Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SỬ DỤ NG THỨC ĂN BÁNH DẦU ĐẬ U NÀ NH THAY THẾ BỘ T CÁ ĐẾN SỨC TĂNG TRƯỞNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THỨC ĂN CHO CÁ LĂNG NHA (Mystus wyckioides, Chaux và Fang 1949)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.6 KB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SỬ DỤNG THỨC ĂN BÁNH DẦU
ĐẬU NÀNH THAY THẾ BỘT CÁ ĐẾN SỨC TĂNG TRƯỞNG
VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THỨC ĂN CHO CÁ LĂNG NHA
(Mystus wyckioides, Chaux và Fang 1949)

NGÀNH: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
KHÓA: 2008 – 2012
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN HUY LÂM

Tháng 8/2012


ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SỬ DỤNG THỨC ĂN BÁNH DẦU ĐẬU NÀNH
THAY THẾ BỘT CÁ ĐẾN SỨC TĂNG TRƯỞNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG THỨC ĂN CHO CÁ LĂNG NHA
(Mystus wyckioides, Chaux và Fang 1949)

Thực hiện bởi

NGUYỄN HUY LÂM

Khóa luận được đệ trình để hoàn tất yêu cầu cấp bằng Kỹ Sư Thủy Sản

Giáo viên hướng dẫn
Ths. VÕ THỊ THANH BÌNH
PGS. TS. LÊ THANH HÙNG



Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 8/2012
i


TÓM TẮT
Đề tài: “Đánh giá khả năng sử dụng thức ăn bánh dầu đậu nành lên sức
tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn cho cá Lăng Nha (Mystus wyckioides,
Chaux và Fang. 1949)” được thực hiện tại trại thực nghiệm Khoa Thủy Sản, trường
Đại Học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh từ ngày 25/06/2011 đến 10/02/2012
Để khảo sát mức tối đa bánh dầu đậu nành có thể sử dụng để thay thế bột cá,
chúng tôi thiết kế 4 công thức thức ăn khác nhau: ĐN0, ĐN15, ĐN30 và ĐN45 tương
ứng với mức sử dụng 0, 15, 30 và 45% bánh dầu đậu nành trong mỗi khẩu phần thức
ăn. Các thức ăn đều có cùng hàm lượng protein 35% và được cân đối về thành phần
dinh dưỡng. thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2 đều có mức thay thế bột cá bằng bánh dầu
đậu nành như nhau. nhưng ở thí nghiệm 2 chúng tôi có bổ sung thêm dầu cá để cân đối
hàm lượng lipid thô giữa các nghiệm thức.
Thí nghiệm 1 cá được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên và 3 lần lặp cho mỗi
nghiệm thức. Cá thí nghiệm có trọng lượng trung bình ban đầu là 14,00g và được bố
trí ngẫu nhiên vào 12 giai với mật độ 30 con/giai, kích thước mỗi giai là 1 x 1 x 1m.
Cá thí nghiệm được cho ăn 2 lần mỗi ngày, vào lúc 8 giờ và 16 giờ với lượng ăn bằng
10% trọng lượng thân. Sau 8 tuần thí nghiệm, kết quả cho thấy tỷ lệ sử dụng bánh dầu
đậu nành 30% và 45% cho kết quả tăng trưởng, hệ số thức ăn và tỷ lệ sống thấp hơn có
nghĩa về mặt thống kê so với đối chứng. Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng bánh dầu đậu nành
15% trong thức ăn không cho thấy có sự khác biệt có nghĩa về mặt thống kê so với đối
chứng.
Thí nghiệm 2 cá được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức và 4 lần
lặp cho mỗi nghiệm thức. Cá thí nghiệm có trọng lượng trung bình ban đầu là 3,88 g
và được bố trí ngẫu nhiên vào 16 giai với mật độ 50 con/giai, kích thước mỗi giai là 1

x 1 x 1m. Cá thí nghiệm được cho ăn 2 lần mỗi ngày, vào lúc 8 giờ và 16 giờ với
lượng ăn bằng 10% trọng lượng thân. Sau 12 tuần nuôi, kết quả cho thấy tốc độ tăng
trưởng, tỷ lệ sống và hệ số thức ăn của 4 nghiệm thức không khác nhau có ý nghĩa về
mặt thống kê.
ii


Từ hai thí nghiệm trên cho thấy có thể sử dụng bánh dầu đậu nành đến tỷ lệ
45% thức ăn cộng với bổ sung dầu cá thì cho kết quả tăng trưởng, hệ số thức ăn và tỷ
lệ sống tương đương công thức sử dụng hoàn toàn bột cá trong thức ăn.

iii


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gởi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban Giám hiệuTrường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
Ban Chủ nhiệm Khoa Thủy Sản Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí
Minh.
Quý Thầy Cô Khoa Thủy Sản Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh đã
tận tình dạy bảo, truyền đạt những kiến thức quý giá trong suốt quá trình học tập và
thực hiện đề tài.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến cô Võ Thị Thanh Bình và thầy
Lê Thanh Hùng đã tận tình hướng dẫn và động viên tôi trong suốt thời gian làm đề tài.
Cảm ơn Ba Mẹ, các anh chị, các bạn bè sinh viên trong và ngoài lớp đã động
viên và giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian làm đề tài tốt nghiệp.
Cám ơn các tác giả những tài liệu mà tôi đã sử dụng trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Do có những hạn chế về mặt thời gian và kiến thức nên khóa luận không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của

quý Thầy Cô, anh chị và các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.

