Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Nguyễn Minh Châu Phong cách nghệ thuật.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.82 KB, 13 trang )

Nhóm 8.

NGUYỄN MINH CHÂU
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn hang đầu của nền Văn học Việt Nam
hiện đại. Là cây bút văn xuôi có đóng góp xuất sắc cho nền văn học thời kì kháng chiến chống
Mĩ, Nguyễn Minh Châu lại thuộc trong số những người mở đường tinh anh cho công cuộc đổi
mới văn học Việt Nam thời kì từ sau năm 1975.
I.

Tiểu sử và con người
1. Tiểu sử:

Nguyễn Minh Châu sinh ngày 23-10 năm 1930 trong một gia đình nông dân khá giả ở
làng Thơi thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Là con út trong một gia đình có sáu anh chị
em, Nguyễn Minh Châu được tạo điều kiện học hành khá chu đáo. Học ở quê rồi vào Huế, học
tiếp đầu năm 1945 khi Nhật đảo chính Pháp thì trở về quê thi đỗ bằng Thành chung. Những năm
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Minh Châu tiếp tục học trung học trong vùng
kháng chiến. Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở
Nghệ An, Nguyễn Minh Châu tình nguyện vào quân đội. Sau một khóa đào tạo ngắn của trường
Lục quân, Nguyễn Minh Châu về sư đoàn 320 làm cán bộ trung đội. Trong những năm từ 1950
đến 1954, Nguyễn Minh Châu cùng đơn vị chiến đấu và hoạt động ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Sau năm 1954, Nguyễn Minh Châu tiếp tục phục vụ trong quân đội làm cán bộ tuyên huấn tiểu
đoàn.
Năm 1959, Nguyễn Minh Châu đi dự hội nghị bạn viết toàn quân, 1960 được điều động
về cục Văn hóa quân đội, rồi về tạp chí Văn nghệ quân đội vừa làm biên tập vừa làm phóng viên.
Tại đây, Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn và cho in những truyện ngắn đầu tay nhưng chưa
gây được sự chú ý. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu chỉ thực sự được khẳng định
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ với hai cuốn tiểu thuyết Cửa sông ( 1966), Dấu chân người
lính ( 1972) và tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970). Nguyễn Minh Châu đã có
nhiều chuyến đi thực tế chiến trường, từ Quảng Bình, Vĩnh Linh đến đường 9 Nam LÀo và đặc
biệ là chiến trường Quảng Trị- nơi diễn ra nhiều chiến dịch hết sức quyết liệt trong cuộc kháng


chiến chống Mĩ. Là nhà văn quân đội, Nguyễn Minh Châu đã phản ánh kịp thời những hình ảnh
sinh động của cuộc chiến đấu và hình tượng cao đẹp của những con người Việt Nam thuộc nhiều
thế hệ. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và suy ngẫm về nhiều vấn đề của đời sống xã hội và số
phận con người ngay trong chiến tranh, được ông ghi lại trong nhiều trang sổ tay và sau này sẽ
trở thành những vấn đề chủ đạo trong sáng tác thời hậu chiến của chính ông.
Ngay sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những hạn chế của nền văn học
thời chiến tranh và thầm lặng nhưng dung cảm và kiên định tìm kiếm con đường đổi mới sang
tác của chính mình. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1977: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà
đã đem lại một sắc diện mới trong sang tác của nhà văn. Những truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu ra mắt bạn đọc ở nửa đầu những năm 1980 thực sự là những tìm tòi mới, với cái nhìn mới


về hiện thực và con người, khiến Nguyễn Minh Châu trở thành một trong những người mở
đường tinh anh và tài năng nhất của công cuộc đổi mới văn học. Khi công cuộc đổi mới đất nước
được chính thức phát động. Nguyễn Minh Châu nhiệt tình và đầy tâm huyết với công cuộc đổi
mới nền văn học nước nhà, vừa bằng những phát biểu trực tiếp, mạnh mẽ, vừa bằng những sang
tác đã đạt đến độ sâu của tư tưởng và sự kết tinh nghệ thuật cao. Nhưng số mệnh nghiệt ngã với
căn bệnh hiểm nghèo ung thư máu đã khiến hành trình sang tạo của Nguyễn Minh Châu phải đột
ngột dừng lại khi vừa đạt tới độ chính của tài năng. Ngày 23 tháng 1 năm 1989, Nguyễn Minh
Châu trút hơi thở cuối cùng tại Viện quân y 108 Hà Nội, sau gần một năm chống chọi với bạo
bệnh, để lại nhiều dự định sang tác còn đang ấp ủ. Tác phẩm cuối cùng – truyện vừa Phiên chợ
Giát được hoàn thành ngay trên giường bệnh trước đó không lâu.

2. Con người:

Con đường đến với nghề văn của Nguyễn Minh Châu cũng giống với con đường của
nhiều cây bút cùng thế hệ ông như : Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, NGuyễn Thi, Hồ Phương,
Xuân Thiều, Lê Khâm.. Đó là một thế hệ đã cầm súng khi cầm bút và chính sự trải nghiệm cuộc
đời người lính trong sự gắn bó với nhân dân qua những năm tháng chiến tranh đã dẫn họ đến với
con đường nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu đến với văn học khá muộn, truyện ngắn đầu tay được

in lúc đã 30 tuổi và đã có 10 năm trong quân ngũ. Nhưng chính chặng đường 10 năm trước đó là
sự chuẩn bị cần thiết cho việc bắt đầu con đường sang tác của nhà văn.
Về đặc điểm con người NGuyễn Minh Châu, những bạn bè quen biết ông đều thấy dưới
cái bề ngoài không có gì nổi bật, thậm chí hơi dè dặt, ngần ngại nói trước đám đông nhưng ở bên
trong là một con người nhiều ưu tư trăn trở, có niềm tin vững chắc vào sự lựa chọn của mình và
một ý chí kiên định con người đã lựa chọn, dám chấp nhận mọi sự khó khan, thách thức, mà có
người gọi đó là “sự dung cảm rất điềm đạm”. Nguyễn Minh Châu cũng là một nhà văn luôn suy
nghĩ về chính công việc viết văn của mình, với ý thức trách nhiệm của ngòi bút trước thời đại,
trước dân tộc và trước bạn đọc.

