Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

chuong 7 Tâm lý học Dạy Học Và GIáo Dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.62 KB, 69 trang )

CHƢƠNG 7
TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC
MỤC TIÊU
- Giải thích được bản chất, qui luật tâm lý của các quá trình dạy học và giáo dục
- Thu thập, phân tích được các tư liệu lý luận và thực tiễn về đời sống tâm lý, tìm
được cách thức để giải quyết các bài tập tình huống sư phạm của nhiệm vụ học tập và rèn
luyện.
7.1. TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC
Dạy học là hoạt động cốt lõi của nhà trường vì nhà trường là mơi trường sống
được xây dựng để thực hiện quá trình dạy học. Ngược lại, dạy học là quá trình giáo dục
trẻ em đặc biệt diễn ra trong môi trường nhà trường. Trong nhà trường, các nội dung giáo
dục chủ yếu (đức, trí, thể, mỹ và lao động) được thực hiện thông qua hoạt động dạy học.
Để thực hiện quá trình dạy học một cách hiệu quả, người thầy giáo phải nắm vững các
hiện tượng tâm lý nảy sinh và diễn biến trong quá trình này, các đặc trưng bản chất và qui
luật vận động của chúng. Chuyên ngành tâm lý học dạy học ra đời và phát triển nhằm đáp
ứng địi hỏi đó của hoạt động sư phạm. Tâm lý học dạy học vận dụng những tri thức của
tâm lý học đại cương và tâm lý học phát triển vào việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý
nảy sinh và phát triển trong quá trình dạy học. Từ đó tìm ra những cách thức tác động
phù hợp với tâm lý học sinh để nâng cao không ngừng hiệu quả của quá trình này. Do
trong tâm lý học đại cương và tâm lý học phát triển hiện nay có nhiều trường phái với
quan điểm khác nhau nên trong tâm lý học dạy học cũng có nhiều tác giả với quan điểm
tiếp cận khác nhau. Những quan điểm này đều có mặt mạnh, những thành tựu, đóng góp
nhất định và những nhược điểm của mình. Trong đó, tâm lý học dạy học theo tiếp cận
tâm lý học hoạt động là lý thuyết có giá trị to lớn, có ảnh hưởng quan trọng tới lĩnh vực
dạy học hiện nay của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Quá trình dạy học là một quá trình hoạt động chung giữa thầy và trò. Hoạt động
này được cấu thành từ hai hoạt động có quan hệ gắn bó vỡi nhau đó là hoạt động dạy và
hoạt động học. Hoạt động dạy là hoạt động do người thầy với tư cách là chủ thể thực hiện
với mục đích trực tiếp là hoạt động học của học sinh qua đó thực hiện mục đích cuối
cùng là sự phát triển tâm lý ở trẻ. Hoạt động dạy là hoạt động do trò là chủ thể thực hiện
dưới sự hướng dẫn, tổ chức của hoạt động dạy nhằm lĩnh hội tri thức khoa học, kĩ năng,




kỉ xảo tương ứng và thái độ tích cực nhằm phát triển tâm lý, hình thành nhân cách của
chính mình. Vì vậy, tâm lý học dạy học có hai lĩnh vực nghiên cứu: tâm lý học hoạt động
dạy và tâm lý học hoạt động học. Hai lĩnh vực này có đối tượng cụ thể khác nhau nhưng
đều có mục tiêu chung là xây dựng cơ sở tâm lý cho hoạt động dạy học.
7.1.1. Tâm lý học hoạt động dạy
7.1.1.1. Khái niệm hoạt động dạy
Để xã hội tồn tại và phát triển, các thế hệ đi trước luôn phải truyền lại cho thế hệ
sau những kinh nghiệm xã hội lịch sử mà lồi người đã sáng tạo và tích luỹ cho đến thế
hệ mình cho thế hệ sau. Nhờ đó, trẻ em khi lớn lên có được vốn văn hóa xã hội để tiếp
tục tồn tại với tính cách là một con người và phát triển xã hội. Việc người lớn truyền thụ
cho thế hệ sau kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài người được gọi là sự dạy.
Trong một thời kì dài của lồi người việc dạy được thực hiện bởi hầu hết người
lớn trong xã hội: ông bà dạy cháu, cha mẹ dạy con, anh chị dạy em… Mọi yếu tố của văn
hóa của cộng đồng đều được dạy: dạy đi, dạy nói, dạy cách ăn mặc, lao động, cách thức
ứng xử… Kiểu dạy này được thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, mọi nơi mọi lúc, noii
dung dạy là những cái mà trẻ em còn thiếu, cịn yếu, cịn sai sót so với người lớn. Việc
dạy mang tính tự phát, khơng phải là một q trình tổ chức có chương trình, kế hoạch…
Người dạy khơng cần và khơng có trình độ chun nghiệp nên việc dạy chỉ dựa trên kinh
nghiệm và cũng chỉ dạy được trẻ những kinh nghiệm sống, lao động thông thường, đơn
giản, rời rạc và không hệ thống.
Khi tri thức, hiểu biết của loài người được đúc kết thành lý luận; đặc biệt là từ khi
khoa học ra đời thì việc dạy theo kiểu ngẫu nhiên khơng cịn đáp ứng được u cầu phát
triển của trẻ em và sự phát triển xã hội nữa. Khi đó, việc dạy trở thành một hoạt động
chuyên biệt - hoạt động dạy của một loại lao động chuyên biệt - thầy giáo và được thực
hiện trong một môi trường chuyên biệt - môi trường nhà trường.
Trong xã hội hiện đại, việc dạy trẻ bằng kinh nghiệm của người lớn nói chung vẫn
cịn và vẫn cần thiết nhưng khơng cịn đóng vai trị quyết định nữa mà hoạt động dạy đã
đóng vai trị chủ đạo trong việc truyền thụ nền văn hóa cho thế hệ sau. Trong nhà trường,

thầy giáo giúp cho trẻ em hình thành năng lực người ở trình độ cao thơng qua việc dạy trẻ
hệ thống tri thức khoa học, các kĩ năng và kĩ xảo tương ứng, giúp trẻ hình thành thái độ
tích cực đối với cuộc sống và các hoạt động theo mục tiêu, nội dung, kế hoạch, phương
pháp, phương tiện và hình thức tổ chức xác định, có cơ sở khoa học.


Hoạt động dạy là hoạt động chuyên biệt của người thầy tổ chức và điều khiển hoạt động
học của học sinh nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý
và hình thành nhân cách. Tâm lý học về hoạt động dạy dựa trên khái niệm về nó để xác
định vấn đề hàng đầu là bản chất của hoạt động dạy.
7.1.1.2. Bản chất của hoạt động dạy
Hiện nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về bản chất tâm lý của hoạt động
dạy. Theo quan điểm tâm lý học hiện đại, hoạt động dạy có những đặc trưng bản chất cơ
bản sau:
+ Tổ chức quá trình tái tạo tri thức của học sinh. Khác với quan niệm của dạy học
truyền thống cho rằng dạy là thầy truyền thụ kiến thức cho trò. Tâm lý học dạy học hiện
đại cho rằng học trò khơng thể có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bằng cách tiếp thu từ thầy một
cách trực tiếp mà phải bằng cách tái tạo lại chúng theo con đường mà nhân loại đã trải
qua. Với quan niệm này, bản chất hoạt động dạy khơng cịn được hiểu là truyền thụ mà là
hướng dẫn, tổ chức và điều khiển học sinh tự mình tìm kiếm, khám phá, tái tạo lại tri thức
đã có của nhân loại cho chính bản thân mình. Đương nhiên để làm được như vậy, người
thầy phải nắm vững tri thức dạy, con đường mà nhân loại đã đi qua để phát hiện ra nó, sử
dụng những tri thức đó như là phương tiện, chất liệu để tổ chức và điều khiển người học
hoạt động để lĩnh hội chúng.
+ Khác với dạy học truyền thống, dạy học hiện đại quan niệm, cốt lõi của hoạt
động dạy là phải tạo được hoạt động học tập tính cực của học sinh. Nghĩa là thầy phải
khơi dậy được tính tích cực học tập của trò, phải làm cho trò vừa ý thức được đối tượng
cần chiếm lĩnh, hình thành nhu cầu chiếm lĩnh, biết cách chiếm lĩnh, chủ động tích cực
tìm kiếm, khám phá đối tượng. Thầy phải là người tổ chức và điều khiển, động viên,
khích lệ, tạo điều kiện… để trị tích cực thực hiện các hành động học tập nhằm chiếm lĩnh

đối tượng. Theo đó, sự lĩnh hội tri thức khoa học thực sự chỉ có thể là kết quả của những
hành động học tập tích cực. Cho nên chính tính tích cực của học sinh quyết định chất
lượng học tập. Như vậy hoạt động dạy phải có tính chất động viên, khích lệ, thúc đẩy, tạo
điều kiện để hình thành được ở trị động cơ học tập tích cực.
+ Hoạt động dạy ln thống nhất, gắn bó chặt chẽ với hoạt động học.
Hoạt động dạy do thầy thực hiện có chức năng tổ chức điều khiển quá trình lĩnh
hội tri thức của học sinh, nó phải phù hợp với hoạt động học của học sinh. Dạy để học
sinh học chứ không phải dạy để mà dạy.