iv


MỤC LỤC
Trang
Trang tựa

i

Tóm tắt

ii

Lời cảm ơn

iv

Mục lục

v

Danh sách các hình

viii

Danh sách các bảng

ix


Chương 1. GIỚI THIỆU

-1-

1.1 Đặt Vấn Đề

-1-

1.2 Mục Tiêu Đề Tài

2

Chương 2. TỔNG QUAN

3

2.1 Đặc Điểm Sinh Học

3

2.1.1 Vị trí phân loại

4

2.1.2 Phân bố và môi trường sống

4

2.1.3 Đặc điểm hình thái


5

2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng

6

2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng

6

2.1.6 Đặc điểm sinh sản

6

2.2 Nhu Cầu Dinh Dưỡng Của Cá

7

2.2.1 Protein

7

2.2.2 Lipid

9

2.2.3 Glucid

9


2.2.4 Vitamin

10

2.2.5 Các chất khoáng

10

2.3 Các Nguồn Nguyên Liệu Cung Cấp Protein Trong Thức Ăn Thủy Sản

12

2.3.1 Protein động vật

12

2.3.2 Protein thực vật

13

2.3.3 Khả năng sử dụng protein thực vật trong thức ăn động vật thủy sản
v

14


2.3.4 Bánh dầu đậu nành

14


Chương 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

18

3.1 Thời Gian Và Địa Điểm

18

3.2 Đối Tượng Nghiên Cứu

18

3.3 Dụng Cụ Thí Nghiệm

18

3.4 Nguyên Liệu Thức Ăn

18

3.5 Bố trí thí nghiệm

19

3.6 Các Chỉ Tiêu Theo Dõi

22

3.6.1 Các chỉ tiêu môi trường


22

3.6.2 Các chỉ tiêu theo dõi trên cá thí nghiệm

22

3.7 Phương Pháp Xử Lý Số Liệu

23

Chương 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

24

4.1 Thí Nghiệm 1: Đánh Giá Khả Năng Sử Dụng Bánh Dầu Đậu Nành Thay Thế Bột
Cá Trong Thức Ăn Cá Lăng Nha

24

4.1.1 Nguyên Liệu Và Thành Phần Dinh Dưỡng Của Thức Ăn Trong Thí Nghiệm1 24
4.1.2 Một Số Thông Số Môi Trường Nuôi Cá Tại Các Bể Thí nghiệm

25

4.1.2.1 Hàm lượng Oxy Hòa Tan

25

4.1.2.2 Độ pH Và Nhiệt Độ


26

4.1.2.3 Hàm Lượng Ammonia

27

4.1.3 Tăng Trưởng Và Tỉ Lệ Sống Cá Lăng Nha

28

4.2 Thí Nghiệm 2 : Đánh Việc Bổ Sung Dầu Cá Để Cân Đối Hàm Lượng Lipid Trong
Thức Ăn Sử Dụng Bánh Dầu Đậu Nành Cho Cá Lăng Nha

30

4.2.1 Nguyên Liệu Và Thành Phần Dinh Dưỡng Của Thức Ăn Trong Thí Nghiệm…30
4.2.2 Một Số Thông Số Môi Trường Nuôi Cá Tại Các Bể Thí Nghiệm

31

4.2.2.1 Hàm Lượng Oxy Hòa Tan

32

4.2.2.2 Độ pH, Nhiệt Độ

32

4.2.2.3 Hàm Lượng Ammonia


33

4.2.3 Tăng Trưởng Và Tỉ lệ Sống Cá Lăng Nha

34

4.3 Kết Quả Thảo Luận Chung Cho Thí Nghiệm 1 và Thí Nghiệm 2

36

Chương 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

38
vi


5.1 Kết Luận

38

5.2 Đề Nghị

38

TÀI LIỆU THAM KHẢO

40

PHỤ LỤC


43

vii


DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình 2.1 Hình Dạng Ngoài Cá Lăng Nha

3

Hình 3.1 Sơ Đồ Bố Trí Thí Nghiệm

20

Hình 3.2 Sơ Đồ Bố Trí Thí Nghiệm 2

21

viii


DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Hàm Lượng 10 Acid amin Thiết yếu Trong Bánh Dầu Đậu Nành

15

Bảng 3.1 Kết Quả phân Tích Thành phần Hóa Học Của Các Loại Nguyên Liệu

19


Bảng 3.2 Thành Phần Nguyên Liệu Trong Khẩu Phần Thức Ăn Thí Nghiệm 1

20

Bảng 3.3 Thành Phần Nguyên Liệu Trong Khẩu Phần Thức Ăn Thí Nghiêm 2

21

Bảng 4.1 Kết Quả Phân Tích Thành Phần Dinh Dưỡng Trong Thức Ăn Của Thí
Nghiệm 1.

24

Bảng 4.2 Hàm Lượng Oxy Hòa Tan Trong Thời Gian Thí nghiệm 1

26

Bảng 4.3 pH Và Nhiệt Độ Nước Trong Thời Gian Thí Nghiệm 1

27

Bảng 4.4 Hàm Lượng Ammonia Hòa Tan Trong Thời Gian Thí Nghiệm 1

28

Bảng 4.5 Tăng Trưởng và Tỉ Lệ Sống Của Thí Nghiệm 1

29


Bảng 4.6 Kết Quả Phân Tích Thành Phần Dinh Dưỡng Trong Thức Ăn Của Thí
Nghiệm 2

31

Bảng 4.7 Hàm Lượng Oxy Hòa Tan Trong Thời Gian Thí nghiệm 2

32

Bảng 4.8 pH Và Nhiệt Độ Nước Trong Thời Gian Thí Nghiệm 2

33

Bảng 4.9 Hàm Lượng Ammonia Hòa Tan Trong Thời Gian Thí Nghiệm

34

Bảng 4.10 Tăng Trưởng và Tỉ Lệ Sống Của Thí Nghiệm 2

35

Bảng 4.11 Đơn giá thức ăn (đồng) cho một kilôgam tăng trọng thí nghiệm 1 và thí
nghiệm 2

