Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Chính sách tỷ giá hối đoái việt nam trong giai đoạn 2007 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.23 KB, 17 trang )

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2013
CHƯƠNG 1: CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
I.

Tỷ Giá Hối Đoái

-Trong tài chính, tỷ giá hối đoái (còn được gọi là tỷ giá trao đổi ngoại tệ, tỷ giá
Forex, tỷ giá FX hoặc Agio) giữa hai tiền tệ là tỷ giá mà tại đó một đồng tiền này
sẽ được trao đổi cho một đồng tiền khác.
-Nó cũng được coi là giá trị đồng tiền của một quốc gia đối với một tiền tệ khác.
Tỷ giá hối đoái được xác định trong thị trường ngoại hối,rộng mở cho một loạt loại
người mua và người bán khác nhau nơi việc trao đổi tiền tệ là liên tục: 24 giờ một
ngày, ngoại trừ những ngày cuối tuần, tức là giao dịch từ 20:15 GMT Chủ nhật cho
đến 22:00 GMT thứ Sáu.
II.

Tầm Quan Trọng Của Tỷ Giá Hối Đoái

Bất kì một quốc gia nào cũng luôn luôn tìm cách để đạt được hai mục tiêu lớn của
nền kinh tế : Đó là mục tiêu cân bằng ngoại (cân băng ngoại thương) và mục tiêu
cân bằng nội(cân bằng sản lượng,công ăn việc làm và lạm phát)
Ta biết rằng, tỷ giá tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và hàng
hoá nước ngoài . Khi đồng tiền của một nước tăng giá ( Tăng giá trị so với đồng tiền
khác ) thì hàng hoá nước đó tại nước ngoài trở lên đắt hơn và hàng hoá nước ngoài trở
lên rẻ hơn(giá nội địa tại hai nước giữ nguyên ) . Ngược lại, khi đồng tiền của một
nước sụt giá , hàng hoá nước đó tại nước ngoài trở lên rẻ hơn trong khi hàng hoá nước
ngoài tại nước đó trở lên đắt hơn.
Từ đó tỷ giá ảnh hưởng tới quá trình sản xuất và xuất nhập khẩu của các quốc gia và
trở thành yếu tố chính ảnh hưởng tới việc thực hiện 2 mục tiêu lớn của nền kinh tế .
Điều này có thể nhận thấy một cách rõ ràng khi xem xét nền kinh tế Việt Nam. Hiện
nay,đồng VND đang được coi là tăng giá tương đối so với các đồng tiền trong khu


vực ( do đồng tiền của các nước này giảm giá so với đồng USD ) nên giá cả của hàng
Việt Nam trên thị trường quốc tế đang cao hơn so với hàng hoá cùng chủng loại của
các nước trong khu vực dẫn đến bị cạnh tranh một cách gay gắt.
Vì sự quan trọng của nó nên nhà nước ta phải có những chính sách phù hợp để
điều chỉnh tý giá hối đoái sao cho phù hợp với thị trường đầy biến động trong
nước cũng như thế giới


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN 2007 – 2013
Chúng ta sẽ chia làm 3 giai đoạn mà ở các giai đoạn đó bộ tài chính đã đưa ra
những chính sách khác nhau để điều chỉnh tỷ giá hối đoái cho phù hợp với tình
hình kinh tế trong nước cũng như nước ngoài.
Giai đoạn 1: đầu năm 2007 đến cuối tháng 8 năm 2008: giai đoạn trước suy thoái
kinh tế.
Giai đoạn 2: tiếp đó cho đến năm 2010: giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu.
Giai đoạn 3: năm 2011 đến năm 2013: giai đoạn sau suy thoái và nền kinh tế bắt
đầu phục hồi.
I.
Giai đoạn 1: Trước suy thoái kinh tế
1. Tình Hình Kinh Tế:

Từ cuối năm 2006 đến giữa đầu năm 2007, nền kinh tế VN nổi lên với nhiều sự
kiện, chỉ tiêu đầy hứa hẹn. VN chính thức là thành viên của tổ chức thương mại
thế giới (WTO). Tốc độ tăng trưởng GDP đứng thứ hai châu lục. Kim ngạch xuất
khẩu tăng đều từ 20 đến 25%. Dòng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối liên tục tăng
lên đạt các kỷ lục mới. Chỉ số chứng khoán VN-Index tăng lên gấp 4 lần.
Tuy nhiên, đến giữa năm 2007, thông kê chỉ số giá tiêu dùng đã lên tiếng báo hiệu
một điều không tốt lành cho nền kinh tế: chỉ số CPI đã tăng quá cao. Cuối năm 2007,
con số lạm phát được công bố là 12,6% - cao nhất trong vòng 12 năm qua. Đầu