Hoạt động học do học sinh thực hiện, có chức năng hành động tích cực thì mới
lĩnh hội được tri thức và kinh nghiệm mà xã hội loài người đã tích lũy được. Hoạt động
học cần có sự chỉ đạo, tổ chức, điều khiển của hoạt động dạy của thầy giáo “khơng thầy
đố mày làm nên”.
Vì vậy, hoạt động dạy và hoạt động học gắn bó rất chặt chẽ với nhau, thống nhất
biện chứng với nhau. Hiệu quả của hoạt động dạy thể hiện ở hoạt động học và kết quả
học của trò. Ngược lại, hoạt động học của trò thực hiện như thế nào lại do hoạt động dạy
của thầy qui định.
Như vậy, bản chất của hoạt động dạy là quá trình hướng dẫn, tổ chức, điều khiển
quá trình tái tạo tri thức của học sinh, động viên, khích lệ, tạo điều kiện cho học sinh tích
cực hành động chiếm lĩnh tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo để phát triển tâm lý và hình
thành nhân cách. Bản chất của hoạt động dạy khơng phải là q trình thông báo, truyền
thụ kiến thức cho học sinh. Tất nhiên trong tổ chức và điều khiển học sinh học tập thầy
có thơng báo và truyền thụ tri thức như đó khơng phải là yếu tố quyết định.
7.1.1.3. Mục đích của hoạt động dạy
Mục đích cuối cùng của hoạt động dạy của thầy là giúp trẻ lĩnh hội nền văn hóa
xã hội, phát triển tâm lý, hình thành nhân cách của chúng. Tuy nhiên, mục đích này
khơng thể thực hiện một cách trực tiếp mà chỉ có thể đạt tới thơng qua q trình hoạt
động học tích cực của trị - đó là là mục đích trực tiếp của hoạt động dạy của thầy. Chỉ
khi hoạt động dạy của thầy tạo được hoạt động học tích cực của trị thì trẻ mới chiếm lính

được tri thức khoa học thực sự, kĩ năng và kĩ xảo tương ứng, phát triển được tâm lý, hình
thành nhân cách của họ. Giáo dục truước đây hầu như chỉ mới chú ý đến mục đích cuối
cùng của hoạt động dạy, vì vậy hoạt động dạy được coi như là quá trình thầy truyền thụ
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cịn học sinh thì tiếp thu chúng để tạo ra sự phát triển của chính
mình. Những nghiên cứu tâm lý học nửa cuối thế kỉ 20 cho thấy, học sinh chỉ có thể lĩnh
hội được tri thức khoa học, phát triển tâm lý trong dạy học bằng q trình hoạt động tích
cực của chính các em. Trên cơ sở đó, giáo dục hiện đại coi hoạt động học tích cực là mục
tiêu trực tiếp của hoạt động dạy. Vì vậy, tích cực hóa hoạt động học của trò là mục tiêu
hàng đầu của hoạt động dạy của thầy. Nói cách khác, tâm lý học dạy học hiện đại cho
rằng, hoạt động dạy của thầy có hai mục đích: mục đích cao nhất và cuối cùng là hình
thành ở học sinh hệ thống tri thức khoa học và những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng; nhưng
mục đích này chỉ có thể thực hiện được thơng qua mục đích trực tiếp: tạo ra được hoạt


động học tích cực của trị. Hai mục đích này của hoạt động dạy học có quan hệ biện
chứng với nhau trong hoạt động dạy học của nhà trường.
7.1.1.4. Động cơ hoạt động dạy
Hoạt động dạy là một loại hoạt động đầy khó khăn, phức tạp, để thực hiện được
mục đích nó cần được thúc đẩy bởi một hệ động cơ mạnh mẽ. Cũng như các nghề thuộc
lao động tinh thần khác, động cơ hoạt động dạy rất phức tạp và đa dạng bao gồm hai loại
chính:
- Động cơ tinh thần là những thúc đẩy có giá trị tinh thần: đạo đức, sự tôn vinh của
xã hội, long yêu trẻ, u nghề… Những động cơ này có vai trị cơ bản lâu dài trong việc
thúc đẩy hoạt động nghề nghiệp của giáo viên.
- Động cơ vật chất liên quan đến đời sống vật chất mà chủ yếu là tiền lương, tiền
thưởng với tư cách là sự trả công để tái sản sinh sức lao động xã hội theo nguyên tắc kinh
tế thị trường.
Với các nghề khác, loại động cơ thứ hai đóng vai trị cơ bản cịn loại động cơ thứ
nhất đống vai trò hỗ trợ. Tuy nhiên, đối với nghề thầy động cơ của hoạt động dạy cho đến
nay người ta vẫn chủ yếu chú ý đến loại động cơ thứ nhất mà ít chú ý đến loại động cơ

vật chất - thực tiễn, trực tiếp. Lao động dạy học gần như nó được mặc định: đạo đức, cao
q, là cống hiến… nên khơng được tính tốn theo kiểu kinh tế thị trường. Quan niệm
như vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy của một số đông giáo viên và đặt ra
những khó khăn cho thanh niên trong việc lựa chọn nghề sư phạm. Thực ra, đây là một
cách nghĩ đã trở thành truyền thống được bắt nguồn từ dạy học cổ truyền trong nền văn
minh nông nghiệp. Khi đó, do khơng đánh giá được giá trị lao động tinh thần nên người
ta nói khơng trả cơng cho lao động trí óc nói chung, lao động dạy học nói riêng mà trả
bằng giá trị tinh thần, bằng sự tôn vinh. Sang thời đại văn minh công nghiệp và hiện nay
là văn minh tri thức, mặc dù có sự thay đổi nhưng lao động dạy do tính đặc thù của mình
vẫn chưa được đánh giá theo kinh tế thị trường. Đây là vấn đề còn nhiều bàn cãi và chắc
cịn lâu mới có sự nhất trí, tuy nhiên việc tạo động cơ cho hoạt động dạy đòi hỏi phải có
những thay đổi về cách nhìn đối với vấn đề.
7.1.1.4. Những hành động dạy cơ bản
Hoạt động dạy cũng được cấu thành từ các hành động với mà mỗi hành động có một mục
đích cụ thể của mình. Sau đây là một số hành động dạy cơ bản:


- Thiết kế bài dạy: bài dạy được hiểu là một q trình dạy có mục đích là hình
thành ở học sinh một khái niệm môn học. Để thực hiện hoạt động dạy thành công, trước
hết người thầy phải thiết kế được bài dạy mà mục đích là lập được bản kế hoạch dạy học
chi tiết (trước đây gọi là soạn bài). Hành động thiết kế bài dạy gồm nhiều việc làm cụ thể
với những sản phẩm cụ thể. Bao gồm:
+ Xác định mục đích bài dạy: khái niệm khoa học mà học sinh phải lĩnh hội và
những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng mà học sinh phải hình thành được khi bài dạy kết thúc.
Phải xác định sản phẩm mà học sinh cần phải có được và tiêu chuẩn cụ thể của sản phẩm
đó (mức độ nắm khái niệm và hình thành kĩ năng kĩ xảo). Đây cũng chính là yêu cầu về
kiến thức, kỹ năng, thái độ đối với mỗi bài học. Một việc làm quan trọng là phải xác định
được vị trí, vai trị của khái niệm sẽ hình thành trong hệ thống tri thứccủa học sinh và
chuẩn bị để học sinh sẽ sử dụng nó như là công cụ để lĩnh hội khái niệm tiếp theo của
môn học.

+ Xác định nội dung dạy và học: trên cơ sở mục đích, xác định nội dung dạy, tức
là chỉ ra các việc làm, thao tác mà thầy và trị phải thực hiện theo một lơ gic nhất định và
những quy định chặt chẽ phải tuân theo khi thực hiện các công việc để học sinh lĩnh hội
được khái niệm. Có nghĩa là người giáo viên phải thiết kế ra hành động mà học sinh thực
hiện trong quá trình học.
+ Xác định phương tiện dạy và học: cung cấp phương tiện và điều kiện để học sinh
thực hiện họat động học tập, đó chính là tài liệu, sách vở, đồ dùng học tập, thiết bị thí
nghiệm phù hợp với nội dung học tập. Các phương tiện này có thể do nhà trường cung
cấp, có thể do học sinh và giáo viên tự làm, tự sưu tầm. Phương tiện dạy quan trọng nhất
của người thầy là vốn tri thức và ngôn ngữ. Tuy nhiên, khác với dạy học truyền thống
ngôn ngữ được sử dụng với tư cách là phương tiện truyền thụ, trong dạy học hiện đại
ngôn ngữ là phương tiện cơ bản để người thầy giáo hướng dẫn và tổ chức học trò thực
hiện các nội dung hoạt động.
+ Xác định phương pháp dạy: Trên cơ sở mục tiêu, nội dung, phương tiện dạy học
và trình độ của học sinh, thầy phải xác định phương pháp dạy tức là phương pháp tác
động phù hợp để học sinh thực hiện hoạt động học một cách hiệu quả. Việc lựa chọn
được phương pháp dạy phù hợp là công việc rất quan trọng đối với việc thực hiện nội
dung dạy. Phương hướng chung của dạy học hiện đại là phương pháp dạy phải đảm bảo
phát huy được tính tích cực của học sinh.


+ Xác định quá trình thực hiện bài dạy trải theo thời gian tuyến tính trong đó phải
qui định được từng việc làm của thầy và trò trong bài học dạy vào những khoảng thời
gian hợp lý.
- Tổ chức điều khiển hoạt động học của học sinh: là quá trình thực hiện bài dạy,
hiện thực hóa kế hoạch dạy học đã thiết kế. Quan trọng là tổ chức được hệ thống việc làm
của học sinh theo thiết kế.
- Kiểm tra quá trình dạy: khác với dạy học truyền thống việc kiểm tra thực ra là
đánh giá sau mỗi tiết học hoặc bài học. Dạy học hiện đại quan niệm kiểm tra là quá trình
hành động đi song song với hành động tổ chức nhằm phát hiện các lỗi, các sai lệch, các

hở sót trong q trình hành động học của mỗi học sinh để kịp thời sửa chữa để đảm bảo
cho học sinh làm đúng nhờ đó chắc chắn lĩnh hội được tri thức qui định. hình thành. Bên
cạnh quá trình kiểm tra, người thầy phải hướng dẫn để hình thành khả năng tự kiểm tra
hành động học cho học sinh.
- Điều chỉnh: trong q trình dạy có thể xuất hiện những yếu tố mới, những khó
khăn và sai lầm của học sinh…làm cho hành động dạy nếu cứ thực hiện theo đúng kế
hoạch sẽ không đảm bảo chất lượng. Khi đó, người thầy phải điều chỉnh hành động để
việc dạy phù hợp với tình hình mới, giúp đỡ các học sinh gặp sai lầm, khó khăn để các
em có được hành động đúng.
- Đánh giá và hướng dẫn học sinh tự đánh giá là hành động dạy quan trọng trong
đó người thầy đưa học sinh vào các tình huốn khác nhau mà để giải quyết chúng, học
sinh phải dùng kiến thức đã học để giải quyết. Qua đó xác nhận kết quả học tập, đem kết
quả này đối chiếu với mục tiêu đã đề ra. Trên cơ sở đánh giá xác định hành động dạy tiếp
theo. Trong đánh giá, hai việc làm cơ bản nhất là xác định được tiêu chí đánh giá mức độ
nắm vững kiến thức của học sinh và khách quan hóa được việc đánh giá để đảm bảo kết
quả đánh giá phản ánh được cái đã hình thành ở học sinh sau quá trình học.
7.1.1.5. Những yếu tố quy định sự thành công của họat động dạy
Hoạt động dạy chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Cơ bản
là:
- Các yếu tố chủ quan quy định thành công trong hoạt động dạy:
+ Trình độ chun mơn và nghiệp vụ của người giáo viên là yếu tố có tác động
quan trọng đối với thành cơng của hoạt động dạy, vì nó quy định nội dung và phương
pháp dạy học của người thầy giáo. Trình độ chun mơn nghiệp vụ của người thầy giáo
thể hiện ở:


- Khả năng hiểu và đánh giá đúng trình độ của học sinh. Đó là khả năng của người
giáo viên hiểu được đúng cái đã có, cái chưa có và cái đang hình thành ở học sinh. Khả
năng xác định nội dung, cách thức, con đường tác động phù hợp với đặc điểm tâm lý học
sinh để đảm bảo dạy học hiệu quả, nắm bắt nhanh chóng và chính xác diễn biến tâm lý

của học sinh, phát hiện các vấn đề tâm lý nảy sinh ở học sinh trong quá trình dạy học.
- Khả năng nắm vững nội dung dạy, đánh giá, phân tích và phát triển chương trình
dạy. Đây là điều kiện cơ bản, yêu cầu người giáo viên phải nắm vững những nội dung
chủ yếu của môn học, chương trình tổng thể, chương trình cấp học, lớp học... Đánh giá
được chương trình, phân tích được cấu trúc lơ gic của chương trình, xác định được những
nội dung cơ bản, then chốt của chương trình. Trên cơ sở đánh giá và phân tích chương
trình, người giáo viên hiện đại phải phát triển được chương trình chung thành chương
trình dạy học cho từng lớp, từng học sinh. Việc phát triển chương trình dạy học trước hết
là cụ thể hóa để phù hợp với địa phương, vùng miền và trình độ của học sinh sau đó là
nâng cao chương trình một cách thường xuyên để nó đáp ứng được sự phát triển không
ngừng của tri thức môn học. Năng lực phát triển chương trình là một yêu cầu quan trọng
đối với người giáo viên hiện vì nó đảm bảo cho hoạt động dạy luôn phát triển, phù hợp
với học sinh và sự phát triển của khoa học.
- Khả năng nắm vững, đánh giá, lựa chọn và chế biến tài liệu dạy. Trong dạy học
hiện đại, vai trò của tài liệu dạy khác với dạy học truyền thống, nó khơng được coi là
chuẩn mực nữa mà đó là sự cụ thể hóa chương trình dạy (vì vậy có thể có nhiều bộ tài
liệu dạy cho một chương trình) mà thầy và trị phải thực hiện. Tuy nhiên, tài liệu vẫn là
phương tiện dạy học quan trọng. Để sử dụng nó hiệu quả, trước hết người thầy phải đánh
giá, phân tích được các tài liệu, nắm được cái trung tâm, cái cơ bản trong mỗi tài liệu hiện
có để trên cơ sở đó lựa chọn tài liệu dạy phù hợp nhất đối với chương trình dạy, đặc điểm
và trình độ của thầy và của trò. Với tài liệu dạy đã được lựa chọn, thầy giáo phải chế biến
nó bằng việc sắp xếp, bổ sung, lược bỏ bớt... nội dung để nó phù hợp với đặc điểm học
sinh, điều kiện của hoạt động dạy học. Bản chất của chế biến tài liệu dạy là giáo viên xây
dựng một tài liệu dạy của riêng mình vừa đảm bảo nội dung chương trình qui định, vừa
phù hợp với đặc điểm thực tế.
- Khả năng lựa chọn phương tiện, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Sau
khi đã xác định nội dung dạy học cụ thể cho một bài học ở từng lớp học, thầy giáp phải
lựa chọn được phương tiện dạy học hợp lý. Phương tiện dạy học có ý nghĩa quan trọng
đối với việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả dạy học. Trong dạy học, giáo viên phải sử



dụng một hệ thống các phương tiện khác nhau gồm: các phương tiện tinh thần: tri thức, kĩ
năng; phương tiện ngơn ngữ: lời nói, chữ viết; phương tiện vật chất: tài liệu, đồ dùng thực
hành thí nghiệm... Trong đó vốn tri thức và ngơn ngữ của thầy có vai trị quan trọng hàng
đầu. Mỗi phương tiện lại yêu cầu những cách thức thao tác riêng của mình - đó chính là
phương pháp. Việc lựa chọn và thực hiện đúng phương pháp sử dụng các phương tiện
dạy hiện có là yêu cầu quan trọng để dạy có chất lượng. Việc tiếp theo khi lựa chọn nội
dung, phương tiện và phương pháp dạy học là xác định hình thức tổ chức dạy học, mỗi
nội dung, phương tiện và phương pháp lại phải được tổ chức dưới một hình thức tổ chức
dạy học tương ứng. Khi đó bài dạy mới đảm bảo hiệu quả cao.
- Hoạch định những hành động cần thiết của học sinh trong giờ học là một yêu cầu
quan trọng đối với người giáo viên. Theo đó, trên cơ sở thiết kế bài dạy, người giáo viên
phải xác định được hệ thống việc làm mà học sinh phải thực hiện, cách thức hướng dẫ,
kiểm tra để các em thực hiện đúng hành động qui định. Ngồi ra, thầy cịn phải hình dung
ra những tình huống có thể xảy ra làm cho bài dạy không diễn ra theo thiết kế và cách xử
lý hiệu quả. Trong đó quan trọng là những tình huống mà học sinh khơng làm đúng
hướng dẫn.
- Có các kỹ năng dạy học thuần thục. Hoạt động dạy học đòi hỏi một hệ thống rất
nhiều kĩ năng cụ thể đa dạng. Trong đó có những kĩ năng chung như kĩ năng ngôn ngữ
trong sáng, diễn đạt vấn đề một cách rõ ràng, ngắn gọn để học sinh nắm chắc công việc
phải thực hiện, kĩ năng giao tiếp sư phạm... lôi cuốn được học sinh tham gia vào hoạt
động một cách tích cực. Bên cạnh đó, mỗi mơn học, thậm chí từng bài học có thể u cầu
những kĩ năng có tính chun biệt.
+ Thái độ tích cực đối với hoạt động dạy học là một trong ba yếu tố tạo nên năng
lực dạy học của người giáo viên được cấu thành bởi nhiều phẩm chất nhân cách mà cơ
bản là:
- Lòng yêu nghề, yêu trẻ, hứng thú với công việc dạy học.
- Mạnh dạn, tự tin, trách nhiệm cao, nhiệt tình giảng dạy.
- Cần cù, chịu khó học hỏi đồng nghiệp, tận tuỵ với học sinh, ln có tinh thần tìm
tịi đổi mới, sáng tạo trong dạy học

Các yếu tố khách quan chi phối hoạt động dạy của giáo viên:
- Khả năng học tập, trình độ và thái độ học tập của học sinh. Hoạt động dạy của
thầy khơng chỉ phụ thuộc và bản thân thầy mà cịn phụ thuộc căn bản vào đối tượng dạy cái đang phát triển trong tâm lý học sinh và khách thể dạy - bản thân học sinh. Để đạt


được hiệu quả, hoạt động dạy của thầy phải phù hợp với chúng. Trong đó trước hết là khả
năng học tập của học sinh. Mỗi học sinh có những khả năng khác nhau đối với việc học
tập nói chung và vói từng mơn học nói riêng. Khả năng học tập là yếu tố có ảnh hưởng
quan trọng đối với kết quả học tập của các em. Trình độ của các học sinh trong một lớp
cũng thường không ngang nhau cũng ảnh hưởng mạnh đến kết quả dạy học. Đặc biệt, với
những học sinh có trình độ thấp hơn hoặc cao hơn mặt bằng chung đều khó học tập hiệu
quả.
- Các điều kiện giảng dạy: Hoạt động dạy chịu tác động mạnh mẽ của những điều
kiện của nhà trường và xã hội. Trong đó trước hết là cơ chế quản lý, với những cơ chế
quản lý khác nhau, hoạt động dạy sẽ được thực hiện và có hiệu quả khác nhau. Với cơ
chế quản lý quan liêu, bao cấp hoạt động dạy sẽ trở thành xơ cứng, máy móc, kém sáng
tạo; ngược lại với cơ chế quản lý dân chủ, hoạt động dạy sẽ trở nên linh hoạt, sáng tạo và
hiệu quả hơn. Liên quan đến vấn đề quản lý là môi trường nhà trường. Mức độ thân thiện
cũng là điều kiện để giáo viên dạy học hiệu quả. Các hiện tượng tâm lý xã hội cũng ảnh
hưởng tới việc dạy của giáo viên. Chẳng hạn như, truyền thống học ứng thí như hiện nay
sẽ làm cho giáo viên ln ln hướng việc dạy vào mục tiêu làm sao để học sinh đi thi
đạt kết quả cao nhất mà bỏ qua các mặt giáo dục khác... Trang thiết bị dạy học với tính
chất là phương tiện kỹ thụât có vai trị quan trọng đối với chất lượng và hiệu quả dạy học.
- Điều kiện sống và làm việc của giáo viên. Người giáo viên trước hết cũng là một
con người, với những nhu cầu của cuộc sống bình thường. Việc đảm bảo các điều kiện
sống và làm việc để thầy yên tâm với hoạt động dạy là một yếu tố đảm bảo và nâng cao
chất lượng của hoạt động này. Tất nhiên, nghề dạy học không phải là nghề để làm kinh tế
nhưng một cuộc sống và điều kiện làm việc quá thiếu thốn về vật chất tinh thần sẽ làm
giảm sút chất lượng hoạt động này.
7.1.2. Tâm lý học hoạt động học

