Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

THUNG LŨNG CÔ TAN SỰ HÀI HÒA GIỮA CHẤT TIỂU THUYẾT VÀ CHẤT SỬ THI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.89 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Tiểu thuyết sử thi là một thể loại quan trọng, nổi bật và nhất quán của nền văn
học nớc ta từ sau cách mạng tháng Tám. Trong suốt 30 năm đất nước có chiến tranh,
văn học đặt nhiệm vụ phục vụ mục tiêu giành độc lập dân tộc là sứ mệnh thiêng liêng.
Thời kỳ này cảm hứng về đời tư, thế sự ít phát triển, mà trong thơ lẫn trong văn xuôi
đều chảy tràn niềm cảm hứng dạt dào về lịch sử hào hùng của dân tộc và sự đổi thay
kỳ diệu của số phận cộng đồng. Trên những nét chung nhất thì đây là nền văn học rất
độc đáo. Nó nảy nở và phát triển trong bối cảnh đặc biệt, được nuôi dưỡng và gắn bó
mật thiết với từng bước đi của cách mạng. Nó đã ghi lại được những hình ảnh không
thể phai mờ về một thời kỳ đầy gian lao, thử thách, nhiều hy sinh nhng cũng rất vẻ
vang của dân tộc ta. Qua hai cuộc kháng chiến cứu nớc vĩ đại, nó đã sáng tạo được
những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về tổ quốc và nhân dân, về các tầng lớp, thế hệ
con ngời Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống, vừa thấm sâu tinh thần thời đại.
Văn học thời kỳ này thực sự là chứng nhân của một chặng đờng lịch sử đầy biến động
lớn lao. Thực tế hầu như mọi tác giả đều hướng ngòi bút của mình vào những nội
dung mang tính sử thi. Trong các tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kì này, có một tác
phẩm tạo ra nhiều ý kiến, dư luận trái chiều. Người ủng hộ cũng hết lòng và người
chê cũng hết mức. Đó là Thung lũng cô-tan của Lê Phương. Sau Đổi mới (1986),
nước ta mở cửa “làm bạn” với tất cả các nước trên thế giới, tầm mắt của các nhà văn
dõi nhìn về nhiều chân trời văn học khác nhau. Những luồng gió thi pháp đa dạng thổi
tới làm phong phú thêm rất nhiều bức tranh văn học nước nhà vốn đơn sắc. Trở thành
đa sắc có nghĩa là muôn hình nhiều vẻ, do vậy khó nhận dạng, khó nắm bắt. Có cái cũ
trở nên lỗi thời nhưng cũng có cái cũ trở thành cổ điển. Qua tác phẩm này ta sẽ tìm
thấy những nét đổi mới về phương diện thể loại và sự hào hùng của một thời đã qua
mang đậm chất sử thi.

NỘI DUNG
Trang 1


Chương I: Khái quát về thể loại tiểu thuyết sử thi


1.1 Khái niệm tiểu thuyết sử thi
Tiểu thuyết sử thi có tên gọi quốc tế là roman - épopée. Trong tiếng Việt, nó còn
có tên gọi khác là tiểu thuyết anh hùng ca, anh hùng ca, sử thi. Thuật ngữ này được
nhà khoa học Xô viết A.V.Chicherny đưa ra lần đầu tiên và hầu như chỉ được phổ biến
ở Liên Xô... Vấn đề xác định nội hàm và ngoại diên của khái niệm tiểu thuyết sử thi
vẫn còn chưa có sự thống nhất nhau. Bởi vậy, trước khi tìm hiểu các đặc điểm của thể
loại này, chúng ta hãy bắt đầu từ một số định nghĩa chung nhất về nó. "Từ điển thuật
ngữ văn học" do Lê Bá Hán chủ biên (1992) định nghĩa như sau: "Tiểu thuyết sử thi.
Còn gọi là tiểu thuyết anh hùng ca. Tên gọi ước lệ (ghép tên gọi thể loại "sử thi"
épopée với tên gọi "tiểu thuyết" - roman) để chỉ những tiểu thuyết (từ thế kỷ XIX XX) có dung lượng lớn, thể hiện những đề tài lịch sử - dân tộc. Những tác phẩm này
vừa là tiểu thuyết, đồng thời vừa có nhiều thuộc tính gần gũi với thể loại sử thi cổ đại
hoặc trung đại (tầm bao quát, tính hoành tráng của sự kiện có tầm thời đại, cảm hứng
dân tộc hoặc lịch sử, mô tả các sự kiện và xung đột có tính chất bước ngoặc như chiến
tranh cách mạng...)". Còn "Từ điển văn học" (bộ mới) nêu định nghĩa của Nguyễn
Văn Khỏa như sau: "Tiểu thuyết anh hùng ca. Còn gọi là tiểu thuyết sử thi. Thuật ngữ
chỉ một loại hình của thể loại tự sự, là sự phát triển tổng hợp, nâng cao và đổi mới của
loại hình anh hùng ca dân gian cổ điển và loại hình tiểu thuyết. Tiểu thuyết anh hùng
ca phản ánh những sự kiện, những biến cố lịch sử quan trọng, lớn lao và có ý nghĩa
quyết định đối với vận mệnh của một nhân dân, một dân tộc. Đó là hiện thực lịch sử
có ý nghĩa toàn dân. Trên cơ sở của việc tái hiện đúng bản chất một giai đoạn lịch sử
và miêu tả khá cụ thể về sinh hoạt tư tưởng, tình cảm, đời sống xã hội, phong tục tập
quán, tiểu thuyết anh hùng ca gắn bó số phận những nhân vật của mình với sự kiện,
biến cố lịch sử, đặt số phận nhân vật trước câu hỏi, trước thử thách của lịch sử tạo
thành mối liên hệ quy định tất yếu của lịch sử đối với số phận nhân vật. Cảm hứng
chủ đạo của tiểu thuyết anh hùng ca là khẳng định sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng
và chiến công của nhân dân như là động lực của lịch sử".
Tuy nhiên, có khi người ta dùng thuật ngữ anh hùng ca thay cho tiểu thuyết sử thi.
Trong sách "150 thuật ngữ văn học" (1999), Lại Nguyên Ân xếp tiểu thuyết sử thi vào
mục Anh hùng ca: "Ở các thế kỷ XIX - XX, văn học tiểu thuyết (vốn tập trung khám
phá sự hình thành tính cách của các cá nhân con người), do đào sâu sự suy tư trên các

vấn đề lịch sử dân tộc, đã đi tới chỗ sáng tạo ra thể tài tiểu thuyết anh hùng ca, cũng
được gọi là tiểu thuyết sử thi (roman - épopée)". Có lẽ quan điểm này xuất phát từ
một số công trình nghiên cứu ở Liên Xô. Chẳng hạn, trong "Đại từ điển bách khoa
Liên Xô", mục Anh hùng ca, sau khi nêu định nghĩa anh hùng ca cổ đại, các tác giả
trình bày đến anh hùng ca hiện đại: ". Trong thời đại mới, người ta gọi anh hùng ca là
hình thức phức tạp nhất của lối kể chuyện sử thi, trong đó quá trình phát triển xã hội
Trang 2


được phản ánh với một tầm thước rộng lớn nhất và đa dạng nhất; đặt ra được những
vấn đề có ý nghĩa toàn dân, phản ánh được những sự kiện lịch sử quan trọng. Những
sự kiện đó được đặt trong mối liên hệ với nhân vật và quy định số phận của các nhân
vật anh hùng ca". Ở mục "Thể loại tự sự", từ điển này cũng nêu thêm một quan niệm
về tiểu thuyết sử thi. "Tiểu thuyết hoặc trường ca nào phản ánh được những sự kiện
lịch sử nào có ý nghĩa rộng lớn và soi sáng được cuộc sống của nhân dân trong toàn
bộ tính đa dạng của nó thì gọi là anh hùng ca (épopée)" . A.Sisêrin là một nhà nghiên
cứu Xô viết có nhiều công trình về tiểu thuyết sử thi. Trong cuốn "Tư tưởng và phong
cách" (1968) ông quan niệm, tiểu thuyết sử thi là "tiểu thuyết mà từ trong tới ngoài
vượt khỏi cái khung của nó, trong đó, đời tư con người thấm nhuần lịch sử và triết học
lịch sử, con người được thể hiện như là một phần tử sống động của nhân dân mình.
Tiểu thuyết sử thi nắm bắt những đổi thay của các thời kỳ lịch sử, sự tiếp nối của các
thế hệ, nó hướng tới các số phận tương lai của nhân dân hay giai cấp" Còn trong cuốn
"Sự ra đời của tiểu thuyết sử thi" (1975), ông phát biểu: "Tiểu thuyết sử thi không
phải là sự liên hợp tiểu thuyết và sử thi mà là tiểu thuyết vươn tới sử thi" Mặc dù sử
dụng thuật ngữ kép roman - épopée nhưng Sisêrin không tán thành vế sau của nó vì từ
épopée nghe như tiếng đọ gươm, súng đại bác. Ông cho rằng, tiểu thuyết sử thi, trước
hết phải là tiểu thuyết nhưng là "một loại tiểu thuyết lớn vượt khỏi quy mô bình
thường của nó" Ông cũng cho rằng, mầm móng của tiểu thuyết sử thi đã có trong tiểu
thuyết văn xuôi của Puskin. Nhưng phải đến "Chiến tranh và hòa bình" thì thể loại
này mới định hình. "Do tầm bao quát về thời gian và không gian và với tư cách là lịch

