Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

khuynh hướng sử thi trong thơ việt nam sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.71 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu......................................................................................................................... 1
Nội dung....................................................................................................................... 3
1. Khái quát về khuynh hướng sử thi..........................................................................3
1.1 Khuynh hướng sử thi là gì?..........................................................................3
1.2 Biểu hiện của khuynh hướng sử thi..............................................................4
1.2.1 Ở phương diện đề tài – chủ đề........................................................4
1.2.2 Ở phương diện khắc họa hình tượng..............................................6
1.2.3 Ở phương diện giọng điệu..............................................................9
2. Đặc điểm của khuynh hướng sử thi trong thơ Việt Nam sau năm 1975.................11
2.1 Những tiền đề cơ bản...........................................................................................11
2.1.1. Sự vận động theo quán tính của văn học thời hậu chiến..............11
2.1.2. Các nhà thơ viết về chiến tranh theo khuynh hướng sử thi như là một sự
tri ân với thời oanh liệt đã qua, những bạn bè đã khuất. ............................................12
2.1.3. Vấn đề chiến tranh là một hiện thực đa chiều cần nhận thức lại............13
2.2 Biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong thơ sau năm 1975.....................14
2.2.1 Khuynh hướng sử thi thiên về bi tráng.........................................15
2.2.2 Khuynh hướng sử thi gắn với những kinh nghiệm, trải nghiệm cá
nhân..................................................................................................................20
Kết luận...................................................................................................................... 26
Tài liệu tham khảo...................................................................................................... 27

1


MỞ ĐẦU
Bất cứ một nền văn học nào trong sự vận động và phát triển của nó đều nhằm đề
cập và giải quyết ở mức độ nhất định những vấn đề mà thời đại đó đặt ra và nó có thể
dự báo những vấn đề chủ yếu của con người và thời đại trong bước tiến của lịch sử.
Thơ ca từ những năm 1975 trở lại đây đang sải những bước chân mạnh mẽ trên con
đường hiện đại hóa từ nội dung đến hình thức với sự đa dạng về tư duy nghệ thuật, về


khuynh hướng thẩm mỹ cũng như về bút pháp và ngôn ngữ. Nhiều nhà thơ đắm mình
trong truyền thống, nhưng cũng nhiều nhà thơ có lối viết cách tân táo bạo theo kiểu
phương Tây mang đến cho văn học Việt Nam một diện mạo mới mẻ.
Văn học cách mạng, văn học thời kỳ chiến tranh là sự phát triển tiếp nối của
truyền thống yêu nước trong nền văn học dân tộc. Âm hưởng chung của văn học giai
đoạn này là cái cao cả, cái hào hùng. Ý thức chung của nền văn học đó là hướng tới
sự phản ánh cái cao đẹp của chiến tranh nhân dân, vì vậy nó được sáng tác theo
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Sau ngày miền Nam giải phóng (1975),
đặc biệt là từ sau Đổi mới (1986), đời sống văn học Việt Nam đã có những thay đổi
quan trọng trong nhận thức và tiếp nhận nghệ thuật. Việc phản ánh cuộc sống và con
người trong văn học được suy ngẫm và phân tích theo một hướng khác, mới lạ, độc
đáo và phù hợp với tinh thần thời đại…
Thơ ca sau năm 1975, nhất là mười năm đầu sau giải phóng vẫn tiếp tục được
sáng tác theo cảm hứng sử thi. Tuy nhiên cuộc sống thời hậu chiến có quá nhiều điểm
khác biệt so với cuộc sống thời chiến tranh. Điều đó đòi hỏi nghệ sĩ phải xác lập vị
thế của mình sao cho thích hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Từ chỗ là những ca sĩ ngợi
ca đất nước và nhân dân bằng cái nhìn đầy tự hào, giờ đây các nhà thơ chuyển từ “bè
cao” sang “giọng trầm”. Từ góc độ khám phá hiện thực khác nhau, nhà văn đã cố
gắng thể hiện số phận con người với những chiến công và chiến bại, những niềm vui
lẫn day dứt, đau thương, có khi rất riêng tư trong sâu thẳm của tâm hồn, có khi lại hòa
đồng với những lo toan, trăn trở đi lên của dân tộc. Điều đó làm cho cảm hứng sử thi
trong thơ sau năm 1975 thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm, kinh nghiệm
cá nhân.
2


Khi viết về thơ Việt Nam sau năm 1975, Nguyễn Văn Long đã khái quát nên ba
khuynh hướng phát triển chính:
1. Tiếp tục cảm hứng sử thi nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm,
kinh nghiệm các nhân.

2. Hướng về đời sống thế sự và trở về cay tôi cá nhân
3. Đi sâu vào những vùng tâm linh vô thức và đưa thơ theo hướng tượng trưng,
siêu thực.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận của mình, nhóm chúng tôi sẽ phân tích, làm rõ
khuynh hướng “Tiếp tục cảm hứng sử thi nhưng thiên về bi tráng và gắn với
những trải nghiệm, kinh nghiệm các nhân” của thơ Việt Nam sau 1945.
Vì những hạn chế về thời gian, vốn hiểu biết của bản thân, đề tài sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp của quý thầy cô và
các bạn để bài tiểu luận này được hoàn thiện hơn.

3


NỘI DUNG
1. Khái quát về khuynh hướng sử thi
1.1 Khuynh hướng sử thi là gì?
“Sử thi là tác phẩm tự sự dài xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học dân tộc
nhằm ngợi ca những sự nghiệp anh hùng có tính toàn dân và ý nghĩa trọng đại đối
với dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử” [6;233]. Sử thi hình thành và phát
triển khi mà số phận cá nhân gắn chặt với số phận của cộng đồng. Nó gắn với các sự
kiện lịch sử nhất định, thường là những cuộc chiến tranh có ý nghĩa toàn dân đánh
dấu sự hưng thịnh hay suy vong của một bộ tộc, một quốc gia. Các nhân vật chính
của sử thi là những anh hùng, tráng sĩ, tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thần,
cho ý chí và trí thông minh, lòng dũng cảm của cộng đồng, dân tộc.
Khi xã hội ngày càng phát triển, số phận của cá nhân có sự độc lập tương đối với
cộng đồng thì thể loại sử thi biến mất. Nhưng chất sử thi thì vẫn còn tồn tại trong đời
sống văn học. Mỗi khi đất nước, vận mệnh của cộng đồng bị đe dọa thì chất sử thi
lại dạt dào và phát triển thành khuynh hướng sử thi trong các tác phẩm thơ ca.
Khuynh hướng sử thi xuất hiện thường xuyên trong văn học dân tộc, nhưng tùy
trong từng giai đoạn mà nó biểu hiện theo những chiều hướng và mức độ khác nhau.

