Nam đã từng bước rút quân
khỏi Campuchia từ 1984 - 1989. Như vậy vấn đề Campuchia đi dần vào giải
pháp hòa bình. Trước những tiến triển mới đó, các nước ASEAN bắt đầu phát
triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam tham gia vào
hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3
họp tại Manila (Philipin) Tổng thống Philipin C.V.Akinô tuyên bố không coi
Việt Nam là mối đe dọa đối với Philipin.
Tiếp đó tháng 2/1989, Bộ trưởng Ngoại giao Philipin tuyên bố: “Không
chống lại việc Việt Nam gia nhập ASEAN”. Còn Thủ tướng Thái Lan
Chatichai, khi lên cầm quyền tháng 8/1988, đã đưa ra chủ trương: “Biến Đông
Dương từ chiến trường thành thị trường”. Chính sách trên của Thái Lan đã
được thủ tướng Malaysia tuyên bố ủng hộ (6/1989). Thực hiện đường lối đổi
mới do Đại hội Đảng VI, Nhà nước ta cũng luôn khẳng định lập trường của
Việt Nam là được chung sống hoà bình với các nước trong khu vực, sẵn sàng
hợp tác để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình, ổn định và phát
triển. Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á – Thái Bình
Dương tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Văn Linh một lần nữa nhấn mạnh: “Việt Nam sẵn sàng phát triển
quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước trong khu vực”. Tại Hội
nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “Việt Nam sẵn
sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á”. Những phát biểu trên một lần
nữa nhấn mạnh quan điểm trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta trong

vấn đề gia nhập ASEAN. Quan hệ Việt Nam – ASEAN đã được đẩy mạnh
trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện chính trị nổi bật và quan trọng
nhất trong quan hệ hai bên đó là Tổng thống Indonexia Xuhacto, nguyên thủ
25


của một nước ASEAN đầu tiên, thăm hữu nghị chính thức Việt Nam tháng
10/1990. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng27 lần lượt thăm hữu nghị chính thức
-

-

Indonexia, Vương quốc Thái Lan và Cộng Hòa Singapore từ ngày 24/10 đến
ngày 01/11/1991.
Kể từ giai đoạn này, các nước ASEAN tách dần khỏi lập trường của
Trung Quốc về vấn đề Campuchia, vượt qua chính sách bao vây cấm vận của
Hoa Kỳ đối với Việt Nam để đi vào cải thiện quan hệ với Việt Nam - Đông
Dương. Buôn bán hai chiều Việt Nam - ASEAN đã tăng từ 107 triệu đô la Mỹ
năm 1985 lên 740 triệu đô la Mỹ năm 1991.
Chúng ta đã giải quyết được vấn đề Campuchia trên cơ sở giữ vững một
số thành quả của cách mạng Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc, khai thông quan hệ với các nước ASEAN tạo dựng tiền để để ta tham gia
tổ chức này nhằm xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định, hợp tác
để phát triển, từng bước cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ từ đó có điều kiện tăng
cường quan hệ với Nhật Bản và các nước phương Tây khác. Những thành tựu
đối ngoại thời kỳ đầu đổi mới này sẽ tạo đà cho những thắng lợi lớn hơn thời
kỳ tiếp theo.
2.1.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995)
Quan hệ Việt Nam - ASEAN bắt đầu có những chuyển biến tích cực, và
việc Hiệp định Pari về Campuchia được ký kết tháng 10/1991 đánh dấu chấm

dứt của “thời kỳ Campuchia trong quan hệ Việt Nam - ASEAN , mở ra một
thời kỳ mới, thời kỳ hợp tác của cả hai bên”.
Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên lợi ích lớn nhất của đất
nước lúc này là duy trì hòa bình, ổn định khu vực, tạo dựng một môi trường
quốc tế và khu vực thuận lợi cho công cuộc đổi mới, cải thiện đời sống nhân
dân, đưa đất nước đi lên theo kịp với nhịp độ phát triển chung của các nước
trong khu vực và trên thế giới. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992)
đã ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính
sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ
trương mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của
27


Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa…, trên cơ sở giữ vững độc lập tự
chủ, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tôn29trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có
-