sử nhân dân, lịch sử tâm hồn con người, Chiến tranh và hòa bình là thể loại mới đối
với thế kỷ XIX, tiểu thuyết - sử thi"
Về ngoại diên khái niệm thể loại, mặc dù cũng chưa có sự nhất trí cao nhưng nhìn
chung đa số các nhà nghiên cứu Xô viết cùng thống nhất nhau cho những tác phẩm
sau đây là tiểu thuyết sử thi: Chiến tranh và hòa bình (L.Tônxtôi), Cuộc đời Klim
Xamghin (M.Gorky), Con đường đau khổ, Pie đệ nhất (A.Tônxtôi), Sông Đông êm
đềm (M.Sôlôkhốp), Bão táp (Êrenbua), Đội cận vệ thanh niên (Fađêep) v.v... Trong
văn học Pháp có: Tan vỡ (Sụp đổ) (E.Zôla), Jăng-Crixtốp (R.Rôlăng), Những người
cộng sản (L.Aragông) v.v... Còn trong văn học Việt Nam, lâu nay, nhiều nhà nghiên
cứu vẫn dùng thuật ngữ tiểu thuyết sử thi để gọi các tác phẩm có dung lượng tương
đối lớn như : Cửa biển, Vỡ bờ, Sống mãi với thủ đô, Bão biển, Mẫn và tôi, Dấu chân
người lính, Vùng trời... Tuy nhiên, theo xu hướng chung hiện nay, nhiều người xem từ
"sử thi" trong văn học hiện đại chỉ dùng để chỉ tính chất chứ không phải chỉ thể loại.
Bởi vậy, họ loại bỏ nội dung "đồ sộ" ra khỏi khái niệm tiểu thuyết sử thi. Tiêu biểu
cho quan niệm này là giáo sư Trần Đình Sử. Trong công trình "Dẫn luận thi pháp
học", ông cho rằng, trong nền văn học sử thi Việt Nam 1945 - 1975, có các thể loại
như : thơ trữ tình sử thi (Tố Hữu), truyện ngắn sử thi (Rừng xà nu), tiểu thuyết sử thi
(Đất nước đứng lên)... Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng tán thành một tác phẩm có
dung lượng cỡ vừa như Đất nước đứng lên là tiểu thuyết sử thi vì nó có tính khái quát
cao. Đặc biệt là nó chứa đựng đầy đủ tất cả các đặc điểm của thể loại này. Như vậy
Trang 3


quy luật vận động và phát triển của thể loại tiểu thuyết sử thi luôn gắn liền với những
biến động và thay đổi của lịch sử. Có thể lý giải điều này ở mấy góc độ như đặc điểm
thể loại, chủ thể sáng tạo (nhà văn), không khí sáng tác, bạn đọc. Nhìn vào bức tranh
toàn cảnh của văn học về đề tài chiến tranh cách mạng từ 1945 đến nay chúng ta dễ
thấy không khí sáng tác (bối cảnh xã hội) đóng vai trò rất quan trọng. Đây chính là
yếu tố then chốt chi phối cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ.
1.2 Một số đặc trưng cơ bản của thể loại tiểu thuyết sử thi

Tiếp theo, ta chuyển sang vấn đề xác định đặc trưng của thể loại. Tính nội dung
của thể loại tiểu thuyết sử thi, thực ra, đã nằm ngay trong tên gọi thể loại. Nó bao gồm
"chất sử thi" và "chất tiểu thuyết". Đây không phải là sự lắp ghép cơ giới mà theo một
quy định phức tạp. Bởi hai tính chất này trái ngược nhau như lửa và nước, như chiến
tranh và hòa bình. Trong lịch sử văn học, chất tiểu thuyết đã từng đấu tranh loại trừ
chất sử thi ra khỏi hình thức tự sự cỡ lớn để mở đường cho thể loại tiểu thuyết lên
thống lĩnh văn đàn. Nhưng đến thế kỷ XIX, sau khi đã yên vị, chất tiểu thuyết quay lại
bắt tay với chất sử thi để tạo ra thể loại tiểu thuyết sử thi. Nhà văn đầu tiên gặp lúng
túng trong việc xử lý mối quan hệ phức tạp này là Gôgôn. Có thể thấy rõ "bi kịch thể
loại" trong tác phẩm Tarat Bunba của ông. Trong đời sống văn học Việt Nam thời
chiến tranh, đã từng diễn ra nhiều cuộc tranh luận, uốn nắn, quy chụp... làm cho nhiều
tác phẩm gặp thăng trầm cũng bắt đầu từ cách xử lý mối tương quan giữa chất sử thi
và chất tiểu thuyết của nhà văn. Khi xác định viết theo thể loại tiểu thuyết sử thi, nhà
văn cần lưu ý những vấn đề sau:
1.2.1 Đề tài
Đề tài của sử thi là lịch sử dân tộc, chủ yếu nói về các cuộc chiến tranh giữa các
dân tộc với nhau. "Tình huống phù hợp nhất với thơ sử thi đó là các xung đột của
trạng thái chiến tranh. Thực vậy, trong chiến tranh, chính là toàn bộ dân tộc đang vận
động. Nó bị kích thích phải hành động bởi vì nó phải bảo vệ toàn bộ mình"
(Hêghen) .Còn đề tài của tiểu thuyết là thế sự đời tư, chủ yếu nói về các chuyện nhân
tình thế thái ở đời hoặc những chuyện tình cảm riêng tư của trai gái. "Yếu tố đời tư
càng phát triển thì chất tiểu thuyết càng tăng, ngược lại, yếu tố lịch sử dân tộc càng
phát triển thì chất sử thi càng đậm đà" .Tiểu thuyết sử thi kết hợp cả ba đề tài trên. Nội
dung thế sự đời tư được phô diễn trên sân khấu nhưng nằm trong bối cảnh phông màn
của nội dung lịch sử dân tộc. Nhà tiểu thuyết chỉ là diễn viên, còn nhà sử thi mới là
đạo diễn. Không phải ngẫu nhiên mà L.Tônxtôi đặt tên cho cuốn tiểu thuyết sử thi của
mình là "Chiến tranh và hòa bình". Trong đó "chiến tranh" là sử thi, "hòa bình" là tiểu
thuyết. Ở đó có "sự thống nhất giữa biện chứng pháp lớn của lịch sử và biện chứng
pháp nhỏ của tâm hồn" . Đối tượng miêu tả của sử thi là những sự kiện đã hoàn tất
trong quá khứ dân tộc. Đó là "quá khứ tuyệt đối" theo cách hiểu của Gớt và Sinle. Là

quá khứ đầu tiên, cao thượng nhất, lưu giữ những ký ức của cộng đồng tổ tiên. Ở đó,
Trang 4


mọi thứ đã hoàn tất và thế hệ con cháu không can thiệp vào được. Nó tách hẳn với
thời hiện tại của người kể chuyện bằng một "khoảng cách sử thi tuyệt đối". Từ đó, tạo
ra giá trị tôn ti, sùng kính. Theo Bakhtin: "Tiểu thuyết hình thành chính trong quá
trình phá bỏ khoảng cách sử thi, trong quá trình thân mật hóa con người và thế giới
bằng tiếng cười, hạ thấp đối tượng miêu tả nghệ thuật xuống cấp độ hiện thực đương
thời dang dở không hoàn thành và luôn biến động" .Như vậy, sử thi chuộng quá khứ,
tiểu thuyết chuộng hiện tại, còn tiểu thuyết sử thi sẽ xử lý vấn đề này như thế nào?
Vẫn theo Bakhtin, có thể miêu tả thời hiện tại trong sử thi với điều kiện là, phải đặt
điểm nhìn từ tương lai để nhìn về hiện tại. "Tất nhiên, có thể tri giác cả "thời đại của
chúng ta" như một thời đại sử thi anh hùng, từ giác độ ý nghĩa lịch sử của nó, tri giác
từ xa, từ cự ly thời gian (không phải bằng con mắt mình, con mắt người đương thời,
mà dưới ánh sáng tương lai) . Như vậy, chúng ta vẫn có thể tạo ra được "khoảng cách
sử thi" khi miêu tả hiện thực đương thời. Nhưng không phải hiện thực đương thời nào
cũng tạo ra thái độ thành kính, bởi vậy cần có sự chọn lọc đối tượng. "Hiện thực
đương thời chỉ có thể xâm nhập các thể loại cao thượng ở những giai tầng có ngôi bậc
cao nhất, và cũng đã được cự ly hóa do vị trí của chúng trong chính hiện thực"
(BakhtinTrong cuộc chiến tranh Việt Nam 1945 - 1975, "giai tầng có thứ bậc cao
nhất" là người chiến sĩ cách mạng vô sản. "Ơi anh giải phóng quân / Kính chào anh
con người đẹp nhất!" (Tố Hữu). Hình ảnh của anh bộ đội cụ Hồ đã được mọi người
thành kính ngưỡng mộ ngay trong thời hiện tại, bởi vậy, tạo ra được khoảng cách sử
thi. Tuy nhiên, khoảng cách này không quá xa vời như trong sử thi cổ điển. Mặc dù
tác giả không dám suồng sã với nhân vật chính diện nhưng cũng không coi nhân vật là
bậc quá xa cách với mình. Giữa tác giả và nhân vật có khoảng cách gần nhau nhưng
vẫn tôn trọng nhau.
1.2.2 Tầm bao quát rộng lớn
Tác giả sử thi cổ đại có tham vọng bao quát nhiều lĩnh vực của cuộc sống để tác