Khuynh hướng sử thi phát triển rực rỡ nhất trong văn học giai đoạn 1945-1975, đặc
điểm ấy thể hiện đậm nét trong từng tác phẩm, từng nhà văn và từng thể loại. Dù
dung lượng của một tác phẩm lớn hay nhỏ thì nó vẫn bao quát cả một giai đoạn lịch
sử, một chiến dịch lớn, nói đến những vấn đề hệ trọng của một dân tộc và thời đại,
vận mệnh của đất nước và nhân dân. Không chỉ hiện diện trong giai đoạn 1945 –
1975, khuynh hướng sử thi vẫn được tiếp nối trong dòng văn học nước ta thời hậu
chiến.

1.2 Biểu hiện của khuynh hướng sử thi
1.2.1 Ở phương diện đề tài – chủ đề
4


Các sáng tác thuộc khuynh hướng sử thi tập trung vào các đề tài – chủ đề có ý
nghĩa toàn dân tộc, thể hiện những vấn đề, những sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng
đại. Vấn đề riêng tư của mỗi cá nhân bị mờ đi trước những vấn đề mang ý nghĩa vận
mệnh chung của cả cộng đồng.
Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt kéo dài, vấn đề dân tộc trở thành vấn đề
được quan tâm hàng đầu trong văn học thời kì 1945-1975. Trong suốt khoảng thời
gian đó, hiện thực cách mạng và đời sống lịch sử của dân tộc là bình diện nổi bật,
bao trùm toàn bộ đời sống xã hội, thu hút và chi phối mọi bình diện khác. Có thể
nói, mọi đề tài, cảm hứng của văn học đều được trực tiếp khai thác hoặc có liên quan
chặt chẽ với hiện thực lịch sử, với những vấn đề và vận mệnh của dân tộc, nhân dân.
Đề tài chiến tranh, đề tài người lính trở thành đề tài nổi bật. Trong những ngày
tháng mưa bom, bão đạn, các nhà thơ đã tái hiện sinh động hiện thực chiến đấu với
bao mất mát, hi sinh nhưng cũng rất đỗi hào hùng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm.

(Tây Tiến – Quang Dũng)
Ra trận đối diện với kẻ thù, với sự sống và cái chết gần nhau trong gang tấc
nhưng dân tộc ta vẫn không lùi bước. Vì tình yêu đất nước tha thiết, họ đã ra đi với
niềm lạc quan, phấn khởi:
Những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bời tre từng hồi trống giục...
Súng nhỏ súng to chiến trường trật trội
Tiếng cười hăm hở đầy sông, đầy cầu
(Đường ra mặt trận – Chính Hữu)
Tuy đứng giữa thực tại đầy vất vả, đau thương nhưng tâm hồn họ luôn hướng về
tương lai, về lí tưởng:
5


Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Khuynh hướng sử thi đề cao tinh thần yêu nước và ca ngợi chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, tập trung phản ánh cuộc sống lao động, khắc họa thành công hình ảnh con
người Việt Nam trong chiến tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất.
Yêu tổ quốc là điều không thể dấu
Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên
Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông.
(Sao chiến thắng – Chế Lan Viên)
Không chỉ trong thơ và cả trong văn xuôi, đề tài chiến tranh cũng là đề tài nổi
bật. Chẳng hạn như Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng đã tái hiện bức tranh
toàn cảnh một chiến dịch với những cuộc hành quân, với những trận công đồn, những
vận động chiến thẻ hiện tinh thần chiến đấu sôi nổi hào hùng của nhân dân ta và thất
bại nặng nề của địch. Hay Sống mãi với Thủ đô - cuốn tiểu thuyết mô tả toàn bộ cuộc

sống của thủ đô trong thời điểm căng thẳng những ngày trước toàn quốc kháng chiến.
Quán rượu người câm của Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa cuộc chiến đấu khóc
liệt trong trận Đồng Khởi. Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu, khắc họa
một tình yêu đẹp, lãng mạn trong khói lửa chiến tranh. Nhân vật chính của các tác
phẩm thường tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, gắn bó sản phẩm mình với sản
phẩm đất nước, kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng. Lời văn mang
giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ. Cái đẹp của cá nhân là ở ý
thức công dân, lẽ sống lớn và tình cảm lớn.
Khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn. Không chỉ viết về chiến
tranh, các nhà thơ hay thả hồn mình hòa với hồn dân tộc để ca hát về đất nước:

Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát
6


Chuyến phà rào rạt bến nước bình ca
(Ta đi tới - Tố Hữu)
Đất nước được miêu tả thật tươi đẹp, rực rỡ và tràn đầy sức sống mới. Tất cả
niềm tự hào được thấm đẫm trên mỗi trang thơ, từ vẻ đẹp vùng biển quê hương đến
núi đèo xa lạ:
Nắng tươi xóm ngói, tường vôi mới
Phấp phới buồm dong nắng biển khơi
(Mẹ tơm -Tố Hữu)
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa

(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Hay:
Xuân ơi xuân, em mới đến dăm năm
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội
Như hôm nay giữa công trường đỏ bụi
Những đoàn xe vận tải nối nhau đi
(Bài ca xuân 61 –Tố Hữu)
1.2.2 Ở phương diện khắc họa hình tượng
Khuynh hướng sử thi trong văn học không chỉ biểu hiện qua đề tài - chủ đề mà
còn biểu hiện qua hình tượng.
Khuynh hướng sử thi thường khắc họa hình ảnh những con người đại diện cho
tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của toàn dân tộc. Đó là những con người
có khả năng đáp ứng được đòi hỏi của dân tộc và thời đại, nhân danh cộng đồng mà
chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc. Hình tượng mang tính sử thi, được hiện diện
trong môi trường lịch sử của đất nước và dân tộc, gánh trên vai sứ mệnh lịch sử cao
7


cả của cộng đồng. Đó là những con người mang tư tưởng của thời đại, khát vọng và
ý chí của dân tộc, thể hiện tập trung sức mạnh và phẩm chất của con người Việt
Nam.
Một trong những hình tượng đươc thể hiện rõ nhất chính là anh chiến sĩ giải
phóng quân. Đó là những con người giàu nghị lực, ý chí có tình cảm đẹp và là con
người chiến thắng.
Trong bài Dáng đứng Việt Nam, Tố Hữu đã nói đến anh chiến sĩ giải phóng
quân với niềm kính phục, ngưỡng mộ và yêu thương:
Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Hay trong bài thơ Hãy nhớ lấy lời tôi từ ca ngợi người anh hùng Nguyễn Văn
Trỗi tác giả đã đúc kết thành những suy tưởng khái quát:

Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi lời ca
Có con người như chân lí sinh ra
Cùng với anh chiến sĩ giải phóng quân hình ảnh cô thanh niên xung phong, cô
gái mở đường, cô du kích, cô giao liên...đã in bóng vào trong văn học. Đó là những
người phụ nữ chân yếu tay mềm, dịu dàng bé nhỏ nhưng đã trở thành người chiến sĩ
kiên cường khi đất nước có giặc ngoại xâm. Các chị thừa kế truyền thống của những
người phụ nữ anh hùng trong dân tộc để trở thành những con người gang thép, sẵn
sàng hi sinh về Tổ quốc, chiến đấu anh dũng tới phút cuối cùng:
Ôi những nàng xuân rất dịu dàng
Hát câu quan họ chuyến đò ngang
Nhẹ nhàng tay cấy bên sông ấy
Súng khoác trên lưng, chẳng ngỡ ngàng
(Xuân sớm - Tố Hữu)

8


Những người phụ nữ ấy khi đứng giữa sự sống và cái chết, cô gái anh hùng đã
chọn sự hi sinh cao cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì lí tưởng cách mạng, vì Tổ
quốc thân yêu. Đây là nét đẹp sáng ngời của hình tượng mang tính sử thi:
Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây, hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm đông
Thịt da em hay là sắt là đồng?
(Người con ngái Việt Nam – Tố Hữu)
Cùng với nhứng hình ảnh anh chiến sĩ giải phóng quân, cô thanh niên xung
phong, vẻ đẹp của hình tượng mang tính sử thi còn thể hiện ở hình tượng người mẹ.

Người mẹ là kết tinh của đức hi sinh, lòng nhân hậu, người hành động vì lí tưởng
của đất nước, của quê hương. Đó là hình ảnh Mẹ Suốt, Mẹ Tơm của Tố Hữu; người
mẹ tham gia đồng khởi, làm giao liên, đào hầm giấu bộ đội, sản xuất chi viện chiến
trường trong thơ Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Bằng Việt ...
Hình bóng người mẹ giờ đây không còn là hình ảnh đời thường nữa mà nó là
hình ảnh của đất nước, người mẹ của sự anh hùng, của lòng dũng cảm, của đức hi
sinh vô hạn. Mẹ chính là hình ảnh kết tinh cho vẻ đẹp dân tộc việt Nam:
Việt Nam ôi Tổ quốc thương yêu!
Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng
Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng...
(Chào xuân 1967 – Tố Hữu)
Trong muôn vàn những người Việt Nam anh hùng cao đẹp, Hồ Chí Minh là
“người Việt Nam đẹp nhất”. Hình tượng của Bác đã đi vào trong văn học với vẻ đẹp
rực rỡ, người là tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Vẻ đẹp của Bác trở thành vẻ đẹp
mang tính sử thi trong văn học. Hồ Chí Minh là hiện thân cao cả. Cả cuộc đời người
dành trọn cho nhân dân, đất nước. Bác là người tìm đường cho dân tộc đi tới tương
9


lai. Hành trình cứu nước của Người là biểu tượng con đường cách mạng của Đảng,
của nhân dân ta:
Ôi đường đến với Lenin là đường về với Tổ quốc
Tuyết Maxcova sáng ấy lạnh trăm lần
Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt
Lenin mất rồi nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lenin theo Người về quê Việt
(Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên)
Bác đã hiến trọn cuộc đời cho đất nước, nhân dân. Những giọt nước mắt nén vào
trong nhường chỗ cho tình yêu thương. Những câu thơ viết về Bác là những câu thơ

đầy xúc động và chan chứa tình yêu thương:
Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn
(Bác ơi – Tố Hữu)
1.2.3 Ở phương diện giọng điệu
Giọng điệu sử thi là giọng điệu trang trọng, ngợi ca hào sảng, tráng lệ và hào
hùng. Nếu đề cập đến cái bi, mất mát, hi sinh thì đó phải là giọng bi tráng, bi hùng
chứ không hề bi lụy.
Thơ ca viết theo khuynh hướng sử thi tập trung ca ngợi vẻ đẹp hào hùng và tầm
vóc lớn lao của dân tộc Việt Nam bằng cái nhìn chiêm ngưỡng, say mê. Cho dù viết
về chiến tranh hay xây dựng Tổ quốc, các tác giả đều cố gắng tái hiện sự vĩ đại của
con người và dân tộc Việt Nam. Ca ngợi đất nước trong những ngày xây dựng xã hội
chủ nghĩa tươi đẹp, Tố Hữu đã viết:
Thơ ta ơi hãy cất cao tiếng hát
Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta
Mùa thu đó đã bắt đầu trái ngọt
10


Và bắt đầu nở rộ những vườn hoa
(Mùa thu mới)
Hay để khẳng định vẻ đẹp huy hoàng, diễm lệ của Tổ quốc trong những ngày
đánh Mỹ ác liệt, Chế Lan Viên viết bài thơ Tố quốc bao giờ đẹp thế này chăng?.
Toàn bộ bài thơ có một giọng điệu hào sảng và ngay khi đọc một mình, ta cũng
muốn đọc to lên. Với giọng điệu ngợi ca, hào hùng, nhịp thơ cuồn cuộn, ý thơ, hình
ảnh trùng điệp, nhà thơ đã gieo vào trong lòng tự hào không dứt:
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng

Ôi! trường Sơn vĩ đại của ta ơi!
Ta tựa vào ngươi kéo pháo lên đồi
Ta tựa vào Đảng ta lên tiếng hát
Giọng thơ ngợi ca khẳng định mà ngay khi đọc lên ta đã cảm nhận được. Giọng
thơ đó là được hun đúc từ lịch sử, từ khí thiêng sông núi hợp thành. Khi đất nước cỏ
cây của dân tộc bừng bừng phẫn nộ thì dân tộc ấy không khuất phục bất cứ một kẻ
thù nào:
Súng nổ tung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam như máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Việt Nam là một đất nước anh hùng. Trên gương mặt của một đất nước anh hùng
là những con người anh hùng. Tố Hữu viết về con người Việt Nam kiên cường, bất
khuất bằng những vần thơ hào hùng:
Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại
Còn một giọt máu tươi còn đập mãi
Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời
Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người
11


(Người con gái Việt Nam – Tố Hữu)
2. Đặc điểm của khuynh hướng sử thi trong thơ Việt Nam sau năm 1975
2.1 Những tiền đề cơ bản
2.1.1. Sự vận động theo quán tính của văn học thời hậu chiến
Nếu hòa bình là điều bình thường thì chiến tranh lại là điều bất thường, là những
cơn lũ của lịch sử. Chiến tranh không phải là định mệnh nhưng đã làm cho bao dân
tộc, bao con người phải chịu những số phận nghiệt ngã. Hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trường kì suốt 30 năm đã tác động sâu sắc, toàn diện tới

đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, trong đó có văn nghệ, tạo nên những đặc
điểm riêng biệt của một nền văn học hình thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến
tranh gian khổ, ác liệt. Trong những năm kháng chiến, tầng lớp văn nghệ sĩ đã ý thức
sâu sắc được trách nhiệm trong các sáng tác của mình là phải phụng sự cho đất nước,
các tác phẩm cần tập trung đề cập đến các vấn đề thời sự, liên quan đến vận mệnh dân
tộc, tạo dựng và ca ngợi những con người của thời đại đã sống và phục vụ cho tổ
quốc:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
(Cảm hứng đọc Thiên gia thi –Hồ Chí Minh)
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của
mình. Bằng khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn, văn học thời kì
này đã thể hiện thành công chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tạo nên một sức mạnh
tinh thần to lớn giúp nhân dân ta vượt qua những thử thách tưởng chừng không thể
vượt qua được:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
(Tố Hữu)
Đó là khúc quân hành phản ánh hào khí một thời mà thấm suốt bao thời đại sau này.
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta sạch bóng quân thù, mọi người trở
về với cuộc sống thời bình. Tất cả mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi từ cụ già tới em nhỏ, từ
12


phụ nữ đến đàn ông, từ thanh niên, nông dân đến trí thức… đều hào hứng trước
những biển đổi của đất nước, cùng bước vào giai đoạn kiến thiết nước nhà, khắc phục
hậu quả chiến tranh. Thế nhưng, vừa trải qua những ngày tháng hào hùng, máu lửa,
mang trong mình niềm tự hào của những con người vừa đánh thắng hai đại cường
quốc Pháp, Mỹ, chúng ta không thể không ngoái nhìn lại quá khứ vĩ đại của dân tộc.
Ánh hào quang của quá khứ còn quá sáng chói nên các nhà văn, nhà thơ trong

thời kì hậu chiến không thể không sáng tác theo khuynh hướng sử thi như một quán
tính. Văn học thực sự xác định được nội dung tư tưởng chủ đạo trong sáng tác, đó là
ngợi ca hình ảnh tổ quốc những ngày đầu thống nhất, đề cao phẩm chất tốt đẹp của
người dân Việt Nam Xã hội chủ nghĩa cũng như động viên tinh thần lao động và xây
dựng nước nhà giàu mạnh của người dân cả nước. Văn học sau năm 1975, nhất là
trong giai đoạn 1975 – 1985 vẫn tiếp tục xoay quanh những vấn đề về chiến tranh,
hậu quả của chiến tranh để lại, những con người thời hậu chiến, những hồi tưởng về
một quá khứ đã qua… với khuynh hướng sử thi quen thuộc.
2.1.2. Các nhà thơ viết về chiến tranh theo khuynh hướng sử thi như là một sự tri
ân với thời oanh liệt đã qua, những bạn bè đã khuất.
Bước ra từ chiến trường máu lửa, các nhà văn - chiến sĩ hiểu hơn ai hết về sự hi
sinh lớn lao và nghĩa tình của đồng bào, đồng chí. Với họ, viết về chiến tranh là một
món nợ ân tình cần phải trả. Nguyễn Minh Châu thấy rằng: “Viết về hai cuộc kháng
chiến, viết về chiến tranh, nhiều đồng chí cầm bút viết văn trong quân đội đã đứng
tuổi nhiều lần nói tới công việc đó như một trách nhiệm, một món nợ chưa trả được.
Một món nợ chưa trả và không thể nào quên”.
Quan niệm ấy được nhiều người đồng tình, nó vừa được phát biểu trực tiếp vừa
được hiện thực hóa bằng thực tiễn sáng tác.
Hầu hết các nhà thơ viết về chiến tranh trong giai đoạn này đều là người lính gắn
bó với chiến trường. Sự vận động bên trong tư tưởng của họ đạt đến độ chín muồi, họ
chính là chứng nhân lịch sử, thư ký thời đại đã làm tròn sứ mệnh thiên sứ. Họ tiếp tục
viết về chiến tranh để cho thế hệ sau cảm nhận về những ngày tháng hào hùng, gian
khổ đã qua để biết phấn đấu xứng đáng với những hi sinh của các anh hùng liệt sĩ. Họ
viết cũng là để giải tỏa tâm sự chất chứa của bản thân, để hoài niệm về những gì mình
13


đã trả qua, để tưởng nhớ những người đã cùng họ “Thương nhau chia củ sắn lùi/ Bát
cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng”(Tố Hữu), nhưng không may mắn như họ, không thể
trở về mà phải nằm lại trong lòng đất mẹ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến

trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc
độc hành” (Quang Dũng).
Chính thức nêu vấn đề tri ân quá khứ là hướng đi được nhiều người ủng hộ. Với
quan niệm ấy, nhà thơ sẽ chú trọng khắc họa vẻ đẹp của lòng dũng cảm, đức hy sinh,
lối sống vị tha, tình nghĩa… của những người lính, khắc họa những chiến công vĩ đại
của dân tộc, không khí hào hùng của những năm tháng không thể nào quên.
2.1.3. Vấn đề chiến tranh là một hiện thực đa chiều cần nhận thức lại
Thơ Việt sau 1975 vẫn tiếp tục viết về chiến tranh trên lập trường giai cấp, dân
tộc. Song trong giai đoạn này, quan niệm về chiến tranh và về đề tài chiến tranh trở
nên đa dạng, đôi khi tới mức trái ngược nhau. Nhà văn Nam Hà luôn tâm niệm
“Trước hết cần phân biệt rõ “chiến tranh nào”, theo ông, “vấn đề tôn trọng sự thật
lịch sử, trung thực với lịch sử phải đặt lên hàng đầu” [5;tr23]. Xuất phát từ lợi ích
dân tộc và giai cấp, nhà văn Hồ Phương đặc biệt đề cao việc xây dựng mâu thuẫn đối
kháng và tính sử thi của tác phẩm: “Nhưng dù thế nào, viết về chiến tranh vẫn cứ
phải lấy mâu thuẫn địch ta làm sợi chỉ xuyên suốt; không khí bi hùng và cách mạng
của cuộc vật lộn sống còn của dân tộc vẫn phải bao trùm” [11]. Quan niệm trên là
một hướng tiếp cận đề tài chiến tranh và là tiền đề quan trọng cho khuynh hướng sử
thi tiếp tục phát triển.
Vẫn coi trọng mục đích phản ánh cuộc kháng chiến vĩ đại, khẳng định chính
nghĩa, khẳng định phẩm giá dân tộc, nhưng sau 1975, nhà văn nhấn mạnh hơn vào
yêu cầu “chân thực”. Không bằng lòng với cái hiện thực được lí tưởng hóa một chiều,
họ xác định “không chỉ nói đến thắng lợi mà còn cần nói đến tổn thất, hi sinh, không
chỉ nói đến niềm vui mà còn nói đến nỗi đau khổ do quân thù gây nên”. Chu Lai là
một trong những nhà văn Việt Nam đầu tiên nói về bản chất của chiến tranh khác với
quan niệm truyền thống: “Bằng những kiểm nghiệm bản thân, tôi hiểu ra rằng chiến
tranh quả thật không vui vẻ gì, đối với bất cứ dân tộc nào, dù là tự vệ hay xâm lược,
chiến tranh đều mang ý nghĩa bi kịch” [8].
14