-

lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp và
bản sắc văn hóa dân tộc… Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh
dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn
diện đất nước.
Lãnh đạo ta và lãnh đạo các nước ASEAN liên tiếp tiến hành các chuyến
viếng thăm lẫn nhau, góp phần gia tăng sự hiểu biết và tin cậy. Ta và các nước
này đã ký hàng chục hiệp định cấp chính phủ tạo cơ sở pháp lý cho việc phát
triển hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật. Các nước ASEAN
trở thành bạn hàng quan trọng, chiếm khoảng 30% hàng xuất – nhập khẩu của
ta, kim ngạch buôn bán hai chiều tăng từ 1,6 tỷ USD năm 1991 lên 2,7 tỷ USD
năm 1994. Các nước thành viên ASEAN cũng chiếm hơn 20% tổng số đầu tư

nước ngoài vào Việt Nam. Giữa Việt Nam và các nước này cũng từng bước
thương lượng giải quyết những vấn đề tồn tại. Chúng ta đã thỏa thuận với
Malaysia cùng khai thác vùng chồng lấn và hồi hương người Việt di tản. Thái
Lan tiếp tục giải quyết thuận lợi việc cho Việt kiều ngập quốc tịch, khai thông
sự hợp tác về sông Mekong, lập quỹ khu vực, duy trì viện trợ linh hoạt hơn
trong đàm phán về vùng chồng lấn, thỏa thuận về lập lại trật tự trên Vịnh Thái
Lan. Chúng ta cũng kiên trì thúc đẩy đàm phán phán về thềm lục địa với
Indonexia.
Tháng 07/1992, Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Bali, trở hành quan sát
viên của ASEAN. Với tư cách là quan sát viên ASEAN, từ năm 1992 ,Việt
Nam đã được mời tham dự các cuộc họp hàng năm Hội nghị Bộ trưởng Ngoại
giao ASEAN. Từ tháng 2/1993, Việt Nam đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia
ASEAN vào thời điểm thích hợp”. Điều này đã được các nước ASEAN, dư
luận khu vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại ,các nước ASEAN tuyên bố “
muốn Việt Nam sớm gia nhập ASEAN”. Tháng 10/1993, chúng ta tuyên bố
chính sách 4 điểm định hướng quan hệ với ASEAN . Tại hội nghị Bộ trưởng
Ngoại giao ASEAN lần thứ 27 tại Băng cốc 1994, các nước ASEAN đã nhất trí
tuyên bố sẵn sàng công nhận Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN.
29


Ngày 28/07/1995, tại Banda Xeri Beegaoan (Vương quốc Bruney) lễ kết nạp
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 31
thành thành viên thứ 7 của ASEAN đã
-

-

được tổ chức trọng thể. Quốc Hội nước ta cũng gia nhập Liên minh Quốc hội
ASEAN (AIPO).Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 11994) và Đại hội VIII (tháng 6-1996) của Đảng đã khẳng định đường lối đối

ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần “Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”.
Năm năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới trên mặt trận đối ngoại,
Việt Nam đã giữ vững được môi trường hòa bình, phá được thế bị bao vây cấm
vận về kinh tế và cô lập về chính trị, đã bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc – nước láng giềng lớn và Hoa Kỳ – cường quốc số 1 thế giới, gia nhập
ASEAN và đã mở rộng quan hệ với hầu hết các nước ở khắp năm châu ( riêng
từ 1991 – 1995 Việt Nam đã lập thêm quan hệ ngoại giao với 42 nước , nâng
tổng số các nước có quan hệ ngoại giao với ta lên 160 nước ). Điều này cho
thấy, vị trí, vai trò và uy tín của Việt Nam ngày một nâng cao ở khu vực và thế
giới.
2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ
(1996-đến nay)
2.2.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004)
Tại đại hội lần thứ VIII (6-1996), Đảng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế, nhiều mặt với nhiều nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực
và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh
quá trình kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác, chủ
trương đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới so với đại hội VII như:
 Mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác
 Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với
các tổ chức phi chính phủ.
 Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương:
“Thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”.
31


33 chấp hành Trung ương, khóa VIII

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban
-

-

(12-1997), đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán
Hiệp định Thương mại Mỹ, Gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để
chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA. Đại hội lần thứ IX (42001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Đảng nêu rõ quan điểm về
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
trước hế là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh
tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phài đi đôi với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp
nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”.
Sau 15 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn
định; “thế” và “lực” của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng;
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện. Tuy nhiên, chúng ta còn
phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm
xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết
liệt”.
Đại hội VIII (tháng 6-1996) và Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp
tục hoàn thiện đường lối đối ngoại thông qua việc khẳng định: “Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Ngoài ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và
6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhệp kinh tế.Hội nghị Trung ương
8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong

tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện thế giới, khu vực từ
1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học kinh
nghiệm về đối ngoại. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định
33


hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta
trong thời gian tới.