phẩm trở thành bộ bách khoa toàn thư của dân tộc. "Tác phẩm của Hômerơ là cuốn từ
điển bách khoa hoàn thiện nhất của thời cổ đại" (Gơnêđisơ). Ngạn ngữ Ấn Độ có câu:
"Cái gì không thấy trong Mahabharata thì cũng không thấy trên đất Ấn Độ". Hêghen
nhận xét: "Các sử thi thực sự độc đáo đều cung cấp cho ta một bức tranh của tinh thần
dân tộc như nó biểu hiện trong luân lý của cuộc sống gia đình, trong chiến tranh và
trong hòa bình, trong các nhu cầu, các nghệ thuật, các phong tục, các hứng thú, tóm
lại, nó cấp cho ta một bức tranh toàn vẹn về các giai đoạn ở đấy có ý thức và phẩm
chất của ý thức" (Mỹ học) [ 6, tr.589 - 590 ]. Để làm được điều đó, sử thi phải dùng
thao tác tổng hợp, còn tiểu thuyết thì ngược lại, thường dùng thao tác phân tích. Bởi
vậy, tiểu thuyết không cần phải mở rộng hoàn cảnh mà chú trọng mổ xẻ cuộc sống
riêng tư chật hẹp của một hoặc vài cá nhân. Còn trong tiểu thuyết sử thi, mặc dù cuộc
sống cá nhân vẫn được nhắc đến nhưng nó vẫn nằm trong cái tổng thể xã hội. Có
nghĩa là thông qua một vài cá nhân hay một địa phương nhỏ, tác giả phải làm sao để
cho người đọc thấy được trạng thái chung của cả dân tộc và thời đại. Nói cách khác là
Trang 5


hình tượng phải mang tính điển hình. Để làm được điều đó phải cần đến biện pháp
khái quát hóa nghệ thuật. Giáo sư Phan Cự Đệ nói: "tiểu thuyết sử thi của thời đại
chúng ta phải là sự tổng hợp trên cơ sở phân tích, là sự thống nhất biện chứng giữa
tổng hợp và phân tích (...) cô đúc trong từng mảnh tinh chế rồi từ đó khái quát lên"
1.2.3 Con người sử thi
Con người sử thi là con người bổn phận, là những anh hùng cao cả có sứ mệnh
phấn đấu vì lợi ích cộng đồng. Nó mang gương mặt tập thể và thuộc về quần chúng.
Số phận của nó trùng khít với bộ cánh xã hội mà nó khoác. Trong khi đó, con người
tiểu thuyết thì ngược lại. "Nhân vật không tương hợp với số phân và vị thế của nó.
Con người hoặc là lớn hơn số phận mình, hoặc là nhỏ bé hơn tính cách của mình"
(Bakhtin) [ 2, tr.72 ]. Bởi vậy, con người tiểu thuyết thường bất hòa với tập thể. Có
khi nó sống tốt nhưng vẫn bị xã hội vùi dập, nó sống xấu nhưng vẫn được xã hội trọng
vọng. Nó là con người tự do cá nhân với những dục vọng thấp hèn, ích kỷ, không vì

cộng đồng hoặc đi ngược lại lợi ích cộng đồng. "Nhân vật tiểu thuyết không được
"anh hùng" cả theo nghĩa sử thi lẫn theo nghĩa bi kịch của từ ấy: nó phải kết hợp trong
nó cả những nét chính diện lẫn phản diện, cả thấp kém lẫn cao thượng, cả nực cười
lẫn trang nghiêm" (Bakhtin) [ 2, tr.31 ]. Trong tiểu thuyết sử thi, nhân vật chính phải
là con người sử thi và có thể chấp nhận cho nó có một vài nhược điểm nhỏ của con
người tiểu thuyết. Thành phần nòng cốt của phe chính diện là con người sử thi. Tuy
nhiên cũng có thể có cả con người tiểu thuyết nhưng phải chuyển hóa nó thành con
người sử thi.
1.2.4 Nhân vật
Tiểu thuyết sử thi 1945 - 1975 thường miêu tả nhân vật kẻ thù theo bút pháp
"hiện thực tàn nhẫn", điển hình cho một vài nét tính cách như tàn ác, hiểm độc... Nhân
vật hiện lên theo một khuôn mẫu chung, đơn giản sơ lược, chưa có cá tính. Sau 1975
các nhà tiểu thuyết đã cố gắng khắc phục điểm yếu này mà tiêu biểu là Nguyễn Trọng
Oánh với các bộ tiểu thuyết Đất trắng và Mây cuối chân trời. ở tiểu thuyết hôm nay,
nhờ sự đổi mới trong việc cải tạo lại cấu trúc bên trong với một quan niệm nghệ thuật
toàn diện hơn, miêu tả theo bút pháp "hiện thực tỉnh táo" nên nhân vật kẻ thù hiện ra
có sức sống đa chiều phức tạp và có một đời sống riêng.
Nhân vật không chỉ là toàn cái xấu mà còn có những nét đẹp của con ngư¬ời:
trung tá Nguyễn Quốc Hùng (Thượng Đức), tướng Lê Minh Đảo (Xuân Lộc), thiếu tá
Hồng Nhị (Ngày rất dài )..., Họ đều là những kẻ sống có lý t¬ưởng và tôn thờ lý
tưởng đến cùng nên tận tuỵ, mẫn cán trong nhiệm vụ, giàu lòng tự trọng, không sa
đọa, trác táng... Theo chúng tôi, từ hình tượng này, các nhà tiểu thuyết hôm nay đã đặt
ra một vấn đề mang ý nghĩa phổ quát: điều cơ bản nhất, quan trọng nhất trong việc
giáo dục con người, nhất là giáo dục thế hệ trẻ là giáo dục lý tưởng. Lý tưởng luôn
mang tính định hướng, định hướng đúng sẽ đi theo con đường đúng và ngược lại.
Trang 6


Nhìn dưới góc độ ý nghĩa nghệ thuật, từ hình tượng nhân vật kẻ thù, ít nhất sẽ tạo
những hiệu quả sau: Một là, góp phần tạo ra tình huống căng thẳng cho tiểu thuyết, kẻ

thù không chỉ hèn yếu, manh động, tàn bạo, dốt nát... mà chúng còn là những con
người có học thức, có trí tuệ, có bản lĩnh. Cho nên chiến thắng được kẻ thù chúng ta
đã phải mạnh hơn hẳn chúng về mọi mặt. Theo lôgich thông thường thì chẳng vẻ vang
gì nhiều khi chiến thắng một kẻ thù yếu ớt, ngu dốt... nhưng chúng ta đã đánh thắng
một kẻ thù như vậy thì chiến thắng ấy càng phải được khẳng định. Hai là, đưa ra cái
nhìn nhân ái, độ lượng hơn vì dù có là kẻ thù nhưng họ cũng vẫn là người Việt Nam
cùng dòng máu Hồng Lạc. Các nhà tiểu thuyết hôm nay đã không quan niệm kẻ thù
chỉ ở phương diện thú tính mà còn nhìn họ ở cả phần nhân tính. Điều ấy góp phần nới
rộng thêm, làm sâu sắc thêm quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết
hôm nay.
Con người sử thi là con người "ngoại hiện", "ruột để ngoài da". "Nó được
"ngoại hóa" hoàn toàn, giữa bản chất thật của nó và sự biểu hiện bên ngoài của nó
không có sự khác biệt nào". "Ở con người ấy chẳng có gì phải tìm tòi, ức đoán, không
thể lột mặt nạ nó" (Bakhtin) [ 2, tr.68 ]. Đó là những con người hoàn tất, trọn vẹn, bất
biến về tính cách và nhất quán về hành động. Trong khi đó, tính cách của con người
tiểu thuyết rất phức tạp, thay đổi theo hoàn cảnh, luôn trong thế vận động, "con người
như một dòng sông" (L.Tônxtôi). Đó là "con người nếm trải" sống với nội tâm kín
đáo và mang "mặt nạ nhân cách". Tiểu thuyết "khảo cứu con người một cách tự do và
suồng sã: lộn trái nó, vạch trần sự không phù hợp giữa vẻ bề ngoài và bề trong, giữa
khả năng và sự thực hiện khả năng" (Bakhtin) . Con người trong tiểu thuyết sử thi, về
cơ bản là con người hành động. Nội tâm cũng được nhắc đến nhưng không lấn át hành
động. Bởi vậy nó không thích hợp với bút pháp dòng ý thức (mặc dù nếu sử dụng ở
mức độ vừa phải vẫn được chấp nhận). Sự trùng hợp giữa tính cách và hành động
cũng tùy theo hoàn cảnh. Nhân vật tuy lộ liễu, "ồn ào" với "phe ta" nhưng có thể
"ngụy trang" kín đáo với "phe nó". Lúc này thì hành động sôi nổi nhưng lúc khác lại
suy tư trầm lắng. Tác giả có thể khai thác thế giới nội tâm ở các nhân vật phụ, nhất là
phụ nữ, nhưng không nên lạm dụng nó khi miêu tả nhân vật anh hùng.
1.2.5 Quan điểm sang tác
Tác giả sử thi phải đứng trên quan điểm dân tộc để nhìn nhận, đánh giá sự việc.
"Tính dân tộc phải là một trong những điều kiện cơ bản của anh hùng ca, còn bản thân