II.

Quan niệm nghệ thuật:

Là người viết không chỉ dựa vào bản năng thiên bẩm mà còn luôn quan sát và suy nghĩ về
chính công việc của mình và đồng nghiệp, ở Nguyễn Minh Châu đã hình thành ý thức nghệ thuật
khá nhất quán và ngày càng toàn diện, sâu sắc trong hành trình sáng tạo của nhà văn.
Như mọi nhà văn chân chính, mối quan tâm trước hết ở Nguyễn Minh Châu là mối quan
hệ giữa văn học với cuộc sống, với thời đại. Ngay từ thời kì đầu cầm bút, nhà văn đã quan niệm:
“Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng phải đối mặt
với những người đương thời về những câu hỏi cấp bachý của đời sống” ( Nhà văn, đất nước và


dân tộc mình). Ngay từ năm 1971, trong bài Trang sổ tay viết văn, khi nhìn lại các sáng tác văn
học trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu đã nhận ra một hạn chế
của nhiều tác phẩm “Hình như cuộc chiến đấu anh hùng sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và
thơ ca tráng lên một lớp “men” trữ tình hơi dày, cho nên ngắm nó thấy mỏng mảnh, bé bỏng và
óng chuốt quá khiến người ta phải ngờ vực”. Sau 1975, nhận thức của nhà văn về hiện thực càng
được rộng mở và đạt tới những chiều sâu mới. Ngòi bút của Nguyễn Minh Châu không còn bị
khuôn vào trong những đường hướng, những khuôn khổ có sẵn mà mở ra để khám phá toàn bộ

đời sống xã hội và con người trong tính “Đa sự, đa đoan” của nó. Đồng thời, quan niệm về hiện
thực ở Nguyễn Minh Châu cũng luôn gắn liền với nền tảng tinh thần nhân bản: “Văn học và đời
sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Trả lời phỏng vấn báo Văn nghệ
đầu xuân 1987).
Nhìn lại văn học viết về chiến tranh trước 1975, nhà văn nhận ra rằng các sự kiện thường
lấn át con người, nhân vật nhiều khi chỉ là phương tiện để nhà văn tái hiện, xâu chuỗi các biến cố
lịch sử. Từ đó, ông nghiệm ra rằng “Phải viết về con người. Tất nhiên là con người không tách
rời sự kiện chiến tranh”, “Rồi trước sau con người cũng đã leo lên trên các sự kiện để đòi “quyền
sống”. Với Nguyễn Minh Châu, cái hiện thực phong phú, nhiều vẻ đẹp nhất và cũng bí ẩn nhất
đó là thế giới bên trong con người. Nếu như trong thời kì chiến tranh, khát vọng của nhà văn là
“gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”, mà mỗi con người trong
chiến tranh là cả một kho báu, người cầm bút suốt đời cũng không khám phá hết được. Còn sau
chiến tranh, khi đã có điều kiện để tiếp cận con người trong tính hiện thực toàn vẹn của nó, nhà
văn lại thấy bên trong mỗi con người “đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn
rết, thiên thần và ác quỷ” (Bức tranh).
Như mọi nhà văn chân chính, khi lựa chọn việc cầm bút loàm sự nghiệp của đời mình,
Nguyễn Minh Châu đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm, về sứ mệnh của nhà văn trước cuộc đời,
trước đất nước, trước con người. Trong những năm kháng chiến, khi cùng với đông đảo những
người cầm bút đứng vào hàng ngũ của nhân dân để đánh giặc, nhà văn thấu hiểu trách nhiệm
thiêng liêng của người cầm bút là trách nhiệm công dân: “Khi chúng ta ngồi viết những câu văn
thì bố mẹ và anh chị em ta đang đổ mồ hôi và vắt óc nghĩ cách đánh giặc, mọi người chung
quanh ta đang đứng trên từng vị trí kháng chiến cứu nước của họ. Chúng ta ngồi viết giữa khi kẻ
thù đang châm lửa đốt nhà và kề miệng súng vào ngực đứa con ta. Lẽ nào có thể làm ngơ được?
Lẽ nào chúng ta có thể viết được những câu văn trái với điều nhiều người xung quanh hiện đang
phải lo nghĩ để chiến thắng giặc”. Nhưng khi công cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc
đã được hoàn thành thì cuộc đấu tranh cho tự do và sự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân còn
phải tiếp tục lâu dài và khó khăn, nhà văn cần phải dùng “ngòi bút của mình” trợ lực cho con
người trong cuộc đấu tranh giữa thiện và ác”.
Càng ngày, Nguyễn Minh Châu càng tha thiết với sứ mệnh của văn chương và nhà văn
trong mục tiêu cao cả vì con người. Ông viết: “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế:

để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc
số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt


hủi và đầy đọa đến ê chề, hoàn toàn mất hết niềm tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại
trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi).
Để làm được như thế, phẩm chất đầu tiên cần có của một người viết văn phải là tình yêu thương
con người: “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong
mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ
vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài
thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy
trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của
người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc
sống” (Trả llời phỏng vấn báo Văn nghệ đầu xuân 1986).
Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đặc biệt là những sáng tác từ sau 1975 đã thể hiện
“mối quan hoài sâu sắc” và thường trực của nhà văn với số phận và nỗi khổ đau của con người.
Điều đáng chú ý là ở Nguyễn Minh Châu giữa những quan niệm, nhận thức được phát
biểu trực tiếp với tác phẩm luôn có sự thống nhất, quá trình sáng tác cũng là quá trình nhà văn tự
tìm kiếm và xác định ngày càng toàn diện và sâu sắc quan niệm nghệ thuật của mình
III.