37

ix


Chương 1

GIỚI THIỆU
1.1 Đặt Vấn Đề
Cùng với sự phát triển ngày càng đa dạng của các ngành kinh tế thì trong những
năm gần đây ngành nuôi trồng thủy sản cũng đã và đang phát triển mạnh theo hướng
công nghiệp. Việc cho sản xuất giống nhân tạo thành công đã góp phần thúc đẩy và
giải quyết chủ động nguồn giống cho việc nuôi trồng thủy sản của bà con nông dân.
Hiện nay do nhu cầu về thực phẩm của con người ngày càng được chú trọng và quan
tâm đúng mức đã thúc đẩy việc nuôi trồng thủy sản có giá trị và chất lượng cao để đáp
ứng nhu cầu của thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Cùng với những loài cá truyền thống như: cá mè, chép, trôi, rô phi… thì các
loài cá bản địa (cá lăng hầm, cá lăng nghệ, cá lăng nha…) có giá trị kinh tế ngày càng
được quan tâm chú trọng hơn. Cá Lăng nha (Mystus wyckioides) là loài cá có chất
lượng thịt thơm ngon, cơ trắng, ít mỡ, không xương dăm và mau lớn, là đối tượng hiện
đang được rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như những người làm kinh tế quan tâm.
Trong việc nuôi cá thương phẩm vấn đề mà người nuôi thủy sản quan tâm nhất
là chi phí thức ăn vì nó chiếm tỉ lệ cao trong tổng chi phí sản xuất (> 50% tổng chi
phí). Xét về khía cạnh dinh dưỡng thì trong khẩu phần thức ăn, protein là thành phần
quan trọng mà bột cá là nguồn cung cấp protein chính. Tuy nhiên sản lượng của nguồn
nguyên liệu này hiện ngày càng giảm và giá cả có chiều hướng tăng cao, do đó việc
nghiên cứu nhằm tìm kiếm các nguồn protein khác rẻ và dồi dào hơn để làm giảm bớt
chi phí trong nuôi cá và bảo vệ nguồn lợi cá tự nhiên là điều tất yếu. Một trong nhiều
hướng để giải quyết vấn đề này là sử dụng nguồn protein thực vật để thay thế một
phần bột cá trong chế biến thức ăn thủy sản.

-1-


Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Đánh giá khả năng
sử dụng thức ăn bánh dầu đậu nành thay thế bột cá đến sức tăng trưởng và hiệu
quả sử dụng thức ăn cho cá lăng nha (Mystus wyckioides Chaux và Fang, 1949)”

tại trại thực nghiệm khoa Thủy Sản, Trường ĐH Nông Lâm Tp.HCM.
1.2 Mục Tiêu Đề Tài
Đánh giá khả năng thay thế bột cá bằng bánh dầu đậu nành trong thức ăn của cá
lăng nha.
Đánh giá việc bổ sung dầu cá để cân đối hàm lượng lipid trong thức ăn sử dụng
bánh dầu đậu nành cho cá lăng nha.

-2-


Chương 2
TỔNG QUAN
2.1 Đặc Điểm Sinh Học
2.1.1 Vị trí phân loại
Ngành: Chordata
Ngành phụ: Vertebrata
Lớp: Ostecichthepes
Bộ: Siluriformes
Họ: Bagridae
Giống: Mystus
Loài: Mystus wyckioides (Chaux và Fang, 1949)
Tên tiếng Anh: Red tailed catfish
Tên tiếng Việt: Lăng nha, lăng đuôi đỏ

Hình 2.1 Hình dạng ngoài cá lăng nha

-3-


2.1.2 Phân bố và môi trường sống

Cá lăng nha là loài cá ưa tối, sống đáy, hốc đá, hang…chúng sinh sống trong
các thủy vực nước chảy nhẹ thuộc vùng nội địa như: sông, suối, hồ chứa… từ vùng
thượng nguồn cho tới cửa sông. Cá lăng nha phân bố rộng rãi ở Ấn Độ và nhiều nước
Đông Nam Á và thường hịên diện trên những con sông thuộc lưu vực sông Mekông và
Salween (Theo Rainboth, 1996). Chúng thường sống ở những nơi có nền đáy là đá và
ở những độ sâu khác nhau.
Ở Việt Nam, cá lăng nha phân bố nhiều trong các thủy vực tự nhiên, nước chảy
nhẹ như sông, hồ chứa ở miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửu Long. Chúng
được tìm thấy trong các lưu vực của sông Đồng Nai (lòng hồ Trị An), sông Sài Gòn và
sông Cửu Long. Ở các con sông lớn dọc từ thượng nguồn sông Cửu Long đến tận các
nhánh sông. Theo Mai Đình Yên và ctv. (1992), cá lăng nha phân bố hầu hết rộng rãi
các sông rạch thuộc miền nam Việt Nam.
Theo Ngô Văn Ngọc và Lê Thị Bình (2005), hiện nay ngoài tự nhiên, các loài
cá lăng như lăng vàng (Mystus nemurus), cá lăng hầm (Mystus filamentus), cá lăng nha
(Mystus wyckioides) và cá lăng nghệ (Mystus sp.) ngày càng trở nên quí hiếm do sự
lạm thác và sự suy thoái môi trường sống, đặc biệt là cá lăng nghệ đang có nguy cơ
tuyệt chủng.
Cá lăng nha sống ở vùng nước ngọt và lợ nhẹ độ mặn dưới 6‰. Cá không có
cơ quan hô hấp phụ. Cá thích sống nơi nước trong sạch có dòng nước chảy nhẹ, không
thích hợp ở nơi có dòng nước chảy mạnh, tuy nhiên vẫn sống tốt trong nước tĩnh
(Nguyễn Chung, 2006).
Theo Ngô Văn Ngọc và Lê Thị Bình (2005), các loài cá lăng thuộc giống
Mystus sống và phát triển tốt ở môi trường nước có:
- Nhiệt độ: từ 24 – 340C (tốt nhất: 28 – 300C)
- Độ pH: từ 6 – 8
- Hàm lượng DO: > 3mg/l
- Độ mặn: từ 0 – 7‰

