Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

SỬ DỤNG KỸ NĂNG MỀM TRONG GIÁO DỤC KHÔNG CHÍNH QUY - TS. Kaustuv Kanti Bandyopadhyay và Priti Sharma

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.68 KB, 90 trang )

Tài liệu tập huấn dành cho giáo viên

SỬ DỤNG KỸ NĂNG MỀM
TRONG GIÁO DỤC KHÔNG CHÍNH
QUY

Biên soạn bởi:
TS. Kaustuv Kanti
Bandyopadhyay
và Priti Sharma


SỬ DỤNG KỸ NĂNG MỀM
TRONG GIÁO DỤC
KHÔNG CHÍNH QUY


Dịch từ nguyên bản tiếng Anh, Traning Manual for Facilitators: Using Soft Skills
in Non-formal Education, xuất bản lần đầu tiên tháng 1/2016 bởi Society for
Participatory Research in Asia (PRIA), Ấn Độ, với sự hỗ trợ của
DVV International, Đức
Bản quyền tiếng Việt © Trung tâm Khu vực về Học tập Suốt đời của tổ chức
SEAMEO tại Việt Nam (SEAMEO CELLL)
Bản quyền ấn phẩm đã được bảo hộ. Mọi hình thức xuất bản, sao chụp, thay đổi nội
dung của ấn phẩm mà không có sự cho phép bằng văn bản của các bên sở hữu là vi
phạm pháp luật. Các hành vi này có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm dân sự, hình sự
theo quy định của pháp luật.


MỤC LỤC
Lời cảm ơn



4

Giới thiệu tài liệu

5

Kỹ năng mềm và ứng dụng của kỹ năng mềm trong giáo dục không chính quy
dành cho người lớn

6

Các quan điểm về tập huấn cùng tham gia và việc học của người lớn

8

Các phương pháp tập huấn cùng tham gia

17

Sử dụng phân tích tương giao để hiểu về bản thân

36

Bảng hỏi về biểu đồ các trạng thái cái tôi và vị thế cuộc sống

40

Làm việc nhóm và xây dựng tinh thần làm việc nhóm: Bài tập “Ô vuông phân
mảnh”


44

Đọc thêm: Làm việc nhóm và xây dựng tinh thần làm việc nhóm

50

Kỹ năng lãnh đạo: Trò chơi “Xây tháp”

60

Đọc thêm: Phát triển năng lực lãnh đạo

62

Quá trình ra quyết định: Bài tập “Lên kế hoạch dự án”

66

Đọc thêm: Quá trình ra quyết định trong tổ chức

71

Kỹ năng giao tiếp liên cá nhân

76

Đọc thêm: Giao tiếp hiệu quả trong tổ chức

78


Hợp tác và xung đột trong nhóm

83

Đọc thêm: Xử lý xung đột trong nhóm và trong tổ chức

86


LỜI CẢM ƠN
Tài liệu tập huấn dành cho giáo viên: Sử dụng kỹ năng mềm trong giáo dục
không chính quy được hợp tác xây dựng bởi tổ chức PRIA (Society for
Participatory Research in Asia), Ấn Độ và tổ chức DVV International, Đức.
Tài liệu này được cải biên từ các tài liệu trong cẩm nang Hướng dẫn về Phương
pháp tập huấn cùng tham gia do PRIA xây dựng. Chúng tôi xin cảm ơn tất cả các
đồng nghiệp tại PRIA và các tổ chức đối tác đã góp phần xây dựng các phiên
bản Tài liệu hướng dẫn về Phương pháp tập huấn cùng tham gia của PRIA.
Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Rajesh Tandon, Chủ tịch PRIA đã hỗ trợ và hướng
dẫn. Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ Uwe
Gartenschlaeger, Giám đốc Khu vực, Văn phòng DVV International khu vực Nam
Á và Đông Nam Á đã hỗ trợ và khích lệ chúng tôi trong quá trình xây dựng tài
liệu này.
Chúng tôi xin cảm ơn các đối tác khu vực của văn phòng DVV International ở
Nam Á và Đông Nam Á đã hỗ trợ việc áp dụng tài liệu trong các khóa tập huấn
về sử dụng kỹ năng mềm trong giáo dục không chính quy, nhờ đó đó tài liệu
được xây dựng và hoàn thiện.
Cuối cùng, chúng tôi xin cảm ơn tất cả các đồng nghiệp tại PRIA đã chung tay
xây dựng tài liệu hướng dẫn này.
TS. Kaustuv Kanti Bandyopadhyay

và Priti Sharma

4


GIỚI THIỆU TÀI LIỆU
Tài liệu tập huấn cho giáo viên: Sử dụng các kỹ năng mềm trong giáo dục không
chính quy được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của giáo viên trong lĩnh vực giáo
dục không chính quy. Tài liệu này được thiết kế nhằm mục đích:
 Nâng cao hiểu biết về khái niệm kỹ năng mềm trong giáo dục không chính
quy
 Làm tài liệu tham khảo cho giáo viên về sử dụng kỹ năng mềm trong giáo
dục không chính quy
 Cung cấp các bài tập, tài liệu, và buổi tập huấn mẫu để sử dụng trong quá
trình tập huấn. Tài liệu bao gồm các bước và các hoạt động hỗ trợ tập huấn
kỹ năng mềm.
Tài liệu này bao gồm các tài liệu tham khảo và ghi chép của giáo viên để hỗ trợ
các học phần tập huấn. Người sử dụng tài liệu có thể bổ sung thêm các thông tin
tham khảo và các câu chuyện địa phương để tài liệu phù hợp hơn và sát với ngữ
cảnh tại khu vực của mình. Tài liệu này được biên soạn theo phương pháp tập
huấn cùng tham gia được xây dựng bởi các giáo viên tại PRIA và các tổ chức đối
tác qua nhiều thập niên.
Tài liệu được chia thành hai phần. Phần 1 tập trung vào tính thiết thực của kỹ
năng mềm trong giáo dục không chính quy và việc sử dụng phương pháp tập
huấn cùng tham gia trong các khoá tập huấn kỹ năng mềm. Phần 2 sẽ dẫn dắt
người sử dụng qua các tiểu học phần khác nhau trong các khoá tập huấn kỹ
năng mềm.

5



KỸ NĂNG MỀM VÀ ỨNG DỤNG
CỦA KỸ NĂNG MỀM TRONG
GIÁO DỤC KHÔNG CHÍNH QUY
DÀNH CHO NGƯỜI LỚN
Theo định nghĩa từ điển, kỹ năng mềm đề cập đến các phẩm chất cá nhân cho
phép một người có thể giao tiếp hài hòa và hiệu quả với người khác. Ở những
góc độ khác, kỹ năng mềm được xem là một tập hợp các phẩm chất cá nhân,
thói quen, thái độ và cách ứng xử giúp cho một người trở thành nhân viên tốt
hoặc thành viên có thể làm việc với người khác trong tổ chức.
Các kỹ năng mềm bao gồm đạo đức nghề nghiệp, thái độ, kỹ năng giao tiếp, trí
tuệ cảm xúc và một loạt các phẩm chất cá nhân khác. Nói đến kỹ năng mềm,
chúng ta không thể không nhắc đến các kỹ năng cứng. Kỹ năng cứng bao gồm
các kỹ năng nghề nghiệp và chuyên môn, ví dụ như kế toán, đánh máy, vận hành
máy móc… Đây là các kỹ năng có tính định lượng và tầm ứng dụng toàn cầu.
Các kỹ năng cứng là những kỹ năng cụ thể cần thiết cho một công việc và có thể
giảng dạy được.
Một số các kỹ năng mềm quan trọng nhất gồm có:





Lãnh đạo
Ra quyết định
Làm việc nhóm
Giao tiếp







Đàm phán
Quản lý xung đột
Tạo ảnh hưởng
Quản lý thời gian

Chúng ta có thể chia các kỹ năng này thành các kỹ năng nhỏ hơn. Ví dụ như kỹ
năng giao tiếp sẽ bao gồm giao tiếp bằng ngôn ngữ, bằng cử chỉ phi ngôn ngữ,
bằng chữ viết, kỹ năng thuyết trình, v.v. Các kỹ năng gây ảnh hưởng gồm có tạo
điều kiện thuận lợi, tạo động lực và thương thuyết trong tập thể. Các kỹ năng cá
nhân có thể chia nhỏ thành các kỹ năng liên quan đến trí tuệ cảm xúc, quản lý sự
căng thẳng, tính tự tin, thích nghi, quyết đoán, sự thân thiện và nhiệt tình, v.v. Tuy
nhiên trong tài liệu này, chúng tôi chỉ tập trung vào các kỹ năng Hiểu chính mình,
Lãnh đạo, Ra quyết định, Xây dựng tinh thần đồng đội, Giao tiếp và Quản lý xung
đột.
Trong những năm gần đây, kỹ năng mềm ngày càng được chú trọng trên khắp
thế giới. Trong một tổ chức, việc hiểu rõ các khía cạnh kỹ thuật của công việc là
quan trọng, nhưng làm sao những kiến thức này có thể chuyển hóa thành sản
phẩm cũng quan trọng không kém. Hành vi, thái độ, kỹ năng giao tiếp của một cá
nhân đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với hiệu quả công việc mà còn đối với
việc phát triển sự nghiệp. Ngày nay, không có cá nhân nào làm việc riêng biệt.
Tất cả chúng ta đều có sự kết nối trong một công việc nhất định. Nếu một cá
nhân nào đó có kiến thức uyên bác về lĩnh vực của mình nhưng không có mối

6


quan hệ tốt với cả nhóm và không thể lãnh đạo nhóm hoàn thành một dự án, thì

kết quả công việc sẽ bị ảnh hưởng, khiến những người trong cuộc không hài
lòng.
Chúng ta hãy xem xét tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong giáo dục không
chính quy. Về cơ bản, định nghĩa giáo dục không chính quy là “hoạt động giáo
dục có tổ chức, nằm ngoài hệ thống chính quy đã được thiết lập, với mục đích
phục vụ một đối tượng học xác định với các mục tiêu học tập xác định”.1
Trong nhiều trường hợp, giáo dục không chính quy giúp giải quyết các yếu kém
trong kỹ năng làm việc. Với mức độ quan trọng ngày càng tăng dần, nhà tuyển
dụng cũng có khuynh hướng tập trung vào các kỹ năng mềm và đánh giá các kỹ
năng này thông qua một số bài kiểm tra có sẵn.
Trong bối cảnh như vậy, các chuyên gia về giáo dục không chính quy cần công
nhận việc đưa các kỹ năng mềm vào nội dung tập huấn. Điều này sẽ tạo ra nhiều
môi trường làm việc tốt hơn và giúp nâng cao năng suất.

Các nguồn tài liệu tham khảo thêm:
The Pickle Jar Theory by Jeremy Wright ( />Why Soft Skills Matter (www.mindtools.com)
/>
1

/>
7


CÁC QUAN ĐIỂM VỀ
TẬP HUẤN CÙNG THAM GIA VÀ
VIỆC HỌC CỦA NGƯỜI LỚN
Các quan điểm về phương pháp tập huấn cùng tham gia
Tập huấn luôn được coi là một quá trình học tập – học các kỹ năng, khái niệm và
hành vi mới. Với quan điểm trên, tập huấn chính là một hoạt động giáo dục. Tuy
vậy, tập huấn thường bị tách riêng khỏi giáo dục chính quy, như giáo dục trong

nhà trường. Nhìn chung, tập huấn ngầm chỉ giáo dục không chính quy cho người
lớn nhưng với mục đích và định hướng rõ ràng. Quá trình tập huấn cũng bao
hàm một sự kiện có tổ chức, với những giới hạn về thời gian, địa điểm, con
người.
Theo định nghĩa truyền thống, tập huấn là chuyển giao các kỹ năng từ giáo viên
sang người học, trong đó giáo viên sẽ xác định những nội dung cụ thể người học
cần phải lĩnh hội. Cách tiếp cận này của tập huấn dựa trên cơ sở giáo viên biết
tất cả mọi thứ và người học như một thùng trống được giáo viên lấp đầy kiến
thức. Người học đóng một vai trò thụ động và chỉ học những gì giáo viên truyền
đạt.
Cách tiếp cận này không cho phép người học chủ động tham gia tiến trình học
mà giáo viên có toàn quyền kiểm soát nó. Tất cả mọi hoạt động từ xác định mục
tiêu đến đánh giá người học đều do giáo viên thực hiện. Giáo viên chọn phương
pháp tập huấn theo sở thích và sự thuận tiện của bản thân khiến bài giảng mang
tính áp đặt. Việc nhấn mạnh các vấn đề hay nội dung chủ đạo, và năng lực của
giáo viên chỉ được đảm bảo nếu người đó là một chuyên gia trong lĩnh vực mình
dạy. Cách tiếp cận tập huấn này rất giống cách tiếp cận trong giáo dục chính quy
hay giáo dục trong nhà trường.
Những giả thuyết cơ bản trong phương pháp tập huấn truyền thống
• Sự lĩnh hội kiến thức của người học sẽ tự động dẫn đến hành động hoặc sự


thay đổi hành vi;
Giáo viên “sở hữu” kiến thức và do đó có thể truyền đạt hoặc truyền tải như



một “huấn luyện viên”;
Việc học phụ thuộc chủ yếu vào năng lực giảng dạy của giáo viên và năng





lực học tập của người học;
Tập huấn là trách nhiệm của giáo viên và cơ sở tập huấn;
Kiến thức và việc tập huấn mang tính trung lập và “khách quan”.

Một quan điểm khác về tập huấn nổi lên vào nửa sau thế kỷ 20. Theo đó, tập
huấn không chỉ giới hạn trong việc “chuyển giao kiến thức chuyên môn” hay
ngang hàng với “truyền đạt kiến thức”. Tập huấn được coi như một quy trình
khám phá và phát triển với mục đích không chỉ “biết nhiều hơn” mà còn là “hành

8


xử khác đi”. Trọng tâm là xây dựng ý thức suy nghĩ độc lập, đánh giá giá trị, thái
độ và định hướng của một người; “phá băng” các khái niệm và mẫu hành vi đã
định hình và đặt câu hỏi, tư duy lại và học lại. Đây là một quá trình không chính
quy và liên tục, trong đó cả giáo viên và người học đều học hỏi lẫn nhau. Cách
tiếp cận tập huấn này nhằm mục đích giúp người học tự tin quan sát, phê phán,
phân tích và phát hiện vấn đề một cách độc lập. Nhờ đó, người học tự khám phá
bản thân và thấy rằng họ cũng giỏi như giáo viên hay bất kỳ người nào khác.
Người học sẽ hợp tác thay vì cạnh tranh để được giáo viên chú ý và tán thành.
Người học được khuyến khích xem xét tổng thể bối cảnh xã hội và quá khứ khi
họ cố gắng hiểu hiện thực hoàn cảnh của mình. Việc học xoay quanh nhu cầu
của chính họ và ngày càng tiến bộ thông qua những lần tư duy và phân tích.
Cách tiếp cận này có thể được gọi là tập huấn để thay đổi, chú trọng vào việc
học hơn là tập huấn. Học viên được khuyến khích nói lên ý tưởng và khám phá
nhiều cách giải quyết vấn đề, tự điều tra thực tế trên cơ sở kinh nghiệm của riêng
mình. Cách tiếp cận tập huấn này nhằm mục đích giải phóng con người khỏi mô

hình tư duy áp đặt bởi các yếu tố chi phối. Phương pháp luận là lấy người học
làm trung tâm, lấy trải nghiệm thực tế làm cơ sở và không giới hạn tư duy sáng
tạo.
Những giả thuyết chính về cách tiếp cận khác trong tập huấn


Con người không thể được người khác phát triển; họ có thể tự than phát



triển
Những kiến thức thu được không tự động dẫn đến hành động hay thay đổi



hành vi, mà trước hết, con người phải được thuyết phục về tầm quan trọng
của sự thay đổi.
Bản thân người học đã là một nguồn thông tin và kiến thức phong phú về thế




giới thực tế
Tập thể là một công cụ mạnh mẽ để học tập và thay đổi.
Tập huấn và kiến thức không bao giờ là trung lập 2.