nhà thơ thì phải nhìn các sự kiện bằng con mắt của nhân dân mình" (Biêlinxki). Tác
giả đứng trên lập trường dân tộc nhưng lập trường đó là bất biến, đã được đông cứng
lại trong quá khứ. Có thể thấy điểm nhìn bất biến trong các định ngữ nghệ thuật: Asin
chạy nhanh như gió, Ulixơ muôn vàn trí xảo, Apôlông bắn xa muôn dặm... Tiểu
thuyết thì ngược lại, càng tạo ra nhiều cách nhìn mới mẻ, độc đáo càng tốt. Do câu
chuyện tiểu thuyết là của tác giả bịa ra nên anh ta có quyền đánh giá nhân vật theo
quan điểm riêng mình. Cái nhìn của tiểu thuyết có thể trái ngược với cộng đồng, và
cũng như vậy, trái ngược với sử thi. Chẳng hạn, tác giả sử thi nhìn anh hùng Nguyễn
Huệ bằng con mắt lịch sử thành kính, nhưng nhà tiểu thuyết có thể nhìn "anh chàng
Trang 7


mê gái" này từ góc độ đời tư, thân mật. Dân tộc phản đối Lê Chiêu Thống nhưng nhà
tiểu thuyết có quyền ủng hộ Lê Chiêu Thống... Trong tiểu thuyết sử thi, những sự kiện
lịch sử quan trọng phải được nhìn nhận trên phương diện dân tộc. Tuy nhiên, tác giả
vẫn có quyền tự do tương đối khi đánh giá các sự việc nhỏ. Tác giả có thể đưa ra
nhiều cách đánh giá khác nhau để độc giả lựa chọn. Những vấn đề ngược với điểm
nhìn dân tộc có thể được phát biểu từ miệng của nhân vật phản diện hoặc nhân vật
phụ. Còn điểm nhìn của nhân vật chính phải hợp với quan điểm cộng đồng.
1.2.6 Cảm hứng.
Sử thi là "thi ca lý tưởng" nên nó miêu tả cuộc sống trong tính thi vị. Nó có
cảm hứng mạnh mẽ trước cái đẹp, cái cao cả, cái hùng vĩ... Và ý thức mình là thể hiện
cao quý nên nó không dung nạp các thể loại "thấp hèn" và những yếu tố mỹ học nào
có thể phá vỡ phong cách cao cả của sử thi. Còn tiểu thuyết thì ngược lại, nó dung nạp
tất cả các thể loại và hòa trộn tất cả các sắc màu thẩm mỹ lại với nhau. Nó mạnh dạn
miêu tả cái bi, cái hài, cái lố bịch, cái tầm thường, cái gớm ghiếc, cái dị dạng... Nó có
mặt mạnh trong việc miêu tả các đề tài dung tục như chuyện lừa đảo làm tiền, những
cuộc tình ô trọc, những chuyện vặt vãnh trong nhà ngoài chợ. Nó không ngại miêu tả
tỉ mỉ những sự vật xấu xa, bẩn thỉu, hỗn độn... Đó là "chất văn xuôi" của cuộc sống, là
cái thực tại "nôm na thô thiển" đối lập với cái "thế giới nên thơ" là "thời đại anh

hùng" của sử thi (Hêghen). Các nhà tiểu thuyết sử thi phải xử lý vấn đề này một cách
khó khăn. Trước hết, phải chấp nhận dung nạp ở mức độ vừa phải các thể loại khác
như bi kịch, hài kịch, trữ tình... Nó chấp nhận sự có mặt của "chất văn xuôi" nhưng
nổi trội hơn hết vẫn là "chất thi ca". Nói chung, các nhà tiểu thuyết sử thi dẫn bạn đọc
đi trên ranh giới giữa cái thật và cái giả, cái thiện và cái ác, cái đẹp và cái xấu nhưng
cái đích cuối cùng đạt đến vẫn là bến bờ Chân - Thiện - Mỹ. Sử thi cổ điển mang cảm
hứng ngợi ca, khẳng định, đề cao sự nghiệp anh hùng. Giọng điệu cơ bản của sử thi là
sôi nổi, hùng tráng. Đây là lời trang trọng, thành kính của bậc con cháu đối với tổ tiên,
là lời tự hào dân tộc và hun đúc tinh thần ái quốc. Nhìn chung, sử thi có văn phong
cao cả. Còn tiểu thuyết thì đả phá tính nghiêm túc, trang trọng của sử thi bằng tiếng
cười trào phúng, bông đùa. Nó giễu nhại, mỉa mai mọi thứ, hạ bệ và làm thân mật hóa
đối tượng bằng loại ngôn ngữ suồng sã, thô tục. Nó mang cảm hứng phê phán, giọng
điệu bi thương, buồn bã, tức là giọng điệu của một văn sĩ đa sầu trước cảnh hài đời.
Tiểu thuyết sử thi cần có giọng điệu ngợi ca, trang trọng đối với cái tốt và phê phán
mỉa mai đối với cái xấu. Có giọng hùng tráng khi xung trận nhưng cũng có thể có
giọng bi thương trước cái chết của các anh hùng. Có thể chấp nhận cho tiểu thuyết sử
thi có nhiều loại cảm hứng trái ngược nhau nhưng chủ đạo vẫn là cảm hứng ngợi ca.

1.2.7 Ngôn ngữ

Trang 8


Ngôn ngữ sử thi phải theo chuẩn mực chung của dân tộc, thống nhất một giọng,
mọi sự trau chuốt phải phù hợp với tâm lý tiếp nhận của cộng đồng "Con người sử thi
không có tính chủ động về mặt ngôn ngữ; thế giới sử thi chỉ biết duy nhất một ngôn
ngữ thống nhất và có sẵn. Vì thế, cả thế giới quan lẫn ngôn ngữ đều không thể trở
thành những nhân tố phân biệt (...). Ngay các thần linh cũng không có chân lý nào đặc
biệt làm ngăn cách họ với người thường: họ cũng chung một ngôn ngữ ấy" (Bakhtin) [
2, tr.69 ]. Còn tiểu thuyết thì ngược lại, nó phá bỏ tính một giọng, một phong cách của

sử thi. Nó cãi lại "tính chất miễn tranh cãi của sử thi ngây thơ". Mỗi nhân vật đều có
quyền chủ động về ngôn từ. Chúng có thể cãi lại tổ tiên, pháp quyền, cãi lại các nhân
vật khác và cả tác giả. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết rất ồn ào, đa thanh, đa phong cách.
Các nhà tiểu thuyết tha hồ sáng tạo ra một văn phong riêng không giống ai. Tiểu
thuyết sử thi chấp nhận cho tác giả và nhân vật chủ động chủ động về mặt ngôn ngữ
và có sự sáng tạo về từ ngữ nhưng không đi quá xa chuẩn mực cộng đồng. Không
chấp nhận phổ biến loại ngôn ngữ bí hiểm, quá rắc rối, lệch chuẩn, có nguồn gốc xa lạ
với dân tộc. "Trước hết, nghệ sĩ phải sáng tác cho nhân dân mình và cho thời đại
mình. Nhân dân và thời đại có quyền đòi hỏi tác phẩm nghệ thuật phải gần gũi và dễ
hiểu đối với nó" (Hêghen) .
Nói tóm lại, sử thi luôn đòi hỏi khuôn mẫu, trong khi tiểu thuyết luôn đòi hỏi sự
đổi mới, sáng tạo. Tiểu thuyết sử thi phải tuân thủ các "nguyên tắc sử thi vĩnh cửu",
tức là không được thiếu các đặc điểm cơ bản trên. Trong các đặc điểm còn lại, có thể
thiếu một vài đặc điểm. Nhìn chung không nên dung nạp quá nhiều "chất tiểu thuyết"
có thể dẫn đến làm tổn hại "chất sử thi" trong kết cấu thể loại. Trong thực tiễn tiểu
thuyết Việt Nam 1945 - 1975, ta thấy có ba mối tương quan như sau giữa chất sử thi
và chất tiểu thuyết. Một là: chất tiểu thuyết lấn át chất sử thi sẽ tạo ra các tiểu thuyết
phi sử thi như: Một nhà đại thiện xạ, Phất, Thôn Bầu thắc mắc, Những ngày bão táp,
Vào đời, Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư... Và tiêu biểu cho bộ phận văn học
này là "Đống rác cũ" của Nguyễn Công Hoan. Hai là: chất sử thi lấn át chất tiểu
thuyết. Tiêu biểu như: Người người lớp lớp, Cao điểm cuối cùng, Trước giờ nổ súng...
đặc biệt là Đất nước đứng lên. Ba là: chất sử thi ngang bằng với chất tiểu thuyết, đây
là mô hình lý tưởng của tiểu thuyết sử thi. Tiêu biểu cho loại này là Cửa biển, Vỡ bờ,
Sống mãi với thủ đô, Bão biển,... đặc biệt là Dấu chân người lính. Sự có mặt nhiều
hay ít chất sử thi không hề nói lên chất lượng của tác phẩm mà chỉ xác định đặc trưng
thể loại của tác phẩm đó mà thôi.