35

-

-

Những thành tựu của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới trong chính
sách và hoạt động đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi lĩnh vực
của đất nước, đem lại những thành tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt:
“Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với
169 nước; đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các
nước, trung tâm chính trị – kinh tế lớn trên thế giới”. Chúng ta đã tạo được
khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích với tất
cả các nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào
không ngừng được củng cố và mở rộng, hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ,
hiệu quả. Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng
cao hiệu quả hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên giới,
lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ chức khu vực và quốc tế. Quan hệ với Trung
Quốc được bình thường hóa hoàn toàn và nâng lên tầm cao mới theo phương
châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai”. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới

trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc
Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông – Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng
góp tích cực, góp phần vào việc củng cố đoàn kết, duy trì những nguyên tắc cơ
bản, tăng cường hợp tác nội khối, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của của hiệp
hội ở khu vực và trên trường quốc tế.
Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước
bạn bè truyền thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên, Mông Cổ; các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung – Đông
Âu trên nhiều lĩnh vực, thể hiện tình nghĩa thủy chung, đoàn kết trong chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, chúng ta đã chủ động khôi
phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung Đông và Mỹ

35


La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước bạn trong cuộc đấu
37 dân tộc.
tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết
-

-

Không những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ
hợp tác cùng có lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế – chính trị lớn trên
thế giới. Từ chỗ là hai nước thù địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao và hợp tác với Mỹ trên tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương
lai. Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu, nhất là trên các lĩnh vực kinh tế,

thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch, chuyển giao công
nghệ.
Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực
và quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN,
tham gia ngày càng sâu rộng vào các định chế kinh tế, tài chính, thương mại
của ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực Đầu tư
ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), Diễn đàn
Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ với
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB)… Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX ( 5-12004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt cá điều kiện trong nước để sớm gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc phát
triển đất nước thông qua việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Đặc biệt
là công tác nghiên cứu, tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư;
tham gia giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các
nước khác.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp
chặt chẽ với các mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò
và uy tín của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Phong trào
Không liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp..;
tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển kinh tế – xã

37


hội; đồng thời đóng góp bảo vệ hòa bình và các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế.

39


-

-

Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi
trọng. Về nhận thức, Đảng khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Gần đây, Nghị
quyết 36 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác đối với người Việt Nam ở nước
ngoài đã được ban hành, nhằm xóa bỏ ngăn cách giữa người Việt ở nước ngoài
và người Việt ở trong nước; tạo điều kiện cho bà con hướng về cội nguồn và
tham gia đóng góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân
Việt Nam ở nước ngoài, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với nước sở tại.
2.2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 – 2017)
Đại hội lần thứ X (6-2006), Đảng nêu quan điểm: thự hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển; chính sách
đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời để ra chủ
trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định
đường lối,chính sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung, chủ trương, chính
sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng, phân tích lực chọn phương án hành
động đúng, dự báo được tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế
quốc tế.
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh,
đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình, kế
hoạch, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoành
chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và
nền kinh tế; tích cực nhưng phải thận trọng, vững chắc.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải có ý chí, quyết tâm
của Đảng, Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế và toàn xã hội.

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; nhiều
cơ hội song cũng đầy thách thức, vì vậy ta cần có kế hoạch và lộ trình thích
39


hợp, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy
định của các tổ chức quốc tế mà ta tham41gia. Sau hơn 11 năm chuẩn bị và đàm
-

