Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Câu hỏi Ôn tập Chính Sách tiền Tệ Quốc Gia Thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.76 KB, 58 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO CHO HỌC VIÊN
MÔN: CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ QUỐC GIA
(Lớp Cao học TCNH tại Học viện Hành chính)
1. Phân tích các quan điểm về xây dựng và điều hành chính sách tài
chính quốc gia? (Giao cho học viên Trần Thị Phương Cúc )
Chính sách tài chính đóng vai trò cực kỳ quan trọng góp phần thực
hiện nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, bảo đảm cho
nền kinh tế phát triển nhanh đi đôi với thực hiện công bằng xã hội. Vậy chính
sách tài chính quốc gia là gì: là một bộ cấu thành chiến lược phát triển kinh tế
xã hội quốc gia là tổng thể các mục tiêu chính sách giải pháp về tài chính và
tiền tệ nhằm khai thác nuôi dưỡng huy động và sử dụng các nguồn tài chính
quốc gia cho phát triển kinh tế xã hội hoạt động của bộ máy nhà nước cho
tăng cường an ninh quốc phòng, cũng như cho công tác đối ngoại.
Để làm được điều này, chính sách tài chính quốc gia trong thời gian tới
cần hướng vào những vấn đề sau đây:
a) Xây dựng và phát triển nền tài chính nhiều thành phần
Trước hết, cần cải tiến hệ thống thu - chi ngân sách nhà nước trên
nguyên tắc thu đúng, thu đủ, chi tiết kiệm, hợp lý, ưu tiên cho đầu tư phát
triển phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phân cấp hợp lý giữa ngân sách
trung ương với ngân sách địa phương, giữa các ngành, các cấp... Việc xây
dựng và củng cố ngân sách nhà nước phải đảm bảo cho Nhà nước đủ sức
mạnh để điều tiết kinh tế và hướng nền kinh tế phát triển theo kế hoạch và
định hướng đã định. Bên cạnh ngân sách nhà nước, phải đặc biệt coi trọng tài
chính doanh nghiệp với tư cách là nền tảng của nền tài chính quốc gia, là
động lực của sự tăng trưởng kinh tế. Phát triển tài chính doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt chú ý xây dựng và làm lành mạnh hoá tài
chính doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chế độ tự chủ tài chính, thống nhất
chế độ thu - chi và phân phối tài chính trong các doanh nghiệp quốc doanh và
hợp tác xã. Từng bước hướng các doanh nghiệp tư nhân thực hiện chế độ tài
chính phù hợp với các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân


chủ, văn minh và xã hội chủ nghĩa. Chính sách tài chính cũng phải hướng
tới bộ phận tài chính dân cư, coi đây là một trong những nguồn cung cấp tài
chính không nhỏ cho nền kinh tế. Từ đó, hướng dẫn họ thực hiện nguyên tắc
chi tiêu tiết kiệm, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ.
b) Tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường tài chính
1


Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường
tài chính là khâu trung gian gắn các khâu tài chính với nhau, có tác dụng thúc
đẩy quá trình giao lưu các nguồn lực tài chính, tăng cường sự vận động của
giá trị trong nền kinh tế. Nhà nước cần hết sức tạo điều kiện để thị trường tài
chính hình thành và phát triển. Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, từng
bước hình thành thị trường chứng khoán, nhân tố quan trọng thu hút vốn của
xã hội và năng động hoá hoạt động đầu tư của nền kinh tế.
c) Xây dựng hệ thống thông tin, phân tích, kiểm tra, kiểm soát tài
chính
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, các hoạt động tài chính trong xã
hội ngày càng trở nên phức tạp. Tài chính là một lĩnh vực rất nhạy cảm, nếu
không có đối sách hợp lý và giải quyết kịp thời các vấn đề về tài chính nảy
sinh thì hậu quả sẽ rất nặng nề, thậm chí có thể gây ra tình trạng khủng hoảng
kinh tế. Thực tế cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ cuối năm 1997 vừa qua ở
châu á đã chứng tỏ điều đó. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống mạng lưới thông
tin tài chính nhanh nhạy, tăng cường khả năng phân tích, kiểm tra, kiểm soát
tài chính là nhu cầu khách quan và có tầm quan trọng đặc biệt của chính sách
tài chính quốc gia.
d) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp về tài chính
Với đà phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các
quan hệ tài chính nước ta ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, vì vậy xây
dựng, cải tiến và hoàn thiện luật pháp về tài chính là một nội dung lớn của

chính sách tài chính. Trong thời kỳ quá độ, luật pháp về tài chính phải tập
trung vào các mục tiêu:
+ Xử lý tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, khai thác tối đa các
nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hóa.
+ Phát triển dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn
tài chính bên ngoài.
+ Nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế, tạo điều
kiện cho chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
đ) Kiện toàn bộ máy quản lý tài chính
Vai trò của tài chính cao hay thấp là nhờ yếu tố chủ thể mà trước hết là
bộ máy quản lý tài chính. Trong thời kỳ quá độ, bộ máy quản lý tài chính cần
được cải tiến và tổ chức cho thích ứng với từng thời kỳ của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ máy quản lý phải bảo đảm sự lãnh
2


đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính theo hướng:
kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; cải tiến, kiện toàn hệ thống tổ
chức bộ máy quản lý tài chính từ trung ương đến địa phương, từ quản lý tài
chính doanh nghiệp đến các bộ phận quản lý tài chính dân cư và các tổ chức
xã hội.
Các mặt trên đây của chính sách tài chính có quan hệ chặt chẽ với nhau
và cần được thực hiện trong suốt thời kỳ quá độ, thích ứng với từng giai đoạn.

2. Nêu quan điểm của tác giả về giải quyết các vấn đề đặt ra trong xây
dựng và điều hành chính sách tài chính quốc gia ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt
là tình trạng bội chi ngân sách? (Giao cho học viên Trần Thị Phương
Cúc )
(Luật Ngân sách nhà nước: trang www.mof.gov.vn, ….).

Bất kỳ một chính sách nào được đưa ra và ban hành đều luôn phát sinh
các vấn đề trong quá trình thực thi. Cụ thể trong quá trình thực thi kế hoạch
xây dựng và điều hành chính sách tài chính QG ở nước ta đã nảy sinh các vân
đề:
- Đối với thành phần kinh tế có vốn góp của nhà nước thì tính năng
động sáng tạo chưa cao, chưa tự giác phát huy năng lực, dẫn đến chây lười, trì
trệ. Do đó cần phải có chính sách chọn lọc những người thực sự có năng lực
tâm huyết với ngành nghề, đưa ra các chính sách tăng giảm biên chế, sàng lọc
cán bộ để kích thích tính năng động tự giác trong công việc của cán bộ.
- Đối với nền kinh tế cá thể đã dẫn đến các tình trạng buôn lậu, trốn
thuế. Do đó cần phải thắt chặt hơn nửa các khâu kiểm tra giám sát đối với nền
kinh tế cá thể để tránh các hiện tượng buôn lậu trốn thuế tang thu ngân sách
cho nhà nước.
- Trong việc tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường tài chính,
mặc dù trong chính sách đã đưa ra việc hình thành thị trường chứng khoán để
huy động vốn cho nhà nước, nhưng hiện nay không khí của thị trường chứng
khoán quá ảm đạm, không phát triển. Do đó nhà nước phải có chính sách
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô để thị trường chứng khpán sôi động
trở lại tạo thu hút vốn cho nhà nước.
- Trong việc xây dựng hệ thống thông tin, phân tích, kiểm tra, kiểm soát
tài chính. Mặc dù trong chính sách đã xây dựng hệ thống này nhưng việc phân
tích, kiểm tra giám sát chưa nhanh nhạy, chưa kịp thời và chưa đưa ra hướng
giải quyết kịp thời và cụ thể. Chính vì thể, để nền kinh tế phát triển tốt hơn,
3


cần phải chú trọng đến việc kiểm tra giám sát kỷ lưỡng chặt chẻ, có báo cáo
để cùng đưa ra hướng giải quyết các vướng mắc một cách cụ thể, kịp thời
hơn.
- Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp về tài chính: Việc ban