Chương II: Sự thống nhất giữa chất sử thi và chất tiểu thuyết
Trang 9



trong tiểu thuyết “Thung lũng Cô-tan” của Lê Phương

2.1 Sự dung hợp về thể tài (lịch sử dân tộc – thế sự đời tư)
Tiểu thuyết “Thung lũng Cô tan”– Cuốn tiểu thuyết miêu tả cuộc chiến đấu thầm lặng
nhưng đầy sức tiến công và sáng tạo của những người làm công tác khoa học kỹ thuật
miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đầy thử thách nghiêm trọng, dữ dội và
căng thẳng, Lê Phương đã khai thác sâu vào vấn đề con người, vào vấn đề trong - đục
khác nhau ở động cơ, thái độ của họ đối với khoa học và cao hơn nữa là danh dự và
nhân phẩm của những người làm khoa học trên bất cứ mặt trận nào, hoàn cảnh nào
Thung lũng Cô tan của Lê Phương đã góp phần bổ sung vào mảng đề tài về người trí
thức, những con người lao động trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật còn trống vắng
trong văn xuôi chống Mỹ cứu nước lúc bấy giờ. Thung lũng Cô-tan viết về mặt trận
giao thông vận tải nhưng lại tập trung miêu tả cuộc chiến đấu của những cán bộ khoa
học kĩ thuật trên mặt đường. Trong tác phẩm này tập trung vào khắc họa cuộc đối chọi
địch-ta,đối chọi giữa hai sức mạnh,hai bản chất của hai chế độ xã hội, hai cuộc chiến
tranh chính nghĩa và phi nghĩa, đối chọi không chỉ bằng lực mà còn bằng khoa học và
mưu trí. Lê Phương đã ca ngợi con đường của người cán bộ khoa học chân chính, có
hoài bão, có lý tưởng, đem tất cả tuổi trẻ và sự say mê của bản than mình cống hiến
cho khoa học mà không hề đòi hỏi hay có sự tính toán,vụ lợi nào. Mặt khác, tác giả
cũng thẳng tay phê phán con đường chủ nghĩa cơ hội, con đường của những người
làm khoa học theo lối tính toán thực dụng, luôn tìm lối đi tắt thuận lợi,một cơ hội tốt
trên con đường tiến thủ bản than, sẵn sang hứng lấy công lao của người khác.Trong
cuốn tiểu thuyết này Lê Phương đã dóng một hồi chuông cảnh báo về chủ nghĩa cơ
hội đang dần hình thành trong thời đại của dân tộc. Trong tác phẩm có sự xuất hiện
của tất cả những đề tài nóng hổi nhất của giai đoạn lịch sử này (đề tài chiến tranh, đề
tài xây dựng chủ nghĩa xã hội), tất cả đều động chạm đến những vấn đề cực kỳ nhạy
cảm trong công cuộc cải tạo các thành phần xã hội để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cốt truyện cấu tạo theo lối tường trình lai lịch một sáng kiến, tường trình việc
thực hiện một nhiệm vụ sản xuất, tường trình một gương người tốt việc tốt v.v...vẫn là

nét chung. Tuy nhiên, do chỗ hoạt động xây dựng kinh tế từ đây trở thành một nhiệm
vụ xã hội to lớn, cho nên nó cũng là một trong những đối tượng quan sát và miêu tả
rất chăm chú của nhà văn. Và thông qua các trang văn xuôi sản xuất, ta cũng có thể
thấy được các bước dò tìm trong các lĩnh vực kinh tế xã hội. Thông qua đó tác giả thể
hiện những vấn đề còn đang tồn tại trong xã hội xoay quanh lợ ích cá nhân và cộng
đồng, những mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, cá nhân với cá nhân. Tại đây, xuất
Trang 10


hiện những cảnh sống thường nhật, những toan tính, những suy tư mang màu sắc cá
nhân.
2.2 Xây dựng nhân vật đa dạng.
Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí
then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. Nhân vật chính phải là người nằm ở
trung tâm xung đột của tác phẩm, đại diện cho một phía của xung đột tác phẩm, số
phận của nó gắn liền với sự phát triển xung đột của truyện. Trong Thung lũng Cô tan
của Lê Phương nhân vật chính là Quang, Thảo, Kha. Tiểu thuyết sử thi 1945-1975
trong từng chặng phát triển của nó đã xây dựng thành công cấu trúc nhân cách của các
nhân vật. Ở nhân vật chính diện, con người cá nhân được miêu tả bằng cái nhìn tiểu
thuyết với sự giản dị, đặc biệt là những phẩm chất cá nhân như tình yêu, tình vợ
chồng, tình bạn, tình anh em… Phẩm chất con người xã hội trong nhân cách của nhân
vật chính diện được khắc họa bằng cái nhìn sử thi với tính phi thường hoá, lý tưởng
hoá. Thông qua nhân vật Kha, tác giả Lê Phương để lại cho người đọc những suy
nghĩ, trăn trở về một hiện thực – dẫu chỉ là cá biệt – mà vào thời điểm ấy nhiều người
còn né tránh.
Quang trong tiểu thuyết Thung lũng Cô tan của Lê Phương là nhân vật chính
diện trung tâm được xây dựng theo nguyên tắc ấy. Theo giáo trình Lý luận văn học,
nhân vật thường bộc lộ mình nhiều nhất qua hành động, suy nghĩ. Khi phân tích nhân
vật Quang dưới góc nhìn con người cá nhân, ta thấy hiện lên một nhân vật thật giản
dị, bề ngoài có gì đó hơi là lạ. Còn với đồng đội thì Quang lại hiện lên thật đẹp, và đôi

khi là cả những bất ngờ. Nhìn chung, yếu tố ngoại hình không được tác giả Lê
Phương khai thác nhiều trong xây dựng hình tượng nhân vật Quang; các yếu tố nội
tâm đã đảm nhiệm tốt vai trò này trong tác phẩm. Diễn biến tâm lý phát sinh giữa
Quang và Thảo, cách xử sự của Quang với Kha đã phản ánh rõ điều nàyVới nhân vật
trong tiểu thuyết sử thi hóa, hành động của họ đều có sự thống nhất cao độ giữa lý trí
và hành động. Nhân vật Quang trong Thung lũng Cô tan của Lê Phương cũng vậy.
Hành động của Quang là hành động xả thân vì cộng đồng, vì cái chung, cái chính
nghĩa - và tất yếu - cái cá nhân, riêng tư ít nhiều bị lấn át. Toàn bộ hành động của
nhân vật Quang là một sự thống nhất cao . Nhân vật chính diện trong Thung lũng Cô
tan, bên cạnh Quang còn có Thảo – người thanh niên mới, tiến bộ thuộc thế hệ kế cận.
Họ có ưu thế là được các cán bộ lớp trước dìu dắt, họ có nhiệt tình của tuổi trẻ, họ có
sự dũng cảm để vượt mình, họ nhận thức đúng đắn hơn về bản chất của vấn đề. Sự
trưởng thành của Thảo chủ yếu là kinh qua thực tiễn chiến trường – vì vậy – đôi khi
gặp những vấn đề thuần lý thuyết thì Thảo trở nên rụt rè và có phần thận trọng. Trong
Trang 11


chiến tranh, con người ta không có nhiều thời gian để đắn đo mà sự sáng tạo, kinh
nghiệm thực tiễn đã tạo nên những đột phá táo bạo để giải quyết một cách hiệu quả
nhất những vấn đề phát sinh trong đời sống. Việc Thảo hiến kế cho Kha lợi dụng sức
công phá của bom Mỹ để tăng hiệu suất bóc gỡ tầng đất mặt trên chiến trường đã cho
chúng ta thấy rõ hơn về con người này: kiên quyết, thông minh, tế nhị, quả cảm và
đầy trách nhiệm. Nếu đặt họ cạnh những thày già San, tu sĩ Phùng, Nhài, Tý… trong
là những người sinh ra trong cùng một giai đoạn lịch sử - xã hội thì rõ ràng Quang,
Thảo trong Thung lũng Cô tan là những thanh niên rất tiến bộ, chính họ góp phần làm
nên một thế hệ chống Mỹ và thắng Mỹ vẻ vang của dân tộc. Khi đánh giá về nhân vật
chính diện trong Thung lũng Cô tan, chúng ta thấy: Qua nhân vật Quang, âm hưởng
sử thi, tính chất lý tưởng hoá đã được tác giả phản ánh tương đối rõ nét và nhuần
nhuyễn trong xây dựng tính cách nhân vật, các yếu tố tiểu thuyết khác (những khía
cạnh thuộc về cá nhân, đời thường) cũng được chú ý và xử lý tế nhị. Khi tiếp cận tác