2

Mục đích của tập huấn là để gây ảnh hưởng lên hành vi và thái độ. Trong tập huấn cùng


tham gia, giáo viên tạo ảnh hưởng lên các học viên để họ tiếp thu các quan điểm và hành
vi mới đối với các vấn đề cần thảo luận. Trong tình huống học tập như vậy, giáo viên cũng
phải đưa ra quan điểm và kinh nghiệm của mình trong quá trình thảo luận. Ví dụ như, nếu
việc tập huấn tập trung vào giải quyết vấn đề bạo hành phụ nữ, nhóm người học không
được giữ quan điểm trung lập. Những người trong nhóm phải cùng góp tiếng nói và hợp
tác với nhau để giải quyết triệt để vấn đề này.

Tập huấn cùng tham gia là một chiến lược giáo dục trên cơ sở cách tiếp cận vừa
mô tả ở trên. Người học chủ động tham gia vào quá trình giáo dục, và những nhu
cầu, nghi vấn, tư duy, phân tích và chiến lược để phát triển của họ sẽ thúc đẩy
tiến trình học.
Điều quan trọng là phải nhận thức được rằng Tập huấn cùng tham gia không chỉ
là một tập hợp các kỹ thuật. Phương pháp này phát huy trong một bối cảnh lịch
sử, chính trị và xã hội nhất định. Khuynh hướng tư tưởng của tập huấn cùng
tham gia cần được hiểu rõ, nếu không phương pháp này sẽ trở thành một tập
hợp các mưu mẹo và chiêu trò. Chúng ta cần nhận thức rõ sự nguy hiểm của

9


việc bình mới rượu cũ, khi những hành động và từ ngữ tương tự được sử dụng
nhưng ẩn ý cơ bản là khiến con người ta tuân thủ và chấp nhận bị kiểm soát.
Tập huấn cùng tham gia nhằm mục tiêu tạo ra sự thay đổi của cá nhân và tập
thể, từ đó củng cố quan điểm thay đổi là hoàn toàn có thể ở cả mức độ cá nhân
và tập thể.
Tập huấn cùng tham gia khuyến khích người học biết nghi ngờ về những gì họ
luôn chấp nhận, tư duy phản biện những trải nghiệm của bản thân, rút ra tri thức
mới qua quá trình phân tích. Quá trình giải phóng khả năng suy nghĩ độc lập này
cho phép họ khám phá và sử dụng sức mạnh tiềm ẩn vào những hoạt động
mang tính xây dựng sự tự giác.

Tập huấn cùng tham gia công nhận và hợp thức hóa những kiến thức xác thực
và chính xác của mọi người có được qua những kinh nghiệm thực tiễn và kết
hợp nó với những hiểu biết mới và các khái niệm đã được tái cấu trúc trên cơ sở
phân tích các kinh nghiệm. Điều này tạo ra lớp vỏ mới cho kiến thức dẫn đến ý
thức làm chủ kiến thức rõ rệt và sẵn sàng để thay đổi thực tế. Người học từ đó
có tâm thế sẵn sàng để hành động.
Mặc dù đem đến nhiều lợi ích, vai trò của tập huấn cùng tham gia trong việc
mang đến sự thay đổi cũng còn một số hạn chế.
Đầu tiên, cấu trúc và hệ thống xã hội không thể thay đổi chỉ qua vài chương trình
tập huấn. Các cá nhân có thể hiểu biết về tính năng động và sự thay đổi của xã
hội, nhận thức được vai trò tiềm năng của họ trong quá trình thay đổi, đánh giá
được các điểm mạnh, điểm yếu, và thu nạp các kỹ năng cần thiết để xây dựng
một xã hội tiến bộ. Các tập thể có thể học hỏi cách hoạt động hiệu quả và trải
nghiệm qua một mô hình thu nhỏ sự dân chủ trong một xã hội bình đẳng. Mặc dù
vậy, việc thay đổi xã hội không bao giờ có thể đạt được chỉ thông qua tập huấn
mà còn cần các bước quan trọng khác bên ngoài bối cảnh tập huấn.
Hạn chế thứ hai thường xảy ra trong việc giúp những người nghèo, người bị áp
bức, người bị mù chữ thay đổi số phận. Ta luôn có xu hướng định đoạt sự thay
đổi cho họ. Khi đó sự can thiệp giáo dục về cơ bản là vận động sự hỗ trợ cho
một mục đích cụ thể mà chúng ta cho rằng “đúng”. Chúng ta có thể khéo léo thao
túng tư duy của họ để họ bắt đầu nghĩ rằng mục đích đó là của chính họ. Trong
trường hợp như vậy, chúng ta cũng trở thành kẻ kiểm soát tâm trí giống như các
thế lực áp đặt khác. Tập huấn cùng tham gia có thể cung cấp cho người học
những lựa chọn, nhưng phải cho phép người học có quyền chấp nhận hoặc từ
chối bất cứ sự lựa chọn nào.
Nếu người học được tạo điều kiện để khám phá và phát triển nội lực qua việc
học trong một môi trường cho phép họ sử dụng các khả năng của mình, năng
lực quản lý cuộc sống của họ sẽ được nâng cao. Chúng ta cần phải tin tưởng họ
làm được. Trách nhiệm của chúng ta là giúp đỡ người học “nâng cao ý thức” và
khai phóng khả năng tiềm ẩn của suy nghĩ và điều tra độc lập, từ đó họ sẽ tự

cảm nhận rằng chính bản thân họ là người tạo ra các ý tưởng và khởi xướng các
hành động.

10


Tập huấn cùng tham gia và Việc học của người lớn
Tập huấn cùng tham gia là phương pháp dành cho người lớn, do đó, cơ sở lý
thuyết của phương pháp này dựa trên các nguyên tắc của việc học tập ở người
lớn. Theo các nguyên tắc này, việc học tập của người lớn diễn ra theo một cách
khác và trong những điều kiện khác với giáo dục trẻ em chính quy trong nhà
trường. Các chương trình dành cho người lớn không hiệu quả có thể một phần là
do sự thiếu hiểu biết về một số nguyên tắc và điều kiện học tập. Nếu ta cố tạo ra
một môi trường học tập và sử dụng các phương pháp tương tự như trong nhà
trường chính quy thì sẽ dễ đi đến kết luận rằng không thể thay đổi được gì ở
người lớn. Một quan niệm sai lầm phổ biến khác cho rằng việc học tập chỉ diễn
ra trong suốt thời thơ ấu và ngừng lại khi trưởng thành và rằng sau đó chúng ta
không thể thay đổi được việc học tập này.
Trái ngược với các quan điểm trên, con người học hỏi, phát triển và thay đổi
ngay cả trong giai đoạn đã trưởng thành. Việc học tập của người lớn sẽ diễn ra
hiệu quả khi các đặc điểm cơ bản trong cách thức học tập của họ được lấy ra
làm nguyên tắc định hướng quá trình học. Có năm nguyên tắc chính:
A. Người lớn đi học với một sự tự ý thức được xác định rõ ràng, và ta có thể tạo
điều kiện cho việc học tập của họ bằng cách giúp họ nâng cao thêm sự tự ý
thức này.
Nếu sự tự nhận thức về bản thân thấp, người học sẽ nghĩ rằng mình không có
khả năng, thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm và bất lực. Điều này sẽ ngăn cản
việc học tập kiến thức mới. Ý thức về bản thân thấp có thể là do những hoàn
cảnh bất lợi tạo ra, bị tách rời khỏi xã hội và bóc lột. Nếu giúp đỡ được người
học vượt qua được điều này, người học sẽ nhận ra rằng mình có khả năng, có

thể đóng góp điều gì đó và có tiềm năng để học, từ đó họ sẽ cởi mở hơn với quá
trình học tập. Tương tự như vậy, ý thức về bản thân quá cao, phi thực tế cũng
không có lợi cho việc học tập.
B. Học tập ở người lớn là một trải nghiệm cảm xúc, theo hướng những cảm xúc
nhất định gắn liền với việc học và việc học cũng diễn ra qua cảm xúc bên
cạnh suy nghĩ hay hành động.
Tất cả sự thay đổi đều kéo theo rủi ro. Do đó, hoạt động học tập sẽ tạo ra sự lo
lắng, căng thẳng, có thể là sợ hãi, thất vọng hay bất lực. Người học cần được
cảm thông và đối xử mềm mỏng, đặc biệt là đối với những người chưa bao giờ
đến trường và rất e ngại việc học tập. Hơn nữa, cảm xúc đóng vai trò là một
phương thức học tập quan trọng, là cơ sở cho việc học tập và là một phương
tiện của học tập. Chúng ta luôn tránh xa những gì làm cho chúng ta giận dữ, sợ
hãi hoặc khinh thường. Ngược lại, chúng ta hào hứng tìm hiểu, học hỏi thêm về
những điều mang đến cho chúng ta cảm xúc tích cực.
C. Người lớn sẽ tự lựa chọn học hay không học.