7.1.2.1. Khái niệm họat động học
Học là một thuật ngữ được dùng nhiều trong cuộc sống hằng ngày nhưng khái
niệm học lại được dùng khác nhau trong các trường hợp khác nhau. Ví dụ: khỉ học làm
xiếc, trâu bị học cày, bừa, đứa trẻ học nói, học sinh học tập… Thực trạng này do khái
niệm học được dùng với những nội hàm khác nhau từ rộng nhất cho đến rất hẹp.
Mỗi cá thể động vật và con người đều có một hệ thống hành vi năng được thừa kế
bằng con đường di truyền sinh học. Bản năng là hành vi chung của một lồi động vật
được hình thành trong lịch sử lồi giúp các cá thể của lồi đó thích nghi được với mơi


trường sống và được ghi vào cơ cấu di truyền. Mỗi khi cá thể gặp môi trường sống quen
thuộc với lồi thì hành vi tương ứng tự nhiên xuất hiện. Ví dụ con vịt gặp nước - dù là lần
đầu tiên là hành vi bơi sẽ mặc nhiên xuất hiện, giúp nó sống được ở mơi trường này. Ở
các động vật bậc thấp, ít di chuyển do đó mơi trường sống hầu như khơng thay đổi so với
tổ tiên thì chỉ cần hành vi bản năng là đủ. Ngược lại, các lồi động vật bậc cao di chuyển
nhiều, thậm chí là rất xa nơi quen thuộc do đó trong mơi trường sống của chúng dễ xuất
hiện các tác động không quen thuộc. Khi đó, hệ thống hành vi bản năng khơng cịn đủ để
cá thể động vật thích nghi và sống cịn trong mơi trường sống mới. Để tồn tại, các cá thể
phải hình thành được cho mình những hành vi mới chưa có trong bản năng mà nhờ nó,
chúng thích nghi được với mơi trường mới. Hành vi mới này có được nhờ nguyên tắc thử
- sai và tập luyện trên cơ sở biến đổi những hành vi đã có trước đó. Việc hình thành hành
vi mới, hợp lý ở người và động vật thơng qua q trình luyện tập được gọi là học. Như
vậy, học với nghĩa rộng nhất có cả ở người và động vật.
Tuy nhiên học của người khác về học của động vật khác nhau về bản chất. Ở động
vật, việc học chỉ dừng lại ở kĩ xảo có tính chất cá thể. Các kĩ xảo chỉ được hình thành và
tồn tại trên từng cá thể, không thể truyền được từ cá thể này sang cá thể khác. Mỗi cá thể
động vật khác muốn có kĩ xảo đó thì phải làm lại từ đầu. Vì vậy, các động vật dù là động
vật bậc cao không thể phát triển quá cao so với hành vi bản năng do tổ tiên để lại. Ví dụ
con trâu mẹ cày giỏi khơng thể truyền lại cho con của nó hành vi cày.
Ở con người học cũng là hình thành hành vi mới nhưng lượng hành vi cá thể tự

hình thành cho mình chiếm tỷ lệ khơng đáng kể. Những hành vi khác với bản năng của
con người được hình thành theo con đường khác về bản chất so với kĩ xảo động vật. Đó
là ở lồi người, khi một cá thể hình thành được một hành vi mới thì nó khơng giữ cho
riêng mình mà truyền lại cho các cá thể khác. Nhờ đó các hành vi này được tích lũy lại
trong suốt chiều dài lịch sử được gọi là những kinh nghiệm xã hội lịch sử hoặc là hành vi
văn hóa. Mỗi đứa sau khi sinh ra dần dần hình thành các hành vi văn hóa nhưng khơng
bằng con đường mò mẫm, thử - sai mà bằng con đường lĩnh hội từ người lớn. Sự lĩnh hội
này cũng thực hiện bằng con đường luyện tập nhưng dưới sự hướng dẫn, tổ chức của
những người lớn - những người đã có hành vi đó - thơng qua ngơn ngữ. Như vậy, việc
học của con người là sự lĩnh hội các hành vi văn hóa một cách có ý thức, có ngơn ngữ, có
tính tự giác. Đây là điểm khác biệt về chất lượng của việc học ở người so với việc học
của con vật. Tuy nhiên, ở con người hiện đại lại có hai kiểu học khác nhau về chất lượng:
sự học ngẫu nhiên và hoạt động học ở nhà trường.


* Học ngẫu nhiên xảy ra khi người ta thực hiện một hành động hoặc giao tiếp có
mục đích khác nhưng vẫn lĩnh hội được một hiểu biết, kĩ năng hoặc kĩ xảo mới. Ví dụ:
Một em bé cầm bát đũa khi mọi người trong gia đình ăn cơm với tư cách là trị chơi
nhưng qua đó học được cách ăn bằng bát đũa. Một người thợ thủ công lúc đầu đi làm để
kiếm ăn nhưng trong q trình đó học được kĩ năng, kĩ xảo nghề...hay đi một ngày đàng
học một sàng khơn. Nói cách khác, học ngẫu nhiên là trường hợp học là một sản phẩm
phụ của quá trình sống và hoạt động của con người. Học ngẫu nhiên có các đặc điểm cơ
bản:
- Việc học được xảy ra trong một hành động, hoạt động nhằm thực hiện một mục
tiêu khác. Con người không đặt mục tiêu học nhưng vẫn học được cái mới. Việc học xảy
ra mọi nơi, mọi lúc trong cuộc sống.
- Những hiểu biết thu được của cách học này mang tính kinh nghiệm, rời rạc,
khơng hệ thống, chỉ đúng với hồn cảnh cụ thể và thường là đơn giản như: “Học ăn, học
nói, học gói, học mở”. Vì vậy, học ngẫu nhiên khơng thích hợp với những kiến thức khoa
học mang tính hệ thống chặt chẽ.

- Việc học ngẫu nhiên mất rất nhiều thời gian, công sức nên hiệu quả thấp và kết
quả rất không chắc chắn. Để thành thạo một nghề nghiệp bằng cách học ngẫu nhiên,
người ta mất nhiều năm làm việc.
* Học theo phương thức nhà trường hay còn gọi là hoạt động học đó là việc học có
tính chun biệt, có mục đích,có nội dung, có kế hoạch, có phương pháp tích cực, hình
thức tổ chức riêng và được tổ chức bởi một loại người lớn chuyên biệt là thầy giáo, thực
hiện trong môi trường chuyên biệt là nhà trường. Hoạt động học có một số đặc điểm cơ
bản:
- Có mục đích trực tiếp là chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Quá trình hành
động và giao tiếp trong học tập thực hiện mục tiêu lĩnh hội đề ra trước. Để thực hiện mục
đích, người học phải thực hiện những nội dung hoạt động và thực hiện chúng theo những
cách thức, hình thức tổ chức theo qui định. Quá trình học được kiểm tra thường xuyên và
kết quả học được đánh giá cụ thể.
- Hiệu quả lĩnh hội cao: trong một thời gian ngắn với công sức bỏ ra tối thiểu, học
sinh chiếm lĩnh được một hệ thống tri thức khoa học, phức tạp, ở trình độ cao với các kĩ
năng và kĩ xảo tương ứng, chuẩn bị cho việc tham gia vào hoạt động lao động chất lượng
cao của xã hội hiện đại. Điều mà học ngẫu nhiên không thể làm được.


- Học tập là hoạt động đặc thù của con người và chỉ có ở con người bởi vì nó
được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những
hình thức hành vi và những dạng họat động nhất định. Không chỉ vậy, hoạt động học
đóng vai trị chủ đạo đối với sự phát triển của trẻ em hiện đại. Một đứa trẻ ngày nay
không thể trở thành con người văn minh nếu không học qua nhà trường. Học theo
phương pháp nhà trường mới gọi là họat động học.
7.1.2.2. Bản chất của hoạt động học
- Đối tượng của hoạt động học là tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.
Trong hoạt động dạy thì giáo viên là chủ thể cịn đối tượng là cái đang phát triển trong
tâm lý học sinh cịn trong hoạt động học thì học sinh là chủ thể, còn đối tượng lĩnh hội là
tri thức khoa học (hoặc dựa trên cơ sở khoa học), kỹ năng, kỹ xảo tương ứng được kết

tinh lại trong các môn học. Tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng là một loại
năng lực người mà các thế hệ trước đã phát hiện ra và để lại trong nền văn hóa hiện đại.
Trong hoạt động học, học sinh lấy nó làm đối tượng, tác động vào nó đang ẩn tàng trong
các khách thể làm cho nó sống lại và chuyển vào trong tâm lý, taọ ra sự phát triển của
bản thân chủ thể.
Cùng có đối tượng là tri thức khoa học và những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng nhưng
hoạt động học của học sinh lại có khác biệt căn bản so với hoạt động nghiên cứu khoa
học của nhà khoa học. Tri thức khoa học mà nhà khoa học nghiên cứu là bản chất, qui
luật vận động của thế giới khách quan trước đó lồi người chưa biết, nhờ hoạt động
nghiên cứu khoa học, con người lần đầu tiên phát hiện ra chúng (gọi là phát minh khoa
học). Sản phẩm của hoạt động nghiên cứu khoa học là tri thức, kĩ năng và kĩ xảo tương
ứng là cái mới không chỉ với cá nhân nhà khoa học mà còn đối với cả nhân loại. Còn tri
thức, kĩ năng và kĩ xảo mà học sinh lĩnh hội thì chỉ mới đối với cá nhân học sinh nhưng
không mới đối với lồi người. Nói cách khác, hoạt động học của học sinh nhằm tái tạo lại
cái mà các nhà khoa học đã phát hiện ra. Tuy nhiên, hoạt động học không phải là sự tiếp
thu thụ động tri thức khoa học mà nhà khoa học đã phát hiện ra. Để có hiểu biết khoa học
thực sự, học sinh phải đi lại con đường mà nhà khoa học đã đi để tìm ra tri thức. Chỉ khác
là, nhờ sự dẫn dắt của thầy, học sinh không phải đi theo con đường lịch sử của khoa học
mà đi theo con đường lô gic ngắn nhất và thẳng nhất mà không lặp lại những sai lầm của
nhà khoa học với thời gian và cơng sức ít nhất. Ví dụ: để phát hiện ra khơng khí có N2 và
O2, La-voa-di-ê mất nhiều năm nhưng học sinh tiểu học thì có tri thức đó trong một tiết
học. Tóm lại, nghiên cứu khoa học và hoạt động học là hai hoạt động khác nhau nhưng