năm 2008, chỉ số này tiếp tục tăng mạnh, riêng 3 tháng đầu năm chỉ số CPI đã tăng
lên đến 9,19%, đã vượt mức chỉ tiêu lạm phát trong năm 2008 (8,5%) do Chính phủ
đề ra.
(chỉ số CPI là chỉ số tiêu dùng)
Kiểm soát lạm phát hiện nay là một trong những mục tiêu cấp bách hàng đầu của
Chính phủ. Ngoài các nguyên nhân như: thiên tai, đầu tư không hiệu quả, giá yếu tố
sản xuất tăng,… còn có nguyên nhân quan trọng tác động đến lạm phát hiện nay đó là
VN còn bất cập trong các chính sách đối ứng với cú sốc bên ngoài, trong đó có
chính sách tỷ giá. Định hướng chính sách tỷ giá không phù hợp so với biến động của
kinh tế thế giới dẫn đến kết quả là: lượng cung tiền tăng đột biến; chi phí cho sản xuất
trong nước tăng cao. Đây là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn tới lạm phát cao tại VN.


2. Chính sách tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn này là tỷ giá linh hoạt

Từ năm 2000, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của VN điều chỉnh từ chỗ công bố
tỷ giá chính thức theo tín hiệu thị trường với từng khoảng thời gian có hiệu lực tương
đối dài, sang cơ chế công bố tỷ giá theo động thái hàng ngày của thị trường ngoại tệ.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện tốt chính sách điều hành tỷ giá theo
định hướng của Chính phủ: vừa theo thị trường, vừa có can thiệp khi cần thiết. Việc
điều chỉnh này đã tác động rất tích cực đối với thị trường tiền tệ. Tỷ giá giữa các
ngoại tệ với VND đã được duy trì tương đối ổn định trong nhiều năm, theo 3 chế độ
chủ yếu là:
* Chế độ tỷ giá cố định trước suy thoái tài chính châu á
* Chế độ tỷ giá cố định với biên độ dao động giai đoạn 1997-1999
* Chế độ tỷ giá linh hoạt từ sau năm 1999.
Tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ ở VN đã có tính thị trường, nhưng còn hạn chế.
Từ 1996 đến 2006, VND đã được điều chỉnh theo hướng hạ giá VND liên tục. Tuy
nhiên, VND vẫn có những biểu hiện được đánh giá cao hơn thực tế. Đầu năm 2007
cho đến nay, VND có xu hướng lên giá liên tục do 2 nguyên nhân chính: nguồn cung

ngoại tệ từ nước ngoài vào VN tăng mạnh và ứ đọng tại các NHTM; trên thế giới,
đồng USD liên tục xuống giá kéo dài. Đến hết quý I năm 2008, tỷ giá VND/USD tiếp
tục có chiều hướng giảm.
Tuy nhiên, mức giảm của tỷ giá hay sự lên giá của tiền đồng VN vẫn chưa đủ
lớn để giúp nền kinh tế kiềm chế lạm phát. Hiện nay, VN theo đuổi chính sách tỷ
giá linh hoạt, với biên độ dao động chưa đáng kể, chưa đủ thích ứng với môi trường
bên ngoài.
Bảng 1: Biên độ dao động của tỷ giá trong thời gian qua (tổng hợp từ internet)
Năm

Mở rộng biên
độ

Biên độ
mới

01/07/2002

0,15%

±0,25%

31/12/2006

0,25%

±0,50

24/12/2007


0,25%

±0,75%

07/03/2008

0,25%

±1,00%

Chính sách tỷ giá hiện nay đã ảnh hưởng hạn chế nhất định đối với nền kinh tế.


Nếu mở rộng biên độ dao động, làm cho tỷ giá linh hoạt hơn, đồng thời mở rộng các
thành phần tham gia vào việc xác định tỷ giá, thì tính thị trường của tỷ giá sẽ cao hơn
sẽ góp phần gia tăng hiệu quả kiềm chế lạm phát trong tình hình hiện nay.
3. Cơ sở của chính sách tỷ giá linh hoạt và tăng giá VND
Ở các nước châu á có cùng chung chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu như
VN, đồng USD liên tục giảm giá. Đồng tiền của các nước châu á tăng giá so với đồng
USD khiến cho các mặt hàng xuất khẩu của các nước này trở nên đắt đỏ hơn đối với
người tiêu dùng ở Mỹ. Đồng Peso của Philippines cũng đã tăng lên mức cao nhất
trong 7 năm qua so với đồng USD. Đồng đôla Singapore tăng cao nhất kể từ 10 năm
nay. Còn đồng Rupiah của Indonesia, đồng Won của Hàn Quốc, đồng đôla Đài Loan
đều tăng mạnh so với đồng USD. Đồng NDT đã lập mức cao kỷ lục và tăng tổng cộng
trên 4%.
Đáng lo nhất là ở Ấn Độ và Thái Lan, đồng nội tệ tăng giá sẽ tạo lợi thế rõ rệt cho
hàng hóa của Trung Quốc so với hàng hóa của hai nước này trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, kể từ năm 2006 đến nay, giá của đồng Baht đã tăng 20%. Đồng Rupee (Ấn
Độ) đã tăng 12% so với đồng USD trong năm.
Vì lẽ đó, VN không quá lo ngại đối với vấn đề VND lên giá sẽ làm cho giá cả