11


Việc học tập ở người lớn là tự nguyện và tự chủ. Học tập ép buộc không mang
lại hiệu quả lâu dài. Người lớn cần phải có hứng thú và sẵn lòng trước khi họ học
điều gì đó. Nếu việc học không đến từ ý chí tự nguyện hoặc chỉ là kết quả của
động lực bên ngoài, người học sẽ cần thêm sự hỗ trợ, khích lệ và dẫn hướng.
Việc học tập sẽ càng hiệu quả khi người học được tham gia vào quá trình tự định
hướng, lên kế hoạch và giám sát việc học của bản thân. Sự hứng thú sẽ càng
được nâng cao qua những phản hồi về quá trình học theo định hướng mong
muốn.
D. Người lớn học những gì họ cho là cần thiết đối với cuộc sống và các vấn đề
của họ.
Khác với việc học tập của trẻ em là để áp dụng trong tương lai, người lớn chỉ

muốn những gì mình học hôm nay có thể áp dụng ngay cho ngày mai. Những
vấn đề mang tính giả thuyết hoặc có nội dung xa rời thực tế của họ được coi là
“lãng phí thời gian”. Việc học tập sẽ dễ dàng hơn nếu có các tài liệu mang tính
thực tiễn, liên quan đến những mối quan tâm hiện tại hoặc nhận thức trong
tương lai của người học.
E. Người lớn học dựa trên kinh nghiệm.
Người lớn đến với việc học với một kho tàng phong phú những kinh nghiệm
trong quá khứ mà có thể vừa là một nguồn tài nguyên học tập tiềm năng, vừa là
một trở ngại không thể tránh khỏi, bởi vì những kinh nghiệm này sẽ quyết định
cách người học hiểu và học những kinh nghiệm mới. Hơn nữa, người lớn
thường xem trọng kinh nghiệm như chính bản thân và sự hiểu biết của họ về ý
nghĩa cuộc sống. Đánh giá thấp hoặc phớt lờ các kinh nghiệm của người lớn
đồng nghĩa với sự chối bỏ giá trị của một cá nhân. Việc chia sẻ kinh nghiệm giữa
người học và giáo viên, xem trọng các kinh nghiệm trong quá khứ và hiện tại, sẽ
giúp người học sẵn sàng để học tập cái mới.
Người lớn mong muốn học những vấn đề “mang tính liên quan”, nhận thức
những sự kiện này liên quan đến thực tế như thế nào chứ không chỉ ghi nhớ
chúng. Việc học sẽ trở nên hiệu quả nếu người lớn được vận dụng những kinh
nghiệm quá khứ hoặc hiện tại để hiểu rõ hơn về thực trạng của họ, từ đó chuẩn
bị tâm thế cho những trải nghiệm mới.

Tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường học tập đối với các
phương pháp Tập huấn cùng tham gia
Theo những nguyên tắc học tập ở người lớn, rõ ràng cần phải xây dựng một môi
trường học tập đặc biệt để người lớn học tập hiệu quả.
Môi trường học tập không tự có sẵn mà giáo viên cần phải tạo lập, phát triển,
duy trì và nuôi dưỡng nó. Đối với người học và quy trình học, việc xây dựng và
duy trì một môi trường hỗ trợ cho việc học tập của cả cá nhân và tập thể, tạo
điều kiện cho quá trình chất vấn, phê bình và phản ánh, là rất quan trọng. Là giáo
viên, chúng ta phải tạo điều kiện cho những nguyên tắc trong học tập người lớn

được áp dụng. Một số đặc trưng chính mà môi trường học tập phải có gồm:

12


A. Xem trọng người học và kinh nghiệm của họ
Một khía cạnh cơ bản của môi trường trường học tập là xem trọng người học,
xem trọng sự độc đáo, các kinh nghiệm, sự đóng góp, kiến thức và khả năng học
hỏi, phát triển và thay đổi của họ. Hiểu được giá trị và tôn trọng người học là dấu
hiệu của việc tạo lập một môi trường học tập hiệu quả và phải được thể hiện qua
hành động của chính giáo viên, qua các điều kiện tạo ra trong quá trình tập huấn,
chứ không chỉ thuần túy là lời nói suông.
Cụ thể hơn, các giáo viên trong cả những buổi tập huấn theo chương trình và kế
hoạchvà các buổi thảo luận ngoài giờ học) đều phải chú ý quan tâm đến người
học, cố gắng hiểu những điều họ muốn chia sẻ và xem xét làm sao để hỗ trợ họ
một cách tốt nhất.
B. Chia sẻ kinh nghiệm cá nhân
Người lớn học từ kinh nghiệm của bản thân mình, do đó phải tạo điều kiện để họ
được học trong một môi trường thân thiện, cởi mở, có thể chia sẻ một cách có
hệ thống và hiệu quả những kinh nghiệm trong quá khứ. Tuy nhiên, chia sẻ kinh
nghiệm không đồng nghĩa với các buổi kể chuyện không có kết thúc, không có
kết luận. Việc chia sẻ phải tập trung liên quan đến những mục tiêu học tập cụ thể
do đó cần phải được cấu trúc sao cho người học có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm
của họ liên quan đến những mục tiêu học tập với giáo viên và những người học
khác. Đây là lý do tại sao việc tạo điều kiện cho các nhóm nhỏ chia sẻ, bày tỏ,
cởi mở, kết nối, lắng nghe và quan tâm đến những người khác là vô cùng quan
trọng.
Mục đích của việc chia sẻ là để thúc đẩy khả năng tư duy phân tích và để thách
thức nhau thử nghiệm các ý tưởng, cảm giác, hành vi và hành động mới. Quá
trình chia sẻ không chỉ đơn thuần giữa người học với nhau, mà giáo viên cũng

cần tham gia chia sẻ thông tin về bản thân và các kinh nghiệm của mình.
C. Sự cởi mở
Một nguyên tắc của môi trường học tập là phải tạo được sự cởi mở. Cởi mở với
chính bản thân mình, cởi mở với người khác, cởi mở để học, cởi mở đặt ra các
câu hỏi, cởi mở để xem xét, cởi mở để quan sát. Cần phải tạo điều kiện để
người học và giáo viên cởi mở trong suy nghĩ, cảm xúc cũng như trong hành
động – cởi mở với chính mình trong không gian riêng tư, cởi mở với chính mình
khi có sự hiện diện của người khác và cởi mở với người khác trước mặt họ. Điều
này rất quan trọng, bởi vì việc học diễn ra trong một quá trình suy ngẫm về bản
thân, về những người xung quanh, và về tình huống thực tại. Ví dụ như trong
một buổi tập huấn về việc giải quyết vấn đề bạo lực với phụ nữ có sự tham gia
của những người từng trải, nhất thiết phải có một môi trường cởi mở và an toàn
để họ có thể thoải mái chia sẻ những trải nghiệm khó nói nhất và tin tưởng việc
chia sẻ này có thể thay đổi cuộc sống của họ.
D. Tính thách thức