hành các hệ thống pháp luật có nhiều kẻ hở đã tạo điều kiện cho các đối tượng
xấu lợi dụng. Xây dựng các văn bản pháp luật không thống nhất ngay từ ban
đầu, đã dẫn đến có nhiều thay đổi, sửa đổi làm cho hệ thống văn bản rườm rà
phức tạp. Do đó cần phải đầu tư nghiên cứu kỷ lưỡng thống nhất đưa ra các
văn bản nhất quán phù hợp, sát thực với điều kiện của nền kinh tế.
- Một vấn đề đặc biệt phát sinh đó là do thất thu nhiều, nguồn thu
không cao, chi phí cho quản lý nhà nước lớn, đầu tư dàn trải vào các dự án
không mang lại hiệu quả đã dẫn đến tình trạng bội chi NSNN. Đây cũng đang
là một vấn đề nan giải của nền kinh tế. Vậy bội chi là gì? Bội chi NSNN (hay
còn gọi là thâm hụt NSNN) là tình trạng chi NSNN vượt quá thu NSNN trong
một năm tài khóa, là hiện tượng NSNN không cân đối thể hiện trong sự thiếu
hụt giữa cung và cầu về nguồn lực tài chính của nhà nước.
Mức độ bội chi ngân sách trong thời gian qua
6 tháng đầu năm, bội chi ngân sách Nhà nước đã lên tới 92.390 tỷ
đồng, ước đạt 57% mức bội chi Quốc hội quyết định đầu năm. Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Bộ Tài chính không lạm thu song cũng không
được để thất thu
Theo báo cáo tình hình thực hiện dự toán thu, chi ngân sách nhà nước
(NSNN) 6 tháng đầu năm 2013: 6 tháng đầu năm thu NSNN ước đạt 356.520
tỷ đồng, tương đương 43,7% dự toán, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước.
Riêng thu nội địa chỉ đạt 43,3% dự toán, thấp nhất so với cùng kỳ 4
năm gần đây. Thu dầu thô đạt 56% dự toán nhưng cũng giảm 7,8% so với
cùng kỳ năm 2012.
Trong khi đó, việc chi NSNN 6 tháng ước đạt 448.910 tỷ đồng, bằng
45,9% dự toán, tăng 7,5% so với cùng kỳ. Cụ thể, chi phát triển các sự nghiệp
kinh tế - xã hội, quản lý hành chính ước đạt 48,4% so dự toán, tăng 11,6% so
cùng kỳ 2012. Chi trả nợ viện trợ ước đạt 52.480 tỷ đồng, tương đương 49,7%
dự toán, tăng 2,8% so cùng kỳ 2012.
Cũng theo số liệu từ Bộ Tài chính, với mức cân đối ngân sách, bội chi
NSNN đã lên tới 92.390 tỷ đồng, ước đạt 57% mức bội chi Quốc hội quyết

định đầu năm.
Bộ Tài chính cũng đưa ra dự kiến mức giảm thu NSNN do thực hiện
chính sách miễn giảm gia hạn thuế năm 2013 khoảng 17.613 tỉ đồng, năm
2014 là 17.580 tỉ đồng.
Nguyên nhân của bội chi ngân sách

4


-Nguyên nhân chủ quan của bội chi ngân sách thể hiện ở chính sách
chủ động chấp nhận bội chi ngay khi lập dự toán để tăng cường nguồn lực cho
xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Chất lượng đầu tư công thấp
- Quá nhiều tiền được chi cho các dự án thâm dụng vốn và hàng nhập
khẩu
- Ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đưa đến sự cắt giảm thuế quan
- Giá hàng hóa trên thế giới (nhất là giá nhóm hàng năng lượng, phân
bón, Clinke, thuốc phòng chữa bệnh và phôi thép) tăng liên tục với tốc độ cao
ảnh hưởng đến mức bội chi NSNN trên các giác độ.
- Việc thu chi có nhiều biến động phức tạp do quy mô thu chi rộng tới
tận các địa phương dẫn đến thất thu ngân sách rất lớn.
* Các giải pháp kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước
- Các giải pháp mang tính kinh tế kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước
+Tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng bền vững
+Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế
cần dựa trên nền tảng coi trọng chất lượng
+Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư.
+Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN
+Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi đây là nhân tố chính

quyết định tốc độ và chất lượng của tăng trưởng kinh tế
- Các giải pháp tài chính kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước
+ Chuyển hướng thu ngân sách nhà nước theo hướng bền vững
+ Hoàn thiện phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
- Các biện pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
+ Vay trong nước:
Cắt giảm trái phiếu chính phủ kỳ hạn 1 năm và 2 năm, thay vào đó phát
hành trái phiếu chính phủ 5 năm 10 năm. Gắn dự án đầu tư với từng loại trái
phiếu cụ thể, có kế hoạch chủ động trả nợ.
5


Phát triển thị trường trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa
phương, trái phiếu doanh nghiệp, nâng cao thanh khoản
Tôn trọng nguyên tắc những khoản tạm ứng từ NSNN để bù đắp sự mất
cân đối tạm thời của NSNN cần phải được hoàn trả lại trong năm tài chính
- Đề xuất chính sách và các giải pháp hỗ trợ
+ Cải cách hành chính công và nâng cao năng lực quản lý
+ Phát triển hệ thống thông tin quản lý tài chính và hệ thống kế toán tài
chính công
+ Đổi mới cơ chế quản lý quỹ, các định chế tài chính
+ Xác định mức bội chi ngân sách nhà nước trong bối cảnh hậu khủng
hoảng
+ Thắt chặt công tác kiểm soát thu thuế để tránh thất thu.
3. Phân tích những vấn đề cơ bản của tín dụng nhà nước trong thực thi
chính sách tài chính quốc gia?
(Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Học viện Tài chính).
(Soạn trả lời Trần Anh Tuấn)
4. Nêu quan điểm và đề xuất của tác giả về hiệu quả tín dụng nhà nước
ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là các chương trình tín dụng do Ngân hàng phát

triển Việt Nam đang thực hiện? (Soạn trả lời Trần Anh Tuấn)
(Tài liệu tọa đàm nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày thành lập khoa Quản lý tài
chính công – tháng 10/2012; một số tài liệu trên mạng: www.vdb.gov.vn,...).
( Câu 3 và câu 4 theo 2 file pdf kèm theo)
5. Phân tích những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa phát triển thị
trường tài chính và thực thi chính sách tài chính quốc gia trong huy động vốn
cho ngân sách nhà nước? (Soạn trả lời Nguyễn Quốc Hoàng)
(Giáo trình tài chính – Học viện Tài chính).
Thị trường tài chính hoạt động đã bổ sung thêm hình thức huy động
nguồn tài chính cho các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian bằng
cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu,..., giải quyết khó khăn về mặt tài chính,
phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian.
6


Thị trường tài chính còn tạo đìều kiện và thúc đẩy các chủ thể lựa chọn hướng
đầu tư đúng đắn và sử dụng vốn có hiệu quả nên đã góp phần thực hiện chính
sách huy động nguồn tài chính, sử dụng nguồn vốn tài chính hay chính sách
tài chính.Một bộ phận quan trọng của chính sách tài chính là chính sách ngân
sách. Tận dụng các nguồn thu ngân sách, chi tiêu tiết kiệm có hiệu quả, giải
quyết bội chi và cân đối thu chi ngân sách luôn luôn là vấn đề đặt ra trong
chính sách tài chính của mỗi quốc gia. Thị trường tài chính là nơi mà nhà
nước tiến hành vay nợ dân chúng một cách dễ dàng nhất. Nhà nước cũng có
thể vay các tổ chức và cá nhân nước ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu
bằng ngoại tệ. Ở hầu hết các nước, việc nhà nước vay tiền của dân đã trở
thành thông dụng và tiền vay trở thành nguồn thu thường xuyên để cân đối
ngân sách. Đây cũng là giải pháp tích cực vì nhà nước không phải phát hành
tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Điều này sẽ góp phần giải quyết một trong
những nguyên nhân chủ yếu của lạm phát, làm giảm áp lực của lạm phát,
kiềm chế lạm phát. Đồng thời, thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả

cũng giảm tiêu dùng cao, tăng cung nguồn tài chính, khuyến khích đầu tư.
Như vậy, sẽ góp phần làm giảm cầu kéo, giảm chi phí đẩy, tăng cung hàng
hóa, góp phần giải quyết lạm phát, thực hiện chính sách tiền tệ.
Thị trường tài chính còn là nơi cung cấp các dữ liệu, giúp cho nhà nước
có biện pháp điều hòa, lưu thông tiền tệ. Việc dân chúng đầu tư vào thị trường
tài chính sẽ giúp nhà nước điều tiết được lượng tiền trong lưu thông qua cơ
chế thị trường mở. Việc nhà nước mua chứng khoán vào có tác dụng bơm
thêm tiền vào chu chuyển kinh tế và ngược lại, việc bán chứng khoán sẽ rút
bớt tiền khỏi chu chuyển kinh tế. Nhà nước cũng có thể thay đổi lãi suất tiền
gửi, tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu để thực hiện
điều hòa lưu thông tiền tệ, điều hòa nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh
tế, nhằm thỏa mãn nhu cầu nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước, cho nền
kinh tế, ... đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính luôn là mục
tiêu của chính sách tài chính quốc gia. Thông qua sử dụng các công cụ trên thị
trường và cơ chế hoạt động của thị trường, bằng hoạt động phát hành và mua
7