-4-



2.1.3 Đặc điểm hình thái
Đầu dẹp ngang, số lược mang 11 – 15 đôi dẹp bên, có bốn đôi râu, một đôi râu
mũi kéo dài đến mắt, hai đôi râu cằm một đôi râu hàm trên rất dài đến giữa vây hậu
môn. Miệng ở dưới rộng hướng ra phía trước, môi trên dày và nhỏ hơn môi dưới, hàm
trên và hàm dưới đều có răng nhỏ, nhọn. Khoang hai ổ mắt rộng, khe mang rộng,
màng nang tách khỏi cơ mang.
Thân thon dài, phần trước thân tròn phần sau thân dẹp bên. Mặt lưng của thân
và đầu có màu nâu đậm và nhạt dần xuống bụng, bụng cá có màu trắng đục.Vây lưng
và vây ngực có tia cứng, tia cứng vây ngực to khỏe có răng cưa nhưng tia cứng ở vây
lưng nhỏ và được bao phủ bởi lớp da không có răng cưa.Vi mỡ nằm đối diện với vi
hậu môn, và dài, gốc vi mỡ dài tương đương với gốc vi hậu môn.
Theo Nguyễn Chung (2006), cá lăng nha khi có chiều dài trên 4 cm đã có
những biểu hiện đặc trưng để phân biệt không lầm lẫn với các loại cá lăng khác là có
hai tia màu trắng nằm ở rìa trên và dưới của vây hậu môn của cá, tia trên dài hơn tia
dưới. Khi cá có chiều dài trên 8 – 9 cm, vây lưng và vây đuôi sẽ chuyển dần sang màu
đỏ lợt và khi cá có chiều dài trên 15 – 20 cm thì vây lưng và vây đuôi của cá sẽ chuyển
sang màu đỏ đặc trưng của cá lăng nha trưởng thành.
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá lăng nha được xếp vào nhóm cá ăn động vật điển hình (Sterba, 1962; trích
bởi Mai Thị Kim Dung, 1998).Thức ăn tự nhiên của chúng là cá, tôm, côn trùng,
nhuyễn thể, giáp xác, giun ít tơ, rễ cây…
Theo Phạm Báu và Nguyễn Đức Tuân (1998; trích bởi Đào Dương Thanh,
2004), cá lăng có cấu tạo bộ máy tiêu hoá của cá ăn động vật điển hình: Miệng rộng,
răng hàm sắc và nhọn, dạ dày lớn, tỷ lệ giữa chiều dài ruột và chiều dài thân là
89,35%. Phân tích 25 mẫu thức ăn trong ruột cá cho thấy thành phần thức ăn chính là
động vật.
Trong điều kiện nuôi, các loài cá lăng nói chung và cá lăng nha nói riêng hoàn
toàn chấp nhận thức ăn viên dạng nổi mặc dù tập tính ăn của chúng là ăn chìm (FFRC,
1996; trích bởi Ngô Văn Ngọc, 2002).


-5-


Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi để cá phát triển tốt, ngoài thức ăn viên có hàm
lượng đạm cao (>35%) thì việc bổ sung nguồn đạm tươi sống từ cá tạp, ốc,… là điều
cần thiết (Ngô Văn Ngọc và Lê Thị Bình, 2005).
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Sinh trưởng là sự tăng trưởng về kích thước và khối lượng theo thời gian nhờ
quá trình trao đổi chất. Sinh trưởng cũng là quá trình sử dụng và đồng hoá thức ăn xảy
ra bên trong cơ thể của cá.
Quá trình sinh trưởng đặc trưng tương ứng với từng loài cá và phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: Điều kiện môi trường sống, thuộc tính của loài, giới tính, số lượng
thức ăn có trong thủy vực… Đây là đặc tính thích ứng của loài, đảm bảo cho sự sống
của loài với điều kiện môi trường.
Cá lăng nha là loài cá có kích thước cơ thể lớn nhất trong họ Bagridae. Ngoài tự
nhiên, cá trưởng thành thường có kích thước khoảng 50 cm, đôi khi bắt gặp những cá
thể dài đến 70 cm (FAO, 1996).
Theo Nguyễn Chung (2006), khi còn nhỏ, cá lăng nha tăng trọng rất chậm. Trên
năm tháng tuổi cá mới đạt trọng lượng 230 – 250 gr/con dài từ 18 – 20 cm. Tuy nhiên,
kể từ tháng thứ sáu, thứ bảy thì cá lại tăng trọng rất nhanh, cá 10 – 12 tháng tuổi có thể
đạt chiều dài 35 – 40 cm, nặng 1 – 1,5 kg/con.
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Theo Rainboth, 1996 (trích bởi Lê Đại Quan, 2004) thì vào mùa sinh sản, cá
lăng tìm vào các cánh rừng ngập nước để bắt cặp sinh sản. Ở Tonlé Sap, cá con được
tìm thấy từ tháng tám và đến tháng 10 – 12 chúng trở ra sông chính.
Mai Thị Kim Dung (1998) cho rằng cá có chiều dài từ 30 cm trở lên có thể
tham gia sinh sản. Cá vào bờ sinh sản sau khi nước lên. Mùa sinh sản từ tháng sáu đến
tháng bảy và chỉ sinh sản một lần trong năm.
Tuy nhiên, theo Ngô Văn Ngọc và Phùng Cẩm Hà (2006), trong điều kiện nhân

tạo, mùa vụ sinh sản của cá lăng nha diễn ra từ tháng 5 đến tháng11, tập trung từ tháng
6 đến tháng 10.
Thời gian tái thành thục của cá lăng nha là 2,5 tháng. Với điều kiện sinh sản
nhân tạo có thể cho cá sinh sản quanh năm (Ngô Văn Ngọc, 2002).
-6-