13


Một đặc trưng nữa của môi trường học tập là phải tạo được tính thách thức đối
với học viên. Người học phải được gợi mở, gây hứng thú, khen ngợi và thách
thức. Đây không phải là một môi trường bị động; không phải là nơi làm việc
riêng; mà đây là môi trường để đặt câu hỏi, phê bình, yêu cầu và khơi gợi sự
hứng thú. Cần phải tạo điều kiện kích thích người học tìm tòi, giúp họ vượt qua
giới hạn của khả năng hiện tại, sử dụng tiềm năng một cách sáng tạo, tận dụng
khả năng của mình, giải phóng bản thân và nhận ra được khả năng suy nghĩ độc
lập của mình.
E. Sự an toàn
Đặc trưng tiếp theo phải kể đến là sự an toàn và thoải mái về tâm lý. Người học
cần được thách thức suy nghĩ chứ không phải bị áp đặt kiến thức. Người học

cần được kích thích phát triển chứ không bị làm thui chột ý chí. Giáo viên cần
đưa ra các câu hỏi giúp người học tìm tòi kiến thức mới chứ không nên khiến
người học cảm thấy không có tiếng nói.
Một cảm giác an toàn về tâm lý là một khía cạnh thiết yếu của môi trường học
tập: tôi có thể là chính mình, tôi có thể thành thật với chính mình, tôi có thể nhìn
chính mình, tôi có thể thử thách bản thân, tôi có thể phạm sai lầm nhưng tôi vẫn
được những người xung quanh chấp nhận,. Bên cạnh đó, sự an toàn còn thể
hiện ở việc bảo vệ lẫn nhau trong một tập thể. Điều này sẽ tạo điều kiện cho
người học cởi mở, chấp nhận rủi ro và chia sẻ về chính mình.
F. Hỗ trợ
Một khía cạnh liên quan là sự hỗ trợ - hỗ trợ về tinh thần, hỗ trợ về trí tuệ, hỗ trợ
về hành động – khả năng có được sự hỗ trợ - hỗ trợ cá nhân, một nhóm nhỏ, tạo
điều kiện để người học có thể hỗ trợ lẫn nhau cũng như giảng viên và người
hướng dẫn có thể hỗ trợ người học và bản thân họ - hỗ trợ bằng hành động
không phải bằng lời nói. Sự hỗ trợ này cần được duy trì cả trong và ngoài giờ
học. Người hướng dẫn cần kêu gọi người học hỗ trợ lẫn nhau.
G. Ý kiến phản hồi
Và cuối cùng, môi trường học phải tạo điều kiện cho các ý kiến phản hồi – truyền
tải thông tin cho mỗi cá nhân và cả nhóm. Cơ chế phản hồi phải dễ dàng, thoải
mái, không gây khó khăn hay hạn chế; thông tin phản hồi từ từng người từ bản
thân một cách khiêm tốn, phản hồi liên tục về suy nghĩ, cảm xúc và hành động
của mỗi người; phản hồi về những gì mỗi người đã học và đã cố gắng.
Tóm lại, đó là một số đặc điểm chính của một môi trường học tập hiệu quả. Để
xây dựng và duy trì môi trường như vậy, người hướng dẫn phải thực hiện một số
điều sau:


Khóa tập huấn phải được thiết kế sao cho người học luôn tham gia một cách
hứng thú. Điều này có nghĩa là chủ đề và phương pháp học tập phải gắn liền
với người học.


14




Giáo viên cần chia sẻ trách nhiệm học tập với người học, làm cho người học
cùng tham gia, kêu gọi sự hỗ trợ, cam kết, trách nhiệm, ý kiến phản hồi từ
người học về việc xây dựng và duy trì môi trường học tập hiệu quả; khuyến
khích họ thực hiện vai trò vừa là bạn bè, vừa là người cố vấn, người cho lời
khuyên đối với các bạn cùng học.



Về cơ sở vật chất phục vụ cho việc tập huấn, phải đảm bảo rằng các yếu tố
vật chất và hành chính (như thực phẩm, đi lại…) của khóa tập huấn phải
được điều phối và quản lý tốt, không gây ra bất cứ căng thẳng hay lo lắng
nào cho người học. Thậm chí những việc nhỏ như sự sạch sẽ, ngăn nắp của
phòng học, sự chuẩn bị hay lắp đặt trước các hỗ trợ kỹ thuật, sự chuẩn bị
các phòng nhỏ cho bài tập nhóm, hạn chế tiếng ồn và sự di chuyển trong
phòng (người đến, người đi…) đều là các yếu tố quan trọng giáo viên phải
bao quát để đảm bảo rằng người học không bị xáo trộn hoặc phải lo lắng
những vấn đề này trong quá trình học.



Quan trọng nhất, hành vi của giáo viên sẽ đóng góp đáng kể cho môi trường
học hiệu quả. Giáo viên chỉ nắm vững kiến thức của khóa tập huấn thôi chưa
đủ, điều quan trọng là họ phải hiểu chính bản thân – hiểu rõ các quan điểm,
các giá trị, hành vi, hành động của mình, luôn quan tâm đến người học, ứng

xử khéo léo, đầu tư công sức cho nội dung học, tìm cách nâng cao lòng tự
trọng của người học… Tất cả điều này giúp thiết lập một cấu trúc chuẩn cho
quá trình tập huấn. Giáo viên chuẩn bị gì cho công tác tập huấn? Họ cần làm
gì để thiết lập môi trường học tập hiệu quả? Tất cả các yếu tố này đều sẽ có
ảnh hưởng đến người học sau khi khóa học kết thúc.

15


Những điều kiện cho một quá trình học tập hiệu quả
Một môi trường của những người chủ động – Mọi người học khi họ cảm thấy
cá nhân mình đang tham gia vào một quá trình học cùng với những người
khác.
Một bầu không khí tôn trọng –Mỗi cá nhân đều được đánh giá cao và sự
quan tâm được chú trọng.
Một môi trường chấp nhận – Chấp nhận một ai đó nghĩa là anh/cô ấy có thể
là chính mình và tự do bày tỏ quan điểm của mình mà không sợ hãi.
Một môi trường tin tưởng – là nơi mọi người tin tưởng vào chính mình và
những người khác.
Một môi trường tự khám phá – là nơi người học được giúp đỡ để tìm hiểu về
bản thân mình và đáp ứng nhu cầu của mình chứ không phải để những nhu
cầu điều khiển lại mình.
Một bầu không khí không có sự đe dọa – để mọi người có thể đối mặt với
nhau và với các ý tưởng mà không sợ hãi.
Một bầu không khí cởi mở – Là khi những mối quan tâm, cảm xúc, ý tưởng
và niềm tin cá nhân có thể được bày tỏ và xem xét một cách cởi mở.
Nhấn mạnh vào tính độc đáo cá nhân trong học tập – là khi mỗi người hiểu rõ
rằng quan điểm, niềm tin, cảm xúc, và giá trị của cô/anh ấy là quan trọng và
có ý nghĩa.
Một môi trường tôn trọng và khuyến khích sự khác biệt – là nơi sự khác biệt

về con người cũng được chấp nhận như sự khác biệt về ý tưởng.
Một môi trường cho phép các cá nhân được mắc sai lầm – Việc học sẽ thuận
lợi nếu các sai sót được chấp nhận như là một phần tự nhiên của quá trình
học.
Một môi trường chấp nhận các quan điểm khác nhau – Khi các giải pháp thay
thế có thể được chấp nhận mà không chịu áp lực của việc phải tìm ra một
câu trả lời duy nhất ngay lập tức.
Nhấn mạnh vào việc hợp tác đánh giá và tự đánh giá – Khi mọi người có thể
tự nhìn nhận chính mình một cách đúng đắn với sự hỗ trợ của những người
cùng học.

______________________________________
Phần này dựa theo quyển “A Manual for Participatory Training Methodology in Development”,
tái bản lần thứ 6 năm 2011, do PRIA xuất bản.