bán chứng khoán trên cả thị trường tập trung và phi tập trung, dưới tác động
của quy luật cung – cầu, nguồn tài chính sẽ vận động từ những ngành, những
vùng thừa nguồn tài chính đến những ngành, những vùng thiếu nguồn tài
chính, thõa mãn nhu cầu của nền kinh tế nhằm đạt tới mục tiêu của chính sách
tài chính quốc gia.
6. Nêu quan điểm và đề xuất giải pháp về nguồn vốn ODA nói riêng và
vay nợ nước ngoài nói chung của Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay? (Soạn trả lời Nguyễn Quốc Hoàng)
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm khác nhau về ODA nhưng
nói chung những quan điểm ấy đều dẫn chung đến một bản chất. Theo cách
hiểu chung nhất thì ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay
với những điều kiện ưu đãi của các cơ quan tài chính thuộc các quốc gia, các

tổ chức Quốc tế, các tổ chức Phi chính phủ nhằm hỗ trợ cho sự phát triển và
thịnh vượng của các nước khác (không tính đến các khoản viện trợ cho mục
đích thuần tuý quân sự).
Các điều kiện ưu đãi có thể là: lãi suất thấp (dưới 3%/năm ), thời gian ân
hạn dài hoặc thời gian trả nợ dài (30-40 năm). Nghị định 87-CP của chính phủ
Việt Nam quy định về nguồn vốn ODA là sự hợp tác phát triển giữa nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hay nhiều Quốc gia, tổ chức
Quốc tế. Hình thức của sự hợp tác có thể là hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ
theo chương trình, hỗ trợ theo kỹ thuật hoặc theo dự án.
Vốn ODA bao gồm tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại
và vay ưu đãi. Trong đó phần viện trợ không hoàn lại và các yếu tố ưu đãi
khác chiếm ít nhất 25% vốn cung ứng. Nhiều quốc gia đã thu hút, vận động
và sử dụng vốn ODA khá hiệu quả. Song không ít quốc gia lại là bài học
không thành công về quản lý vốn ODA. Hơn 25 năm qua, Việt Nam đã có
được những thành công đáng kể trong lĩnh vực này: đầu tư bằng vốn ODA
chiếm khoảng 12% tổng vốn đầu tư xã hội, 28% vốn đầu tư từ NSNN, 50%
8


vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Nhưng đồng thời cũng nổi lên
nhiều bất cập đòi hỏi Chính phủ và Quốc hội phải quan tâm đúng mức
Vốn vay nợ nước ngoài nói chung và ODA nói riêng luôn được coi là
một trong những nhân tố quyết định cho quá trình sản xuất và tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia. Đặc biệt là để đạt tăng trưởng kinh tế cao, vấn đề tạo
nguồn vốn và sử dụng nó một cách có hiệu quả càng trở nên cần thiết đối với
tất cả các quốc gia muốn trở thành nước công nghiệp hoá với thời gian ngắn
nhất. Nền kinh tế đã thu được những kết quả đáng khả quan như tốc độ tăng
trưởng nhanh, lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, nhưng để duy trì tốc độ
tăng trưởng như vậy thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn. Trong khi đó nền
kinh tế nước ta lại có xuất phát điểm thấp, nghèo nàn, lạc hậu nên nguồn vốn

trong nước không thể đáp ứng hết nhu cầu về vốn đầu tư đó. Vì vậy, nguồn
vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) nói riêng là rất quan trọng. Nguồn vốn ODA đã góp phần đáng kể vào
việc đạt được những thành tựu kinh tế của đất nước. Để có thể thu hút và sử
dụng có hiệu quả nguồn ODA trong phát triển kinh tế - xã hội cần có những
biện pháp cụ thể và toàn diện.
Nước ta đã có quan hệ thương mại với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ;
đã có 80 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam; đây là cơ hội để nước ta
thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA). Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nếu được
quản lý và sử dụng có hiệu quả, thì đây là nguồn lực quan trọng để phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng và cải thiện đời sống
của nhân dân, nếu như quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA kém hiệu quả, thì
hậu quả để lại cho mỗi quốc gia sẽ càng vay càng nghèo, dẫn đến tình trạng
nợ nần không trả được, tình trạng đó là khó tránh khỏi, nếu như ở nước ta
không sớm xóa bỏ tâm lý coi nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức là “tiền
từ trên trời rơi xuống”, coi nhẹ hiệu quả sử dụng, thiếu trách nhiệm dẫn đến
gây thất thoát, lãng phí và tham nhũng, để lại những hậu quả khôn lường cho
9


đất nước. Xác định rõ được ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc quản lý và
sử dụng nguồn vốn ODA. Trong văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng
cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế rà soát lại các
văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống bảo đảm tính đồng
bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các
nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn
vốn khác. Xác định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn
vốn ODA, cải tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế
hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn”.

Vốn ODA luôn bị ràng buộc trực tiếp hoặc gián tiếp. Đi kèm với ODA
bao giờ cũng có những ràng buộc nhất định về chính trị kinh tế hoặc khu vực
địa lý. Nước nhận viện trợ còn phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ
như thay đổi chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế, thay đổi thể chế chính
trị... cho phù hợp với mục đích của bên tài trợ.
Từ khi mới ra đời, viện trợ nước ngoài đã có hai mục tiêu tồn tại song
song nhưng thực chất lại mâu thuẫn với nhau. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy
tăng trưởng và giảm đói nghèo ở những nước đang phát triển. Mục tiêu thứ
hai là tăng cường lợi ích chiến lược và chính trị ngắn hạn của các nước tài trợ.
Tuy nhiên mục tiêu cuối cùng của viện trợ vẫn là thúc đẩy tăng trưởng và
giảm đói nghèo ở những nước đang phát triển.
Bên cạnh việc nhận được sự hỗ trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế
thông qua các khoản viện trợ Chính phủ Việt Nam cùng thực hiện nhiệm vụ
hỗ trợ cho các nước đang phát triển có thiết lập quan hệ với nước ta. Điều này
lý giải trường hợp cho dự án vay theo hiệp định của Chính phủ, các dự án này
được đầu tư bằng nguồn viện trợ của Chính phủ Việt Nam cho các nước đã có
hiệp định được ký kết. Dự án được vay theo hiệp định của Chính phủ phải đáp
ứng các điều kiện. Các dự án vay vốn theo hiệp định Chính phủ phải mua các
sản phẩm hoặc thiết bị của Việt Nam sản xuất, sử dụng các chuyên gia hoặc
lao động của Việt Nam để thực hiện dự án. Điều kiện lý giải sự hỗ trợ gián
10


tiếp của Nhà nước đối với các tổ chức kinh tế trong nước, tăng cơ hội cung
cấp sản phẩm dịch vụ, phát huy sức mạnh của thị trường lao động... Tính ràng
buộc về sử dụng hàng hoá, dịch vụ lao động cùng đặt ra yêu cầu để nguồn vốn
được đầu tư đúng mục đích, tiến độ; quyền lợi của nhà cung cấp hàng hoá
dịch vụ Việt Nam phải được đảm bảo; các điều kiện vay khác thực hiện theo
đúng quy định cụ thể tại hiệp định được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam
(hoặc người được uỷ quyền) với Chính phủ (hoặc người được uỷ quyền) nước

nhận vốn vay. Như thế mỗi đợt dự án đầu tư sẽ có điều kiện cụ thể khác nhau,
tuỳ thuộc vào mục đích riêng của Chính phủ khi tiến hành viện trợ. Trên cơ sở
phần vốn được chuyển từ ngân sách Nhà nước (được quy định tại khoản 2,
Điều 2 luật ngân sách Nhà nước quy định cho viện trợ là một trong những
khoản chi ngân sách), Ngân hàng phát triển thực hiện thanh toán cho nhà cung
cấp và chi trả các chi phí liên quan đến nội dung thực hiện dự án theo yêu cầu
của người thụ hưởng.
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, vốn đầu tư cho phát triển là
một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi
quốc gia. Đối với Việt Nam, mục tiêu đặt ra là thực hiện thành công quá trình
CNHHĐH đất nước, phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một
nước công nghiệp. Do đó việc thu hút vốn đầu tư trở thành chiến lược quan
trọng của đất nước. Nguồn vốn ODA được Chính phủ Việt Nam đánh giá là
một trong những nguồn vốn quan trọng của Ngân sách Nhà nước được sử
dụng cho các mục đích phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn này đã phần nào
đáp ứng nhu cầu bức thiết về vốn trong công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại
hoá đất nuớc, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo. Tuy
nhiên ODA không chỉ là một khoản cho vay, mà đi kèm với nó là các điều
kiện ràng buộc về chính trị, kinh tế. Sẽ là gánh nặng nợ nần cho các thế hệ sau
hoặc phải chịu sự chi phối của nước ngoài nếu chúng ta không biết cách quản
lý và sử dụng ODA. Bởi vậy quản lý và sử dụng ODA sao cho có hiệu quả,
phù hợp với mục tiêu và định hướng phát triển đất nước là một yêu cầu tất
yếu.
11