hàng hóa xuất khẩu đắt hơn. Thứ nhất, đa số các đồng tiền trong khu vực đều tăng giá
so với đồng USD. Bên cạnh đó, sự sụt giảm lượng hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ có thể
bù lại bằng việc xuất khẩu sang châu Âu, châu Phi và Mỹ Latinh. Mặt khác, các
doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu ở VN cũng được hưởng lợi từ việc đồng nội tệ tăng
giá vì điều này sẽ giúp họ mua dầu mỏ, yếu tố đầu vào rẻ hơn.
4. Tăng cường linh hoạt tỷ giá và tăng giá VND ở thời điểm hiện nay
* Tỷ giá linh hoạt giúp hạn chế tăng cung tiền, tác nhân gây lạm phát trong thời gian
qua
Khi VN gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào VN tăng đột biến (năm
2007 đã tới 20 tỉ USD). Về nguyên tắc, khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào VN tăng,
VN Đồng (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, NHNN VN phát hành
VND mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VND với đồng Đô la
Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất
khẩu về giá cả.


Giữ VND yếu là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu, tuy nhiên, mặt trái của
chính sách này là do phải tung VND ra mua khối lượng ngoại tệ lớn, lượng cung tiền
của VN từ năm 2005 đến nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn, là tác
nhân quan trọng đối với lạm phát trong thời gian qua. Nếu linh hoạt tỷ giá, khi tỷ giá
thị trường thích hợp, Nhà nước sẽ quyết định mua USD và sẽ được lợi khi bỏ ra số
lượng VND ít hơn để mua USD rẻ bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.
* Tỷ giá linh hoạt giúp VND theo kịp phản ứng của thị trường khi USD đang mất giá
mạnh trên toàn cầu
Vài năm gần đây, do thâm hụt thương mại khổng lồ, đồng USD của Mỹ đã mất giá
đáng kể so với những đồng ngoại tệ mạnh khác. Chỉ tính từ năm 2006 đến nay đồng
USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so với các đồng ngoại tệ mạnh khác như
Euro, Yên Nhật, Bảng Anh, và đồng Nhân dân tệ Trung Quốc. Tuy nhiên, ở VN, tỷ giá
của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (cuối tháng 2/2008
chỉ tăng 0.24% so với 2006). Qua việc neo tỉ giá, VND cũng giảm trung bình 15% so

với các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VND yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu
nhưng đồng thời lại góp phần gây nên “lạm phát chi phí đẩy” vào VN. Sản xuất tại
VN hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi
măng, sắt thép, máy móc…
Sự mất giá của USD trên thế giới hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các
mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VND là nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Việc
VND mất giá so với các ngoại tệ làm tăng giá thành của hàng nhập khẩu, khiến cán
cân thương mại bị thâm hụt lớn. Nếu tỷ giá linh hoạt hơn, nếu VND mạnh hơn sẽ
phản ánh đúng hướng biến động của thị trường thế giới.
* Chính sách tỷ giá linh hoạt, tăng giá VND: Giúp hạn chế và sàng lọc nguồn vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả nguồn
vốn vào
VN hiện nay có một số triệu chứng như Thái Lan tiền suy thoái 1997 như: yếu kém
về hệ thống tài chính, bong bóng bất động sản, tỷ giá neo,… . Tuy nhiên, yếu tố châm
ngòi cho suy thoái tại Thái Lan năm 1997 là ngược lại so với hiện tại ở VN. Lúc đó,
kinh tế Mỹ mới phục hồi, lãi suất USD được nâng để chống lạm phát, đồng USD lên
giá trên toàn thế giới. Do Thái Lan cố định đồng Baht so với đồng USD, nên đồng
Baht lên giá toàn diện so với các ngoại tệ khác. Thái Lan không linh hoạt thay đổi tỷ
giá dẫn đến thâm hụt thương mại,…. Khi Thái Lan tuyên bố thả nổi tỷ giá, lập tức
đồng Baht bị mất giá gần 50%, các nhà đầu tư nước ngoài đang giữ vốn bằng đồng