Con đường sáng tác.
1. Sáng tác từ 1975 về trước:

Trước khi cuộc kháng chiến chống mĩ bùng nổ trong cả nước, Nguyễn Minh Châu đã có
hơn 10 truyện ngắn và bút kí in trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Nhưng phải đến tiểu thuyết Cửa
sông ( 1967) thì con đường văn học của ông mới thực sự được định hình.Tiếp đó, tập truyện
ngắn Những vùng trời khác nhau( 1970) đã đưa Nguyễn Minh Châu vào trong số những cây bút
văn xuôi hàng đầu của văn học chống mĩ
“ Cửa sông” là cuốn tiểu thuyết in đậm dấu ấn thời sự của những ngày đầu đất nước bước

vào cuộc chiến tranh chống mĩ.Câu chuyện về một làng quê ở vùng cửa sông ven biển miền
trung vào những ngày đầu cuộc chiến trang phá hoại của mĩ.Cuộc sống ở một làng quê vừa bình
tĩnh, chủ động và khẩn trương khi chiến tranh xảy đến. Cái mà nhà văn đã cảm nhận và thể hiện
được là sự vững vàng, bình tính của chúng ta đó nhận tình thế mới , và điều quan trọng hơn nữa
chính là cuộc chiến tranh đã gắn kết hết thảy mọi người, từ các thành viên trong gia đình ông
Vàng đến mọi ng dân làng Kiều, giúp họ vượt qua những ngăn cách để gần nhau hơn trong 1 tâm
trạng chung, một mối lo toan chung.Cửa sông là hình anhr về quê hương ta trong chiến
tranh( Phong Lê).
Tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) gồm 3 phần: Hành quân, Chiến dịch bao vây, Đất
giải phóng, đã dựng lại những khung cảnh rộng lớn và hào hùng của cuộc chiến tranh với những
cảnh vượt Trường Sơn của các binh đoàn chủ lực, rồi những chiến dịch Khe Sanh- Tà Cơn với
những trận chiến ác liệt trên vùng đất Quảng Trị.Cùng với việc tái hiện bối cảnh và không khí
lịch sử, ngòi bút của NMC đã tập trung khắc họa hình tượng ng lính cách mạng với hàng chục
nhân vật thuộc các thế hệ khác nhau. Đông đúc và sinh động nhất là thế hệ trẻ, mà tiêu biểu là


Lữ, Khuê, Cận. Đến với quân đội từ những vùng, miền, hoàn cảnh xuất thân khác nhau , nhưng
học đều mang những phẩm chất chug của thế hệ trẻ thời bấy giờ: Lòng yêu nước và ý thức trách
nhiệm với Tổ Quốc, niểm say mê chiến đấu, tâm hồn trong sáng. Bên cạnh 1 Lữ giàu mơ mộng,
lãng mạn, nhạy cảm là Khuê thông minh, sắc sảo tinh nhạy- họ như là sự bổ sung cho nhau để
tạo nên gương mặt lí tưởng của thế hệ trẻ trong ý đồ sáng tạo của nhà văn. Nhân vật chính ủy
Kinh cũng để lại được những ấn tượng đẹp về thế hệ những người lính lớp trước từng trải qua hai
cuộc chiến tranh.Phẩm chất nổi bật ở người cán bộ này là tình yêu thương sâu sắc của ông với
mọi chiến sĩ, được thể hiện bằng sự gần gũi. Chăm lo rất cụ thể với các chiến sĩ. Dấu chân người
lính lôi cuốn người đọc bằng chất sử thi hào hùng cùng vói màu sắc trữ tình lãng mạn, nhất là ở
những trang miêu tả thiên nhiên, rung động trong tâm hồn các nhân vật.
Một điều đáng chú ý trong hai cuốn tiểu thuyết ở thời kì này của NMC là cùng với việc thể
hiện cảm hứng sử thi bao trùm thời đại, nhà văn cũng bộc lộ sự nhạy cảm trước những câu
chuyện tình đời, những số phận éo le của con người, dù đó mới chỉ là những âm trầm, nốt lặng
xen vào bản giao hưởng hào hùng. Đó là câu chuyện éo le, khó xử của ông Vàng với 2 bà vợ

trong Cửa Sông, là mối tình nồng nàn mà ngang trái của Lượng và Xiêm, là tình yêu giàu lí
tưởng mà thầm lặng của Lữ với cô văn công Thu Hiền, là nỗi đau của chính ủy Kinh trước cá
chết của Lữ, đứa con trai hi sinh lúc còn quá trẻ trong “Dấu chân người lính”.
Tập truyện ngắn Nhữn vùng trời khác nhau ( 1970) gồm bảy truyện ngắn, chủ yếu được viết
trong những năm đầu chiến tranh chống Mĩ. Tất cả đều là những câu chuyện, những hình ảnh
trong chiến tranh. Cùng với hình ảnh người lính ghi đậm nét hơn cả lại là một số nhân vật phụ
nữ, như Thận ( Nhành Mai) , Bà mẹ ( Bà mẹ xóm Nhà thờ), Nguyệt ( Mảnh trăng) . Ở tập truyện
ngắn đầu tay này, ngòi bút của tác giả chưa phải thật sự đã già dặn trong nghệ thuật kể chuyện, tổ
chức kết cấu , tạo tình huống . Một số truyện còn được xây dựng theo mạch kể chuyện khá đơn
giản. Đặc sắc hơn cả là truyện Mảnh trăng (về sau , khi in trong tuyển tập truyện ngắn có tên là
mảnh trăng cuối rừng). Ở tập truyện ngắn này cũng đã bộc lộ 1 số đặc điểm trong bút pháp của
NMC là sử dụng hình ảnh biểu tượng : Nhành mai, mảnh trăng trong truyện ngắn cùng tên, dòng
suối ( trong Nguồn suối).
2. Sáng tác từ sau 1975.