2.2. Một số giải pháp để sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA
Một là, Chính phủ, chính quyền địa phương, cơ quan chủ quản và chủ
đầu tư các dự án ODA phải thống nhất nhận thức: nguồn vốn ODA là một bộ
phận NSNN, là một phần nguồn lực tài chính quốc gia và tạo gánh nặng nợ

nần cho người dân, không chỉ thế hệ hôm nay mà cả mai sau. Quản lý lãng
phí và không hiệu quả nguồn vốn này là có tội đối với dân tộc.
Hai là, Chính phủ cũng như từng chính quyền địa phương phải hoạch
định chiến lược vận động và sử dụng vốn ODA phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế xã hội. Do phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố bất định nên khó
có thể dự kiến chuẩn xác (trong dài hạn) vốn ODA vận động được. Vì vậy,
các chương trình, dự án dự định sẽ đầu tư bằng vốn ODA phải được sắp xếp
thứ tự ưu tiên theo một số phương án với các khả năng khác nhau. Các
chương trình dự án có mức ưu tiên cao cần bố trí nguồn vốn thay thế nếu
không vận động được vốn ODA. Mặt khác, kinh nghiệm của Malaysia trong
vấn đề này cũng rất đáng tham khảo: họ lựa chọn rất kĩ các dự án sử dụng vốn
ODA và nguồn vốn vay ODA, chỉ tập trung vào các dự án qui mô lớn và tận
dụng tối đa sự hỗ trợ của nhà tài trợ.
Ba là, cần quán triệt nguyên tắc quản lý vốn ODA phải căn cứ vào kết
quả và hiệu quả. Xây dựng và thực hiện qui trình kỹ thuật dự án theo hướng
chuyên nghiệp hóa: từ khi xác định dự án, chuẩn bị dự án, đánh giá dự án, phê
duyệt dự án, đàm phán, kí kết, đấu thầu, thi công, giám định, đánh giá sau dự
án và kiểm toán, cố gắng mỗi khâu phải được đảm nhiệm bởi cơ quan chuyên
trách. Ban hành hệ thống các hướng dẫn chi tiết trong từng khâu, từ đó phân
định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cấp liên quan. Đặc biệt, cần có
những hướng dẫn cụ thể thực hiện quá trình đánh giá dự án sau hoàn thành.
Các thông tin về quá trình quản lý vốn ODA phải rõ ràng minh bạch, được
thông báo đầy đủ cho nhân dân và các nhà tài trợ.

12


Bốn là, Chính phủ cần chấp nhận dự án của nhà tài trợ nào thì được
phép áp dụng thủ tục và hướng dẫn của nhà tài trợ đó. Mặc dù đã có những nỗ
lực nhất định từ phía các nhà tài trợ trong vấn đề thống nhất thủ tục, nhưng

khó có thể hình thành một hệ thống thủ tục chung của các nhà tài trợ trên
phạm vi toàn cầu. Do vậy, đối với các dự án ODA, Chính phủ nên hình thành
qui định hệ thống thủ tục trong nước theo kiểu “khung“, các vấn đề chi tiết
cho phép áp dụng thủ tục và hướng dẫn của nhà tài trợ.
Năm là, Chính phủ cần xây dựng hệ thống tiêu chí hợp lý, phân cấp
quản lý vốn ODA. Để xây dựng được hệ thống tiêu chí này cần đánh giá lại
một cách toàn diện và thống kê đầy đủ các dự án ODA đã và đang được triển
khai thực hiện nhằm xác định mối quan hệ giữa mức độ hiệu quả đạt được
củadự ánvới các tiêu chí: qui mô, trách nhiệm trả nợ, năng lực quản lý vốn
ODA của địa phương, lĩnh vực đầu tư của dự án, nhà tài trợ v.v…
Sáu là, các bộ ngành trong Chính phủ và chính quyền các địa phương
cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ làm công
tác quản lý vốn ODA theo hướng chuyên môn hóa.
Bảy là, hoàn thiện khung pháp lý nhằm tăng cường quản lý huy động
vốn vay nước ngoài. Tiến hành rà soát các quy định của các văn bản pháp quy
hiện hành để trên cơ sở đó nghiên cứu và trình Quốc hội xây dựng một Luật
hay Pháp lệnh về quản ký vay nợ và viện trợ nước ngoài của quốc gia nhằm
nâng cao tính pháp lý và tính toàn diện trong công tác quản lý các khoản vay
nợ và viện trợ nước ngoài. Nghiên cứu và tiến hành sửa đổi một số Nghị định
liên quan đến quản lý và sử dụng ODA, tạo sự hài hoà giữa thủ tục của phía
các nhà tài trợ và phía Việt Nam. Tiến tới quản lý nguồn vốn ODA cần phải
dựa vào kết quả đầu ra.
Tám là, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm toán việc sử dụng nguồn
vốn vay nước ngoài. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra tài chính và kiểm toán
Nhà nước cần tăng cường công tác chuyên môn nghiệp vụ để thẩm định, đối
13


chiếu, so sánh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật;
kiên quyết xuất toán các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn

giá, không đúng tiêu chuẩn định mức, vượt dự toán lớn. Cần thực hiện chế độ
trách nhiệm vật chất, kể cả trách nhiệm hình sự đối với nhà thầu, tư vấn giám
sát trong việc xác nhận khối lượng thanh toán không trung thực, không đúng
quy định; khắc phục những vi phạm trong công tác xác nhận khối lượng thanh
toán để làm căn cứ kiểm soát chi và giải ngân vốn ODA, vốn đối ứng cho dự
án ODA.
Chín là, đẩy mạnh việc thiết lập cơ chế trao đổi thông tin, dữ liệu trong
hệ thống quốc gia về theo dõi và đánh giá chương trình, dự án ODA. Xây
dựng các tiêu chuẩn về trao đổi thông tin, dữ liệu theo dõi và đánh giá các
chương trình, dự án ODA giữa cấp Ban QLDA, chủ dự án, cơ quan chủ quản
và cơ quan quản lý Nhà nước về ODA theo hướng thích hợp từ dưới lên và
phản hồi từ trên xuống; các tiêu chuẩn thống nhất về phần mềm thu thập, lưu
trữ, xử lý, tổng hợp và truyền tải thông tin, số liệu phục vụ công tác theo dõi
và đánh giá chương trình, dự án ODA phù hợp với hệ thống phân ngành kinh
tế quốc dân để phục công tác phân tích danh mục các chương trình, dự án
ODA ở cấp quốc gia, cấp ngành, lãnh thổ và tổng hợp các chỉ tiêu thống kê
định kỳ về tình hình tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA để phản ánh vào
hệ thống thống kê quốc gia phát triển thông tin điện tử về theo dõi và đánh giá
chương trình, dự án ODA của Bộ kế hoạch và đầu tư để phục vụ công tác
tuyên truyền thông, đào tạo và tăng cường năng lực, trao đổi thông tin và kinh
nghiệm về theo dõi và đánh giá, chia sẻ các bài học đúc kết thông qua việc
thiết kế và thực hiện các chương trình, dự án ODA.
7. Sự phối hợp chính sách tài chính và chính sách tiền tệ trong thực
hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô? (Soạn trả lời Lê Thị Nga)
Chính sách tài chính là một khái niệm rất rộng, được hợp thành bởi
nhiều chính sách khác nhằm điều tiết, kiểm soát, định hướng sự phất triển của
nền kinh tế. Chính sách tài chính quốc gia là chính sách điều chỉnh các mối
quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị.
Nội dung của chính sách tài chính bao gồm: chính sách về vốn, chính sách tài
chính doanh nghiệp, chính sách tài khoá, chính sách tài chính đối ngoại, các