Những cảm nhận về chiến tranh không chỉ được thể hiện trực tiếp qua các bài
báo, mà còn được nêu lên bởi suy nghĩ của nhiều nhân vật trong tác phẩm.
Trước năm 1975, do yêu cầu cổ vũ cho chiến đấu, nhà văn rất coi trọng việc phản
ánh kịp thời những sự kiện nóng bỏng ở mặt trận. Khi cuộc chiến đi qua, nhiều người
băn khoăn lựa chọn “con người” hay “sự kiện” làm đối tượng chủ yếu trong tác phẩm
của mình. Ngay từ năm 1976, trong bài Viết về chiến tranh sau chiến tranh, Nguyễn
Đình Tiên đã xác định cần dành sự ưu tiên cho con người. Sau này, nhà phê bình
Hồng Diệu dứt khoát cho rằng, nhà văn cần “viết về thân phận con người trong cuộc
chiến, còn các sự kiện thì hãy dành phần cho các nhà sử học và các nhà quân sự”.
Thực tế sáng tác từ khoảng giữa thập kỉ 80 diễn biến đúng như dự đoán và mong
muốn của các nhà văn. Khi lấy con người làm hệ quy chiếu, chiến tranh sẽ là nỗi đau,
là hi sinh, mất mát. Nó để lại những hậu quả khó bề đo đếm bằng cái nhìn bên ngoài.
Vấn đề nhận thức lại chiến tranh chính là điều kiện làm cho văn học thời kì này
tiếp tục phát triển theo khuynh hướng sử thi và đây cũng là nhân tố quan trọng làm
cho khuynh hướng sử thi trong thơ từ 1975 đến nay có nhiều điểm khác biệt rõ nét so
với giai đoạn trước.
2.2 Biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong thơ sau năm 1975
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước thống nhất, lịch sử Việt Nam chuyển
qua một thời đại mới, nhưng văn học nghệ thuật thì hình như vẫn vận động theo quán
tính của văn học thời chiến. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn là đề tài cơ bản
của nhiều sáng tác văn học. Các sáng tác ấy vẫn thể hiện nhãn quan giá trị và nguyên
tắc tư duy nghệ thuật của nền văn học sử thi. Nhưng hình như giới sáng tác đã cảm
thấy không thể tiếp tục viết văn như trước. Nguyên Ngọc thừa nhận, rằng càng viết,
tay nghề càng cao, nhưng những trang văn của ông thì càng ngày càng mất dần độc
giả. Và thế là sự đổi mới bắt đầu được khởi động, các nhà văn Việt Nam buộc phải
đổi mới cách viết.
Theo xu hướng chung đó, mặc dù tiếp tục viết theo khuynh hướng sử thi nhưng
khuynh hướng này vẫn có những nét đổi mới, khác biệt so với giai đoạn văn học
trước đó.
2.2.1 Khuynh hướng sử thi thiên về bi tráng

15


Khuynh hướng sử thi là khuynh hướng nổi bật và chủ đạo của thơ ca kháng
chiến chống Pháp - Mỹ. Điều này đã giúp thơ ca giai đoạn này phản ánh được những
chuyển động kỳ vĩ của lịch sử dân tộc, làm sáng bừng lên những phẩm chất cao đẹp
của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam. Chất sử thi dạt dào trong mỗi vần thơ đã
tác động sâu sắc đến tâm tư, tình cảm của mỗi người Việt Nam, có sức lay động sâu
xa. Và có lẽ chính điều này đã góp phần làm nên sức sống mãnh liệt của thơ ca trong
giai

đoạn

đó.

Sau 1975, cảm hứng sử thi vẫn là nền tảng của các trường ca và nhiều bài thơ
về đề tài chiến tranh, nhưng sự đổi thay trong quan niệm của mỗi người làm thơ đã
làm cho sự khái quát lịch sử có được cái nhìn cụ thể, xác thực và thấm thía hơn.
Giọng điệu cũng trầm lắng, hướng vào suy tư chứ không còn cất lên ở âm vực cao
đầy hào sảng hoặc bay bổng lãng mạn. Sự khẳng định dân tộc, ngợi ca sức mạnh của
nhân dân thường được thể hiện qua những mất mát, hy sinh, nỗi đau thầm lặng của vô
vàn con người và bao nhiêu số phận. Thơ ca giai đoạn này không chỉ ca ngợi sự thắng
lợi mà còn thể hiện nhiều về những mất mát, hy sinh . Đặc biệt, họ chưa quên những
ngày tháng chiến tranh khốc liệt đã qua. Vì vậy, cảm hứng bi tráng bao trùm những
sáng tác viết về chiến tranh thời kỳ này.
Không phải ngẫu nhiên mà giai đoạn này xuất hiện hàng loạt trường ca có ý
nghĩa như những bức tranh hoành tráng tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Sau cuộc chiến thắng vĩ đại của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, các nhà văn mới
có dịp được bộc lộ cảm xúc trọn vẹn của mình. Đó là cảm xúc lớn lao trước một dân
tộc anh hùng; đó cũng là những cảm xúc bi hùng trước những mất mát to lớn của dân

tộc, của những người lính, của những bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Hình ảnh chiến tranh với bao đau thương mất mát xuất hiện trong rất nhiều sáng
tác, như Cánh rừng nhiều đóm đóm bay của Nguyễn Đức Mậu, Mùa xuân về của
Nguyễn Hoa, Ra đi của Phùng Khắc Bắc,… Các nhà thơ nói về niềm tự hào và niềm
vui chiến thắng, nhưng còn nói nhiều hơn về những gian lao, sự chịu đựng và hy sinh
của nhân dân, của đồng đội để hôm nay dân tộc đến được cái đích cuối cùng của cả
một hành trình dài dằng dặc.