chúng đều thực hiện theo cơ chế phát hiện sáng tạo - cơ chế bằng hoạt động của mình,
chủ thể tác động vào khách thể để đối tượng phải bộc lộ và chiếm lĩnh chúng.
- Hoạt động học là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính bản thân chủ thể. Đây
là đặc trưng quan trọng nhất của hoạt động học. Trong khi các họat động khác của con
người nhằm làm thay đổi đối tượng, biến đối tượng thành sản phẩm, thì hoạt động học
của học sinh lại khơng nhằm vào biến đổi đối tượng mà quá trình tác động vào đối tượng

lại làm thay đổi chính bản thân người học. Hoạt động học chỉ làm đối tượng chuyển dời
từ các khách thể bên ngồi vào trong đầu óc chủ thể, qua đó chúng nâng cao nhận thức,
làm thay đổi suy nghĩ, hình thành được kỹ năng, kỹ xảo, tình cảm… của bản thân người
học. Cũng có khi hoạt động học làm thay đổi đối tượng, phát hiện được tri thức mới
nhưng đây là trường hợp cực kì hãn hữu, nếu có thì nó cũng chỉ là hệ qủa của sự thay đổi
chính bản thân người học, đó là khi người học có khả năng sáng tạo. Ví dụ, trường hợp
Gau-xơ phát hiện ra cách thực hiện phép cộng từ 1 đến 10 một cách ngắn nhất.
- Hoạt động học là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức. Nghĩa là người
học phải có ý thức học tập- nhận thức về hoạt động, có thái độ đối với hoạt động và hành
vi tương ứng. Quan trọng hơn, hoạt động học phải luôn được sự điều khiển theo ý thức
của người học. Cụ thể:
Người học phải có mục đích học tập đúng đắn là chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo... Đó là mục đích quan trọng nhất, các mục đích khác phải trên cơ sở mục đích chiếm
lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Không để các mục đích khác lấn át mục đích học. Trên cơ
sở mục đích học đúng đắn, hình thành được hệ động cơ học tập tích cực.
Ví dụ: học sinh phải có mục đích học tập là nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và
để có chúng phải thật tích cực học. Mục đích học tập của học sinh khơng phải là để có
điểm số, bằng cấp và thực hiện mục đích này bằng những cách thức...
Để thực hiện được mục đích học đã xác định, người học phải tìm phương pháp
học tập, lựa chọn phương pháp học tập thích hợp và biết vận dụng phương pháp học tập
một cách hiệu quả...
Người học phải có sự nổ lực bản thân, ý chí vượt khó, chăm chỉ, tự lực, tự giác
hồn thành các nhiệm vụ học tập, thực hiện các hành động học cần thiết để lĩnh hội được
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã xác định. Việc học chỉ thực sự hiệu quả khi người học tích
cực học, người khác học giúp. Ngay cả khi thầy tích cực dạy mà trị khơng tích cực học
thì học tập cũng khơng thể có kết quả.


- Hoạt động học còn hướng vào việc lĩnh hội phương pháp học. Để lĩnh hội được
tri thức khoa học, kĩ năng và kĩ xảo tương ứng, người học phải có phương pháp hoạt

động tương ứng - phương pháp học. Tuy nhiên, phương pháp học khơng thể hình thành
một cách riêng rẽ, độc lập mà được hình thành trong chính quá trình học tập để lĩnh hội
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng của học sinh. Khi thực hiện hoạt động học để lĩnh hội
một tri thức thì đồng thời học sinh lĩnh hội được cách thức chiếm lĩnh chúng. Như vậy,
trong hoạt động học, học sinh lĩnh hội không chỉ tri thức khoa học, kĩ năng, kĩ xảo tương
ứng mà còn lĩnh hội được tri thức về hoạt động, các kĩ năng và kĩ xảo học. Vì vậy, trong
q trình dạy học, người thầy khơng chỉ hình thành ở trị hình ảnh của tri thức vào trí nhớ
mà phải hướng dẫn họ sinh thực hiện các thức lĩnh hội tri thức, nghĩa là phải hướng dẫn
học sinh tiến hành các thao tác trí tuệ để phát hiện tri thức và vận dụng kiến thức để suy
nghĩ sáng tạo. Ví dụ: dạy các cơng thức tính diện tích các hình thì khơng chỉ dạy học sinh
nắm được các cơng thức đơn thuần mà cịn các thao tác trí tuệ: phân tích, tổng hợp, khái
qt hóa... mà nhân loại đã dùng để phát hiện các cơng thức đó.
* Các cơ chế học của con người
Mặc dù được thể hiện đa dạng nhưng về cơ bản việc học của con người được diễn
ra theo 3 cơ chế chủ yếu: tập nhiễm, bắt chước và nhận thức.
+ Học theo cơ chế tập nhiễm. Tập nhiễm là sự ảnh hưởng tự phát trong quá trình
tương tác lẫn nhau giữa các cá thể trong nhóm trong q trình sống và hoạt động chung.
Ảnh hưởng lẫn nhau này dẫn đến sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của các cá thể
đó. Đặc trưng cơ bản của tập nhiễm là sự tác động và tiếp nhận một cách vô thức. Tập
nhiễm là cơ chế học đơn giản và tự nhiên nhất, trong đó người bị tập nhiễm có thể khơng
ý thức được về sự thay đổi của bản thân. Ví dụ: Trẻ bị nhiễm tật nói dối, nói tục khi sống
trong mơi trường mà người lớn thường nói dối, nói tục. Hay một số học sinh bị nhiễm
thói ăn chơi, đua địi, biếng học khi thường xuyên tham gia các nhóm bạn có đặc điểm
này.
+ Học theo cơ chế bắt chước.
- Bắt chước là cơ chế học mà trong đó cá thể lặp lại những ứng xử, hành vi của các
cá thể khác dựa vào hình ảnh tri giác được hay biểu tượng đã có về chúng. Bắt chước là
hiện tượng phổ biến ở người và động vật, nó giúp cho cá thể học được kinh nghiệm ứng
xử và lao động.
- Mơ hình chung của cơ chế bắt chước là: Quan sát hành vi, vật mẫu, ghi nhớ

chúng rồi tạo dựng lại trong hành vi của chính mình sau đó lặp lại củng cố hành vi mới.


Ví dụ em bé nhìn vào miệng mẹ lúc mẹ nói, bắt chước để phát âm. Học sinh lớp 1 bắt
chước cơ giáo viết chữ.
- Cơ chế bắt chước có nhiều mức độ: Bắt chước dựa trên hình ảnh trực quan tức
thời khi đang (Trẻ múa theo người lớn - cấp độ tri giác); bắt chước theo biểu tượng đã có
về hành động (người ta nhớ lại cái người khác đã làm để làm theo - cấp độ trí nhớ), bắt
chước theo các khái niệm và theo các phương thức (mô phỏng theo cách diễn đạt, cách tư
duy, theo lô gic hành động - cấp độ tư duy)…
Cơ chế bắt chước rất phổ biến trong cuộc sống và chiếm ưu thế khi người ta lĩnh
hội các tri thức, kĩ năng và kĩ xảo có tính kinh nghiệm. Nhưng khi con người cần nhận
thức hệ thống tri thức khoa học thì nó khơng đáp ứng được u cầu.
+ Học theo cơ chế nhận thức.
- Học theo cơ chế nhận thức là sự lĩnh hội các kiến thức về thế giới, các kỹ năng
và phương pháp hành động cũng như các giá trị sống khác qua hoạt động nhận thức (Cảm
giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng) của người học nhằm mục đích khám phá thế giới và
thoả mãn nhu cầu nhận thức.
- Học theo cơ chế nhận thức là quá trình cá nhân dưới sự giúp đỡ của người dạy
thâm nhập, khám phá, tái tạo lại, cấu trúc lại thế giới xung quanh, qua đó phát hiện ra và
chiếm lĩnh tri thức ẩn tàng trong khách thể. Nhờ vậy, kiến thức bản thân được hình thành
và phát triển. Với ý nghĩa đó, hoạt động học của học sinh được thực hiện theo cơ chế
nhận thức.
- Cơ chế nhận thức là cơ chế học cao nhất có mơ hình chung là: hành động lĩnh hội
(Hiểu) đến hành động nhớ và hành động vận dụng tri thức một cách có hệ thống và sáng
tạo vào thực tiễn hoặc để lĩnh hội một tri thức khác. Học theo cơ chế nhận thức tuân theo
quy luật nhận thức là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
trở về với thực tiễn.
Tóm lại, bản chất của họat động học là hoạt động tích cực của cá nhân người học
dưới sự tổ chức và hướng dẫn của người dạy nhằm chiếm lĩnh các tri thức khoa học, kỹ

năng, kỹ xảo tương ứng để phát triển tâm lý, hình thành nhân cách.
7.1.2.3. Các quy luật học tập
Các nghiên cứu đã xác định, quá trình học tập của con người chịu sự tác động của
nhiều qui luật tâm lý khác nhau, trong đó những qui luật có vai trị quan trọng là:
- Quy luật tâm thế