14


chính sách về tín dụng, tiền tệ... Trong thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô thì
phối hợp giữa chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) là
quan trọng nhất, bởi đây là hai công cụ trọng yếu giữ vai trò quyết định trong
việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền
vững phụ thuộc rất nhiều vào việc hoạch định và thực thi các chính sách của
một quốc gia trong khuôn khổ phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa các chính
sách, nhất là CSTK và CSTT. Thiếu sự phối hợp giữa CSTK và CSTT, nền
kinh tế sẽ phải đối diện với những thách thức to lớn về cân đối thu - chi ngân
sách nhà nước và ổn định tiền tệ khó có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng
kinh tế bền vững. Vì vậy, phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Phối hợp giữa CSTK và
CSTT cần được hiểu là phải đảm bảo giải quyết các tác động của hai chính
sách tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn và dài hạn. Trong
ngắn hạn, hai chính sách phải phối hợp nhằm đạt được các mục tiêu của từng
chính sách một cách có trật tự, bao gồm cả ổn định giá. Trong dài hạn, hai
chính sách phải phối hợp để đảm bảo được lợi ích cân bằng giữa mục tiêu của
từng chính sách với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, kiềm chế lạm
phát.
Chính sách tài khóa là hệ thống các chính sách của chính phủ về tài
chính, thường được hoạch định và thực hiện trọn vẹn trong một niên khóa tài
chính, nhằm tác động đến các định hướng phải triển của nền kinh tế, thông
qua những thay đổi trong kế hoạch chi tiêu chính phủ và chính sách thu ngân
sách (chủ yếu là các khoản thu về thuế).
Chính sách tài khoá có thể tạm chia thành chính sách tài khoá cân bằng,
chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tài khoá thắt chặt.
Chính sách tài khoá cân bằng là chính sách tài khoá mà theo đó, tổng
chi tiêu của Chính phủ cân bằng với các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các

nguồn thu khác mà không phải vay nợ.
Chính sách tài khoá mở rộng (hay còn gọi là chính sách tài khóa thâm
hụt) là chính sách nhằm tăng cường chi tiêu của chính phủ so với nguồn thu
bằng cách: gia tăng mức độ chi tiêu chính phủ mà không tăng nguồn thu; hoặc
giảm nguồn thu từ thuế mà không giảm chi tiêu; hoặc vừa gia tăng mức độ chi
tiêu của chính phủ đồng thời giảm nguồn thu từ thuế.
Chính sách tài khoá mở rộng có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo
thêm nhiều việc làm. Tuy nhiên, chính sách tài khoá mở rộng thường dẫn đến
việc Chính phủ phải vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách.
Chính sách tài khoá thắt chặt (hay còn gọi là chính sách tài khóa thặng
dư) là chính sách hạn chế chi tiêu của chính phủ so với nguồn thu bằng cách:
chi tiêu của chính phủ ít đi nhưng không tăng thu; hoặckhông giảm chi tiêu
nhưng tăng thu từ thuế; hoặc vừa giảm chi tiêu vừa tăng thu từ thuế.
Chính sách tài khoá thắt chặt được áp dụng khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng
trưởng nhanh và thiếu bền vững hoặc khi nền kinh tế gặp tình trạng lạm phát
cao. Việc này có thể làm thâm hụt ngân sách ít đi hoặc thặng dư ngân sách lớn
lên so với trước đó
15


Chính sách tiền tệ là một trong các chính sách kinh tế vĩ mô, mà Ngân
hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và
điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã
hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ được sử dụng như một
công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động của nền kinh tế. Nó
được hoạch định trên cơ sở mục tiêu kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong
từng giao đoạn phát triển. Dựa trên cơ chế thị trường và các quy luật vận động
của nó, chính sách tiền tệ được hoạch định đảm bảo tính linh hoạt, mềm doẻ
và được điều hành chủ yếu hằng hệ thống các công cụ gián tiếp. Chính sách

tiền tệ rất nhạy cảm và có vị trí chủ đạo trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ
mô.
Chính sách tiền tệ có thể được điều hành theo một trong 2 hướng sau:
- Chính sách tiền tệ mở rộng là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh
tế, nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm.
- Chính sách tiền tệ thặt chặt là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh
tế, nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ theo hướng này nhằm đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát. Nền
kinh tế thị trường thường xuyên biến động, do vậy có lúc thừa lúc thiếu. Do
đó, chính sách tiền tệ được vận hành theo hướng nào là tuỳ thuộc và thực
trạng kinh tế và nhu cầu tiền trong từng thời kỳ.
Cơ sở và điều kiện phối hợp chính sách tài khóa - tiền tệ
Chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) là hai chính
sách quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Mặc dù CSTK và CSTT sử dụng
hệ thống các công cụ khác nhau, cơ chế truyền tải cũng khác nhau nhưng mục
tiêu cuối cùng cả hai chính sách đều hướng đến là ổn định kinh tế vĩ mô và
tăng trưởng kinh tế bền vững nên các mục tiêu kinh tế vĩ mô chính là cơ sở để
thực hiện phối hợp chính sách tài khóa - tiền tệ. Không chỉ cùng hướng đến
mục tiêu chung, giữa CSTK và CSTT còn có mối quan hệ gắn bó qua lại với
nhau.
Do CSTK mở rộng (hay thắt chặt) có xu hướng gắn liền với tăng
(giảm) thâm hụt ngân sách nên phương thức tài trợ thâm hụt ngân sách sẽ tác
động đến việc thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ của CSTT. Ngược lại, hiệu
quả của CSTK ở một chừng mực nhất định cũng phụ thuộc vào việc kết quả
điều hành CSTT. Chẳng hạn, khi thực hiện CSTT thắt chặt có thể sẽ làm cho
đầu tư giảm, kéo theo đó là nguồn thu ngân sách cũng có thể giảm do giảm
khả năng thu thuế.
Như vậy, trong quá trình thực thi, chính sách này sẽ tác động đến chính
sách kia và ngược lại, nếu thiếu sự phối hợp, các chính sách có thể gây hậu
quả xấu cho nhau và cho nền kinh tế. Sự phối hợp chính sách trong trường

hợp này sẽ giảm thiểu tác động tiêu cực qua lại giữa các chính sách, gia tăng
tác động tích cực của chính sách đối với nền kinh tế.
16


Thông thường, khi nền kinh tế có biểu hiện suy thoái, thiếu hụt về tổng
cầu thì Chính phủ có thể áp dụng CSTK mở rộng thông qua giảm thuế và tăng
quy mô chi tiêu ngân sách kết hợp với CSTT mở rộng, cung ứng thêm tiền
cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn
việc làm. Ngược lại, khi nền kinh tế có dấu hiệu của lạm phát cao, tác động
tiêu cực đến các hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân thì
Chính phủ có thể sử dụng CSTK thắt chặt bằng cách giảm chi ngân sách,
giảm vay nợ và tăng thuế đồng thời sử dụng CSTT thắt chặt làm giảm cung
ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá
nóng của nền kinh tế.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, để đạt được hiệu quả phối hợp tài khóa
- tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô, cần phải:
Thứ nhất, xác định được các mục tiêu tài chính - tiền tệ; đảm bảo tính
nhất quán trong việc phối hợp và thực thi nhằm đạt được các mục tiêu đã đề
ra.
Thứ hai, phối hợp CSTK và CSTT phải được sử dụng trong sự phối
hợp với các chính sách khác, đặc biệt là các biện pháp giám sát vĩ mô thận
trọng nhằm quản lý dòng vốn, tạo sự ổn định tài chính. Sự kết hợp phong phú
hơn các công cụ chính sách sẽ đem lại ổn định kinh tế, tài chính bền vững hơn
là các chính sách đơn phương.
Thứ ba, việc phối hợp chính sách đòi hỏi phải có những sự trao đổi
thông tin giữa các bộ, ngành có liên quan trong việc xây dựng chính sách, đặc
biệt là sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Trung ương. Đồng thời,
chất lượng công tác dự báo kinh tế - tài chính vĩ mô có tầm quan trọng đặc
biệt đối với việc xây dựng mục tiêu và kế hoạch phối hợp CSTK và CSTT.