16


Trong các trường ca, nổi bật lên là hình tượng nhân dân, vừa trong những hình
ảnh khái quát, biểu tượng, vừa trong những chân dung cụ thể của nhiều con người.
Đó là người mẹ, người chị ở hậu phương, là người lính lái xe tăng, xạ thủ trung liên,
người lính đánh bộc phá trong Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh. Nhà thơ đã bắt
đầu chú ý nhiều hơn đến bi kịch của những người mẹ, người vợ ở hậu phương:
Mẹ xếp lại cho anh chồng sách cũ
Nhưng nhớ thương thì biết xếp vào đâu?
Trong khi cố gắng miêu tả sự lớn lao, kỳ vĩ của Tổ quốc, các nhà thơ đã quan tâm
trực diện đến số phận của cá nhân, thậm chí nhiều khi số phận của đất nước được đo
ướm bằng nỗi đau của cá nhân:
- Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy
Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc...
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền.
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Vẫn viết về người lính, nhưng hình ảnh ấy được tái hiện không chỉ trong lúc
chiến đấu trên chiến trường mà ở cả những trăn trở, suy tư, những lúc yếu lòng.
Không còn cái háo hức Đường ra trận mùa này đẹp lắm, họ băn khoăn khi ra đi để lại

sau lưng mình mẹ già, em thơ, cả làng quê yêu dấu và tình yêu trong ngày cưới dang
dở:
Nào riêng hai người yêu nhau hoãn cưới
Bao cô dâu đêm tân hôn tất bật
(Con đường của những vì sao - Nguyễn Trọng Tạo)
Trong những giây phút quyết định nhất đối với vận mệnh của đất nước, người
chiến sĩ xin được quên niềm riêng để hướng con tim mình về Tổ quốc thiêng liêng:
Nhưng em ơi, chính giây phút này đây
Cho anh được quên niềm riêng nồng cháy
17


...Cho anh được quên để nhớ về Đất Nước!
(Tình ca người lính- Nguyễn Trọng Tạo).
Khi người chiến sĩ chiến đấu hy sinh, ngã vào lòng đất vẫn trinh nguyên tuổi trẻ:
Chưa kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai
(Đất nước hình tia chớp - Trần Mạnh Hảo).
Họ tình nguyện ra đi và nằm xuống khi tuổi đời còn xanh:
Họ trẻ lắm những người nằm dưới đó
áo binh nhì xanh suốt tuổi đôi mươi.
(Sông Mê Công- Anh Ngọc)
Như vậy trong những trường ca này, mặc dù cái bi chỉ là yếu tố để làm nổi bật cái
tráng nhưng rõ ràng, cái nhìn về chiến tranh đã sâu hơn, gắn nhiều hơn với những suy
tư cá nhân về số phận dân tộc và số phận con người:
- Và cứ thế, nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế, nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời.
Chân dung thế hệ trẻ đã được khắc họa rất sinh động trong thơ trẻ thời kỳ

kháng chiến chống Mỹ, giờ đây tiếp tục được miêu tả phong phú hơn, sâu hơn ở cả
những chi tiết, sự việc cụ thể của những gian lao và hy sinh, và ở cả những suy tư trải
nghiệm trong thế giới nội tâm tạo nên bức chân dung tinh thần của họ. Chân dung
tinh thần của thế hệ trẻ đi qua cuộc chiến tranh được tô đậm ở sự lựa chọn dấn thân tự
nguyện đầy tỉnh táo chứ không còn là niềm say mê, háo hức đầy chất lãng mạn như
hồi đầu bước vào cuộc chiến tranh:
Chúng tôi đi không tiếc cuộc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc
(Những người đi tới biển - Thanh Thảo)
18


Tuổi hai mươi là quãng đời xanh quý giá nhất của một con người, đã được tự
nguyện hiến dâng vì độc lập tự do của tổ quốc, mà không hề chờ đợi bất kì sự tri ân,
tri công nào. Lời bộc bạch chân thành của nhà thơ mặc áo lính Thanh Thảo, thực sự
đã để lại một ấn cảm mạnh mẽ với bao lớp độc giả.
Nhà thơ không còn bị vướng bận với những kiểu hiện thực chủ yếu và hiện thực
thứ yếu, không bị bó buộc trong những khung tư tưởng định sẵn mà cố gắng thể hiện
tính đa chiều của hiện thực:
-Tuổi trẻ biến trăm sông thành thác
Dập tắt lửa chiến tranh bằng máu đời mình
(Thu Bồn)
- Tiểu đoàn thồ chẳng có gì thồ cả
Cứ đói ròng con gái hóa con trai
Cái chất bi tráng của Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc nay lại được tiếp nối:
- Anh còn lại sau những ngày thay quân
Sau những lần hổ vồ
Sau những lần voi đuổi
Sau bữa canh nấm độc cào gan

Giặc đổ quân vào hậu cứ sư đoàn
Hất anh qua biên giới
Thèm một chỗ ngồi thư thả bóc măng
( Đường tới thành phố -Hữu Thỉnh)
- Để lại trong rừng những gì quý nhất
Mất mọi thứ để nhân dân không mất
(Đi trong rừng - Phạm Tiến Duật)
- Ngày sinh nhất bắt đầu bằng cơn sốt
Cổ đắng khô ngồi thở trên đỉnh dốc
Bạn mở bi đông nhường hớp nước cuối cùng
Hớp nước cuối cùng giữa cơn sốt đầu tiên
19


Ngày sinh nhất tuổi 25 mình được uống
(Những người đi tới biển - Thanh Thảo )
Trên mỗi chặng đường hành quân, người chiến sĩ phải chấp nhận những thiếu
thốn về vật chất, những đeo đẳng và hoành hành của căn bệnh sốt rét để tiến lên phía
trước. Nếu Thu Bồn miêu tả những khó khăn gian khổ của người chiến sĩ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ với bao thiếu thốn: “Trận mùa khô đánh Mỹ/ Quân ta thiếu
cơm, thiếu súng, thiếu cả người” (Bazan khát - Thu Bồn), Hữu Thỉnh khắc họa hình
ảnh người chiến sĩ trong trận sốt rét:“Trận rét rừng xoắn tím cả làn môi” (Đường tới
thành phố- Hữu Thỉnh), thì hình ảnh người chiến sĩ trong trường ca Nguyễn Trọng
Tạo hiện lên chân thực với bao vất vả, thiếu thốn và sự hoành hành của bệnh tật nơi
rừng thiêng nước độc:“Bao chiến sĩ tựa vào cây khi lên cơn sốt/Cánh rừng rung lên
nhận cơn sốt về rừng”(Con đường của những vì sao - Nguyễn Trọng Tạo).
Chất bi tráng trong mạch cảm hứng sử thi tạo cho thơ một diện mạo mới thấm
đẫm tinh thần tri ân, nhân đạo. Cái “bi” đã làm nổi bật sự “hùng tráng” của một thời
đã qua đầy máu lửa và đau thương. Ý thức nói nhiều hơn về bi kịch khiến cho các tập
thơ này không rơi vào giọng điệu tụng ca dễ dãi mà thể hiện chiều sâu ngẫm ngợi của