Nguyễn Minh Châu là nhà văn nhạy cảm với những biến đổi của đời sống xã hội ngay
sau chiến tranh. Hai cuốn tiểu thuyết Miền Chay và Lửa từ những ngôi nhà cùng xuất bản năm
1977 đã mang đến sắc điệu mới trong sáng tác của nhà văn.
Miền Cháy là câu chuyện của đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh phải đối mặt với bao
nhiêu khó khăn và thách thức – nhiều cái là hậu quả của chiến tranh, nhiều cái lại nảy sinh sau
cuộc chiến tranh trong hàng ngũ những người chiến thắng. Ở cuốn tiểu thuyết này Nguyễn Minh
Châu đã sớm cảnh báo về những ung nhọt, hiểm họa của cái xấu, cái ác đang mọc ra ngay trong
hàng ngũ cách mạng sau ngày chiến thắng. Những cán bộ được nhân dân che chở nuôi dưỡng


trong thời kì chiến tranh nay có quyền lực đã bắt đầu rời xa nhân dân, quan liêu, thờ ơ trước số
phận của người dân. Qua Miền cháy, tác giả còn nêu cao tinh thần hòa hợp, lòng khoan dung –
những cái cần phải có lúc này ở mỗi con người, nhất là ở những người chiến thắng, để chung tay
xây dựng cuộc sống của một đất nước đã phải gánh chịu quá nhiều đau thương tàn phá.
Tiểu thuyết Lửa từ những ngôi nhà được nhà văn Nguyễn Minh Châu viết trong những

năm cuối chiến tranh, nhưng phải đến 1977 mới được ra mắt độc giả. Qua câu chuyện một
chuyến về phép của người lính từ chiến trường về thành phố, hình ảnh của hậu phương hiện ra
không êm ả như nhiều sách hồi đầu chiến tranh thường mô tả, mà tiềm ẩn không ít vấn đề.
Nhưng vượt lên trên khó khăn vẫn là một hậu phương vững chắc với những con người dành tất
cả cho tiền tuyến. Đặt người lính vào trong môi trường sinh hoạt ngày thường ở hậu phương,
nhìn họ ở cự li gần, Nguyễn Minh Châu thấy được những thiếu hụt ở nơi họ và điều đó như một
sự báo về trở ngại đối với người lính khi họ trở về sau chiến tranh.
Hai cuốn tiển thuyết trên có thể coi là những cố gắng đầu tiên của Nguyễn Minh Châu để
chuyển hướng ngòi bút của mình khi bước sang một thời kì mới. Tuy nhiên, các ý tưởng mới của
tác giả chưa phải được hóa thân đầy đủ và sâu sắc vào trong các hình tượng và chi tiết nghệ thuật
nên đã hạn chế phần nào sức thu hút và giá trị của những tiểu thuyết ấy. Trong những năm 80,
Nguyễn Minh Châu còn có 2 tiểu thuyết được xuất bản: Những người đi từ trong rừng ra
(1982) và Mảnh đất tình yêu (1987).
Với bốn tiểu thuyết trên đã thể hiện những chuyển biến trong tư tưởng và nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn sáng tác năm 1975. Nhưng sự đổ mới của nhà văn còn được thể
hiện đầy đủ và rõ nét hơn trong các truyện ngắn và truyện vừa của ông, đồng thời bộc lộ trực tiếp
nhiều bài tiểu luận và chân dung văn học.
Ngay từ những năm 1978, trong bài Viết về chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã xác định
một định hướng đúng đắn: viết về chiến tranh là viết về con người, cố nhiên là con người trong
các quan hệ với những sự kiện chiến tranh. Cũng ngay từ 1976, nhà văn đã đặt bút viêt truyện
ngắn Bến quê mà mãi đến 1982 mới được ra mắt công chúng. Từ đó hàng loạt truyện của
Nguyễn Minh Châu lân lượt được công bố, tạo nên một sự kiện có tiếng vang trong đời sống văn
học những năm 1980, thậm chí đã là đề tài cho một cuộc trao đổi có nhiều ý kiến trái ngược. Hầu
hết các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn này đã được tập hợp in trong 3 tập :
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Cỏ lau (1989).
Trước hết nhà văn mở ra những bình diện mới của hiện thực cùng với những hướng tiếp
cận mới. Sự quan tâm của tác giả hướng vào đời sống hàng ngày đang ẩn chứa bao nhiêu vấn đề
của các quan hệ nhân sinh, đạo đứa và các số phận con người. Nguyễn Minh Châu thấy ngày
càng có nhiều vấn đề quan tâm và nhà văn muốn “dùng ngòi bút tham gia trợ lực cho con
người trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong mỗi con người”. Nhiều chuyện ngắn

chỉ là câu chuyện hằng ngày trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, trong khu tập thể ( Mẹ con
chị Hằng, Giao thừa, Đứa ăn cắp, Người đàn bà tốt bụng,…). Nhưng qua những sự việc, câu