Thứ tư, cơ chế phối hợp thực hiện chính sách tài khóa - tiền tệ thường
thông qua các ủy ban, cơ quan chính thức hoặc không chính thức: Thành viên
của các cơ quan phối hợp này bao gồm các đại diện của Bộ Tài chính, Kho
bạc, cơ quan quản lý nợ và Ngân hàng Trung ương. Các ủy ban, cơ quan phối
hợp này thường tổ chức họp định kỳ để chia sẻ thông tin liên quan đến những
yêu cầu tài trợ của Chính phủ, thảo luận và và phân tích kết quả cân đối ngân
sách, giám sát thanh khoản và sự phát triển của thị trường; xây dựng chiến
lược để đạt được các mục tiêu về nợ công và quản lý tiền tệ. Các ủy ban phối
hợp này là cầu nối để các thành viên Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung ương có
thể hiểu về các mục tiêu và cách thức hoạt động của nhau cũng như tạo được
sự đồng thuận trong cách quản lý nợ công và quản lý tiền tệ.
Phối hợp chính sách tài khóa - tiền tệ giai đoạn 2007-2013
Giai đoạn 2007-2013, do nền kinh tế đã hội nhập sâu vào kinh tế toàn
cầu nên Việt Nam cũng chịu tác động bởi khủng hoảng kinh tế, tài chính thế
giới 2008, 2009. Những diễn biến phức tạp của kinh tế trong nước và kinh tế
thế giới khiến cho Việt Nam đứng trước nhiều bất ổn về kinh tế vĩ mô. Trước
thực tế đó, các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là 2 chính sách tài khóa và
tiền tệ đòi hỏi phải được điều chỉnh và có sự phối hợp chặt chẽ hơn nhằm ổn
định nền kinh tế và duy trì tăng trưởng.
17


Để tăng cường công tác phối hợp giữa hai cơ quan hoạch định chính
sách tài khóa - tiền tệ, ngày 29/2/2012, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã ký kết quy chế phối hợp công tác và trao đổi thông tin. Theo đó,
bản ký kết bao gồm 5 nội dung chính:
- Phối hợp xây dựng và điều hành CSTK, CSTT, trong đó tập trung
vào: Xây dựng và điều hành CSTK, CSTT; Quản lý ngân quỹ của Chính phủ
và phát triển hệ thống thanh toán; Quản lý nợ quốc gia và quản lý vốn ODA.
- Phối hợp trong việc phát triển các thị trường tài chính (tín dụng, tiền

tệ, chứng khoán, trái phiếu) và công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các
thị trường này, nhằm đảm đảm bảo tính liên thông và phát triển an toàn, bền
vững.
- Phối hợp trong việc quản lý thuế, hải quan; trong đó hai bên chủ động
trao đổi, chia sẻ thông tin trong việc xây dựng và ban hành các chính sách,
biện pháp và thực hiện công tác quản lý, giám sát liên quan đến thu thuế, hải
quan qua hệ thống ngân hàng; hoạt động xuất nhập khẩu vàng, bạc, đá quý và
công tác phòng chống buôn lậu, rửa tiền.
- Phối hợp trong lĩnh vực hợp tác quốc tế thông qua việc chia sẻ thông
tin và thống nhất quan điểm khi tham gia các diễn đàn, sáng kiến hợp tác song
phương và đa phương về tài chính, tiền tệ.
- Phối hợp trong nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
nghiệp vụ, đảm bảo phù hợp với nhu cầu của hai cơ quan.
5 nội dung phối hợp nêu trên cho thấy hai cơ quan hoạch định chính sách tài
khóa - tiền tệ sẽ phối hợp chặt chẽ với nhau trong hầu hết mọi lĩnh vực có liên
quan của hai chính sách.
Mặc dù còn nhiều khó khăn song phối hợp chính sách tài khóa - tiền tệ
trong giai đoạn 2007-2013 đã đạt được những thành công nhất định như ngăn
chặn đà suy giảm kinh tế, kiềm chế lạm phát, duy trì mức tăng trưởng hợp
lý… Kết quả của phối hợp còn thể hiện rõ nét qua việc Chính phủ nỗ lực hạ
mặt bằng lãi suất và áp dụng các biện pháp hoãn, miễn, giảm thuế nhằm hỗ
trợ các doanh nghiệp trong bối cảnh tổng cầu trong nước và cầu xuất khẩu suy
giảm như hiện nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, phối hợp chính sách tài
khóa - tiền tệ thời gian vừa qua còn có những điểm hạn chế:
Vào những thời điểm nền kinh tế phải đối mặt với lạm phát, mặc dù CSTK và
CSTT đều đã được thực hiện theo hướng thắt chặt, trong đó hầu hết các công
cụ của CSTT đều đã được sử dụng, tuy nhiên việc kiềm chế lạm phát vẫn
chưa thành công. Năm 2008, lạm phát lên đến 19,89%; năm 2010 là 11,75%
và năm 2011 là 18,13%.

Sự phối hợp trong việc trao đổi thông tin điều hành, trong việc xây
dựng, ra quyết định và thực thi chính sách cũng ảnh hưởng đến quá trình phối
hợp chính sách. Bên cạnh đó, thời gian báo cáo, tính chính xác, đầy đủ và kịp
thời của các báo cáo, số liệu... đang là những khó khăn đối với các bộ, ngành
trong công tác phân tích, dự báo. Công tác tuyên truyền, công bố thông tin, ví
dụ như thông tin về lạm phát, quản lý giá cả các mặt hàng chủ đạo, lộ trình
18


tăng giá của các mặt hàng, thông tin về điều hành và thực thi chính sách… đôi
khi làm ảnh hưởng đến tâm lý kỳ vọng lạm phát.
Việc xây dựng và thực thi chính sách của các bộ, ngành thường được
đưa ra khá độc lập, và đôi khi thời điểm ban hành chính sách cũng có độ trễ
giữa các cơ quan; tính nhất quán trong việc thực thi chính sách cũng ảnh
hưởng không ít đến hiệu quả của sự phối hợp.
Một số kiến nghị
Thứ nhất, xác định mục tiêu, trọng tâm phối hợp chính sách trong điều
tiết kinh tế vĩ mô là một vấn đề tương đối rộng, vì vậy trong mỗi giai đoạn,
việc xác định trọng tâm phối hợp là điều hết sức cần thiết, đồng thời sự phối
hợp cần phải được xem xét trong tương quan với các mục tiêu dài hạn của nền
kinh tế. Trong giai đoạn tới, đối với CSTT, NHNN phải kiên trì theo đuổi mục
tiêu kiềm chế lạm phát nhằm tạo sự ổn định vĩ mô cho phát triển kinh tế. Đối
với CSTK, vấn đề kiểm soát chi tiêu công, nâng cao hiệu quả đầu tư công là
những vấn đề cần phải được quan tâm chặt chẽ hơn nữa.
Thứ hai, tăng cường trao đổi thông tin giữa các bộ, ngành để có cơ sở
xây dựng và thực thi chính sách một cách có hiệu quả. Xây dựng cơ chế phối
hợp và chia sẻ các số liệu, thông tin liên quan... nhằm xây dựng hệ thống dữ
liệu tốt có thể dùng chung cho các bộ, ngành trong việc xây dựng và dự báo
các vấn đề phục vụ điều tiết kinh tế vĩ mô, từ đó mới có thể đưa ra các quyết
định chính sách phù hợp, kịp thời.

Thứ ba, xây dựng kịch bản phối hợp chính sách. Tùy vào từng bối cảnh
cụ thể, trên cơ sở thực trạng nền kinh tế trong nước và thế giới cũng như các
kết quả phân tích dự báo cần thiết phải xây dựng các kịch bản phối hợp chính
sách để chủ động hơn trong việc ứng phó với những diễn biến kinh tế của thế
giới và trong điều hành kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, xác định liều lượng phối hợp chính sách. Cần phải có sự nghiên
cứu trên cả 2 giác độ định lượng và định tính để phát huy tối đa hiệu quả của
sự phối hợp chính sách.
Thứ năm, xác định thời điểm phối hợp, can thiệp chính sách. Mỗi chính
sách mỗi giải pháp được đưa ra đều có độ trễ nhất định mới phát huy tác
dụng, vậy khi nào cần can thiệp thị trường, khi nào cần thoái lui cũng là vấn
đề cần được nghiên cứu kỹ.
Thứ sáu, về phương pháp can thiệp, trong những điều kiện đặc biệt,
việc sử dụng các công cụ hành chính đôi khi là cần thiết. Tuy nhiên, việc sử
dụng các công cụ này trong một thời gian dài sẽ làm méo mó nền kinh tế. Mặt
khác, việc thoái lui các loại công cụ hành chính cũng cần phải có một lộ trình
phối hợp nhằm tránh tạo ra những tác động “đột ngột” đến nền kinh tế. Vì
vậy, lựa chọn phương pháp can thiệp phù hợp cũng sẽ tác động đến sự thành
công của phối hợp chính sách.
8. Những vấn đề đang đặt ra ở Việt Nam hiện nay và đề xuất giải pháp
phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ?
(www.mof.gov.vn, www.sbv.gov.vn,....) (Soạn trả lời Phạm Tiến Bình)
19