nhà thơ về thế thái nhân tình trong sự chuyển động không ngừng của lịch sử. Những
gì có được ngày hôm nay là sự nổ lực, hy sinh của cả dân tộc, nỗi đau thương mất mát
trở thành đề tài sáng tác nhằm nhắc nhở với thế hệ sau một thời đã qua đầy tự hào.
2.2.2 Khuynh hướng sử thi gắn với những kinh nghiệm, trải nghiệm cá nhân
Văn học không chỉ là tiếng nói chung của dân tộc, thời đại cộng đồng mà còn
có thể là phát ngôn của mỗi cá nhân nghệ sĩ, là phương tiện tự biểu hiện bao gồm cả
việc phát biểu tư tưởng, quan niệm chính kiến của nhà văn về xã hội và con người.
Trong suốt mấy chục năm, nền văn học cách mạng đã sản sinh và đào luyện một đội
ngũ nhà văn chiến sĩ rất đáng tự hào, làm tròn trách nhiệm trước đòi hỏi của cách
mạng và dân tộc, trong đó có những người cầm bút đã cống hiến cho sự nghiệp cách
mạng không chỉ bằng tài năng tâm huyết mà còn bằng cả sinh mạng của mình. Trong
nền văn học sử thi thời kỳ chiến tranh, nhà văn phải là người phát ngôn cho ý thức
cộng đồng, cho tư tưởng và khát vọng của dân tộc. Nói như Chế Lan Viên, người cầm
bút lúc ấy "bay theo đường dân tộc đang bay" và "nghĩ trong những điều Đảng nghĩ".
20


Xu hướng dân chủ hóa của thời kỳ đổi mới coi trọng tự do sáng tác, khuyến khích và
yêu cầu nhà văn mạnh dạn tìm tòi sáng tạo. Nhưng chính vì thế mà càng đòi hỏi cao ở
nhà văn trong trách nhiệm của một người cầm bút. Nhà văn thực sự phải là người có
tư tưởng, có cách nhìn riêng và những khám phá, sáng tạo mới mẻ, kết quả của sự
nghiền ngẫm và trải nghiệm đời sống của chính người viết.
Khi còn giặc, để cổ vũ tinh thần chiến đấu, để tuyên truyền, góp phần tạo nên sức
mạnh đoàn kết thì cảm hứng chủ đạo là ngợi ca. Khi hết giặc, cuộc chiến ấy được
nhìn lại bằng cái nhìn của con người bình thường. Những cái đời thường, tầm thường
của con người từng tạm thời được “bỏ qua” thì giờ đây được nhìn lại.

Do đó, mặc

dù âm hưởng sử thi vẫn còn được duy trì trong những tác phẩm thơ sau 1975 nhưng

khuynh hướng sử thi đó thấm đẫm những trải nghiệm và suy nghĩ của người cầm bút.
Chiến tranh trôi qua chưa lâu nhưng nếu đặt nó trong tương quan với lịch sử mấy
nghìn năm của dân tộc dễ nhận thấy một thực tế: các nhà văn đã có một độ lùi cần
thiết để nhìn về cuộc chiến bằng cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn. Trước đây, hiện thực
hiện lên trong tác phẩm thường là hiện thực “nhìn thấy” thì trong thơ sau 1975, chiến
tranh chủ yếu hiện lên trong ký ức. Với một khoảng cách thẩm mỹ như thế, chiến
tranh không chỉ được nhìn từ mặt trước mà còn được nhìn từ phía sau với bao nỗi đau
trĩu nặng, bao nhức nhối khó lành.
Thơ sau 1975 không còn hô vang khẩu hiệu “Còn hạnh phúc nào hơn tổ quốc!”
nữa, mà chúng đều có chung những cảm xúc thời hậu chiến về số phận của những con
người bình thường trong giai đoạn lịch sử mà dân tộc vừa trải qua.

Hồi ức về

cuộc chiến để tạo thêm sức mạnh chứ không phải dùng quá khứ làm cứu cánh cho
hiện tại. Trong thời bình bản lĩnh người lính giúp họ mạnh mẽ hơn để đối diện với
cuộc sống đời thường:
“thế hệ chúng tôi không chỉ sống
bằng kỷ niệm
không dựa dẫm những hào quang
có sẵn
lòng vô tư như gió chướng
21


trong lành
như sắc trời ngày nắng
tự nhiên xanh”
(Thanh Thảo - Một người lính nói về thế hệ mình)
Vẫn những vấn đề con người, chiến tranh, cuộc sống, tình cảm... nhưng lại được

các tác giả cảm nhận một cách sâu lắng, đầy trăn trở dựa trên những trải nghiệm cá
nhân:
Tôi bước ra ngoài bậc cửa chiến tranh
Trời đã cao xanh, đất đã bình yên
Nhưng lòng còn khắc khoải
Tôi sợ sự kiếm tìm
Của những người mẹ mất con
Những người vợ mất chồng
(Xin đừng của riêng ai - Phạm Minh Tâm).
Trong hành trình trở về cuộc sống thời bình, thơ đang có sự vận động cân bằng
trở lại với các mối quan hệ của đời thường. Trước kia con người quên mình vì cộng
đồng thì nay con người có nhu cầu khẳng định mình, thể hiện rõ những tình cảm riêng
tư, những nỗi buồn thời cuộc:
Chiến tranh qua rồi
Không ai còn bấm đốt ngón tay
Những người lính cùng thời với anh tóc chưa phai màu lửa
Đâu chỉ lỡ một chuyến đò đánh chìm duyên đôi lứa
Trái tim trẫm mình trong máu đỏ tươi
Bây giờ anh vào tuổi bốn mươi
Vẫn hốc hác khuôn mặt thời lính trận
Manh áo, miếng cơm chưa ủ ấm nụ cười
Lại giật thột lạnh người khi bắt gặp một bàn tay để ngửa.
(Sấp ngửa bàn tay - Hoàng Trần Cương).
22