Tâm thế là một trạng thái tâm lý làm nền cho một q trình hoạt động của con
người. Nó chuẩn bị cho việc cá nhân sẵn sàng đón nhận hoặc thực hiện một hoạt động
nào đó. Tâm thế bao gồm cả sự chuẩn bị cho hoạt động, trong đó con người huy động các
khả năng cho việc thực hiện hoạt động. tâm thế thường thể hiện bằng trạng thái căng
thẳng trước khi con người tiếp nhận hoặc thực hiện hoạt động và nó có thể tác động tích
cực hoặc tiêu cực tới hoạt động cá nhân. Mức độ hoàn thành công việc phụ thuộc khá
nhiều vào tâm thế. Tâm thế là điều kiện quan trọng của hoạt động học, vì hoạt động học
chịu ảnh hưởng của trạng thái sẵn sàng của cá nhân. Giáo viên khó có thể buộc học sinh
học tập khi chúng không được chuẩn bị tâm thế sẵn sàng tốt. Sinh viên tiếp thu bài tốt
hơn, tích cực hơn nếu đã chuẩn bị trước... Tâm thế có vai trị rất quan trọng trong việc
thực hiện một cơng việc quan trọng như học bài mới, thi cử…
- Quy luật luyện tập
Luyện tập là một việc làm cần thiết để nắm vững một tri thức và kỹ năng. Luyện
tập là việc người học thực hiện lại kiến thức, kĩ năng đã học ở những mức độ khác nhau.
Ở mức độ đơn giản nhất là lặp lại nguyên xi cái đã học như học sinh lớp 1 luyện viết khi
học chữ. Ở mức độ cao hơn là vận dụng để giải quyết một tình huống mới nhưng có cùng
bản chất với tình huống học như học sinh vận dụng kiến thức để giải một bài tập. Ở mức
độ cao học sinh vận dụng kiến thức để lĩnh hội một kiến thức, kĩ năng mới như khi đã có
kiến thức về tính diện tích hình tam giác vận dụng để lĩnh hội cơng thức tính diện tích
hình thang, hình trịn...Việc luyện tập sẽ làm kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo được cũng cố trở
nên vững chắc, ổn định và nâng cao khả năng vận dụng.
Một kiến thức, kĩ năng và đặc biệt là một kĩ xảo không được luyện tập sẽ bị quên
dần. Các nhà TLH Hành vi cho rằng việc luyện tập là củng cố các mối liên hệ giữa kích

thích- phản ứng và sự tăng cường mối liên hệ này tỷ lệ thuận với số lần nó xuất hiện và tỷ
lệ thuận với sức mạnh trung bình và khoảng thời gian liên hệ. Ngược lại, khi mối liên hệ
giữa kích thích và phản ứng khơng được thực hiện trong một khoảng thời gian thì sức
mạnh của mối liên hệ giảm sút. Cịn theo lý thuyết phản xạ có điều kiện của I.P. Pav-lơp
thì độ bền vững của phản xạ phụ thuôc vào số lần và thời gian luyện tập.
* Quy luật hình thành và di chuyển các liên tưởng
Những người theo thuyết liên tưởng thì cho rằng, bản chất của học là hình thành
một liên tưởng mới, đó là sự xác lập liên hệ giữa kích thích và phản ứng tương ứng. Tuy
nhiên, liên tưởng khơng hồn tồn cố định mà có sự di chuyển, tức là nếu trong điều kiện
có sự tác động đồng thời của nhiều tác nhân kích thích, một trong số đó gây ra phản ứng


thì khơng chỉ nó mà những kích thích khác cũng có khả năng gây ra chính phản ứng đó.
Ví dụ: Giờ học bài X, học sinh vừa được nghe, nhìn hay cô giáo kể cho một câu chuyện
vui về A... thì sau đó chỉ cần nhìn thấy đối tượng A là học sinh cũng nhớ tới bài X. và
ngược lại. Sự di chuyển các liên tưởng rất quan trọng trong việc củng cố và vận dụng
kiến thức. Trong quá trình học tập, các tri thức có sự di chuyển liên tưởng theo nhiều kiểu
khác nhau: tương tự, tương cận, nhân quả… Sự hình thành và di chuyển của các liên
tưởng giúp hệ thống kiến thức con người trở nên vững chắc, trở thành hệ thống và có khả
năng vận dụng vào những tình huống khác nhau.
- Quy luật hiệu quả
Bất kỳ hành động nào mà con người thực hiện trong tình huống nhất định có thể
gây ra một sự thoả mãn ở chủ thể thì khi tình huống đó xuất hiện trở lại, sự xuất hiện của
hành động tương ứng có xác xuất lớn hơn hành động khơng tạo sự thõa mãn hoặc gây ra
sự khó chịu cho chủ thể. Trong học tập, một kiến thức, kĩ năng thõa mãn nhu cầu chủ thể
sẽ được chủ thể lĩnh hội tốt hơn. Vì vậy, khơi gợi ở học sinh nhu cầu, hứng thú với tri
thức và dạy học phù hợp với nhu cầu, hứng thú nhận thức cuảt học sinh là một yêu cầu
căn bản của dạy học hiện đại.
7.1.2.4. Hình thành hoạt động học
Học sinh không thể học tập hiệu quả nếu không thực hiện được hoạt đoọng học.

Tuy nhiên, hoạt động học khơng có trước ở học sinh khi trẻ bước vào nhà trường và cũng
khơng thể hình thành nó một cách riêng rẽ, độc lập. Vì vậy, trong quá trình dạy học, bên
cạnh việc tổ chức cho học sinh lĩnh hội, thầy cịn phải tổ chức hình thành hoạt động học
cho trò. Vận dụng thành tựu lý luận của A.N.Leonchev về hoạt động tâm lý vào lĩnh vực
dạy học cho thấy, hoạt động học cũng có cấu trúc cơ bản bên trong gồm các yếu tố: động
cơ học tập, mục đích học tập, các hành động học, và các thao tác và phương tiện, điều
kiện học. Trong đó trung tâm của hoạt động học là các hành động học. Hoạt động học
khơng tự nhiên có mà là kết quả của q trình hình thành lâu dài với khơng ít khó khăn
trởi ngại. Sự hình thành hoạt động học là kết quả tổng hợp của sự hình thành các yếu tố
bộ phận. Vì vậy, để hình thành hoạt động học cho học sinh phải hình thành được ở trẻ các
yếu tố các yếu tố cấu thành của nó. Sự hình thành các yếu tố và bản thân hoạt động học
phụ thuộc chủ yếu vào kiểu hoạt động dạy của thầy. Với những kiểu dạy khác nhau, học
sinh sẽ hình thành được những kiểu hoạt động học khác nhau.
- Hình thành động cơ học tập


Bất kì hoạt động nào của con người cũng cần phải có một sự định hướng và một
sự thúc đẩy để vượt qua những khó khăn, trở ngại gặp phải trong quá trình thực hiện. Cái
định hướng và thúc đẩy hoạt động con người được gọi là động cơ hoạt động. Động cơ
hoạt động xuất hiện khi có sự gặp gỡ giữa đối tượng hoạt động với nhu cầu của chủ thể.
Động cơ bao giờ cũng gắn với một hoạt động nhất định và mang đậm ý nghĩa chủ thể
(mỗi người có động cơ riêng, khác nhau khi thực hiện một hoạt động giống nhau thậm
chí là thực hiện chung một hoạt động vì người ta có nhu cầu khác nhau). Một hoạt động
có thể có thể được thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau. Các động cơ cùng tham gia
thúc đẩy một hoạt động kết hợp với nhau tạo thành một hệ động cơ trong đó mỗi động cơ
có vai trị và thứ bậc khác nhau. Mỗi hệ động cơ bao giờ cũng có một động cơ mạnh nhất
đóng vai trị chủ đạo cịn những động cơ khác đóng vai trị hỗ trợ.
Hoạt động học của học sinh là một hoạt động xảy ra trong một thời gian dài và
phải vượt qua nhiều khó khan, trở ngại vì vậy nó cần phải được định hướng và thúc đẩy
bởi một hệ động cơ học tập mạnh mẽ. Động cơ học tập là những đối tượng (hệ thống tri

thức, kỹ năng, kỹ xảo) của hoạt động này phù hợp với nhu cầu, hứng thú của học sinh trở
thành vật kích thích, thúc đẩy các em học tập, rèn luyện nhằm chiếm lĩnh chính nó.
Những đối tượng đó được chủ thể ý thức và có khả năng thõa mãn nhu cầu và trở thành
cái thúc đẩy chủ thể học tập. Ví dụ: Một học sinh cố gắng học vì khi học tốt sẽ được
thưởng, ngược lại một học sinh khác thì học để khỏi bị trừng phạt.
Cũng giống như các hoạt động khác, vì học sinh có nhiều nhu cầu khác nhau liên
quan tới học tập nên hoạt động học cũng có thể được thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác
nhau. Việc phân loại động cơ hoạt động học cũng có nhiều cách khác nhau. Căn cứ vào
đối tượng tạo ra động cơ, người ta phân động cơ học tập thành hai loại cơ bản:
- Động cơ hoàn thiện tri thức (động cơ bên trong). Loại động cơ này do chính bản
thân hoạt động học gây ra. Khi đó, chính những yếu tố ở bên trong hoạt động học trở
thành đối tượng có khả năng thõa mãn nhu cầu nào đó của chủ thể và thúc đẩy chủ thể
tích cực hoạt động. Các yếu tố của hoạt động học thường trở thành động cơ là:
Bản thân đối tượng học (nội dung môn học) gắn liền với nhu cầu của học sinh.
Nghĩa là chính tri thức khoa học, kĩ năng và kĩ xảo của môn học làm cho học sinh khao
khát chiếm lĩnh vì sự ị mị, ham hiểu biết về nó và dẫn học sinh tới sự say mê, cố gắng
khắc phục khó khăn, tích cực vươn lên trong học tập. Ví dụ, có những học sinh tích cực
học văn đơn giản là vì u thích văn thơ, thấy văn thơ hay; cũng có học sinh say mê giải


tốn vì u thích mơn tốn và cảm thấy vui sướng khi học được một kiến thức hay có
được một kĩ năng giải toán mới…
Ý nghĩa thiết thực của tri thức, kĩ năng kĩ xảo đối với cuộc sống và hoạt động của
người học cũng là động cơ học tập mạnh mẽ. Có thể ban đầu, bản thân tri thức học không
gây hứng thú, nhu cầu của bản thân nhưng việc chiếm lĩnh được nó có ý nghĩa quan trọng
đối với hoạt động và cuộc sống của bản thân. Khi đó, người học phải cố gắng và phải
chiếm lĩnh cho được tri thức, kĩ năng và kĩ xảo mới. Ví dụ, một người tích cực học ngoại
ngữ vì cơng việc địi hỏi phải sử dụng được nó. Thơng thường, tri thức ở đây ban đầu có
ý nghĩa là một phương tiện để con người thõa mãn nhu cầu công việc, cuộc sống nhưng
về lâu dài nó trở thành đối tượng của nhu cầu, hứng thú của chủ thể.