Chính sách tài chính (CSTC) và chính sách tiền tệ (CSTT) là hai công
cụ quan trọng trong điều hành, quản lý kinh tế vĩ mô của bất kỳ một quốc gia
nào. Hai chính sách này tuy có những chức năng riêng nhưng lại có mối quan
hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế
chung của mỗi quốc gia. Bài viết đánh giá thực trạng phối hợp chính sách tài

chính và tiền tệ tại Việt Nam và đề xuất một số giải pháp phối hợp hiệu quả
hai chính sách nói trên.
*Chính sách tài chính trong kinh tế học vĩ mô là là chính sách thu chi của
Chính phủ hay còn gọi là chính sách ngân sách như thuế, phát hành trái phiếu
chính phủ, tín phiếu kho bạc....và đầu tư công cộng để tác động tới nền kinh
tế.
* Chính sách tiền tệ là việc thực hiện tổng thể các biện pháp, sử dụng các
công cụ của Ngân hàng Trung ương nhằm góp phần đạt được các mục tiêu
của chính sách kinh tế vĩ mô thông qua việc chi phối dòng chu chuyển tiền và
khối lượng tiền như lãi suất chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt
buộc...
Sự phối hợp chính sách tài chính- chính sách tiền tệ tại Việt Nam
hiện nay
Sự phối hợp giữa hai CSTC và CSTT nhằm đưa nền kinh tế vận hành
đúng quy luật, khai thác được động lực to lớn của nền kinh tế thị trường phục
vụ phát triển là mục tiêu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên,
trên thực tế sự phối hợp này luôn gặp phải những vấn đề phức tạp về mức độ,
thời điểm, cách thức và cơ chế vận hành. Phối hợp hai chính sách này như thế
nào cho hợp lý và tối ưu để phục vụ 2 mục tiêu: ổn định và phát triển là vấn
đề đặt ra cần giải quyết, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế còn gặp nhiều khó
khăn như năm 2013.
Trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế, trong thời gian qua,
CSTT được điều hành linh hoạt, thận trọng và liên tục được điều chỉnh cho
phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn, còn CSTC được
hoàn thiện theo hướng bảo đảm thống nhất, minh bạch và công bằng. Năm
2012 và 2013, Chính phủ đã đưa ra những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất, hỗ trợ thị trường nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong điều kiện ổn
định vĩ mô còn chưa vững chắc là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng để đạt mục
tiêu tăng trưởng kinh tế đất nước. Trong đó, những gói giải pháp tài chínhvà


20


tiền tệ được triển khai đồng bộ luôn có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả cũng
như mục tiêu đề ra.
Cụ thể, tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 đã có những kết quả tích
cực, cơ bản hoàn thành được các mục tiêu đề ra. Các giải pháp kiềm chế lạm
phát và ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục phát huy hiệu quả. Lạm phát được kiểm
soát ở mức thấp, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp so với năm 2011. Cán cân
thanh toán quốc tế cải thiện; lãi suất giảm mạnh; thanh khoản của hệ thống
ngân hàng được đảm bảo; kim ngạch xuất khẩu ước tăng đáng kể so với chỉ
tiêu kế hoạch đề ra; dự trữ ngoại hối được cải thiện; tỷ giá ổn định. Khó khăn
trong sản xuất, kinh doanh từng bước được tháo gỡ và có chuyển biến tích
cực.
Nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế tập trung vào ba lĩnh vực trọng tâm là
tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu ngân hàng thương mại và tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước (DNNN) đã và đang được triển khai tích cực... Những chuyển biến
tích cực trên có phần quan trọng là do CSTC và CSTT đã được ban hành kịp
thời, hết sức linh hoạt, đi liền với thực tiễn, đặc biệt là hai chính sách này đã
ăn khớp với nhau hơn...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật nêu trên, sự phối hợp của
hai chính sách vĩ mô này vẫn còn nhiều hạn chế, có những lúc còn chưa thực
sự nhịp nhàng. Lúc CSTT “thắt” quá chặt, trong khi CSTC lại mở rộng; có lúc
tín dụng mở rất nhanh nhưng đầu tư nhà nước lại mở chậm. Liều lượng và
mức độ sử dụng các công cụ từng thời kỳ, giai đoạn chưa tạo ra sức mạnh kết
hợp tổng thể. Sự phối hợp trong việc hoạch định và thực hiện mục tiêu chính
sách ở tầm ngắn hạn và dài hạn, sự phối hợp trong việc sử dụng các công cụ
còn hạn chế.
Thực tế những năm qua, để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, nhiều thời
điểm quan điểm nới rộng cùng lúc đã được cả hai chính sách nói trên áp dụng,

triển khai (cho vay tăng trưởng tín dụng cao, tăng đầu tư công...). Điển hình là
năm 2009, “liều thuốc” nói trên đã giúp Việt Nam tăng trưởng 5,3% và kiềm
chế lạm phát ở mức 6,8%.
Tuy nhiên, bước sang năm 2010, trong khi CSTT đã giảm dần mức độ
nới lỏng thì CSTC lại chưa được thắt lại tương ứng, nhằm phục vụ mục tiêu
tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2009. Kết quả là, dù tốc độ tăng trưởng năm
2010 đạt 6,78%, nhưng lạm phát lại tăng tới 11,75% (cao gần gấp 2 lần so với
năm 2009). Năm 2011, mức mục tiêu kìm giữ lạm phát được đặt ra ban đầu là
21


dưới 7%, thấp hơn nhiều so với mức lạm phát bình quân của 3 năm liền trước
đó (12,73%).
Để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã buộc phải
cắt giảm cung tiền và tăng trưởng tín dụng một cách đột ngột, gây ra những
hệ quả không mong muốn như lãi suất cho vay và nợ xấu tăng cao, thanh
khoản căng thẳng, thị trường chứng khoán suy kiệt, bất động sản đóng băng.
Kết quả, lạm phát năm 2011 tăng vọt lên 18,13%. Bước sang năm 2012, các
chỉ tiêu tăng trưởng được đề ra cơ bản đều đạt được và phù hợp với tình hình
thực tiễn, đặc biệt lạm phát đã trở lại tăng ở mức một con số đúng như mục
tiêu ban đầu nhưng tăng trưởng tín dụng lại không như mong muốn.
Có những thời điểm CSTT và CSTC được điều hành khá độc lập, thiếu
sự phối hợp nhịp nhàng dẫn đến sự xung đột, triệt tiêu hoặc làm giảm hiệu
quả của 1 trong 2 chính sách. Bên cạnh đó, trong quá trình thực thi chính sách
cũng xuất hiện những vấn đề phức tạp phát sinh trong kết hợp hai chính sách
này đó là sự lựa chọn chính sách và phương thức vận hành.
Đề xuất phải pháp
Kết hợp hài hòa giữa CSTT và CSTC có ý nghĩa hết sức quan trọng để
đảm bảo kiềm chế lạm phát, khơi thông nguồn vốn, giúp tháo gỡ khó khăn
cho DN, tạo ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc. Trong thời gian tới cần tập

trung thực hiện các giải pháp sau:
- Bộ Tài chính và NHNN và cần có sự phối hợp trong việc xác định
mục tiêu vĩ mô ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều phối chung
cho mục tiêu đó. Trong thời gian tới, Chính phủ nên xem xét đến việc chuyển
đổi khung mục tiêu chính sách theo hướng thực hiện chính sách mục tiêu lạm
phát linh hoạt - mục tiêu lạm phát linh hoạt nhằm hướng hai chính sách vào
mục tiêu chung. Theo đuổi chính sách này, cả NHNN và Bộ Tài chính sẽ cùng
tham gia xác định khung mục tiêu chính sách cho giai đoạn trung hạn, tạo thế
chủ động và linh hoạt trong quá trình phối hợp để đạt mục tiêu. Mặt khác,
chính sách mục tiêu lạm phát linh hoạt cho phép quan tâm cả mục tiêu kiểm
soát lạm phát và mục tiêu tăng trưởng thông qua chỉ số độ lệch sản lượng.
Ðiều chỉnh này rất tương thích với việc lựa chọn mục tiêu của các nước đang
phát triển như Việt Nam. Chủ trương cũng như sự quyết tâm theo đuổi mục
tiêu ổn định vĩ mô của Chính phủ trong thời gian qua là bước dấu hiệu quan
trọng cho phép triển khai chính sách mục tiêu lạm phát linh hoạt ở Việt Nam
trong thời gian tới.
22