Thơ lúc này không còn né tránh mà cố gắng chạm đến những miền còn chìm
khuất. Thơ giai đoạn này được thể hiện với những trải nghiệm và kinh nghiệm cá
nhân, biến cái nhìn của các nhà thơ trở nên hiện thực, gai góc hơn. Với chiều hướng
này, các tác giả đã mở ra những bình diện mới trong lý giải, thể hiện về con người, về

cuộc chiến. Các nhà thơ không chỉ ca ngợi sự hi sinh, chiến công, ý thức, khí phách
của nhân dân mà còn thể hiện cả nỗi đau, mất mát tột cùng của nhân dân:
Một bàn thờ
Mười một bát hương
Mười một bằng Tổ quốc ghi công
Trên mái đầu tóc bạc.
(Thưa mẹ - Lê Anh Dũng)
Sau chiến tranh, cảm hứng chủ đạo của thơ ca, chuyển từ tự hào, ca ngợi,
chiêm ngưỡng, xuống lắng đọng, suy tư. Dòng thơ sử thi giảm chất hùng tráng nhưng
lại mang vẻ đẹp của sự cảm nhận chiến tranh ở chiều sâu tâm trạng. Đã đến lúc văn
nghệ nói chung và thơ ca nói riêng phải quan tâm hơn nữa đến số phận con người
giữa đời thường. Bên cạnh đề cập tới những vấn đề lớn lao như: Tổ quốc, lí tưởng,
nhân dân... thì thơ ca cần phải thể hiện cụ thể hơn, thẳng thắn hơn trong vấn đề quyền
sống của mỗi con người, đặc biệt là những người trở về từ chiến trận:
Sau chiến tranh
Cánh đồng hoang chồng cày, vợ cấy
Nhường bạn "ngôi nhà tình thương”
Chẳng ham nói chuyện huân chương
Chiến công thuộc về đồng đội.
(Gia tài người lính - Hải Đường).
Chưa bao giờ các nhà thơ thấy nhiều bi kịch đến thế. Thậm chí, cảm giác bế tắc
và chán nản là cảm giác khá nổi bật trong tâm trạng nhiều người:
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi
23


(Nguyễn Trọng Tạo - Tản mạn thời tôi sống).
“Từ xa” nhìn về Tổ Quốc, Nguyễn Duy đã thật lòng nói lên nỗi cay đắng của
mình khi nhìn thấy sự khổ nghèo và bất hạnh của con người trong cuộc sống đầy

khốn khó. Lưu Quang Vũ cũng cay đắng nghẹn ngào khi nghĩ về Tổ quốc. Bằng cái
nhìn tỉnh táo và giàu màu sắc chiêm nghiệm, nhiều thi phẩm sau chiến tranh đã thể
hiện một cách khá riết róng những mặt trái của đời sống, những thay đổi các thang
bậc giá trị và không né tránh việc nói đến những bất công xã hội. Đây là những cảm
hứng hiếm khi xuất hiện trong thơ 1945- 1975, khi mà số phận dân tộc và số phận cá
nhân hòa làm một, cái tôi và cái ta hoàn toàn thống nhất.
Các nhà thơ giai đoạn này đi sâu vào phản ánh mặt sau của cuộc chiến, để phát
hiện ra những vấn đề còn bỏ ngỏ mà văn học giai đoạn trước chưa kịp nói đến. Vì thế,
sự khốc liệt của chiến tranh, chiều sâu tâm lý của nhân vật trữ tình, những trăn trở và
giằng xé trong thế giới tinh thần của người lính hiện lên qua mỗi thi phẩm ngày càng
rõ nét:
Giải phóng rồi gặp nhau ở thành phố Hồ Chí Minh
Chúng ta cùng một tuổi
Tôi phơi phới hồng hào, anh xanh xao gầy guộc
Được giao một việc làm nhũn nhặn
Anh không còn thời gian để học hành
Công tác mới anh vụng về kém cỏi
Chẳng lẽ tôi hèn hạ tự vỗ về rằng trong kiến thức tôi có máu anh đổ ra ở chuồng
cọp
Trả ơn anh bằng nương nhẹ xuê xoa
Anh phải được kính trọng biết bao lần hơn thế
Anh đang nhận cái bất công của sự thật, cái tàn nhẫn của cuộc đời đến tận cùng
(Đắng - Việt Phương).
Qua những lời nói thật, người đọc thấy được chiến tranh hiện hữu không chỉ ở nỗi
đau thể xác, mà còn là nỗi đau tinh thần ẩn chứa bên trong khó nhìn thấy, khó nói nên
lời, đòi hỏi mỗi người phải tự mình chiêm nghiệm lấy. Các nhà thơ đã kí thác, gửi
24


gắm những tình cảm chân thành, làm thức dậy một thời đã qua và khai thác sâu thêm

vào phẩm chất người lính trong chiến tranh cũng như hòa bình. Bởi thế, một số tập
thơ ra đời trong giai đoạn này đã tạo được ấn tượng với độc giả như: Hoa đỏ nguồn
sông, Từ hạ vào thu (Nguyễn Đức Mậu), Đất hai vùng (Phạm Ngọc Cảnh), Một
chấm xanh (Phùng Khắc Bắc), Về thôi nàng Vọng Phu, Những ngày xa (Vương
Trọng), Nói thầm (Hoàng Đình Quang), Bài thơ tình của lính (Trần Nhương)...
Cùng với sự thay đổi quan niệm về nhà văn thì quan niệm về hiện thực như là đối
tượng phản ánh, khám phá của văn học cũng được mở rộng và mang tính toàn diện.
Hiện thực trong thơ không chỉ là hiện thực cách mạng, các biến cố lịch sử mang tính
cộng đồng, mà đó còn là hiện thực của đời sống hàng ngày với các quan hệ thế sự đa
đoan, đa sự phức tạp, đan dệt nên những mạch nổi, mạch ngầm của đời sống. Hiện
thực đó còn là cuộc sống riêng tư của mỗi con người, bao gồm cả hạnh phúc lẫn bi
kịch. Tóm lại, hiện thực đời sống trong tính toàn vẹn của nó đã mở ra những không
gian vô tận cho thơ thỏa sức chiếm lĩnh, khám phá, khai vỡ.
Mạch cảm hứng sử thi được thể hiện thông qua những trải nghiệm, kinh nghiệm
sử thi mang lại cho thơ giai đoạn này một màu sắc mới, mang những gam màu trầm
hơn so với thơ trước 1975. Những dòng thơ bắt đầu thể hiện những suy tư cá nhân
nhiều hơn, mặc dù đề tài vẫn là ca ngợi tổ quốc, sự thắng lợi nhưng đã chịu sự chi
phối của cái nhìn rất thật về chiến tranh, về sự hy sinh. Nhờ những trải nghiệm cá
nhân được đưa vào các sáng tác của những nhà thơ mà thơ giai đoạn này hết sức
phong phú đa dạng về thế giới quan và nội dung. Mỗi bài thơ là sự suy ngẫm sâu sắc
về con người, về đất nước chứ không phải rập khuôn ca ngợi, hào sảng như thơ trước
1975.
Tuy nhiên, nhìn chung khuynh hướng sử thi cũng chỉ được tiếp tục ở trong
khoảng mười năm đầu kể từ sau 1975. Trạng thái sử thi của xã hội phai nhạt dần,
không còn là môi trường tinh thần thuận lợi để nuôi dưỡng cảm hứng này trong văn
học. Mặc dù thơ và cả nền văn học nói chung trong mấy chục năm không hề xa rời
những vấn đề của đất nước, của đời sống xã hội, nhưng quan điểm tiếp cận thì đã
chuyển dịch theo hướng cái nhìn thế sự với nhiều cảm hứng khác nhau.

25



×