-

phán, tháng 11-2006, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO).
Việc gia nhập tổ chức quốc tế này là một cột mốc hết sức quan trọng,
mở ra nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế. Đó
là ta được hưởng sự đối xử bình đẳng trong quan hệ thương mại với 150 thành
viên WTO, những hàng rào thuế quan phi WTO mà ta phải chịu trước đây đều
được bãi bỏ tạo điều kiện cho ta tăng khả năng xuất khẩu. Cơ hội để Việt Nam
thu hút đầu tư của các nước cũng tăng lên. Hiện nay ta có quan hệ đầu tư với
khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Một nét mới khác của ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới là ngoại giao
văn hóa được đẩy mạnh và nâng lên thành một trụ cột chính cùng với ngoại
giao chính trị và ngoại giao kinh tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp. Năm 2009
được lấy làm năm Ngoại giao văn hóa. Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các bộ,
ban, ngành và nhiều địa phương triển khai nhiều hoạt động văn hóa đối ngoại
đa dạng, phong phú, mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Nhiều hoạt động
văn hóa đối ngoại được tổ chức trong và ngoài nước, góp phần quảng bá rộng
rãi hình ảnh một nước Việt Nam hòa bình, phát triển và thân thiện với cộng
đồng quốc tế. UNESCO đã ra Nghị quyết kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà
Nội, trao giải thưởng cho Hà Nội là “Thành phố vì hòa bình”. Nhiều di sản của

đất nước, như quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Kho mộc bản triều Nguyễn… và
nhiều thắng cảnh, như Cù Lao Chàm, Mũi Cà Mau v.v.. đã được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa thế giới. Tháng 10-2009, Việt Nam đã được bầu
vào Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2009 – 2013.
Qua 25 năm thực hiện đổi mới trên mặt trận đối ngoại, ngoại giao phối
hợp với các cơ quan liên quan khác đã đạt được những thành tựu to lớn, ghi
đậm dấu ấn của trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh trên thế giới.
Một là, hình ảnh và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế đã được cải
thiện. Việt Nam không những là đất nước hòa bình hữu nghị mà còn là một
nước đã ra khỏi đói nghèo và đang phát triển đầy ấn tượng. Chúng ta đã hoàn
41


thành xuất sắc trọng trách ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
43
hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và đang
hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch
-

-

ASEAN 2010.
Hai là, đã làm công tác ngoại giao kinh tế, là thành viên của ủy ban quốc
gia về hợp tác kinh tế quốc tế, ngoại giao đã chủ động và tích cực tham gia
công tác tham mưu về chính sách kinh tế đối ngoại, nhất là kinh nghiệm của
các nước về chính sách thị trường, đối tác, kinh nghiệm về hội nhập quốc tế, và
luật chơi quốc tế. Đã tranh thủ được một số nước và các tổ chức quốc tế giúp ta
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại v.v.. Ba là,
ngoại giao đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh biên giới lãnh thổ.
Các hiệp định biên giới trên đất liền với Trung Quốc cũng như với Lào và

Campuchia đã tạo cơ sở cho việc xây dựng một khu vực biên giới hòa bình và
phát triển với các nước láng giềng.
Bốn là, thế giới đã đánh giá cao những cố gắng của Việt Nam trong việc
thúc đẩy và bảo về quyền con người ở Việt Nam. Hội đồng Nhân quyền của
Liên hợp quốc đã chính thức thông qua Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện
quyền con người ở Việt Nam và hoan nghênh các cố gắng của Việt Nam trong
việc trao đổi, đối thoại cởi mở với nhiều nước về vấn đề này. Với chính sách
“người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của dân tộc Việt
Nam” và với tinh thần hòa hợp dân tộc, Nhà nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi
cho 20 người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng hướng về Tổ quốc. Ngoài ra,
ta tiếp tục thảo luận với các nước ASEAN cũng như với các quốc gia đối tác để
sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử (COC) ở Biển Đông có tính chất ràng buộc
thay cho Tuyên bố về cách ứng xử (DOC) hiện nay.
Trong chặng đường 65 năm qua, nhất là trong gần 25 năm tiến hành
công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển của đất nước, những thành tựu đó
của ngoại giao Việt Nam đã góp phần cải thiện và nâng cao vị thế của Việt
Nam trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước.