Một yếu tố khác là đối tượng trở thành động cơ bên trong của hoạt động học đó là
chính bản thân hành động học. Khi đó, nhu cầu của chủ thể là nhu cầu về bản thân hành
động chứ không phải là sản phẩm (bản thân tri thức). Nhu cầu này xuất hiện khi hành
động trở thành thói quen, nó được thõa mãn khi chủ thể thực hiện hành động. Ví dụ, được
học, đi học là niềm vui. Một học sinh có thể hứng thú khi giải tốn hoặc một học sinh có
thói quen đọc thì sẵn sàng đọc bất kì một tờ giấy có chữ nào...
Phương pháp dạy học của giáo viên cũng là một yếu tố có vai trị quan trọng trong
việc thúc đẩy hoạt động học của học. Cách dạy của người thầy có thể hấp dẫn tạo sức
cuốn hút HS tích cực học tập hoặc ngược lại. Tuy nhiên, sự cuốn hút này nhiều khi là tạm
thời, vấn đề là thầy có khơi dậy được nhu cầu, hứng thú của học sinh với tri thức hoặc
bản thân hành động học hay khơng.
Nhìn chung, động cơ bên trong của hoạt động học gắn với nhu cầu nhận thức của
bản thân học sinh.
- Động cơ quan hệ xã hội (động cơ bên ngoài). Là lọai động cơ mà lực thúc đẩy là
các quan hệ của học sinh với người khác chứ không phải do bản thân tri thức hoặc hành
động học. Khi đó, tri thức, kĩ năng, kĩ xảo chỉ là phương tiện để học sinh đạt được mục
đích khác ngồi học tập. Ví dụ như: sự thi đua, khen thưởng, trách phạt, đe dọa, sự hài
lòng của cha mẹ, sự khâm phục của bạn bè...Động cơ quan hệ xã hội gắn với nhu cầu vật
chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu, nhận thức, nhu cầu được tôn trọng và thừa nhận… của
chủ thể. Các động cơ quan hệ xã hội cũng có tác dụng thúc đẩy học sinh cố găng vươn
lên trong học tập, tích cực học tập...
Cả động cơ bên trong và động cơ bên ngoài đều tham gia vào thú đẩy hoạt động
học của người học. Chúng kết hợp với nhau tạo nên hệ động cơ của hoạt động học ở học


sinh. Vấn đề là ở chỗ, động cơ nào đóng vai trò chủ đạo trong hệ động cơ học tập, những
động cơ khác nhau đóng vai trị chủ đạo sẽ tạo ra những tình huống học khác nhau.
Nếu động cơ bên trong đóng vai trị chủ đạo thì tình huống học của học sinh sẽ là
tình huống hấp dẫn bởi mục đích, học sinh sẽ học tập vì sự lơi cuốn của bản thân tri thức
hoặc hành động học. Sự lơi cuốn đó giúp học sinh vượt qua các chướng ngại trong quá

trình học tập một cách tự giác. Vì vậy, tình huống học này khơng gây ra sự căng thẳng
tâm lý cho học sinh và đó là tình huống học tối ưu. Động có bên trong có tính chất bền
vững, lâu dài và nhiều ưu điểm nhưng nó nhiều lúc khơng đáp ứng được những địi hỏi
của hoạt động học ở những thời điểm mà con người phải nỗ lực rất cao để đạt kết quả tối
đa như là các kì thi.Vì vậy, hệ động cơ tốt nhất là hệ động cơ có động cơ bên trong đóng
vai trị chủ đạo đồng thời có những động cơ bên ngồi mạnh mẽ. Ngược lại, khi động cơ
bên ngồi đóng vai trị chủ đạo thì tình huống học là tình huống cưỡng bách có mụch
đích. Trong tình huống này, bản thân tri thức hay hành động học khơng có sự hấp dẫn với
mà chỉ là phương tiện để chủ thể đạt tới một mục đích khác nên người học phải nỗ lực cố
gắng rất nhiều để vượt qua những trở ngại bên trong và bên ngoài của hoạt động học.
Người học lại học dưới áp lực nặng nề của mục đích bên ngồi vì vậy, tình huống học
này thường gây ra sự căng thẳng, mệt mỏi về thể chất và tâm lý. Sự căng thẳng, mệt mỏi
đó có thể dẫn tới một hiện tượng là người học sẽ cố gắng tìm cách để thoát ly ra khỏi hoạt
động học với các biểu hiện: lười học, bỏ học, quay cóp để có điểm số, bằng cấp mà
không phải học. Trong trường hợp bị áp lực nặng nề, một số học sinh do nỗ lực cố gắng
chịu đựng trong một thời gian dài dẫn đến bị các rối nhiễu tâm lý thậm chí các bệnh tâm
thần.
Tóm lại: nhu cầu, hứng thú, mong muốn của cá nhân người học là nguồn gốc của
động cơ hoạt động học do đó muốn tạo động cơ phải xuất phát từ nhu cầu của họ như:
Nhu cầu vật chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu nhận thức, nhu cầu được tôn trọng và thừa
nhận... Tuy nhiên, những nhu cầu, hứng thú học tập thực sự của học sinh khơng có sẵn từ
đầu mà nó được hình thành trong chính q trình học tập của học sinh. Khi mới đến
trường trẻ em chỉ mới có nhu cầu nhận thức mang tính trực quan (sự tị mị), cảm tính
thơng thường cùng với sự thu hút bề ngoài của nhà trường. Trong khi đó, đối tượng học
của nhà trường là tri thức khoa học hoặc các hiểu biết trên cơ sở khoa học - có bản chất
khác hẳn với hiểu biết thơng thường vì vậy chúng khơng phù hợp với nhu cầu học sinh
đang có. Để học sinh có động cơ học tập, nhà trường phải biến đổi nhu cầu nhận thức
thong thường của học sinh thành nhu cầu, hứng thú đối với tri thức nhà trường. Nói cách



khác, trong q trình dạy học thầy giáo khơng chỉ dạy kiến thức khoa học, kĩ năng và kĩ
xảo tương ứng mà phải hình thành được ở học sinh nhu cầu, hứng thú về chúng của học
sinh để từ đó hình thành động cơ học tập của các em.
Để tạo được động cơ học tập đích thực cho học sinh, người giáo viên phải sử dụng
nhiều cách thức khác nhau. Cụ thể:
- Cách thức quan trọng nhất là trong quá trình giảng dạy, thầy phải phát huy được
tính tích cực học tập của học sinh, thực hiện vai trò tổ chức, hướng dẫn cho học sinh tự
lực nhận thức và giải quyết vấn đề, tự mình khám phá ra tri thức và chiếm lĩnh chúng.
Khi đó, hành động và kết quả khám phá (tri thức) sẽ thúc đẩy nhu cầu hành động khám
phá tiếp theo dần dần dẫn đến nhu cầu, hứng thú, say mê học. Đó là cách tạo động cơ bên
trong của hoạt động họccủa học sinh. Bởi vì những tri thức mà học sinh tự tìm ra được
hoặc những bài toán mà HS tự làm được, nhất là lại thêm sự cố gắng, nó sẽ làm cho các
em phấn khởi, tự tin, thêm u thích mơn học và sẽ cố gắng học hơn nữa. Ngoài ra, thầy
phải sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại như: giải quyết vấn đề, tổ chức hoạt động
nhóm, trải nghiệm sáng tạo…để củng cố và phát triển nhu cầu, hứng thú học tập của học
sinh. Khi đó động cơ bên trong sẽ dần hình thành và đóng vai trị chủ đạo. Ngược lại, nếu
thầy dạy theo kiểu áp đặt, truyền thụ… và học sinh luôn ở thế bị động -tiếp thu, học thuộc
thì sẽ khơng hình thành được nhu cầu học tập thực sự của trẻ. Khi đó, động cơ bên ngồi
sẽ chiếm vai trị chủ đạo.
- Để hệ động cơ học tập của học sinh mạnh mẽ, hoàn thiện thầy giáo cũng có thể
dùng các hình thức khuyến khích, thi đua, khen thưởng, động viên… để hình thành
những động cơ bên ngồi đóng vai trị hỗ trợ, giúp học sinh tích cực học tập hơn. Tuy
nhiên, việc sử dụng các biện pháp này phải rất thận trọng và ở một mức độ nhất định để
chúng không trở thành động cơ chủ đạo, gây ra những hiện tượng không lành mạnh như:
học tập vì điểm số, gian lận trong thi cử, bệnh thành tích…
- Hình thành mục đích học tập
Theo quan niệm của A.N. Leonchiev: Mục đích là một cái gì đó mà cá nhân ý thức
được nó và đang cố gắng vươn tới, hồn thành. Mục đích là mơ hình tâm lý của sản phẩm
hoạt động được hình dung trước trong đầu chủ thể. Nói cách khác, trước khi hoạt động
thực sự để tạo ra sản phẩm, con người đã tạo ra một sản phẩm trong tâm lý của mình

bằng hoạt động tinh thần. Mục đích có vai trị định hướng, điều khiển, điều chỉnh và đánh
giá hoạt động. Tâm lý học dạy học Mác xít đã vận dụng lý luận về mục đích hoạt động
vào lý luận hoạt động học. Theo đó:


- Mục đích học tập chính là hệ thống khái niệm, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của môn
học, mục tiêu học tập có ý nghĩa là: định hướng, điều khiển, điều chỉnh, đánh giá hoạt
động học của học sinh. Mục đích học cũng giúp huy động những cố gắng nỗ lực, tăng sự
kiên trì, thúc đẩy sự sáng tạo… của các em.
- Khác với các hoạt động khác của con người, mục đích chỉ là mơ hình tâm lý của
sản phẩm, là sản phẩm của hoạt động tinh thần, sau khi đã hình thành mục đích đóng vai
trị định hướng, điều khiển và điều chỉnh, đánh giá sản phẩm. Ở hoạt động học mục đích
và sản phẩm là một. Q trình hoạt động học tạo ra mục đích đồng thời cũng tạo ra chính
sản phẩm (tri thức, kĩ năng, kĩ xảo). Trước khi bắt tay vào hoạt động, người học khơng
hình dung được kết qủa học tập mà sẽ chiếm lĩnh từng bộ phận riêng lẻ rồi dần dần chiếm
lĩnh một khái niệm, tri thức tiến tới toàn bộ hệ thống khái niệm, tri thức môn học. Khi đạt
mục đích mơn học thì đồng thời cũng có sản phẩm - tri thức cần chiếm lĩnh. Nói cách
khác, mục đích học được hình thành trong chính q trình học sinh thực hiện hành động
học. Vì vậy, khác vói các hoạt động khác, trị khơng thể tự mình thực hiện tồn bộ hoạt
động mà ln cần có sự tổ chức và hướng dẫn của thầy. Chỉ khi đạt tới trình độ cao,
người học mới có khả năng tự học. Tuy nhiên, khơng phải cứ tham gia hoạt động học là
sẽ hình thành được mục đích học. Mục đích học tập chỉ xuất hiện khi học sinh tham gia
một cách tích cực hoạt động học tập. Trong q trình đó, mục đích xuất hiện dưới dạng
khái quát, người học chỉ hình dung sơ bộ, chung nhất về cái mình sẽ phải chiếm lĩnh. Sau
đó dần dần mục đích dần sáng đi vào mục đích cụ thể, chi tiết. Khi hoạt động học xây
dựng được mục đích đầy đủ thì đó cũng chính là sản phẩm mà nó cần đạt tới. Trước khi
bắt đầu một môn học, một môn học, giáo viên sẽ giới thiệu kết quả mà học sinh cần đạt
tới và những việc cần làm. Khi đó học sinh chỉ mới hình dung ban đầu, sơ bộ về mục
đích. Dưới sự dẫn dắt của thầy, trò mới làm rõ dần từng vấn đề cơ bản (nhũng đặc điểm
của khái niệm), sau đó tiếp tục đi sâu, làm rõ từng đặc điểm… Cuối cùng, học sinh nắm

được toàn bộ khái niệm - mục đích học chính thức hình thành, đồng thời đó cũng là sản
phẩm của hoạt động học.
Trong lý thuyết hoạt động học, người ta thường phân mục đích học thành: mục
đích xa, trừu tượng, thường khó kiểm sốt, địi hỏi phải kiên trì và quyết tâm cao trong
một thời gian dài mới có thể đạt tới được; mục tiêu gần, cụ thể, rõ ràng, dễ đánh giá, khả
năng thực hiện của học sinh cao hơn hơn và dễ tạo tính tích cực hơn vì nó vừa sức với, dễ
tạo ra sự quan tâm thường xuyên hơn so với mục tiêu trừu tượng. Mục đích xa thường là


mục đích có tính tổng thể mà để đạt tới nó cần phải thực hiện các bộ phận của nó là mục
đích gần.
- Để hình thành mục đích học tập cho học sinh, trong quá trình dạy học người thầy
giáo có thể thực hiện qui trình chung:
Trước hết, hình thành ở học sinh mục đích xa, trừu tượng: giới thiệu môn học,
chương, bài học một cách khéo léo, rõ ràng để học sinh có thể hình dung sơ bộ về cái
mình cần đạt tới chính là bước đầu hình thành mục đích học tập. Sau đó giới thiệu
chương trình của môn học, của chương. các kết quả cần đạt được qua các bước của một
bài học.
Ở từng bài học: giới thiệu bài học với kết quả cần đạt của bài (khái niệm môn
học), các kết quả cần đạt được qua các bước của bài học (các đặc điểm, các nội dung của
khái niệm).
Ở từng vấn đề, định hướng rõ cái cần đạt và cách thức đạt tới. Cần chú ý đến vấn
đề chuyển tiếp giữa các ý, các thành phần để chúng liên kết lại thành một chỉnh thể (khái
niệm) trong đầu óc học sinh.
Kiểm tra và đánh giá mức độ hình thành khái niệm ở học sinh. Khi đó mục đích
hoạt động học chính thức hình thành đồng thời cũng là sản phẩm.
- Hình thành phương tiện học: để thực hiện hoạt động học có kết quả, học sinh
phải sử dụng nhiều phương tiện học khác nhau. Trong đó có những phương tiện vật chất,
bên ngồi, có sẵn như sách vở, đồ dùng học tập, dụng cụ thí nghiệm..., những phương
tiện ngơn ngữ, kí hiệu...Các loại phương tiện này có vai trị quan trọng khơng thể thiếu

nhưng khơng quyết định chất lượng học tập. Khác với dạy học truyền thống, trong dạy
học hiện đại, phương tiện có ý nghĩa quyết định là vốn kiến thúc, kĩ năng kĩ xảo đã có ở
học sinh - phương tiện tinh thần. Chúng chính là phương tiện để học sinh sử dụng trong
quá trình thực hiện hoạt động học nhằm chiếm lĩnh tri thức mới. Khơng có tri thức cũ,
nền tảng thì người ta không thể lĩnh hội được tri thức mới. Tuy nhiên, phương tiện học
này khơng có sẵn mà chúng chính là các tri thức - mục đích học - kết quả của hoạt động
học trước đó. Nói cách khác, có một q trình chuyển hóa giữa mục đích và phương tiện
trong hoạt động học. Một khái niệm, kĩ năng và kĩ xảo vốn là một mục đích học mà để
chiếm lĩnh nó, người học học phải sử dụng phương tiện là một kiến thức đã hình thành
trước đó để chiếm lĩnh. Sau khi đã được hình thành, nó lại trở thành phương tiện để
chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kỉ xảo tiếp theo. Ví dụ, cơng thức tính diện tích hình tam giác
là mục đích học khi học sinh chưa có nó. Nhưng khi đã chiếm lĩnh được thì học sinh lại


sử dụng nó làm phương tiện để chiếm lĩnh cơng thức tính diện tích hình tứ giác, hình
trịn...Việc tổ chức, hướng dẫn để học sinh sử dụng các kiến thức, kĩ năng, kỉ xảo đã có
để giải quyết tình huống học nhằm lĩnh hội kiến thức mới là một trong những khác biệt
của dạy học hiện đại so với dạy học truyền thống. Muốn vậy, kiến thức của người học
phải đảm bảo trở thành một hệ thống, không được để có những chỗ hổng vì chúng sẽ làm
cho học sinh không thể lĩnh hội được một cách chắc chắn kiến thức tiếp theo.
- Hình thành các thao tác học: Giống như mọi hoạt động khác, chủ thể phải có các
thao tác hợp lý mới sử dụng được phương tiện để tác động vào đối tượng một cách có kết
quả. Thao tác là cách thức sử dụng phương tiện của chủ thể và bị qui định bởi chính
phương tiện, mỗi phương tiện có các thao tác riêng tương ứng. Với phương tiện vật chất
thì có thao tác tay chân: tương ứng với bút có các thao tác viết, thước thì có các thao tác
kẻ, đo... Với phương tiện ngơn ngữ thì có nghe, nói, đọc, viết. Với phương tiện tinh thần,
chủ thể có các thao tác nhận thức: tri giác, trí nhớ, ngơn ngữ, tưởng tượng và tư duy.
Trong đó giữ quan trọng nhất là các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu
tượng hóa, khái qt hóa, phân loại, hệ thống hóa và cụ thể hóa... Các thao tác học cũng
khơng có sẵn ở học sinh mà là kết quả của một quá trình học tập lâu dài. Hình thành ở

học sinh hệ thống thao tác của hoạt động học là một nhiệm vụ quan trọng của người giáo
viên. Muốn vậy, trong quá trình dạy học, thầy không được áp đặt mà phải tổ chức, hướng
dẫn học sinh sử dụng các phương tiện học để chiếm lĩnh tri thức mới theo đúng cách của
nó.
- Hình thành các hành động học
Hành động học là một bộ phận của hoạt động học trong đó bao gồm các thao tác
học mà học sinh phải thực hiện để chiếm lĩnh mục đích học- một khái niệm mơn học dưới
sự hướng dẫn của giáo viên. Trong dạy học truyền thống, học sinh phải sử dụng các hành
động học cơ bản là nghe, nhìn, hiểu, ghi nhớ, gìn giữ, tái hiện và trình bày lại với kết quả
là có một kiến thức mới về hình thức nhưng chưa chắc đã tạo ra được một năng lực hoạt
động mới. Dạy học hiện đại có quan niệm khác hẳn về hành động học. Theo đó, học
không phải là sự tiếp thu thụ động mà để lĩnh hội được tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, học sinh
phải hành động một cách tích cực lên đối tượng làm cho nó bộc lộ ra khỏi khách thể,
chiếm lĩnh nó. Trong học tập tích cực, học sinh có thể sử dụng các loại hành động khác
nhau để thực hiện những mục đích cụ thể khác nhau. Các hành động học được phân loại
theo hai cách cơ bản: hình thức và nội dung.


×