Theo Ngô Văn Ngọc và Lê Thị Bình (2005) thì: Sức sinh sản thực tế của cá
lăng nha thấp hơn nhiều so với cá lăng vàng và cá lăng hầm. Sức sinh sản thực tế của
cá lăng nha dao động từ 12.560 đến 17.688 trứng/kg cá cái.
Tuổi thành thục của cá lăng nha trong điều kiện nhân tạo là ba năm và kích
thước bắt đầu tham gia sinh sản nhỏ nhất là một kg.
Sự phân biệt giới tính ở cá lăng nha có thể nhận biết qua những đặc điểm bên
ngoài như: Cá đực có gai sinh dục dài và nhọn ở đầu mút. Khi thành thục sinh dục, đầu
mút của gai sinh dục ửng hồng. Cá cái có lỗ sinh dục dạng tròn và hơi lồi. Khi thành
thục sinh dục thì lỗ sinh dục tròn, nở to và có màu ửng hồng.
2.2 Nhu Cầu Dinh Dưỡng Của Cá
Dinh dưỡng là sự cung cấp những vật chất cần thiết cho việc duy trì đời sống
(trao đổi chất). Dinh dưỡng là nuôi dưỡng, tập hợp những chức năng cơ thể để biến đổi
và sử dụng thức ăn nhằm giúp cá tăng trưởng và hoạt động bình thường.
Dinh dưỡng phải đảm bảo cho cá có đầy đủ năng lượng để duy trì sống, hoạt
động bơi lội, tăng trưởng và sinh sản. Dinh dưỡng thức ăn không hợp lý, không theo
phương pháp khoa học sẽ làm cho cá chậm lớn, bệnh tật, làm ô nhiễm môi trường và
có thể dẫn đến những thất bại kinh tế không lường.
Các chất dinh dưỡng cần cho cá có thể được phân chia thành năm nhóm chính
là protein, lipid, glucid, vitamin và chất khoáng.
2.2.1 Protein
Protein là hợp chất hữu cơ có trọng lượng phân tử rất lớn, có cấu trúc phân tử
phức tạp do các acid amin cấu tạo nên.
Protein là thành phần chủ yếu tham gia vào cấu tạo cơ thể, là thành phần chính

của nguyên sinh chất tế bào. Trong thành phần hoá học của protein thường chứa:
carbon (51 – 55%), hydro (6,5 – 7,3%), oxy (21,5 – 23,5%), và đặc biệt Nitrogen có tỉ
lệ ít thay đổi khoảng 16%. Ngoài ra, còn một lượng nhỏ các nguyên tố khác như lưu
huỳnh (0,5-2%) và phosphorus (0,5-1,5%).
Trong phân tử protein, các acid amin kết hợp với nhau trong những liên kết
khác nhau, chúng tạo thành các phân tử protein khác nhau về thành phần và tính chất.
Giá trị dinh dưỡng của mỗi loại protein khác nhau là ở số lượng và chất lượng các acid
-7-


amin tạo thành. Quá trình tiêu hoá đã phân giải protein trong thức ăn thành acid amin.
Các acid amin thấm qua thành ruột chuyển tới các tổ chức cơ thể, tại đây chúng được
sử dụng để tổng hợp nên protein đặc hiệu cho cơ thể.
Trong protein có khoảng 20 loại acid amin phổ biến trong đó có 10 acid amin
thiết yếu mà cá không có khả năng tự tổng hợp, cần phải được cung cấp qua thức ăn
bao gồm: Arginine, methionine, lysine, leucine, isoleucine, valine, histidine, threonine,
tryptophan và phenylalanine. Trong số này thì lysine và methionine thường thiếu và
cần được bổ sung nhiều hơn.
Protein có giá trị cao khi thành phần của nó có đầy đủ các acid amin cần thiết
với tỉ lệ thích hợp. Sự mất cân đối acid amin sẽ dẫn đến lãng phí acid amin. Việc thiếu
hay thừa bất kỳ acid amin nào cũng đều làm giảm hiệu quả sử dụng protein. Thiếu một
trong các acid amin thiết yếu sẽ dẫn đến rối loạn cân bằng đạm và rối loạn sử dụng tất
cả các acid amin còn lại.
Protein đặc biệt ảnh hưởng đến tốc độ lớn của cá. Cá khi ăn thiếu protein sẽ dễ
nhạy cảm với sự nhiễm trùng đường ruột và đường hô hấp, chậm lớn và dễ bị bệnh.
Thiếu protein kéo dài sẽ kéo theo các triệu chứng thiếu các chất dinh dưỡng khác gây
ảnh hưởng đến tình trạng chung của cơ thể và sự phát triển của cá.
Nhu cầu protein của cá thường rất cao, dao động trong khoảng 24 – 54% của
thức ăn với mức trung bình 30% (Lê Thanh Hùng, 2000).
Nhu cầu protein ở cá ăn thực vật và ăn tạp thường thấp hơn ở cá ăn động vật.

Cá nhỏ thường có nhu cầu protein cao hơn so với cá trưởng thành. Nhu cầu protein đối
với cá nuôi ở mật độ cao (nuôi trong bể, lồng) cũng cao hơn so với cá nuôi ở mật độ
thấp (nuôi trong ao, đầm). Ngoài ra, nhu cầu protid còn chịu ảnh hưởng bởi môi
trường nuôi, năng lượng trong thức ăn, lượng thức ăn hàng ngày, chất lượng và loại
thức ăn sử dụng, chất lượng di truyền của cá giống,…
Hàm lượng protein luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong thức ăn của cá.
Protein trong thức ăn sẽ được sử dụng cho sinh trưởng cơ thể khi hàm lượng lipid và
carbohydrate được cung cấp đầy đủ. Vì vậy, để sử dụng protein có hiệu quả cao thì
thức ăn cần phải cung cấp đầy đủ năng lượng, vitamin và muối khoáng
-8-


2.2.2 Lipid
Lipid là nguồn sinh năng lượng quan trọng, gấp 2,25 lần so với glucid hay
protein, là dung môi hòa tan các vitamin A, D và còn gây hương vị tốt cho thức ăn
tôm, cá.
Thành phần chính của lipid là acid béo do đó phần quyết định tính chất của
lipid thuộc về các acid béo. Các acid béo chứa nhiều nối đôi thường có giá trị thực
phẩm cao. Nhu cầu các acid béo thiết yếu đối với tôm, cá còn nhỏ cao hơn tôm, cá đã
trưởng thành cho nên việc bổ sung thêm dầu cá hay dầu gan mực vào thức ăn tôm, cá
khi còn nhỏ là rất cần thiết.
Lipid gồm các lipid đơn giản và lipid phức tạp trong đó có cholesterol là một
lipid phức tạp rất quan trọng đối với tôm, nó ảnh hưởng đến sự lột xác của tôm và kích
thích sự tăng trưởng.
Phospholipid rất cần thiết, không thể thiếu trong thức ăn tôm cá. Nó ảnh hưởng
trực tiếp trong cơ chế chuyển hóa chất béo, đẩy nhanh sự tăng trưởng tôm cá từ khi
còn nhỏ đến khi thành thục (Nguyễn Văn Thoa và Bạch Thị Quỳnh Mai, 1996).
2.2.3 Glucid
Trong dinh dưỡng tôm cá vai trò chính của glucid là sinh năng lượng. Tùy theo
giống loài mà có khi hơn một nửa năng lượng của khẩu phần là do glucid cung cấp.