43


2.2.3 Đường lối của Đảng ta trong vấn đề biển Đông năm 2017
Công tác tuyên truyền là một phần45quan trọng trong công tác chính trị tư
-

-

tưởng của Đảng. Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác tuyên
truyền đã trở thành một vũ khí cực kỳ sắc bén trên mặt trận đấu tranh tư tưởng

và ngoại giao, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm vừa qua, cùng với việc tuyên truyền toàn diện, sâu
rộng về công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, công tác
tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo được tiến hành thường xuyên và có kết
quả, góp phần nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và của nhân dân về
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Công tác tuyên truyền về chủ quyền biển,
đảo đã đóng góp tích cực vào việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia trên
biển trước các hành vi, thủ đoạn xâm lấn và gây mất ổn định trên biển.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tuyên truyền chủ quyền
biển, đảo thời gian qua còn bộ lộc nhiều hạn chế: vẫn còn để một bộ phận cán
bộ và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về cơ sở pháp lý cũng như những cứ
liệu lịch sử khẳng định chủ quyền biển, đảo của nước ta; cộng đồng quốc tế,
đặc biệt là một số nước trong khu vực chưa có đủ thông tin pháp lý về chủ
quyền biển, đảo của Việt Nam cũng như đường lối đối ngoại của Việt Nam
trong giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình và ổn định ở biển Đông.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do chứng ta có lúc, có nơi còn
chưa quan tâm đúng mức đến công tác tuyên truyền về chủ quyền biển đảo;
việc xác định phạm vi, đối tượng tuyên truyền còn bất cập; nội dung tuyên
truyền chưa thực sự khoa học, phù hợp; phương pháp tuyên truyền còn đơn
điệu; phương tiện tuyền truyền chưa đa dạng, chưa liên tục và đôi khi chưa kịp
thời; việc tuyên truyền đấu tranh, phản bác các quan điểm sai ưái của các thế
lực thù địch trong các vấn đề liên quan tới chủ quyền biển, đảo còn thụ động và
chưa đồng bộ...
Để tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về nhiệm vụ phát triển kinh tế biển,
đảo phục vụ CNH, HĐH đất nước, nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng, an
ninh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta cần
45



phải tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao hiệu quả tuyên truyền
và coi đây là vũ khí đấu tranh hiệu quả 47
trước các âm mưu, thủ đoạn gây tranh
-

chấp về chủ quyền biển, đảo.

47

-


CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ
49 TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI
ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
-

-

3.1. Chủ trương, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong
thời gian tới
Cụ thể hóa chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện của Đại hội XI theo
hướng hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục là ưu tiên hàng đầu; tham gia hội nhập
về an ninh – chính trị thông qua việc tham gia các diễn đàn và cơ chế an ninh –
chính trị khu vực, quốc tế; phấn đấu trở thành thành viên chủ động, tích cực, có
trách nhiệm trong các sinh hoạt quốc tế vì hòa bình, hữu nghị. Tích cực xây
dựng và củng cố ASEAN hướng tới xây dựng Cộng đồng vào năm 2015. Ở cấp
độ toàn cầu, tiếp tục và nâng cao vai trò thành viên tích cực của Liên Hiệp
Quốc, hoàn thiện đội ngũ cán bộ để đảm nhận vai trò Ủy viên không thường
trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ sau (phấn đấu 2020-2021).

Đồng thời, cần phát huy vai trò ở các liên kết khu vực và quốc tế…
Trong 5 năm tới, hội nhập kinh tế quốc tế cần chuyển từ “chiều rộng, gia
nhập, ký kết” sang “chiều sâu, tham gia, thực hiện”, nhằm tạo dựng môi trường
hòa bình, thuận lợi cho phát triển kinh tế trong nước. Ngoại giao kinh tế cần
làm tốt vai trò thúc đẩy việc hoàn tất cam kết gia nhập WTO và các Hiệp định
tự do thương mại (FTA) đã ký; tham gia đàm phán các FTA mới với EU và các
đối tác khác, Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đổi mới
tư duy tiếp cận trong triển khai công tác hội nhập kinh tế quốc tế, chuyển từ tư
duy “phục vụ” nhu cầu hội nhập sang “triển khai” hội nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với ngoại giao đa phương, triển khai ngoại giao toàn diện, đưa
quan hệ song phương với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và hiệu quả:
Làm sâu sắc các mối quan hệ hiện có, thực hiện và mở rộng quan hệ đối tác
chiến lược, toàn diện trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, tôn trọng lẫn nhau,
bình đẳng cùng có lợi, vì lợi ích mỗi nước và lợi ích chung của hòa bình phát
triển trong khu vực và trên thế giới.
Cùng với ngoại giao kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại giao
kinh tế trong những năm sắp tới cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tham mưu
đề xuất cho Chính phủ theo năm nhiệm vụ mà Thủ tướng đã giao. Đó là: Tham
49


×