16


CÁC PHƯƠNG PHÁP
TẬP HUẤN CÙNG THAM GIA
Làm thế nào để lựa chọn những phương pháp tập huấn sao cho nội dung của
chương trình tập huấn được chuyển tải một cách tốt nhất? Theo quan điểm
truyền thống, phương pháp thường được ưa chuộng cho bất kỳ lĩnh vực nào là
thuyết giảng. Nói đến những phương pháp năng động hơn, chúng ta có các
phiên thảo luận nhóm. Một số chương trình tập huấn xem việc trình chiếu bài
trình chiếu hoặc phim ảnh là một phương pháp.
Tập huấn cùng tham gia có nhiều phương pháp phù hợp với những tiêu chuẩn
cơ bản của việc học hiệu quả, thúc đẩy sự tham gia chủ động của người học, và
tạo được sự hứng thú lâu dài. Chúng ta có thể tìm hiểu sơ lược các phương
pháp, suy ngẫm về các nguyên tắc chọn phương pháp, và sau đó đi sâu nghiên

cứu mỗi phương pháp, lưu ý đến quy trình, những thuận lợi cũng như các vấn đề
có thể nảy sinh.
Lúc này, cần chỉ ra những khác biệt giữa các thuật ngữ “phương pháp”, “công
cụ/phương tiện hỗ trợ” và “kỹ thuật” vì những thuật ngữ này thường được sử
dụng hoán đổi nhau. Thuật ngữ “phương pháp” chỉ cách thức dạy một chủ đề
theo nghĩa rộng. Do đó, giáo viên có thể sử dụng phương pháp thảo luận, giảng
bài, hoặc minh họa, v.v. “Công cụ” hoặc “phương tiện hỗ trợ” chỉ những loại tài
liệu hỗ trợ khác nhau dùng trong mỗi phương pháp, ví dụ như bài trình chiếu
hoặc áp phích cho trong phương pháp giảng bài, đoạn phim hoặc mô hình trong
phương pháp minh họa. “Kỹ thuật” chỉ sự khác nhau trong cách vận dụng một
phương pháp. Do đó, các kỹ thuật cụ thể trong phương pháp thảo luận nhóm có
thể là thảo luận toàn thể, động não, thảo luận bể cá (một nhóm thảo luận, nhóm
còn lại lắng nghe, quan sát, sau đó đổi ngược lại), v.v.

Tổng quan về các phương pháp được sử dụng trong Tập huấn cùng
tham gia
Các phương pháp dùng trong Tập huấn cùng tham gia không chỉ có thuyết giảng
và thảo luận nhóm, mà còn có cả đóng vai, tình huống giả lập, bài tập và công cụ
được thiết kế theo cấu trúc, các dạng nghiên cứu tình huống khác nhau, v.v. Một
số trải nghiệm khác cũng được dùng trong Tập huấn cùng tham gia nhằm làm
tăng tác động của việc học, chẳng hạn như tham quan thực tế, thực hành, chơi
trò chơi, tự học, xem và thảo luận một đoạn phim, v.v.
Mục đích của hầu hết các buổi tập huấn là để kết hợp việc nâng cao kiến thức,
thay đổi thái độ và phát triển kỹ năng. Để có được một sự kết hợp hiệu quả, cần
phải lựa chọn phương pháp thích hợp nhất cho mỗi một khía cạnh nói trên. Sử
dụng một khung đánh giá sẽ rất hữu ích trong việc xác định phương pháp học
tập nào là tốt nhất cho việc phát triển kiến thức, phương pháp nào tốt nhất cho
việc phát triển nhận thức, và phương pháp nào tốt nhất cho việc phát triển kỹ
năng.


17


Các phương pháp hữu ích cho việc phát triển kiến thức: Trong nhóm này chúng
ta có thuyết giảng (chỉ sử dụng lời nói hoặc có công cụ trực quan hỗ trợ như bài
trình chiếu, áp phích, hoặc mô hình). Tiếp đến, chúng ta có tham quan thực tế và
minh họa nhằm giúp người học hiểu rõ bài học hơn. Tài liệu đọc dành cho tự học
cũng bổ ích, đặc biệt là với những học viên có trình độ đọc cao. Bài trình chiếu
hoặc phim ảnh mang tính giáo dục cũng có thể được sử dụng nhằm tăng cường
kiến thức về một chủ đề nhất định.
Các phương pháp hữu ích cho việc phát triển kỹ năng: Thực hành là cách tốt
nhất để học cách làm một thứ gì đó. Do đó, thực hành là việc cực kỳ cần thiết để
phát triển kỹ năng trong bất cứ lĩnh vực nào. Lý tưởng nhất là trước các phiên
thực hành đều có sự minh họa của người có kinh nghiệm. Nếu điều kiện cho
phép, cơ hội học việc thực tế với một người lành nghề giàu kinh nghiệm có thể
giúp nâng cao hơn năng lực của người học.
Các phương pháp hữu ích cho việc phát triển nhận thức: Có nhiều phương pháp
giúp người học tham gia vào bài học ở mức độ cảm xúc, và hầu hết các phương
pháp này đều dựa vào trải nghiệm – trong quá khứ hoặc hiện tại. Một trong
những phương pháp này là sự đóng vai, trong đó người học sẽ tái hiện lại những
trải nghiệm trong quá khứ một cách tự nhiên. Thảo luận theo nhóm nhỏ cũng
giúp học viên tập hợp các trải nghiệm và ý tưởng để cùng nhau phân tích chúng.
Tình huống giả lập và các bài tập theo cấu trúc giúp tạo cảm giác “thực tại”; sau
đó những cảm giác này sẽ được phân tích để rút ra những sự hiểu biết rộng
hơn. Nghiên cứu tình huống – dù là dưới dạng viết, nói, hình ảnh hay bài hát,
đều tạo điều kiện cho người học tìm hiểu những trải nghiệm của người khác
hoặc học hỏi qua việc phân tích. Những cách khác giúp phát triển nhận thức bao
gồm các công cụ giúp khám phá bản thân, và trò chơi như các trò giúp xây dựng
lòng tin, các trò chơi trên bảng giấy, v.v.


Học qua trải nghiệm
Tập huấn cùng tham gia chủ yếu dựa trên các nguyên lý của học tập người lớn,
vốn cho rằng người lớn học tốt nhất qua trải nghiệm. Trải nghiệm của một người
– cả trong quá khứ lẫn ở hiện tại – và trải nghiệm của một người khác giúp tạo
nên một nguồn học tập cơ bản. Tuy nhiên, chỉ đơn thuần một trải nghiệm, một
cảm xúc hay một ấn tượng mơ hồ nào đó không thể tạo nên một tác động học
tập hữu hiệu. Chúng ta cần phải suy ngẫm về các trải nghiệm ấy, phân tích cấu
trúc và động lực của chúng cũng như phản ứng của chúng ta. Từ đó, ta có nhận
thức sâu sắc hơn, rút ra được những nguyên tắc có thể áp dụng rộng hơn. Dựa
vào những điều này, chúng ta sẵn sàng trải qua những trải nghiệm tương tự
trong cuộc đời với một tầm nhìn mới được thể hiện qua các hành vi mới.

18


Thường thì mỗi chúng ta đều trải qua tất cả các bước này một cách nhanh chóng
theo bản năng trong quá trình học tập học suốt đời của mình. Chẳng hạn như khi
phải đối mặt với những trải nghiệm khó chịu, chúng ta sẽ tự động rút lui và quyết
định sẽ thử một thứ khác vào những lần sau. Trong Tập huấn cùng tham gia, một
bước quan trọng là sự suy ngẫm sâu sắc, một việc kiểm tra có tính hệ thống, một
sự phân tích các yếu tố đằng sau trải nghiệm, và những yếu tố dẫn đến phản
ứng của chúng ta với trải nghiệm ấy. Toàn bộ chu trình học tập qua trải nghiệm
được sử dụng một cách có chủ ý nhằm giúp trang bị cho người học sức mạnh để
đương đầu với các trải nghiệm và rút ra những bài học.
Những phương pháp tập huấn có sử dụng Chu trình Học tập qua Trải nghiệm
được gọi là “Học tập qua trải nghiệm” bởi vì chu trình này được sử dụng một
cách có hệ thống và có mục đích. Các ví dụ gồm việc đóng vai, nghiên cứu tình
huống, tình huống giả lập, v.v.