chuyện dường như bình thường nhà văn đã nghiệm thấy những quy luật của đời sống, và không
ít vấn đề về cách sống, cách ứng xử của con người. Sự vô tâm trong cách ứng xử với mẹ của chị
Hằng chỉ đáng trách, nhưng vô tâm và thói xấu “ngồi lê đôi mách” của những người đàn bà trong
khu tập thể có thể dẫn đến cái chết thương tâm của 1 cô gái bọ nghi là đứa ăn cắp. Thể hiện
những điều quan sát ở đời thường của những người xung quanh, nhà văn muốn lưu ý mọi người
về cách sống, thức tỉnh mọi người nhìn lại những thói quen, những cách ứng xử với người khác
và chính mình. Các truyện Bức tranh, Sắm vai, Dấu vết nghề nghiệp lại hướng và ý thức tự vấn
đề con người tự nhìn vào chính mình, nhất là con người bên trong. Mỗi truyện là một cuộc tự
vấn, là sự xung đột giữa phần con người chân chính với phần tầm thường, giả dối, ích kỉ trong
chính mình để vượt lên, hướng tới cái thiện. Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu còn thể hiện
sự chiêm nghiệm về đời người (Bến quê), bi kịch của số phận chiến tranh (Cỏ lau),…
Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng được những hình tượng nhân vật đặc
sắc, có sức ám ảnh mạnh mẽ mà nổi bật là Qùy ( Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành),
Hạnh (Bên đường chiến đấu),… Những nhân vật này khi mới xuất hiện có làm cho một số
người đọc, kể cả một số đồng nghiệp, cho là nhân vật dị biệt và hoài nghi tính chân thực của hình
tượng ấy. Nhưng thực tế đã vượt xa cách hiểu các tầm hạn hẹp ấy, các nhân vật này là thành công
của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc đào sâu vào bản thể đầy phức tạp, sinh thành của
mỗi các nhân con người. Nguyễn Minh Châu còn có bộ truyện 3 tập viết cho thiếu nhi: Từ giã
tuổi thơ (1974), Những ngày lưu lạc (1981), Đảo đá kì lạ (1985).
Trong giai đoạn từ sau 1975, ông còn viết nhiều bài về văn học, hoặc dưới dạng những
trang sổ tay ghi chép. Phần lớn các bài này sau khi Nguyễn Minh Châu qua đời đã được tập hợp
trong cuốn Trang giấy trước đèn (1994). Những bài này chứa nhiều suy nghĩ, trăn trở để đổi mới
văn học, bộc lộ trực tiếp nhiều khía cạnh trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu,
cũng là đóng góp đáng kể của nhà văn vào sự chuyển biến ý thức ngệ thuật ở buổi đầu thời kì đổi
mới.


3. Vị trí và những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong nền văn học

đương đại.
3.1. Đổi mới ý thức nghệ thuật.
Sự đổi mới văn học phải được bắt đầu từ sự đổi mới các quan niệm về văn chương, về mối
quan hệ của nhà văn với hiện thực và với công chúng. Ngay trong những năm chiến tranh, khi
sáng tác những tác phẩm mang đậm không khí sử thi hào sảng của thời đại, Nguyễn Minh Châu
đã thầm lặng suy nghĩ về những bước đi sắp tới của nền văn học khi cuộc chiến đấu giành độc
lập tự do của dân tộc đã hoàn thành. Ông viết trong nhật kí: “Trong cuộc chiến đấu để giành lại
đất nước với kẻ thù bên ngoài hai mươi năm nay, ta rèn cho dân tộc ta bao nhiêu đức tính tốt đẹp
như lòng dũng cảm, sự xả than vì sự nghiệp của Tổ quốc. Nhưng bên cạnh đó, hai mươi năm nay
ta không có thì giờ để nhìn ta một cách kỹ lưỡng. Phải chăng bên cạnh những đức tính tốt đẹp thì


tính cơ hội, nịnh nọt, tham lam, ích kỉ, phản trắc, vụ lợi, còn được ẩn kín và có lúc ngấm ngầm
phát triển đến mức lộ liễu. Bây giờ ta phải chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này, ta
phải chiến đấu cho từng con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp. Chính cuộc chiến
đấu ấy mới lâu dài.” Sau chiến tranh, Nguyễn Minh Châu sớm ý thức được đòi hỏi phải đổi mới
văn học và nhà văn đã trực tiếp bày tỏ những suy nghĩ đầy tinh thần trách nhiệm của một nhà văn
trước xã hội và con người.
a. Mở rộng quan niệm về hiện thực và mối quan hệ giữa văn học với đời sống.

Trong bài báo gây tiếng vang sâu rộng đương thời – Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn
văn nghệ minh họa, Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra giới hạn chật hẹp của quan niệm về hiện thực
trong văn học của ta suốt một thời kì dài, mà nhà văn dùng hình ảnh “Cái hành lang hẹp và thấp”
khiến cho mỗi người viết phải tự mình “bạt bớt chiều cao, thu hẹp bớt chiều ngang để có thể đi
lại dễ dàng.” Đó là “ thứ văn nghệ minh họa” chi quen “cài hoa, kết lá, vờn mây cho những
khuôn khổ đã có sẵn”. Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975, cái nhìn hiện thực
không còn bị bó hẹp trong những khuôn khổ có sắn mà mở ra trong một thực tại đa chiều, luôn
biến động và đầy bất ngờ, như lời Nguyễn Minh Châu: “Cuộc đời vốn đa sự con người thì đa

đoan.” Mỗi tác phẩm phải là sự khám phá những quy luật của đời sống, với ý thức ấy, nhiều tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu sau 1975 là những cuộc đối chứng với những quan niệm, nhận
thức hạn hẹp, chủ quan của một thời trong cách nhìn cuộc đời và con người.

b. Về bản lĩnh và trách nghiệm của nhà văn.

Cùng với việc phê phán mạnh mẽ để từ bỏ thứ “Văn nghệ minh họa” Nguyễn Minh Châu
cũng chỉ rõ sự hạn chế của việc nhà văn “chỉ được giao phó nhiệm vụ truyền đạt chủ trương
chính sách bằng hình tượng sinh động.” Điều đó dẫn đến hậu quả là “nhà văn đánh mất cái đầu
và tác phẩm đánh mất tính tư tưởng”. Với một tinh thần nghiêm khắc tự nhìn lại mình và đội ngũ
nhà văn, Nguyễn Minh Châu đã thẳng thắn chỉ ra sự thiếu hụt về bản lĩnh, thói quen che chắn,
rào đón do một cái sợ cố hữu luôn ám ảnh, đến nỗi không ít người tự đánh mất mình. Cùng với
việc thức tỉnh ý thức về bản thân và tự do sáng tạo của người cầm bút, Nguyễn Minh Châu luôn
tự nhắc nhở về trách nhiệm cao cả của nhà văn. Nhà văn phải là người thức tỉnh xã hội và cảnh
báo trước những nguy cơ đến với nhân loại. Nhưng trước hết, người cầm bút phải là người có
tình yêu tha thiết với cuộc sống, nhất là với con người.
Nhà văn có trọng trách của nhà văn hóa: “chúng ta có nhiệm vụ chăm chút, giữ gìn cho đất
nước những cái gì thật lâu đời, bền chặt, mà cũng thật là mỏng manh: tính thật thà, hồn hậu,
niềm tin nền phong hóa nhân bản, tính bẽn lẽn cả thẹn của người phụ nữ, ý thức cộng đồng dân
tộc tạo nên khí phách anh hùng, long trung thực và tính giản dị v.v…”