- Bộ Tài chính và NHNN cần tiếp tục chi tiết hóa thêm các nội dung
ưu tiên triển khai trong quá trình điều hành. Theo đó, nên xây dựng các
phương án phối hợp cụ thể, bám sát các diễn biến khác nhau của tình hình vĩ
mô. Cũng cần khắc phục tình trạng phần nhiều nội dung phối hợp điều hành
mới chỉ dừng lại ở cấp Trung ương mà chưa sâu rộng đến cấp địa phương.
Nội dung phối hợp nên được cụ thể hóa bằng các quy chế, quy định mạch lạc,
khả thi giữa hai ngành tài chính và ngân hàng. Đặc biệt, hai bên cần thường
xuyên trao đổi trước thời điểm mỗi ngành bắt đầu triển khai các chính sách
mới có khả năng tác động qua lại lẫn nhau. Việc phối hợp chặt chẽ như vậy
mới tạo thuận lợi cho tính toán tổng thể, kỹ lưỡng các giải pháp triển khai, sao
cho khi thực hiện CSTT phải đảm bảo giảm thiểu tác động tiêu cực lên CSTC

và ngược lại.
- Tăng cường và hoàn thiện việc thu thập, phân tích, trao đổi thông tin
để việc thông qua và thực hiện các CSTC, CSTT được chuẩn xác, phù hợp
với tình hình thực tế. Để ổn định thị trường tiền tệ, CSTC và CSTT cần được
thực hiện theo hướng ổn định lãi suất, ổn định thanh khoản của hệ thống tài
chính, phát triển các phân khúc của thị trường tài chính và phối hợp cung cấp
thông tin.
- Tăng cường sự phối hợp để thực hiện huy động nguồn bù đắp bội chi
ngân sách, cũng như việc huy động trái phiếu chính phủ cho các công trình
giao thông, thủy lợi trong thời gian tới, nhất là thời hạn huy động, hình thức,
lãi suất và thời điểm huy động thông qua hình thức trao đổi, lấy ý kiến, để
tránh diễn biến không có lợi trên thị trường tiền tệ, tác động xấu đến kinh tế vĩ
mô.
- Bối cảnh kinh tế năm 2013 được dự báo còn tiếp tục khó khăn, sẽ tác
động không thuận đến thu ngân sách. Để đảm bảo duy trì các khoản chi
thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển không bị hụt lớn, đáp ứng mục tiêu
tăng tưởng GDP cao hơn năm 2012, đòi hỏi không thể cắt giảm mạnh chi
ngân sách. Trong bối cảnh đó, CSTT sẽ phải hỗ trợ CSTC nhiều hơn, nhằm
đảm bảo cân đối thu - chi hợp lý cho nền kinh tế. Theo đó, CSTT cần tính đến
phương án ứng vốn cho nền kinh tế trong những thời điểm cụ thể, để phần
nào bù đắp nguy cơ hụt thu ngân sách. NHNN nên linh hoạt sử dụng các công
cụ điều hành, để hướng khả năng dồi dào thanh khoản của hệ thống ngân
hàng vào tiếp tục nâng tỷ lệ sở hữu trái phiếu chính phủ. Qua đó, góp phần gia
tăng tỷ lệ thành công cho các đợt phát hành trái phiếu chính phủ trong năm
2013. Từ đó, huy động được lượng vốn cần thiết để tài trợ cho các hoạt động
chi tiêu công, giảm sức ép lên thu ngân sách, cũng như hoạt động của DN.
23


9. Phân tích cung cầu tiền tệ và hàm cầu tiền tệ, đưa ra công thức các

khối tiền và sơ đồ về các khối tiền trong mối quan hệ với rủi ro và sinh lời?
(Cung cầu tiền tệ và hàm cầu tiền tệ - Chương VIII Cung cầu tiền tệ - Trang
192-235 – Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng – Học viện Ngân hàng).
(Soạn trả lời Lê Thị Nga)
Mức cung tiền:
*/ Khái niệm: Mức cung tiền là khối lượng tiền cung ứng cho lưu
thông nhằm đáp ứng nhu cầu về giao dịch, dự trữ của các cá nhân, tổ chức,
gia đình. Nó được thể hiện dưới hình thức tiền mặt, tiền gửi vào NH và các tài
sản tài chính khác. Cung tiền thực tế trong lưu thông do các chủ thể phi NH
năm giữ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế được đo bằng các mức cung tiền
tệ khác nhau và được kết cấu theo nguyên tắc tính lỏng giảm dần
Tiền gửi KKH > tiền gửi CKH > CK ngắn hạn > Cổ phiếu > Bất động sản.
Các mức cung tiền bao gồm:
- M1: Lượng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi
không kỳ hạn. Đây là bộ phận có tính lỏng cao nhất, phục vụ chủ yếu cho nhu
cầu giao dịch
M1 = C + D ( C: Tiền ngoài hệ thống NH; D: Tiền gửi không kỳ hạn)
- M2: Bao gồm M1 và tiền gửi có kỳ hạn + cổ phiếu, trái phiếu
M2 = C + D + T + B
M2 kém linh loạt hơn M1 nhưng sự kiểm soát M2 là hết sức quan trọng
bởi vì tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn thường xuyên chuyển hoá cho
nhau. Đây là khối tiền được coi như chỉ tiêu kiểm soát chính thức.
- M3: Là MS ở phạm vi cực kỳ rộng.
M3 bao gồm M2 + tín phiếu, trái phiếu do CP phát hành, DN và các tổ chức
phát hành
Mức cầu tiền:
- Khái niệm: Mức cầu tiền là số lượng tiền tệ mà dân chứng, các doanh
nghiệp và các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước cần giữ nhằm đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng và bảo toàn giá trị trong điều kiện giá cả và các biến vĩ mô
cho trước. Khác với nhu cầu về hàng hoá nhằm thoả mãn yêu cầu về một giá

trị sử dụng nhất định, nhu cầu tiền tệ xuất phát từ khả năng trao đổi của tiền tệ
chứ không xuất phát từ bản thân nó - như vậy, khi đề cập nhu cầu tiền tệ là
nhu cầu tiền thực tế. Nói cách khác, hàng hoá chỉ có thể thoả mãn một số nhu
cầu giới hạn nào đó của con người thông qua giá trị sử dụng của nó trong khi
nếu có tiền trong tay, người sử hữu có thể thoả mãn mọi nhu cầu và do đó
mong muốn nắm giữ tiền dường như vô hạn. Vấn đề đạt ra là nhu cầu tiền tệ
của công chúng chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố nào. Điều này sẽ được làm
sáng tỏ sau khi nghiên cứu các động cơ giữ tiền của công chúng.
Thành phần và nhân tố ảnh hưởng mức cầu tiền tệ.
24


- Mức cầu tiền giao dịch gồm các thành phần:
+ Mức cầu tiền giao dịch: Là nhu cầu tiền tệ với tư cách là phương tiện
trao đổi nhằm phục vụ cho nhu cầu giao dịch hàng ngày của các chủ thể kinh
tế trong xã hội như mua hàng hoá, trả công dịch vụ, thanh toán tiền hàng...
Đây là cầu chi tiêu thường xuyên và đòi hỏi phải được đáp ứng với
khối lượng tiền có tính lỏng cao.
Có nhiều cách một cá nhân có thể sử dụng để thoả mãn nhu cầu giao
dịch:
- Gĩư toàn bộ thu nhập trong một kỳ dưới dạng tiền tệ để chi tiêu dần
trong kỳ đó cho đến kỳ thu nhập lần sau.
- Để toàn bộ thu nhập dưới dạng tài sản sinh lời và bán khi cần tiền cho
giao dịch.
- Phân bổ thu nhập một phần dưới dạng tiền và một dưới dạng tài sản
sinh lời.
Mỗi cách có những lợi thế và bất lợi riêng. Việc lựa chọn cách giữ tiền
như thế nào sẽ ảnh hưởng đến mức cầu tiền giao dịch bình quân. Điều này,
đến lượt nó lại được quyết định bởi ba yếu tố:
- Chi phí giao dịch liên quan đến việc mua và bán các tài sản sinh lời

khi cần thiết. Chi phí này càng cao mức cầu tiền giao dịch bình quân càng
lớn. Bên cạnh đó, tính lỏng cũng như sự đa dạng của các tài sản sinh lời cũng
có ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu nắm giữ tiền của công chúng.
- Mức lãi suất ròng (chi phí cơ hội) phải trả khi nắm giữ tiền. Mức cầu
tiền giao dịch bình quân giảm khi chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền tăng
lên.
- Mức thu nhập, nhu cầu chi tiêu tăng lên cùng với sự tăng lên của thu
nhập trong kỳ.
Mức độ và chiều hướng ảnh hưởng của các yếu tố này đến nhu cầu tiền
giao dịch bình quân được giải thích bởi các thuyết sau:
*
Đẳng thức Cambridge: Số lượng tiền được giữ cho nhu cầu giao dịch
tỷ lệ thuận với thu nhập thực tế theo đẳng thức: Md/P=kY
Trong đó: Md: Nhu cầu tiền tệ cho giao dịch
P: mức giá cả của rổ hàng hoá được chọn
Y: thu nhập thực tế
Theo quan điểm của Fisher thì tỷ lệ giữa mức cầu tiền giao dịch và thu
nhập là hằng số, ông cho rằng V là tốc độ lưu thông tiền mặt ít biến đổi, do đó
1/V trong phương trình M = 1/V*PY đóng vai trò tương đương k trong
đẳng thức của Cambridge.
Tuy nhiên cả 2 thuyết trên đều chưa đề cập đến ảnh hưởng của lãi suất.

25


×