Các nguyên tắc chọn phương pháp

Dựa vào đâu chúng ta có thể lựa chọn phương pháp dạy và học thích hợp? Dưới
đây là một số yếu tố quan trọng cần cân nhắc.
Trọng tâm của việc học là gì? Chúng ta chỉ muốn việc học diễn ra ở mức độ trí
tuệ, hay cả ở mức độ cảm xúc? Chủ đề cần học là một tập hợp các sự thật cần
biết, hay phải phát triển những kỹ năng cần thiết để sử dụng những sự thật này?
Chúng ta phải đánh giá nội dung một cách có suy xét và lựa chọn một phương
pháp thích hợp tùy theo trọng tâm của việc học: kiến thức, kỹ năng, hay nhận
thức.
Chúng ta đã ghi nhận vốn kiến thức và kinh nghiệm của người học chưa? Một
nguyên lý cơ bản của Tập huấn cùng tham gia là sự công nhận giá trị của kiến
thức và kinh nghiệm thực tiễn của học viên người lớn. Nếu chúng ta sử dụng

19


những phương pháp trong đó giáo viên, sách vở hoặc các chuyên gia học thuật
là nguồn kiến thức chính, chúng ta sẽ không thể hiện được sự tôn trọng với
người học. Chương trình tập huấn phải tạo điều kiện cho người học chia sẻ
những trải nghiệm của mình, nhằm công nhận giá trị của những gì họ đã đạt
được trước đó, để thảo luận những vấn đề chung và tổng hợp những thông tin
mới với các khái niệm đã biết.
Chúng ta có tạo ra một môi trường học tập thuận lợi cho người học không? Tập
huấn cùng tham gia đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực hứng thú của học viên.
Các phương pháp phải có tính tương tác cao, đặc biệt trong đó người học phải
được thực hành và được thử thách sự sáng tạo. Quá trình học cần phải lý thú và
mang tính khơi gợi, để cho người học cảm thấy mọi khả năng của mình đang
được sử dụng, đồng thời cảm thấy tỉnh táo và hào hứng. Việc lựa chọn phương
pháp và việc thiết kế các hoạt động sau đó là những yếu tố quyết định trong việc
tạo ra một môi trường học tập năng động như thế.
Phương pháp được chọn có thúc đẩy cả việc học cá nhân lẫn tập thể không?

Việc lựa chọn phương pháp phải đảm bảo rằng mọi học viên đều tiến bộ với nhịp
độ riêng, mà không bị thúc ép hay bỏ lại phía sau. Hơn nữa, các phương pháp
được sử dụng phải thúc đẩy việc học cộng tác trong đó các học viên học hỏi lẫn
nhau, và việc học cũng diễn ra một cách rõ ràng ở cấp độ nhóm. Nếu người học
chưa quen biết nhau, các phương pháp phải được lựa chọn nhằm xây dựng lòng
tin và không khí cởi mở trong nhóm. Một số nội dung cần mang tính cá nhân
hơn, chẳng hạn như khi tìm hiểu bản thân. Lúc này, mỗi người học cần được
cung cấp không gian học tập riêng, cũng như cần được thử thách với việc học
tập độc lập.
Khả năng và năng lực của giáo viên là gì? Trước hết phải công nhận rằng không
phải giáo viên nào cũng có thể sử dụng thành thạo mọi phương pháp. Việc thiếu
kinh nghiệm hoặc thiếu tự tin có thể làm giảm tác động của phương pháp lên
việc học. Sự tỉ mỉ trong việc thiết kế phương pháp và việc không ngừng nâng cao
kỹ năng của giáo viên qua thực tập có đánh giá (hoặc học việc) là rất cần thiết để
việc học diễn ra hiệu quả.

Các phương pháp học tập – tập huấn
Một số phương pháp học tập – tập huấn thường được sử dụng trong Tập huấn
cùng tham gia được mô tả dưới đây. Bên cạnh quy trình sử dụng hiệu quả, các
ưu nhược điểm cũng được nhắc đến. Các phương pháp bao gồm:





Bài giảng
Thực hành
Thảo luận nhóm nhỏ
Nghiên cứu tình huống






Đóng vai
Tình huống giả định
Sử dụng phim

20


Một số hoạt động tập huấn hữu ích khác cũng được mô tả, chẳng hạn như việc
sử dụng tài liệu đọc, minh họa, tham quan thực tế, bài trình chiếu, phim, hình
ảnh, áp phích, trò chơi và hoạt động làm quen. Ngoài ra còn có các thông tin phụ
về việc thiết kế và tổng kết việc học tập qua trải nghiệm.
Bài giảng
Bài giảng là một phương pháp hiệu quả trong việc giới thiệu thông tin hoặc khái
niệm mới cho một nhóm học viên. Một bài giảng súc tích, thú vị và được trình
bày hay sẽ luôn được người học hưởng ứng. Tuy vậy, có rất ít bài giảng được
chuẩn bị kĩ hoặc lấy người học làm trọng tâm. Bên cạnh đó, bài giảng thường
được sử dụng theo cách một chiều, đơn điệu, mang tính chỉ dẫn và khuyến khích
sự thụ động. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Bài giảng vẫn là một phương
pháp có giá trị trong khuôn khổ tập huấn cùng tham gia.
Vậy bài giảng nên được sử dụng như thế nào?
Phương pháp giảng bài chủ yếu được dùng để phát triển thêm những kiến thức
vốn có của người học. Do đó, một bài giảng cần được bắt đầu từ mức độ hiểu
biết hiện tại của người học. Việc này có thể được thực hiện bằng cách đặt những
câu hỏi có chọn lọc và liên quan, thay vì bắt đầu giảng bài ngay. Từ đó, giáo viên
sẽ phải luôn cố gắng đặt những thông tin mới vào sự hiểu biết sẵn có của người
học bằng cách liên tục đưa ra những ví dụ và minh họa sao cho người học thấy

được sự liên hệ với bản thân.
Sử dụng bài giảng





khi cần truyền đạt thông tin và khái niệm mới đến người học
khi những trải nghiệm của người học cần được đặt trong khuôn khổ lý thuyết
khi cần kích thích và thúc đẩy người học tìm hiểu thêm
khi trình bày một lượng kiến thức bên ngoài được chuyên gia cung cấp

Để có một bài giảng hiệu quả cần










chuẩn bị bài giảng, làm quen với chủ đề;
xác định và chuyển bị các phương tiện hỗ trợ nhằm minh họa cho các nội
dung sẽ dạy;
có thể sử dụng một bài trình chiếu PowerPoint để liệt kê các điểm chính.
Những điểm này cần được giải thích rõ ràng.
chuẩn bị sẵn bảng trắng, bảng flipchart và bút viết bảng khi cần ghi chú
những điểm chính;

đưa ra ví dụ để liên kết chủ đề với đời sống của học viên;
xâu chuỗi các nội dung một cách lô-gic, có tính liên tục và hệ thống, phát
triển lên từ những nội dung đã học;
đặt câu hỏi để biết liệu người học có đang theo kịp bài giảng;
kích thích người học đặt câu hỏi;
giao tiếp qua ánh mắt mắt với người học để đánh giá xem liệu học có đang
theo kịp bài học, hoặc liệu họ có đang cảm thấy hứng thú với bài giảng;



















chú ý yêu cầu thời gian, tránh bị quá hăng say, nhưng đồng thời cũng tránh
hy sinh tài liệu quan trọng vì giới hạn thời gian;
sắp xếp chỗ người sao cho tất cả người học đều có thể nhìn thấy các công
cụ hỗ trợ và nghe được bài giảng một cách rõ ràng; có thể sắp theo một hoặc

hai vòng tròn nếu có nhiều người học;
chú ý đến ngôn ngữ cơ thể và nét mặt của mình;
nói to, rõ ràng, sử dụng ngôn ngữ đơn giản;
tránh lối giảng giáo điều, cố gắng kích thích người học;
nếu có hơn một giáo viên thì những giáo viên khác có thể hỗ trợ và giám sát
quá trình học.
Ưu điểm
cho phép trình bày các sự thật,
thông tin và khái niệm trong một
khoảng thời gian khá ngắn
nhiều chuyên gia với kiến thức và
quan điểm khác nhau có thể tương
tác với người học
có thể sử dụng với những người
học không biết đọc, viết
một số lượng đa dạng các tài liệu
hỗ trợ có thể được sử dụng như
bài trình chiếu, bảng biểu, áp
phích, v.v.
có thể sử dụng với một lượng lớn
học viên cùng một lúc







Hạn chế
thế giới quan của người giảng bài

có ảnh hưởng lớn
gần như không khuyến khích sự
tương tác
học viên có thể bị lôi cuốn bởi sức
hút và cá tính của giảng viên, thay
vì tập trung và phân tích bài giảng
nhịp độ dạy-học phụ thuộc vào
người dạy

Tài liệu đọc
Tài liệu đọc được dùng rất phổ biến trong tập huấn dưới dạng sách và tài liệu
phát tay. Để sử dụng tài liệu đọc một các hiệu quả, hãy ghi nhớ một số điểm sau.
Tài liệu đọc có thể được phân loại thành tài liệu thiết yếu hoặc bổ sung. Việc
phân loại phải được thực hiện hết sức cẩn trọng, vì một sai lầm thường gặp là
phân phát cho người học rất nhiều tài liệu đọc mà họ có thể không đọc do không
có hứng thú hoặc thời gian.
Tài liệu đọc thiết yếu cần được phân phát tại một thời điểm thích hợp, nghĩa là
khi chủ đề đang được dạy. Chúng cần phải chính xác, đi thẳng vào vấn đề, và
được trình bày bằng ngôn ngữ dễ hiểu. Mặc dù chúng ta có thể cảm thấy thích
thú với các bài viết và đoạn văn trong sách, chúng ta cũng nên cố gắng trình bày
cùng một thông tin một cách đơn giản và súc tích hơn vì bài viết gốc thường có
xu hướng phức tạp. Tránh cho người học đọc các tài liệu đầy đủ, vì chúng có thể
tốn nhiều công sức.
Luôn phân phối thời gian cho việc đọc. Chúng ta thường không dành thời gian
cho việc đọc trong lớp vì cho rằng người học sẽ đọc ngoài giờ học. Nếu đó là tài
liệu thiết yếu, cần tích hợp thời gian đọc vào chương trình học.