c. Về tự do sáng tạo của người nghệ sĩ

Nguyễn Minh Châu là người sớm nói lên khát vọng dân chủ trong đời sống văn nghệ và tự
do sáng tạo của người nghệ sĩ, điều mà nhà văn trăn trở từ lâu, nhưng chỉ có thể bộc lộ khi có
công cuộc đổi mới. Ông đã nhận thấy, suốt một thời gian dài nhà văn của ta “chỉ được giao phó
công việc như một cán bộ truyền đạt đường lối, chính sách bằng hình tượng văn học sinh động”,
đội ngũ cầm bút được “chăm sóc, chăn dắt quá kĩ lưỡng” để không đi chệch khỏi định hướng
nhiệm vụ đó. Ông cũng nói thẳng về tình trạng mất dân chủđã tồn tại quá lâu trong đời sống văn

nghệ: sự áp đặt của lãnh đạo văn nghệ, sự “cảnh giác” quá mẫn cán của giới phê bình. Tất cả
điều đó đã dẫn đến nền văn nghệ minh họa và sự mai một tài năng và các tính của nhà văn. Ông
tha thiết kêu gọi “khuyến khích cá tính, khuyến khích sáng tạo và chấp nhận đa dạng, chấp nhận
sáng tối, hoàn toàn đặt lòng tin vào lương tri của các nhà văn, không nửa tin nửa nghi ngờ và đề
phòng, để cho văn nghệ một khoảng đất rộng rãi hơn”.

3.2. Đổi mới cách nhìn và sự khám phá về con người.

NMC trước sau đều hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá và thể hiện con người.
Nhưng sự nhận thức của nhà văn về con người cũng là một quá trình mở rộng và đào sâu trên cả
hành trình sáng tác. Trong những năm chiến tranh, khi hướng tới sự khái quát bức tránh lịch sử
vói cảm hứng sử thi lãng mạn, NMC tập trung thể hiện những vẻ đẹp cao cả cùng với “ những
hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”.
Những nhân vật và thành công của NMC, dù ít nhiều có nét riêng nhưng vẫn nằm trong
khuôn mẫu chung của nhân vật sử thi mà tính loại hình nổi trội hơn tính cá biệt. Sau chiến tranh,
NMC đã dần đi tới quan niệm toàn vẹn và đa chiều về con người. Vượt qua quan niệm còn phiến
diện và 1 chiều của văn học sử thi, nhà văn tiếp cận con người trên nhiều bình diện và nhiều
tầng bậc: con người thế sự, đời tồn tại cùng với con người lịch sử- xã hội, con người trong tính
cá thể riêng biệt và tính nhân loại phổ quát… hứng thú nhất với ngòi bút NMC là khám phá cái
thế giới bên trong, đầy bí ẩn của con người, lật xới vào những tầng đáy sâu của tâm lí, tư tưởng,
và cả tiềm thức, tâm linh của con người.
Với cái nhìn mới của nhà văn, con người hiện ra không còn thuần nhất mà là trong tính
lưỡng diện, đa diện và luôn biến động không ngừng. Dù vậy, nhà văn vẫn đặt niềm tin vào con
người, muốn dùng ngòi bút tham gia trợ lực cho con ng trong cuộc chiến trah giữa cái thiện và
cái ác, thức tỉnh ở con người ý thức tự vấn để hướng tới hoàn thiện.
Từ sự đổi mới cách nhìn con người, NMC đã đạt đến nhiều thành công trong sự khám
phá và thể hiện con ng. Thế giới nhân vật trong sáng tác của MNC sau năm 1975, mà chủ yếu là
ở các truyện ngắn gồm 3 kiểu loại chính: nhân vật tư tưởng, nhân vật thế sự và nhân vật tính