phẩm, người đọc không có cảm giác bị ép hoặc dập khuôn mà vẫn tự nhiên, mục đích
phản ánh vẫn đạt hiệu quả. Bên cạnh Quang, các nhân vật chính diện khác cũng được
xây dựng khá tốt (Thảo, Đính, Quế…) nhưng chất sử thi không rõ nét, điều này được
lý giải: trong bối cảnh tác phẩm, nhân vật thực sự chưa có đủ bề dày, đủ tầm để xây
dựng thành những tiêu điểm theo tiêu chí sử thi hoá .
Nhân vật phản diện trái với nhân vật chính diện, nhân vật phản diện mang bản
chất xấu xa trái với đạo lý và lý tưởng, đáng lên án và phủ định. Ở Thung lũng Cô tan,
chân dung các nhân vật phản diện được xây dựng theo lối châm biếm Sự cường điệu
kết hợp với cái nhìn hài hước tạo nên bút pháp trào phúng ở những cấp độ khác nhau,
ta thấy rõ điều này thông qua những trang miêu tả kết hợp độc thoại nội tâm khi viết
về Lin đơn Giôn xơn và Alen Giôn đao. Hệ thống các nhân vật phản diện - xét ở chức
năng xã hội- là công cụ để thực hiện những âm mưu đen tối, những tham vọng chính
trị điên rồ .Xét ở chức năng văn học, chúng đóng vai trò phản đề: nhân vật phản diện
đại diện cho cái ác; là phản đề của nhân vật chính diện. Nhân vật lưỡng tính hoặc đa
cực Trong Thung lũng Cô tan, bên cạnh hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện đã
xác định, còn một số nhân vật khác cũng có những đóng góp vào bức tranh hiện thực
của tác phẩm. Chúng tôi tạm gọi các đối tượng này là các nhân vật lưỡng tính hoặc đa
cực. Đặc điểm nhận diện của loại nhân vật này là có sự chuyển hoá trong tính cách,
suy nghĩ, hành động, trên cả hai xu thế tích cực và tiêu cực. Nhân vật Kha là một ví
dụ: Kha là một trí thức trẻ, được đào tạo cơ bản và có điều kiện phát triển tốt trên con
đường khoa học với những thành quả ban đầu rất đáng khích lệ. Nếu đặt trong thế so
sánh với nhân vật Thuỵ trong nhân vật Thất trong thì nhân vật Kha trong Thung lũng
Cô tan phức tạp hơn nhiều về tâm lý Quá trình tha hoá của Kha diễn ra từ tốn, kín
Trang 12


đáo, có toan tính và liên tục âm mưu; nguy hiểm hơn, những toan tính ấy lại được
ngụy trang kín đáo bằng vỏ bọc của khoa học và tri thức, được đánh bóng bằng những
ánh hào quang không có giá trị tự thân Kha cơ hội trong mọi điều kiện, mọi môi
trường, mọi mối quan hệ, càng lún sâu vào sai lầm thì sự cơ hội, tráo trở càng trỗi dậy,

càng bộc lộ rõ hơn bản chất con người này . Giữa hành động và suy nghĩ của Kha
chưa bao giờ thống nhất, cái biểu hiện và cái được biểu hiện trong nhân vật này hoàn
toàn đối lập nhưng ranh giới của chúng lại được làm mờ đi một cách hết sức tinh vi
“… Sự đúng sai là ở hướng đi, điều đó cách mạng đã chỉ rõ. Nhưng sự khôn dại lại là
ở cách đi, mà cách đi thì thường tùy thuộc mỗi người (…) phải chăng đó mới chính là
sự thông minh của những thông minh” Ngay cả khi rơi vào tình trạng bế tắc, liên tiếp
thất bại trên chiến trường, bản chất cơ hội của Kha vẫn không thay đổi: ý tưởng làm
con đường tránh để cứu vãn tình thế, lợi dụng kết quả nghiên cứu của Quế để cứu vãn
danh dự, việc hăng hái thuyết trình về ý tưởng lợi dụng sức công phá của bom Mỹ để
tăng hiệu suất bóc gỡ tầng đất mặt –thực chất là ý tưởng của Thảo và Quang - cũng đã
được Kha lợi dụng triệt để. Lời nhận xét thẳng thắn của Đính trong hội nghị “… đừng
dùng khoa học kỹ thuật vào việc buôn bán công danh sỹ diện như vậy” những lời sám
hối muộn màng của Kha những giọt nước mắt vỡ òa vì uất ức của Quế đã phần nào
chiêu tuyết cho Kha. Cuối cùng, có lẽ, chỉ có tác giả Lê Phương đã khoan nhượng với
Kha khi không để câu chuyện đi đến hồi kết với nhân vật này. Trong niềm vui lớn của
chiến công, có lẽ con người ta đã trở nên khoan dung hơn.
2.3 Thời gian nghệ thuật
Cấu trúc thời gian theo Dẫn luận nghiên cứu văn học của Pospelov thì các loại
hình nghệ thuật chiếm lĩnh hiện thực trong các chiều không - thời gian của nó một
cách khác nhau. Thời gian nghệ thuật của Thung lũng Cô tan là trục thời gian tuyến
tính, thời gian thực của tác phẩm không dài (1 năm) khi so sánh với dung lượng tác
phẩm (gần 300 trang), thời gian nghệ thuật được kéo dài hết cỡ để chứa đựng các sự
kiện diễn ra dồn dập, chồng chéo. Yếu tố thời gian trong Thung lũng Cô tan còn được
tính bằng mốc thời gian cụ thể như nhịp liên lạc qua điện đài từng trận đánh, từng đợt
bom [từng nhịp sinh hoạt, thậm chí được tính từng phútcác yếu tố thời gian cụ thể
xuất hiện ít (5 lần ở các trang 7,12, 70, 276, 282). Có một hiện tượng cần lưu ý trong
kết cấu thời gian của Thung lũng Cô tan là bên cạnh những yếu tố thời gian tuyến tính
nêu ở trên hoặc các khoảng thời gian tái hiện chủ yếu được thể hiện qua ngôn ngữ kể
và hồi tưởng thì thời gian nghệ thuật được sử dụng như một công cụ phản ánh hữu
hiệu, nếu đem so sánh thời gian thực thể và thời gian nghệ thuật. Thời gian thực thể

của trận Cô tan chỉ khoảng một tuần nhưng đã chiếm khoảng 2/3 dung lượng tác
Trang 13


phẩm (từ trang 91 đến trang 280, chiếm 9/13 chương). Đặc điểm này ta cũng thấy thể
hiện trong Bão biển của Chu Văn Trong những trường đoạn như vậy, thời gian thực
thể dường như không còn ý nghĩa mà chỉ còn thời gian nghệ thuật đảm nhiệm chức
năng phản ánh của nó. Một đánh giá chung nhất về kết cấu thời gian trong Thung
lũng Cô tan của Lê Phương đó là thời gian nghệ thuật với những tiêu chí như "dồn
nén" hoặc "kéo dãn" đã được sử dụng một cách hữu hiệu, phục vụ tốt cho việc thể
hiện các dụng ý nghệ thuật của tác giả Trong Dẫn luận thi pháp học của giáo sư
Trần Đình Sử, thời gian nhân vật được hiểu bao gồm thời gian tiểu sử và thời gian
“được nếm trải qua tâm hồn của nhânvật. Hoạt động tâm lý, ký ức dòng ý thức tạo
thành thời gian nhân vật. Nếu nhân vật thiếu đời sống nội tâm thì thời gian của nó chỉ
còn tồn tại trên cấp độ sự kiện nhân quả, trên cấp độ thời gian đồng hồ và lịch. Thời
gian nhân vật gắn với những thời điểm có ý nghĩa riêng của nhân vật đó... Mỗi nhân
vật có một thời khoá biểu, một nhịp độ hoạt động. Thời gian nhân vật có độ dài hiện
diện trong tác phẩm khác nhau. Chỉ có nhân vật chính là có thời gian bằng thời gian
tiền sử và thời gian cốt truyện. Ðứng về phương diện thời gian, người ta xếp văn
chương vào loại nghệ thuật thời gian. Chính đặc trưng chất liệu ngôn từ đã qui định
tính chất thời gian của hình tượng văn chương. Lời nói là âm thanh được phát ra từng
tiếng lần lượt theo thời gian. Hình tượng văn chương có khả năng to lớn trong việc
chiếm lĩnh đối tượng mà các bộ phận của nó xuất hiện theo thời gian. Văn chương chủ
yếu tái hiện các quá trình đời sống, các sự vật và hiện tượng nối tiếp nhau trong thời
gian.
Có một loạt các nghệ thuật thời gian, nhưng nghệ thuật thời gian - văn chương
là có tính đặc thù. Tính đặc thù đó là ở chỗ, trong văn chương, thời gian được thể hiện
uyển chuyển, biến hóa khôn lường nhà văn có thể ép mỏng lại hoặc kéo căng thời
gian ra tùy theo yêu cầu nghệ thuật nhất định. thời gian trong văn chương không nhất
thiết được thể hiện đúng như thật, trực tiếp như thời gian trên sâu khấu là trùng khít

với thời gian được miêu tả. Trong văn chương thời gian nhiều khi chỉ là khoảng khắc
nhưng được nhà văn đặc tả tỉ mỉ và có thể có cả lời bình phẩm kéo dài hàng trang
sách. Như vậy ở đây thời gian cần để miêu tả nhiều gấp mấy lần thời gian được miêu
tả.
2.4 Không gian thấm đẫm màu sắc lãng mạn cách mạng
Không gian trong Thung lũng Cô tan của Lê Phương mang dấu ấn của một
không gian tiểu thuyết sử thi đặc thù. Ở một diện hẹp hơn, cơ bản các tình tiết và sự
kiện của tác phẩm nằm trong một không gian xác định - thung lũng Cô tan. Những
phương diện thể hiện của không gian nghệ thuật trong tác phẩm như khung cảnh
không gian chiến trường dù được miêu tả rất chính xác và chi tiết đến từng địa điểm
cụ thể từng cao điểm từng cung đường nhưng giá trị nghệ thuật được đánh giá cao ở
Trang 14