Đừng tự cho rằng học viên sẽ hiểu tài liệu chỉ vì họ đã đọc nó. Nếu có thể, hãy
dành thời gian cho học viên thảo luận về những gì đã đọc, để họ làm rõ những

nghi vấn.
Tài liệu đọc bổ sung có thể được phát vào cuối phiên học. Nếu được phát cùng
lúc với tài liệu đọc thiết yếu, người học có thể mất thời gian quý báu vào việc tìm
hiểu những phần không cần thiết.
Thực tập và học việc
Thực tập và học việc là những phương pháp cực kỳ quan trọng trong việc tập
huấn kỹ năng. Sự khác biệt giữa hai phương pháp này nằm ở chỗ thực tập được
thực hiện trong các tình huống được kiểm soát, trong khi học việc được thực
hiện trong các tình huống trong đời thực và thường kéo dài hơn. Quan trọng là
trong cả hai phương pháp, người học phải được giám sát bởi người dạy và nhận
được phản hồi. Hai phương pháp này có thể dùng cho bất cứ kỹ năng nào. Trong
quá trình tập huấn, sẽ dễ dàng hơn khi lồng ghép việc thực tập, trong khi đó, học
việc tự bản thân nó có thể đã là cả một quá trình tập huấn.
Trình diễn
Trình diễn là một phương pháp trong đó người học được tạo cơ hội trực tiếp
quan sát một đối tượng hoặc quá trình mà họ muốn tìm hiểu. Sự trình diễn có thể
là thực tế đời sống, sự giả lập, hoặc các mô hình. Phương pháp này có ích khi
muốn truyền đạt thông tin phức tạp một cách đơn giản, vì việc nhìn thấy và hiểu
dễ hơn rất nhiều so với việc nghe và hiểu. Người học được khuyến khích đặt câu
hỏi về những gì họ thấy. Sự trình diễn được thực hiện trong các tình huống có
thể kiểm soát được như phòng thí nghiệm, phòng tập huấn, trang trại diễn tập,
v.v. Các ví dụ sử dụng phương pháp này bao gồm trình diễn hoạt động của một
nhà máy khí sinh học hoặc một nhà vệ sinh sạch sẽ bằng mô hình, cách thực
hiện một cuộc phỏng vấn, hay cách đỡ đẻ an toàn qua mô hình cho các bà mụ,
v.v.
Tham quan thực tế
Những chuyến tham quan thực tế chính là việc minh họa đời thực việc thực,
nghĩa là chủ đề cần học đang thực sự diễn ra. Một số ví dụ về tham quan thực tế
bao gồm: đưa người học đến một bệnh viện trong một khóa học về y tế hoặc
đưa người học đến các cộng đồng trong một khóa tập huấn về quy trình đánh giá

một dự án có sự tham gia của cộng đồng, đưa công nhân ở cấp cộng đồng đến
các ủy ban để học về chính quyền địa phương, v.v. Như vậy việc quan sát, đặt
câu hỏi và hiểu một lần nữa được nhấn mạnh. Người học không được khuyến
khích tham gia vào bất cứ hoạt động nào trong chuyến tham quan. Giáo viên
phải nhớ chuẩn bị đầy đủ cho chuyến đi trước khi đưa người học đến nơi tham
quan. Ngược lại, người học phải được hướng dẫn cẩn thận về những gì họ cần
quan sát, và về phép xã giao và những quy tắc cần được tôn trọng.
Bài trình chiếu / Phim / Hoạt hình


Bài trình chiếu và phim được sử dụng rộng rãi trong tập huấn. Chúng cũng được
dùng để truyền đạt kiến thức hoặc thông tin nhưng khác với một bài giảng sử
dụng bài trình chiếu hoặc phim ở chỗ: trong bài giảng, chúng chỉ được dùng làm
tài liệu hỗ trợ. Lưu ý rằng trước khi sử dụng bài trình chiếu hoặc phim, người học
phải được hướng dẫn đầy đủ về những gì họ sắp xem và những gì họ cần ghi
chú lại. Nếu không có lời dẫn giải được ghi âm sẵn, cần cung cấp cho người học
lời chú thích về các trang chiếu.
Một ưu điểm lớn của việc sử dụng phim và bài trình chiếu là chúng cho phép
giáo viên đem những tình huống đời thực không thể tiếp cận được vào trong việc
dạy học. Một nhược điểm lớn là bài trình chiếu và phim thường mang tính chỉ
dẫn mà không tạo ra bất cứ cơ hội tương tác nào cho người học. Một cách để
làm cho phim và bài trình chiếu có tính tương tác hơn là ngưng lại thường xuyên
để hỏi người học về những gì họ hiểu hoặc quan sát được, khuyến khích họ đặt
câu hỏi, v.v. Tuy nghiên, điều này hiếm khi được thực hiện và giáo viên có xu
hướng để mặc người học khi đoạn phim hay bài trình chiếu bắt đầu. Phim và bài
trình chiếu còn có thể được sử dụng trong việc tập huấn kỹ năng, minh họa các
thao tác kỹ năng theo từng bước.
Ngày nay, hoạt hình cũng đang được sử dụng rất hiệu quả như một công cụ giao
tiếp. Hoạt hình là một công cụ giao tiếp mạnh mẽ và hiệu quả. Những đoạn phim
ngắn chứa đựng nhiều thông điệp quan trọng bao gồm thông điệp xã hội đang

được tạo ra dưới hình thức hoạt hình. Để hiểu hơn về điều này, hãy xem một
đoạn phim hoạt hình ngắn tại đây:
/>Học tập qua trải nghiệm
Như đã nói ở trên, học tập qua trải nghiệm chỉ những phương pháp học tập – tập
huấn trong đó người dạy sử dụng một trải nghiệm cho mục đích học tập và đi
theo các bước của một chu trình học tập qua trải nghiệm. Một số phương pháp
học tập – tập huấn sử dụng học tập qua trải nghiệm sẽ được mô tả sau đây cùng
với những lưu ý chung khi sử dụng các phương pháp này.
Thảo luận nhóm nhỏ
Đây là phương pháp phổ biến nhất trong nhóm này, vì một cuộc thảo luận nhóm
nhỏ thường sử dụng các trải nghiệm trong quá khứ của chính người học một
cách có chủ đích. Trong phương pháp này, người học được chia thành các nhóm
5-6 người và được giao thảo luận một chủ đề thực tế. Người học sẽ thảo luận
dựa trên cơ sở những trải nghiệm trong quá khứ cũng như dựa trên thái độ và
giá trị của họ để tiếp cận kiến thức và hiểu biết mới sâu sắc hơn. Nếu phương
pháp này nhắm đến việc học tập qua trải nghiệm thực tế thì việc thảo luận không
thể mang tính giả thuyết hoặc suy đoán. Cần phải nhận ra rằng việc thảo luận tự
nó không phải là mục đích và toàn bộ chu trình cần phải được hoàn thành, nghĩa
là mỗi nhóm nhỏ sau đó phải trình bày kết quả thảo luận với toàn thể mọi người
và hình thành các nguyên tắc làm việc dựa trên những kết quả ấy. Một sai lầm
thường thấy là cho thảo luận mà không có sự trình bày và tóm tắt sau đó.


×