cách- số phận. Mỗi kiểu loại nhân vật ấy đều có khả năng và giá trị riêng trong việc khám phá và
thể hiện con người. Các nhân vật tư tưởng (như ng họa sĩ trong Bức tranh, nhà văn T trong Sắm
vai, Nhĩ trong Bến quê) không phải là đại điện cho một loại người , một giai tầng xã hội , cũng
không được chú trọng tính cách, mà là phương tiện để nhà văn trình bày phát hiện của mình về 1
vấn đề tư tưởng , đạo đức hay để chiêm nghiệm vè quy luật của đời sống . Những nhân vật này
thường xuất hiện trong các truyện mang tính triết luận và dễ có nguy cơ trỏ thành cái loa phát
ngôn cho tư tưởng của tác giả,nhưng may mắn là các nhân vật tư tưởng của NMC nhờ sự hiểu
biết lẽ đời và khả năng phân tích tâm lí con ng của tác giả mà k bị trở thành khô cứng , thiếu sức
sống. Quan sát những con nguwofi xung quanh mình trong dòng đời tưởng như bình lặng, nhà
văn qua các nhân vật thế sự đã nhắc nhở mọi người về xá quan hệ ứng xử, về các thói quen và
cách sống đang tiềm ẩn trong đó những điều bất ổn cả những nguy cơ về đạo đức và lối sống. Đó
có thể là sự vô tâm đến thành bạc bẽo vô ơn của đứa con gái đối với của người mẹ - Mẹ con chị
Hằng, là sự nhiệt tình tốt bụng nhưng nông nổi, hấp tấp của cô Hoằng đã gây k ít sự phiền nhiễu
cho mọi người trong khu tập thể( Người đàn bà tốt bụng). Đó còn là những người đàn bà trong
khu tập thể vốn k phải là những ng xấu, nhưng do hành dộng theo thói tục , cả thói “ ngồi lê đôi
mách của họ” đã gián tiếp dấn đến cái chết thương tâm của cô Thoan” Đứa ăn cắp”. Những nhân
vật thế sự ấy hầu như không có thói quen tự nhìn lại mình, họ k nghĩ đến hậu quả của lối sống và
cách ứng xử của mình. Nhà văn muốn cảnh tỉnh ng đời về hậu quả của thói tục đòi thường của sự
thờ ơ vô trách nhiệm với ng khác, nhân vật thế sự còn là phương tiện để nhà văn khám phá
những quy luật nhân sinh trong đó bao gồm cả không ít những nghịch lí( Hương và Phai, Chiếc
thuyền ngoài xa).
Với quan điểm nhân bản, NMC thể hiện sự cảm thông sâu sắc với những con ng bị số
phận dổn đẩy vào những bi kịch không thể nào thoát ra được. Chiến tranh chẳng những đã phạt
ngang cuộc đời của Lực và Thai ra làm 2 nửa, mà còn đem đến số phạn bi kịch cho hầu hết mọi
nhân vật trong Cỏ Lau. Tất cả họ đều là nạn nhân của chiến tranh với những mất mát không thể
nảo bù đắp được .Nếu Hạnh “Bên đường Chiến tranh”là biểu tượng cho tình yêu và niềm tin
người phụ nữ vãn cất giữ vẹn nguyên qua bao qua bao nhiêu biến động , của chiến tranh và thời
gian thì Quỳ ( Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) lại là một tính cách , có vẻ dị biệt nhưng
thật độc đáo và đầy sức ảm ảnh, ng phụ nữ ấy với nhiều bản năng và cũng rất nhiều ham hố ,
luôn phải dành cả đời mình để sửa chữa những lầm lạc, cực đoan của chính mình. Sau Lão Hạc

của Nam Cao và một số hình tượng người nông dân đặc sắc khác trong văn học hiện thực trước
1945, lão Khúng của NMC nổi bật lên như một hình tượng độc đáo, có sức khái quát lớn về
người nông dân Việt Nam , đồng thời đăth ra một cách da diêt nhiều vấn đề nhân sinh lịch sử.

3.3. Nhưng tìm tòi đổi mới trong nghệ thuật tự sự.

Cùng với những đổi mới trong quan niệm và cách tiếp cận hiện thực và con nguời, ngòi
bút Nguyễn Minh Châu đã có nhiều tìm tòi, thể nghiệm để đổi mới cách viết, mà nổi lên là nghệ
thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật.


Tương ứng với sự mở rộng các loại hình nhân vật trong sáng tác sau 1975, Nguyễn Minh
Châu đã thành công trong việc sử dụng nhiều thủ pháp khắc họa nhân vật, mà đặc sắc hơn cả là
miêu tả tâm lý, sử dụng độc thoại nội tâm. Từ những nhân vật được định hình luôn “trùng khít
với chính” nó trong những tác phẩm mang âm hưởng sử thi, nhà văn đã đi tới khám phá “ con
người bên trong con người”, phát hiện ra “con người không trùng khít với chính bản thân mình”
và những quy luật rất phức tạp của đời sống tâm lý bên trong con người. Nếu như trước đây, diễn
biến tâm lý của các nhân vật thường theo một chiều thuận, ít nhiều còn đơn giản, thì nay tam lý
nhân vật thường được hiện ra trong những xung đột bên trong, thầm lặng mà gau gắt, với những
diễn biến quanh co, những bất ngờ khó đoán định được. Các biến cố, sự kiện bên ngoài chỉ là
những tác nhân để kích thích, khêu gợi các trạng thái tâm lý với những hồi tưởng, suy tư của
nhân vật. Độc thoại nội tâm được khai thác như một thủ pháp quan trọng nhất để các nhân vât tự
hiện diện đời sống bên trong của nó, đặc biệt là loại nhân vật tư tưởng nhưng cũng không thiếu ở
các nhân vật tính cách, các thân phận đời tư. Thủ pháp này đạt đến sự thuần thực, nhuần nhuyễn
và hiệu quả cao trong Phiên chợ Giát.
Nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu cũng có nhiều tìm tòi. Đáng chú ý là sự nới
lỏng cốt chuyện, tạo tình huống, việc thay đổi linh hoạt điểm nhìn trần thuật, sử dụng thường
xuyên các biểu tượng và đổi mới giọng điệu trần thuật.
Những đổi mới nói trên của Nguyễn Minh Châu đã được thể hiện ngay từ nửa đầu những năm
80, khi công cuộc đổi mới văn học chưa chính thức bắt đầu. Điều đó đã khiến Nguyễn Minh

Châu có được vai trò của người mở đường đầy khó khăn nhưng cũng rất vinh dự.

IV.

Đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu

Hành trình văn học của Nguyễn Minh Châu trải qua gần 30 năm với hai giai đoạn trước
và sau năm 1975 gắn liền với hai giai đnạn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nguyễn Minh
Châu đã có những tác phẩm góp phần đáng kể vào thành tự của văn xuôi thời kì kháng chiến
chống Mĩ, nhưng vị trí và đóng góp nổi bật của ông là ở giai đoạn sau 1975, trong vai trò của
người đi tiên phong mở đường cho công cuộc đổi mới văn học.
1. Tư tưởng nhân văn.