độ chân thực mà giá trị phản ánh hoặc triết lý của nó – hiểu theo đúng nghĩa của
không gian nghệ thuật – thì chưa thực sự thuyết phục. Bên cạnh đó, một số không
gian nghệ thuật mang tính triết lý cao - dù xuất hiện ít nhưng giá trị phản ánh lại
tương đối rõ nét. Không gian trong điện Ca-pi-tôn (ánh sáng và màu sắc trong phòng
Tổng thống, chiếc ghế của Tổng thống với hình mặt trời bán nguyệt màu
vàng…)dòng hồi tưởng về quê hương Tếchdát trìu mến; câu hỏi ngay thật của cô con
gái Li-da… đã phản ánh rõ nét tâm trạng bất ổn, “những cơn ác mộng bàng hoàng”
của Lin-dơn Giô-xơn nói riêng và của cả bộ máy chiến tranh Mỹ lúc bấy giờ. Những
mảng màu đầy chất tương phản trong hiện thựcvà dòng suy tưởng của Giôn-xơn cũng
góp phần làm rõ bản chất đế quốc của ông trùm Nhà trắng. Nhìn chung, không gian ở
mức độ trung cảnh thường bị quy định bởi tâm lý nhân vật nhiều hơn là những khung
cảnh thiên nhiên thuần nhất .Không gian trong “động Băng tinh nhiệt đới” của Kha
giữa chiến trường được miêu tả cũng không nằm ngoài ý đồ bóc dần từng lớp áo để
thấy rõ hơn con người thật của Kha. Sự đối lập đến đến triệt để về mầu sắc, bài trí, vật
dụng trong phòng làm việc dã chiến của Kha với hiện thực chiến trường cho chúng ta
một kết luận: chiến tranh không có chỗ cho những kẻ ảo tưởng và cơ hội; và thực tế

luôn đúng như vậy. Các biểu tượng không gian khác trong tác phẩm có giá trị khái
quát như đỉnh Chân linh, đèo Ta bua –Labui được nhắc đi nhắc lại nhiều lần với ý
nghĩa tượng trưng rõ nét. Đó chính là thách thức của tự nhiên, là đỉnh cao mà khoa
học cần chiếm lĩnh đồng thời cũng là nơi thử gan, thử lửa; nơi sức mạnh trí tuệ, bản
lĩnh cách mạng và cả lòng tự trọng của mỗi con người Việt Nam được bộc lộ. Nhìn
chung các biểu tượng không gian trong Thung lũng Cô tan không mới, cái mới ở chỗ
những khám phá đằng sau các biểu tượng không gian ấy. Việc chinh phục thắng lợi
đỉnh Chân linh đã tháo gỡ được nhiều vấn đề tư tưởng của tác phẩm, đặc biệt là sự
chuyển biến về tư tưởng dẫn đến chuyển biến trong hành động của một số nhân vật
chính - điển hình là Kha – và đây cũng chính là thành công ở tầm sâu của Thung lũng
Cô tan so với một số tiểu thuyết cùng thời. Người ta đã xếp văn chương vào hàng
nghệ thuật thời gian, nhưng đứng ở góc độ nào đó mà xét thì văn chương còn là nghệ
thuật không gian - loại nghệ thuật không gian đặc biệt. Không gian nghệ thuật của văn
chương là có tính đặc thù. Tính đặc thù này cũng là do đặc thù chất liệu xây dựng
hình tượng - ngôn từ, quy định. các lời nói trong tác phẩm văn chương không phải
được diễn ra cùng một lúc mà theo trật tự trước sau và ngay trong lời nói các từ cũng
từ này tiếp sau từ kia. Có lợi thế về mặt thời gian, nhưng quảng tính thời gian của lời
nói đã là trở ngại cho văn chương khi miêu tả không gian. Lessing đã viết: Những gì
mà con mắt ta nắm bắt được ngay tức khắc thì nhà thơ phải trình bày cho chúng ta
chậm rãi, theo từng bộ phận, và thường kết quả là, khi cảm thụ bộ phận sau thì quên
Trang 15


mất bộ phận trước ở đây sự đối chiếu vật thể trong không gian đã vấp phải tính liên
tục của lời nói trong thời gian.Không gian nơi đây có vẻ đẹp mê hồn, trừu tượng,nhất
là thiên nhiên với màu sắc ,âm thanh : “cảnh hoàng hôn trong khu rừng này thì tuyệt
đẹp”.Bên cạnh không gian thơ mộng là không gian hùng vĩ của đại ngàn vô tận.
2.5 Xung đột
Văn học sử thi trong suốt lịch sử tồn tại của mình luôn tập trung thể hiện một
kiểu xung đột trung tâm: xung đột cộng đồng. Nói cách khác, xung đột cộng đồng

chính là nguyên tắc để xây dựng các mối quan hệ tương tác giữa các hình tượng trong
tác phẩm sử thi với những biểu hiện cụ thể sau:Thứ nhất, xung đột cộng đồng trước
hết và tiêu biểu nhất, phổ biến nhất là xung đột chiến tranh giữa các cộng đồng dân
tộc. Hêghen cũng khẳng định rằng tình huống phù hợp nhất với sử thi là xung đột
trong trạng thái chiến tranh. "Thực vậy, trong chiến tranh chính là toàn bộ dân tộc
đang vận động. Nó bị kích thích phải hành động bởi vì nó phải bảo vệ toàn bộ dân tộc
mình" .Việt Nam giai đoạn 1945-1975, ta sẽ thấy xung đột được các nhà văn đề cập
đếntrong tác phẩm, nhất là trong các tiểu thuyết sử thi mang tính chất thời đại lịch sử
rất rõ. Có thể kết luận rằng: xung đột trong tiểu thuyết sử thi tồn tại ở nhiều dạng
nhưng đều là nhữngvấn đề thuộc về cộng đồng dân tộc. Tất cả các mâu thuẫn diễn ra
đều tồn tại trong cộng đồng, được toàn thể cộng đồng quan tâm giải quyết. Xã hội
càng phát triển ở trình độ cao, xung đột sử thi càng được mở rộng. Tác phẩm sử thi cổ
đại mới chỉdừng lại ở xung đột cộng đồng, bộ lạc, thị tộc. Đến thời hiện đại, xung đột
mang tầmvóc dân tộc - quốc gia và thậm chí mở ra ở tầm nhân loại, quốc tế. Từ điển
thuật ngữ văn học định nghĩa về xung đột: "sự đối lập, sự mâu thuẫn được dùng như
một nguyên tắc để xây dựng các mối quan hệ tương tác giữa các hình tượng trong tác
phẩm nghệ thuật" Cụ thể, trong Thung lũng Cô tan, ta gặp kiểu xung đột giữa một bên
là cả dân tộc Việt Nam còn bên kia là bộ máy chiến tranh của đế quốc Mỹ. Mâu thuẫn
này là mâu thuẫn cơ bản, xuyên suốt toàn bộ chiều dài tác phẩm nhưng đứng ở tầm
khái quát, mang nhiều yếu tố cộng đồng, có thể nói đây là xung đột trung tâm của tác
phẩm, dễ nhận diện và cũng được giải quyết triệt để nhất. Ở bài báo này chúng tôi
muốn đề cập tới những xung đột cụ thể hơn - mà qua đó bản chất mỗi nhân vật được
khám phá và bộc lộ. Trong tác phẩm, ta gặp xung đột về cách tư duy và hành động
giữa Quang và Kha. Quang trong công việc rõ ràng, cụ thể, mạch lạc, kiên quyết,
trách nhiệm. Kha nặng về lý thuyết và đầy tính cơ hội; xuyên suốt tác phẩm, chúng ta
vẫn thấy một ám ảnh trong suy nghĩ của Kha về Quang: đó là sự lo sợ Quang vượt
mình, làm mất uy tín của Kha … Đặt ra vấn đề này trong tác phẩm của mình, Lê
Phương đã chứng tỏ một mẫn cảm xã hội tốt, nhạy cảm khi tiếp cận hiện thực, và đây
Trang 16