Ngoài vai trò sinh năng lượng, ở mức độ nhất định, glucid có cả vai trò tạo hình vì có
mặt trong tế bào và tổ chức thịt tôm cá. Chuyển hóa glucid liên quan chặt chẽ với
chuyển hóa protid và lipid. Cung cấp đủ glucid trong thức ăn sẽ làm giảm phân hủy
protid đến mức tối thiểu.
Glucid theo nhu cầu dinh dưỡng tôm cá chủ yếu là tinh bột. Tinh bột là thành
phần dinh dưỡng chính của các loại hạt ngũ cốc và đậu. Nhưng có một thành phần
quan trọng khác là cenluloza. Cenluloza có khả năng điều hòa bài tiết và kích thích các
hệ vi khuẩn có lợi cho đường ruột, tạo điều kiện tốt nhất cho chức phận tổng hợp của
chúng (Nguyễn Văn Thoa và Bạch Thị Quỳnh Mai, 1996).

-9-


2.2.4 Vitamin
Vai trò của vitamin là rất to lớn đối với cơ thể, nó cần thiết cho sự chuyển hóa
chủ yếu của cơ thể, trong đó có quá trình đồng hóa và sử dụng các chất dinh dưỡng
cũng như quá trình lớn, xây dựng tế bào và tổ chức cơ thể.
Vitamin phần lớn không được tổng hợp trong cơ thể mà được cung cấp từ nguồn thức
ăn động vật và thực vật. Thiếu vitamin sẽ là nguyên nhân của nhiều rối loạn chuyển
hóa quan trọng. Vì vậy trong thành phần thức ăn cần cung cấp đầy đủ vitamin cho cơ
thể (Nguyễn Văn Thoa và Bạch Thị Quỳnh Mai, 1996).
Vitamin là chất không thể thiếu được trong đời sống của sinh vật. Nếu thiếu
vitamin thì hoạt động của một số nhóm enzym sẽ bị mất khả năng, dẫn đến việc rối
loạn tiêu hóa,… làm cho sinh trưởng chậm, sức đề kháng kém dẫn đến bệnh tật và tử
vong.
Trong số các vitamin thì vitamin C giữ vai trò quan trọng nhất nhờ khả năng
chống oxy hóa và hỗ trợ hệ miễn dịch của cá. Vitamin C rất cần thiết cho sự tạo thành
các mô liên kết, làm lành các vết thương. Vitamin C giúp sự hấp thụ sắt trên cá nên
giúp cá tránh hiện tượng xuất huyết. Ngoài ra, vitamin C còn tham gia với vitamin E
phòng chống sự oxy hóa các lipid trong các mô tế bào.

Sự thiếu hụt vitamin C ở cá thường dẫn đến những biểu hiện như biến dạng cột
sống, xuất huyết dưới da, mô sụn nền của mang cá bị tổn thương dẫn đến mang cá bị
xê lệch vị trí, mất sắc tố dẫn đến cá có màu nhợt nhạt và cá dễ bị xây xát khi đánh bắt.
Thức ăn thiếu vitamin C thường dẫn đến thiếu khả năng kháng bệnh vi khuẩn (Lê
Thanh Hùng, 2000).
2.2.5 Các chất khoáng
Khoáng bao gồm các nguyên tố vô cơ cần thiết cho quá trình sinh trưởng và
phát triển của cá. Chất khoáng tham gia vào tất cả các phản ứng sinh hoá trong cơ thể.
Hoạt tính sinh học của các chất khoáng thể hiện cao nhất dưới các dạng ion hóa tức
dạng liên kết với các hợp chất hữu cơ chứ không phải dạng các nguyên tố.
Căn cứ theo nhu cầu, khoáng được chia làm hai nhóm là khoáng đa lượng và
khoáng vi lượng. Khoáng đa lượng bao gồm Ca, P, K, Mg, Na, Cl, S thường được sử
dụng trong điều hòa áp suất thẩm thấu cơ thể, cấu tạo xương,… Nhóm khoáng vi
- 10 -


lượng bao gồm Cu, Fe, Zn,… tuy cần với lượng rất thấp nhưng lại có vai trò quan
trọng trong tạo các nhóm chức của enzyme, hormone, điều hòa quá trình sinh tổng hợp
protein,…
Vai trò các chất khoáng đối với cá rất đa dạng, chủ yếu là quá trình tạo hình đặc
biệt là vỏ, xương, vây; tham gia vào quá trình tạo protein, các quá trình enzyme, điều
hoà chuyển hóa nước, duy trì tính ổn định môi trường bên trong cơ thể trong điều kiện
thành phần thức ăn luôn khác nhau, làm tăng sức chịu đựng của cá nuôi với các yếu tố
môi trường bên ngoài và tăng sức đề kháng đối với nhiễm trùng.
Lượng chất khoáng chiếm khoảng 2 – 4% trọng lượng cơ thể cá. Tuy cá có khả
năng hấp thụ một số khoáng từ môi trường nước qua mang và da nhưng trong thức ăn
cần thiết phải cung cấp thêm chất khoáng để bổ sung những thiếu hụt so với nhu cầu.
Các chất khoáng có mặt trong nguyên liệu thức ăn với hàm lượng lớn từ hàng chục
đến hàng trăm mg (Nguyễn Văn Thoa và Bạch Thị Quỳnh Mai, 1996).
Giá trị dinh dưỡng của thức ăn được xác định bởi các yếu tố sau:

− Một sự cân bằng giữa các thức ăn năng lượng và sinh trưởng (carbohydrate,
lipid và protein) nhằm đảm bảo sự cung cấp vật liệu năng lượng cho hoạt động
đồng hóa tối hảo và vật liệu sống cho sự phát triển bao gồm kiến tạo mô, sinh
sản và thành lập các sản phẩm (hemoglobin, hormone, enzyme,…).
− Sự hiện diện của các nguyên tố (khoáng chất), nhất là nguyên tố vi lượng và
chất xúc tác cần thiết (vitamin).
− Sự cung cấp đầy đủ thức ăn bổ sung.
Ngoài ra, giá trị dinh dưỡng của khẩu phần thức ăn còn được xác định bởi khả
năng cá có thể tiêu hóa và hấp thụ tốt nhất. Nó phụ thuộc vào trạng thái vật lý của thức
ăn, loại và số lượng của enzyme trong ống tiêu hóa.
Theo Nguyễn Văn Thoa và Bạch Thị Quỳnh Mai (1996), vai trò của các chất
khoáng đối với tôm cá rất đa dạng, chủ yếu là quá trình tạo hình mà đặc biệt là vỏ, vây,
xương, tham gia quá trình tạo protid, các quá trình enzyme, điều hòa chuyển hóa nước,
duy trì tính ổn định môi trường bên ngoài và sức đề kháng của cơ thể đối với nhiễm
trùng. Các chất khoáng có trong nguyên liệu thức ăn với hàm lượng lớn từ hàng trăm
- 11 -


đến hàng triệu mg có khi g gọi là các yếu tố đa lượng trong đó là canxi, phospho, kali,
natri, clo, sunfua.
Lượng chất khoáng chiếm 2 – 4% trọng lượng cơ thể, một nửa chất khoáng là
yếu tố tạo hình. Cơ thể tôm cá không thể sản xuất được các chất khoáng, vì vậy mà các
chất khoáng phải được cung cấp từ bên ngoài mà nguồn cung cấp chính là thức ăn và
một phần chất khoáng có từ môi trường nước được cá hấp thụ qua mang.
2.3 Các Nguồn Nguyên Liệu Cung Cấp Protein Trong Thức Ăn Thủy Sản
Không giống như động vật nuôi trên cạn, hầu hết các loài cá nuôi có nhu cầu
protein khá cao (30 – 50%). Nhu cầu này thay đổi tùy theo loài và tùy theo từng giai
đoạn phát triển. Cá con có nhu cầu cao về protein, lipid, vitamin và khoáng chất cần
thiết cho sự phát triển của hệ xương và các cơ quan. Ở giai đoạn trưởng thành, cá cần
nhiều năng lượng từ nguồn lipid và cacbohydrate để đáp ứng cho các quá trình biến

dưỡng cơ bản, do đó nhu cầu protein trong thức ăn sẽ thấp hơn. Khi bước vào giai
đoạn thành thục và sinh sản cá cần nhu cầu cao về protein và lipid cho việc tạo các sản
phẩm sinh dục. Do đó trong chế biến thức ăn thủy sản thường sử dụng nguyên liệu có
hàm lượng protein cao làm nguồn cung cấp protein.
2.3.1 Protein động vật
Đây là nguồn protein có chất lượng cao thường được dùng trong quá trình chế
biến thức ăn cho gia súc, gia cầm, và động vật thủy sản. Nhóm này bao gồm rất nhiều
loại như: bột cá, bột nhuyễn thể, bột phụ phẩm gia cầm, bột thịt, bột huyết… Trong
các nguồn nguyên liệu trên thì bột cá được coi là ưu việt hơn cả.
Tuy nhiên đây là nguồn nguyên liệu không ổn định về giá cả và chất lượng vì:
- Nguồn nguyên liệu chế biến bột cá chủ yếu từ nguồn cá tạp đánh bắt từ tự nhiên:
nguồn nguyên liệu này rất biến động và phụ thuộc vào thời tiết mỗi năm.
- Hệ số chuyển đổi từ nguyên liệu sang bột cá là 5:1, tức là để có 7,5 triệu tấn bột cá
mỗi năm, phải cần khoảng 37,5 triệu tấn nguyên liệu.
- Nhu cầu bột cá dùng cho nuôi trồng thủy sản trên thế giới ngày một gia tăng.
- Sự cạnh tranh nhu cầu bột cá làm thức ăn cho gia súc và gia cầm càng làm cho giá
bột cá tăng cao.

- 12 -


2.3.2 Protein thực vật
Protein thực vật là sản phẩm phụ của công nghiệp ép dầu từ hạt của những cây
bộ đậu (đậu nành, đậu phộng…) hay hạt của những thực vật giàu chất béo (hạt bông
vải, hạt hoa hướng dương, hạt cải…) hay từ phần thịt nhân của các trái (trái dừa, trái
cọ dầu). Các phụ phẩm của công nghiệp này thường chứa một lượng lớn protein, thay
đổi từ 20-50%vật chất khô. Các phụ phẩm này có tên gọi là bánh dầu hay khô dầu và
tên gọi kế tiếp tùy theo nguyên liệu như: bã dầu nành, bánh dầu nành, khô dầu nành
đều chỉ loại sản phẩm sau chế biến từ hạt đậu nành.
Có hai phương pháp trong kỹ thuật ép dầu: ly trích và ép cơ học. Phương pháp