Nguyễn Minh Châu là nhà văn có tình yêu thương tha thiết với con người, mang một mối
quan hoài thường trực về số phận và những nỗi đau khổ của con người ở xung quanh mình. Nhà
văn muốn dùng ngòi bút của mình tham gia trợ lực cho con người trong cuộc đấu tranh giữa cái
thiện và cái ác, đồng thời luôn đặt niềm tin vào con người, ở khả năng thức tỉnh và hướng thiện
của mỗi người. Tư tưởng nhân bản là cơ sở vững chắc của mọi tìm tòi, khám phá sáng tạo của
nhà văn. Trên hướng đó, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là người kế tục xuất sắc những nhà nhân
đạo chủ nghĩa lớn trong nền văn họa dân tộc.


2. Năng lực miêu tả và phân tích tâm lí.

Tư tưởng nhân bản của Nguyễn Minh Châu lại được hình thành và phát triển trên cơ sở sự
hiểu biết thấu đáo, sâu sắc về con người, đặc biệt là đười sống tâm lí của con người. Chiều sâu
bí ẩn của đời sống bên trong con người là cái đích mà ngời bút của Nguyễn Minh Châu hướng
tới để lật xới. khám phá: “Cần phải miêu tả con người tham gia vào các vụ việc với tất cả chiều
sâu của tiến trình diễn biến tâm lí và tính cách” (Nói về truyện ngắn của mình). Các nhân vật của
Nguyễn Minh Châu đặc biệt là trong những chuyện ngắn sau năm 1975, đều được thể hiện trong

những trạng thái và quá trình tâm lí không hề đơn giản.
Các nhân vật như Hạnh, Thai, Lực và nhất là Quỳ, Khúng đều được soi sáng từ bên trong
với tất cả tính phức tạp và luôn vận động của đời sống tâm lí, cả những ám ảnh của tiềm thức vô
thức. Ngòi bút miêu tả và phân tích tâm lí của Nguyễn Minh Châu đã tiếp nối truyền thống chủ
nghĩa hiện thực tâm lí của Nam Cao. Sự gần gũi đó được thể hiện đặc biệt rõ rang trong loại
nhân vật tự vấn.

3. Hướng về những vẻ đẹp trong sang tác và chất trữ tình.

Tinh thần nhân bản ở Nguyễn Minh Châu được biểu hiện trong hai thái độ đối với con
người: sự thương cảm và niềm tin. Thái độ thứ nhất được thể hiện ở sự đồng cảm, ở mối quan
hoài thường trực về những đau khổ và số phận con người cùng với nỗi lo âu và cảnh tỉnh trước
sự sa sút về đạo đức, nhân cách. Còn niềm tin lại dẫn dắt ngòi bút của nhà văn hướng đến khám
phá những vẻ đẹp tiềm ẩn, bền vững trong con người, trong thiên nhiên cùng với chất trữ tình
đằm thắm. Trong những năm chiến tranh, cũng nằm trong mạch sử thi hào hùng của văn học
đương thời, nhưng tác phẩm của Nguyễn Minh Châu vẫn thiên về khai thác những vẻ đẹp trong
sáng, như chính tác giả đã bộc lộ khát vọng của mình là “gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu
trong bề sâu tâm hồn con người”. Người đọc có thể tìm thấy vẻ đẹp ấy trong các nhân vật: Cô
giáo Thùy, bác Thỉnh (Cửa sông), Kinh, Lữ, Xiêm (Dấu chân người lính), Thận (Nhành mai),
Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng)... Sau năm 1975 cái nhìn của nhà văn về con người đã đạt tới sự
nhận thức tính phức tạp, đa tầng của bản chất con người, nhưng vẫn không mất đi niềm tin và sự
khao khát khám phá những vẻ đẹp sâu xa của con người. Những vẻ đẹp ấy được thể hiện tập
trung nhất ở các nhân vật phụ nữ. Trong truyện của Nguyễn Minh Châu, nhân vật nữ thường là
hiện thân của những phẩm chất truyền thống của vẻ đẹp tâm hồn, như tình yêu trong sáng và
thủy chung duy nhất tình thương và đức hi sinh, lòng vị tha. Nhiều nhân vật nữ thuộc trong số
những hình tượng thành công nhất của Nguyễn Minh Châu và để lại nhiều thiện cảm trong người
đọc (Nguyệt, Hạnh, Quỳ, Thai). Chất trữ tình và vẻ đẹp trong sáng còn được thể hiện ở những


bức tranh thiên nhiên, được miêu tả bằng ngòi bút tinh tế, gợi cảm và thường mang tính biểu

tượng.

4. Về bút pháp.

Nguyễn Minh Châu cũng ngày càng đa dạng, tinh tế và giàu chất tạo hình trong miêu tả, linh
hoạt, biến hóa trong lối kể chuyện và nhất là sắc sảo trong miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật.
Phải kể thêm một điểm đặc sắc trong bút pháp của Nguyễn Minh Châu là việc sử dụng khá
thường xuyên các hình ảnh biểu tượng. Người đọc không thể không nhớ đến những hình ảnh loại
này trong nhiều tác phẩm như mảnh trăng, nhành mai (trong các truyện ngắn cùng tên), cái giếng
nước nơi góc vườn (Bên đường chiến tranh), chiếc xe kút kít (Khách ở quê ra), đặc biệt là bò
khoang và giấc mơ kì dị người - bò của lão Khúng (Phiên chợ Giát).

V.

Tổng kết:

Nguyễn Minh Châu phải ngừng bút vào cái lúc mà tài năng và tư tưởng của ông đạt tới độ chin,
cũng là lúc công cuộc đổi mới văn học vừa được mở ra, đem lại sự khích lệ to lớn cho những tìm
tòi sang tạo của nhà văn Những gì mà ông khai phá để mở ra hướng đi mới đã được nhiều cây
bút tiếp theo kế tục và đẩy tới xa hơn. Những cống hiến của Nguyễn Minh Châu trong cả cuộc
đời cầm bút, đặc biệt là ở thời kì đổi mới vẫn là một di sản quý trong nền văn học hiện đại Việt
Nam và được nhiều thế hệ người đọc đón nhận với niềm yêu mến và trân trọng.



×