cũng là một thực trạng cần báo động – nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Xung đột ở dạng này ta còn thấy xuất hiện trong cặp nhân vật Thảo – Kha, Đính –
Kha… Cách nêu vấn đề và giải quyết vấn đề trong Thung lũng Cô tan ở kiểu xung đột
này đã thể hiện một Lê Phương với độ nhạy cảm cao nhưng cũng đầy khéo léo và tế
nhị.
2.6 Ngôn ngữ đa thanh
Về phương diện ngôn ngữ, tác phẩm hội tụ được cả ngôn ngữ đơn giọng với
âm hưởng sử thi và ngôn ngữ đa giọng của tiểu thuyết thế sự với nhiều tầng bậc như
trào phúng, châm biếm… các yếu tố về không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật
cũng đã được tác giả xử lý khéo léo để phục vụ ý đồ sáng tạo của mình.. Tuy không
phải cái nhìn với khoảng cách tuyệt đối như sử thi cố đại nhưng rõ ràng trong tiểu
thuyết sử thi vẫn xuất hiện cái nhìn chiêm ngưỡng của nhà văn về dân tộc và cộng
đồng. Bởi thế, chất giọng cơ bản của tiểu thuyết sử thi là chất giọng anh hùng ca. Đó
là bài ca về lịch sử, về những con người mang vóc dáng huyền thoại trong thời hiện
đại. Ngôn ngữ tiểu thuyết sử thi ít góc cạnh, ít tàn nhẫn mà thường trang trọng,
thường chen lẫn ngôn ngữ trữ tình thống thiết về hiện thực. Ngôn ngữ nhân vật với
chức năng bộc lộ tính cách là đối tượng của nghệ thuật miêu tả. Nhìn chung, ngôn
ngữ nhân vật trong tác phẩm đi theo quỹ đạo chung và thống nhất với tính cách:
Quang rụt rè, kín đáo nhưng chín chắn, Thảo mềm mỏng nhưng cương quyết; Kha
hoạt ngôn, kỹ lưỡng khi đặt vấn đề; Đính thẳng thắn nhưng có phần thô ráp; thủ
trưởng Đức, chính ủy Sơn, Tư lệnh luôn ân cần, tâm lý, thâm trầm nhưng luôn có tầm
nhìn… Toàn bộ tác phẩm xuất hiện mười hai lần độc thoại nội tâm, chủ yếu xuất hiện
dưới dạng những suy tư của nhân vật, góp phần gợi mở đời sống tâm lý nhân vật
nhiều hơn là chi phối hành động : cá biệt cũng có những lời nội tâm xuất hiện dưới
dạng gián tiếp với sự dẫn dắt của người trần thuật: Ngôn ngữ tác giả Trong Thung
lũng Cô tan, lời trực tiếp của tác giả xuất hiện dưới hình thức trữ tình ngoại đề, lời
bình luận về đạo đức, triết lý… nó ít hơn nhiều so với lời trực tiếp của nhân vật. Ta
thấy ngôn ngữ tác giả trong các trường hợp nhận xét về hiện tượng, con người có vẻ
trung tính, trần thuật nhưng lại chứa đựng những yếu tố đánh giá chủ quan có tính

định hướng của tác giả Nếu so sánh về định lượng thì ngôn ngữ tác giả ít hơn nhiều so
với ngôn ngữ nhân vật; đây cũng là điểm tiến bộ, ưu thế của các tiểu thuyết hiện đại,
nhưng tính định hướng của các đoạn trữ tình ngoại đề hoặc các nhận xét về nhân tình
thế thái, đạo đức, luân lý này lại rất cao. Giọng điệu Trong Thung lũng Cô tan của Lê
Phương, bên cạnh giọng điệu sử thi là chủ đạo thì giọng điệu của các nhân vật cũng
rất đa thanh, và đó cũng là dấu ấn phá cách trong tác phẩm. Sự phong phú về giọng
điệu cũng là một dấu hiệu cần cho tiểu thuyết vì đời sống vốn giàu âm điệu. Tất cả
Trang 17


những Quang, Thảo, Liên, Đính, Nguyệt, Chi ba lỳ, thủ trưởng Đức, Chính ủy Sơn,
Lin đơn Giôn xơn, Alen Giôn đao… cho ta cảm nhận sự đa thanh của Thung lũng Cô
tan. Thế giới nhân vật ấy có chính có phụ, được tô đậm hoặc thoáng qua, đi đến cùng
hoặc bỏ cuộc giữa chừng… nhưng dường như tất cả đều đặt đúng chỗ, không thể
thiếu vắng một ai, ngay cả những nhân vật phụ như Đính, Ngàn, Liên, Nguyệt…thiếu
một trong số đó là thiếu đi một sắc màu, một giọng điệu cần thiết cho bức tranh đời
chân thật và sinh động. Ở đây chúng ta chỉ khảo sát một số giọng điệu ngoài sử thi tạo
nên tính đa thanh đó. Giọng điệu hài hước: Trong tiểu thuyết sử thi, giọng điệu này
không đóng vai trò chủ đạo nhưng với Lê Phương, ông đã khai thác giọng điệu này
trong Thung lũng Cô -tan rất tự nhiên, tạo ra khoảng trung hoà cần thiết trong một
không khí vốn rất căng thẳng, khẩn trương, ác liệt. Những lời thoại của nhân vật trong
những tình huống cụ thể cho ta thấy rõ điều này. Không chỉ sử dụng ngôn ngữ mà tác
giả còn xây dựng tình huống hài hước để gây cười rất tự nhiên, hóm hỉnh: Giọng điệu
trào phúng: Giọng điệu châm biếm đả kích xuất hiện với mục đích khắc họa loại nhân
vật phản diện. Hai trường đoạn miêu tả bộ máy chiến tranh phục vụ cho kế hoạch Pax
– Americana và hình ảnh cũng như tâm thế của Alanh – Giôn đao khi bị bắt làm tù
binh là một minh chứng Có thể nói giọng điệu châm biếm đả kích trong tác phẩm như
một đối âm - một giọng điệu đối nghịch với giọng điệu ngợi ca và cảm thông. Giọng
điệu bi thương: Trong Thung lũng Cô tan còn có cả giọng điệu cảm thông, thương
cảm và giàu cảm xúc. Ta bắt gặp giọng điệu này trên những dòng viết về hoàn cảnh

hy sinh của Thọ, Liên, bố của Quang, bố của Chi ba lì: .Giọng điệu bi kịch, cảm
thương không chỉ được tác giả sử dụng khi mô tả, phân tích tâm lý các nhân vật thuộc
"phái yếu" mà ngay cả với những nhân vật cứng đầu như Kha cũng không phải không
có lúc giọng điệu bi thương phát huy tác dụng khám phá nộitâm. Những trường đoạn
ấy thấm đẫm chất bi kịch nhưng cũng góp phần không nhỏ trong khai mở những góc
khuất tâm hồn của nhân vật này. Giọng điệu bi thương không nhiều ở Thung lũng Cô
tan nhưng cũng đã góp phần tạo nên tính đa thanh của giọng điệu trong tác. Ngôn ngữ
trong tác phẩm đã hướng người đọc tới một cách cảm nhận mới đa dạng, phong phú
và vo cùng sinh động.

KẾT LUẬN

Trang 18


Tiểu thuyết mang tính sử thi phân biệt với các loại tiểu thuyết khác ở chỗ: với
tư cách là một kiểu tiểu thuyết độc đáo nó xây dựng cho mình một thế giới nghệ thuật
mang những phẩm chất mới mẻ, tạo nên cái gọi là “dấu ấn sử thi” riêng biệt không thể
trộn lẫn. Các kiểu nhân vật, không gian và thời gian cũng như lời văn của tiểu thuyết
sử thi bao giờ cũng tỏa sáng theo cái cách riêng của nó, cái cách mà theo đó, các giá
trị thuộc về và gắn với cộng đồng trở nên lấp lánh hào quang. Đặc điểm thi pháp quan
trọng nhất của tiểu thuyết sử thi phân biệt với các loại tiểu thuyết khác là ở chỗ: nếu
các loại tiểu thuyết khác (tiểu thuyết đa thanh) tập trung khám phá con người không
trùng khít với chính mình luôn có phần “lệch chuẩn” thì con người trong tiẻu thuyết
sử thi về cơ bản được xác định theo các khuôn mẫu, vị thế xã hội - lịch sủ của nó .Đặt
trong bối cảnh lịch sử - xã hội giai đoạn 1960-1975, tiểu thuyết Thung lũng Cô tan
của Lê Phương như một lời ca đẹp trong bản hùng ca của toàn dân tộc, dưới góc độ
văn chương học thuật thì tác phẩm cũng đã hoàn thành nhiệm vụ của mình: phản ánh
kịp thời cuộc chiến đấu bền bỉ, kiên cường, sáng tạo của quân và dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ mà điểm sáng nhất là đã xử lý thành công, uyển chuyển và tế

nhị những xung đột trong nội bộ các cán bộ khoa học tham gia phục vụ chiến đấu
cũng như trong nội tâm mỗi con người mà điển hình là các nhân vật Quang, Kha,
Thảo… Xem xét dưới góc độ các yếu tố loại hình trong cấu trúc tiểu thuyết thì Thung
lũng Cô tan của Lê Phương mang dấu ấn rõ nét của một tiểu thuyết sử thi hóa. Bối
cảnh, không gian mang tính chất sử thi; đối tượng phản ánh được lựa chọn (người trí
thức, cán bộ khoa học); hệ thống các nhân vật, xung đột và giải quyết xung đột theo
nguyên tắc cộng đồng; xung đột thế sự – đời tư được đưa vào tác phẩm rất nhẹ nhàng
nhưng sâu sắc; quá trình xử lý các xung đột tạo ra một dấu ấn riêng cho Lê Phương và
tạo ra nét khu biệt của tác phẩm với tiểu thuyết sử thi truyền thống.

Trang 19



×