ly trích khô dầu được trích triệt để nên khô dầu chỉ còn một tỉ lệ thấp chất béo (1-2%),
trong khi ép cơ học cho bánh dầu có hàm lượng béo 3-5%. Như vậy bã dầu (oil meal)
thường hiểu theo nghĩa là sản phẩm ép dầu bằng phương pháp ly trích như bã dầu nành
(soybean meal). Trái lại bánh dầu (oil cake) chỉ sản phẩm ép dầu bằng phương pháp ép
cơ học như bánh dầu đậu phộng (groundnut cake).
Ở Việt Nam, những protein thực vật phổ biến như bánh dầu phộng, bánh dầu
nành, bánh dầu dừa. Ngoài ra, hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn các
protein gốc thực vật khác để cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy thức ăn gia súc và
thủy sản như bã dầu bông dải, bã dầu cọ, bã dầu nành, bã dầu cải, bã dầu hướng
dương.
Đây là nguồn nguyên liệu ngày càng được quan tâm nghiên cứu nhằm thay thế
các nguồn protein động vật, nhất là bột cá vốn hạn chế về số lượng và giá cả. Do đó
xuất hiện nhu cầu thay thế bột cá bằng nguồn protein thực vật giàu protein nhưng rẻ
tiền so với bột cá, trong đó có thể kể đến các nguồn protein thực vật như: bánh dầu đậu
nành, bánh dầu đậu phộng, bánh dầu bông vải, bánh dầu cao su…
Việc sử dụng các sản phẩm từ đậu nành thay thế bột cá trong khẩu phần thức ăn
của cá đều cho kết quả tốt.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về việc sử dụng các nguồn protein thực vật khác
như: bánh dầu đậu phộng, bánh dầu hạt hướng dương, bánh dầu bông vải… trong dinh
dưỡng cho cá thì rất hạn chế. Mặc dù vậy chúng được biết là có thể sử dụng ở mức
thấp trong thức ăn cho cá rô phi O.mossambicus (Jackson và ctv, 1982; trích bởi
- 13 -


Fagbenno và Davies, 1998), O.aureus (Robinson và ctv, 1984, trích bởi Fagbenro và
Davies, 1998) cá rô phi đỏ (Hashim và ctv, 1994; trích bởi Fagbenro và Davies, 1998)
và cá trê phi Clarias gariepirus (Olokunle và Falaye, 1998; trích bởi Fagbenro và
Davies, 1998).
2.3.3 Khả năng sử dụng protein thực vật trong thức ăn động vật thủy sản
Xu hướng hiện nay là thay thế bột cá bằng protein thực vật. Tuy nhiên việc sử

dụng các nguồn nguyên liệu này gặp một số trở ngại nhất định như: hàm lượng một số
amino acid thiết yếu thấp, thiếu các muối khoáng cần thiết (calcium và phospho), chứa
các chất kháng biến dưỡng (antimetabolites) và độc tố (toxins),… Mặc dù vậy, có thể
hạn chế sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng bằng cách bổ sung chúng vào trong khẩu
phần thức ăn. Tuy nhiên thức ăn trên cơ sở protein thực vật thường không được cá ưa
thích do mùi vị, độ cứng nên chúng không được sử dụng nhiều, đặc biệt là những loài
cá ăn động vật. Vì thế trong sản xuất thức ăn thủy sản bột cá vẫn là thành phần cơ bản
và protein thực vật chỉ sử dụng để thay thế một phần bột cá (Lê Thanh Hùng, 2005).
2.3.4 Bánh dầu đậu nành
Cây đậu nành được trồng chủ yếu để làm thực phẩm cho người. Bên cạnh đó
người ta còn sử dụng các sản phẩm phụ trong quá trình ép dầu như bánh dầu đậu nành,
bã dầu đậu nành làm thức ăn cho gia súc và tôm cá. Trong đó bánh dầu đậu nành là
nguồn nguyên liệu được dùng nhiều do hàm lượng protein có trong bánh dầu đậu nành
khá cao.
Hạt đậu nành chứa 36-38% protein thô và 18-20% chất béo. Khi ép dầu bằng ly
trích với dung môi Hexanol hay kết hợp ép cơ học với ly trích cho ra phần chất rắn còn
lại có hàm lượng protein thay đổi 44-48%, lipid trong khoảng 0.5-5%, xơ trong
khoảng 6.0-6.5% và độ ẩm trung bình 10-11%
Bánh dầu đậu nành là nguồn protein thực vật chính cung cấp protein trong thức
ăn thủy sản. Tỉ lệ sử dụng bánh dầu nành trong thức ăn gia tăng liên tục trong 20 năm
qua do giá cả hợp lý và nguồn cung cấp nguyên liệu này ổn định và tăng liên tục theo
thời gian. Hàng năm thế giới sản xuất 85-100 triệu tấn bã dầu nành, chiếm tỉ trọng trên
50% nguồn cung cấp protein trong thức ăn chăn nuôi và thủy sản.

- 14 -


Hàng năm Việt Nam phải nhập một lượng lớn bánh dầu nành để dùng trong
chăn nuôi và thủy sản. Trong năm 2003, Việt Nam nhập 960.000 tấn, tăng 27% so với
số lượng 795.000 tấn nhập khẩu năm 2002. Đến năm 2004 Việt Nam nhập 1.100.000

tấn, tăng 14% so với năm 2003. Argentina va Ấn Độ là hai nguồn cung cấp chính
trong khi đó Mỹ là quốc gia có sản lượng bánh dầu nành cao nhất thế giới (Bùi Thu
Hương,2005; trích bởi Lê Thanh Hùng, 2005)
Protein của bánh dầu đậu nành chứa tương đối đầy đủ các acid amin thiết yếu.
Các acid amin thiết yếu tương đối cân đối so với nhu cầu và tốt nhất trong các protein
thực vật. Hàm lượng các acid amin thiết yếu có trong bánh dầu đậu nành được liệt kê ở
bảng 2.1
Bảng 2.1 Hàm lượng 10 acid amin thiết yếu trong bánh dầu đậu nành (% vật chất khô)
Thành phần acid amin

Hàm lượng (% vật chất khô)

Arginine

6,94

Histidine

2,64

Isoieucine

5,01

Leucine

7,54

Lysine


6,28

Methionine

1,38

Phenylalanine

5,03

Threonine

4,92

Tryptophan

1,18

Valine

4,72

(nguồn: Lê Thanh Hùng, 2005)
Các acid amin thiết yếu này có sự mất cân đối vì hàm lượng Methionine và
Cystine (chứa S) thấp so với nhu cầu của cá.
Thành phần chất béo trong bã dầu nành rất thấp nên vai trò của chúng ít quan
trọng trong dinh dưỡng. Trái lại trong bánh dầu nành và hạt đậu nành nguyên có chứa
tỉ lệ chất béo cao.
So với các protein động vật, bánh dầu nành thiếu các muối khoáng cần thiết đặc
biệt như phospho có giá trị tiêu hóa rất thấp vì trong đậu nành phospho ở dưới dạng

- 15 -


×