Baht hoảng loạn, rút vốn ra khỏi Thái lan khiến cho đồng Baht càng mất giá trầm
trọng và suy thoái kinh tế xảy ra.
Còn ở VN hiện nay thì ngược lại, VND bị neo cứng nhắc với đồng USD đang mất
giá toàn diện trên thế giới là một trong những nguyên nhân chính gây ra nhập khẩu
chi phí đầu vào cao. Nếu linh hoạt tỷ giá thì VND sẽ lên giá vừa chống lạm phát vừa
có nhiều tác dụng tích cực khác. Những nhà đầu tư nước ngoài đang giữ vốn bằng
VND lên giá sẽ không có ý định rút vốn ra khỏi VN.

Bên cạnh đó, trong điều kiện nền kinh tế VN chưa hấp thu hiệu quả dòng vốn đầu
tư nước ngoài, nếu VND lên giá sẽ có thể giảm lượng ngoại tệ chảy vào VN. Nó có
tác dụng chọn lọc những nguồn đầu tư lâu dài thực sự có hiệu quả cao, hạn chế được
những nguồn ngắn hạn mang tính đầu cơ rủi ro lớn. Tất nhiên về dài hạn, VN sẽ có
chính sách phù hợp để có thể thu hút vốn nước ngoài khi kinh tế vĩ mô ổn định mà
điều kiện cần là lạm phát trong tầm kiểm soát.
* Chính sách tỷ giá linh hoạt tạo cơ hội phát triển thị trường sản phẩm phái sinh
nhằm phòng ngừa rủi ro khi giao dịch thanh toán quốc tế và đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, trên thế giới đang giao dịch rất nhiều loại sản phẩm phái sinh như:
Option, Forward, Swap, Future. VN cần phát triển và nâng cao chất lượng của các
nghiệp vụ kinh doanh và bảo hiểm tỉ giá, đặc biệt là nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ
(Swap). Tuy nhiên, do VN duy trì chính sách neo tỷ giá khá lâu đã khiến thị trường
các nghiệp vụ phái sinh không có cơ hội để phát triển. Hậu quả là doanh nghiệp đã
không được sử dụng những sản phẩm có thể bảo hiểm rủi ro trong các hợp đồng làm
ăn, trong đó có rủi ro về tỷ giá. Trong điều kiện đồng tiền VN chưa được tự do chuyển
đổi trên thị trường, nếu cầu lớn hơn cung thì giá sẽ vượt trần, còn nếu cung lớn hơn
cầu thì giá đó nằm dưới giá sàn của NHNN qui định.
Từ đó, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng mua bán USD ở bên ngoài để thanh toán
dù biết đó là một hành động vi phạm pháp luật. Vì thế, Nhà nuớc cần thực thi chính
sách tỷ giá linh hoạt, cho phép các nhà đầu tư có cơ hội vận dụng những công cụ
phòng ngừa rủi ro ngoại hối, giảm thiểu tác động tiêu cực do biến động của tỷ giá hối
đoái, thúc đẩy mở rộng đầu tư nước ngoài.

5. Kết Luận


Thực tế, việc tăng giá đồng nội tệ không trực tiếp gây ra rối loạn thị trường tiền tệ
mà chủ yếu do cách vận dụng các chính sách của quốc gia như: cố định tỷ giá, đầu tư
sai không hiệu quả, chậm tiến hành cải cách cơ cấu,… Hiện nay các nước phát triển
đã thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi, trên 55% các quốc gia đang phát triển cũng đã đi

theo hướng này. Dĩ nhiên, các quốc gia cần phải đạt những điều kiện nhất định mới có
thể tự do hoá tỷ giá và tăng giá đồng nội tệ. Việc tăng giá đồng nội tệ cần cân nhắc tác
động của nó:
* Tăng giá nội tệ có thể làm tăng nhập siêu, đặc biệt là nhập những hàng hoá xa xỉ,
không phải là đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống.
* Tăng giá nội tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, gây khó khăn cho các doanh
nghiệp khi canh tranh về tỷ giá trên trường quốc tế, có thể mất thị phần.
Dù VN hiện đang nhập siêu, nhưng đa phần hàng hoá nhập về là các yếu tố sản
xuất. Việc nhập khẩu giá rẻ sẽ giúp chi phí máy móc, nguyên vật liệu cho sản xuất rẻ,
góp phần xoa dịu lạm phát. VN cũng có thể dùng các biện pháp hành chính để can
thiệp vào danh mục hàng hoá nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay để tránh nhập những
hàng hoá tiêu dùng xa xỉ, không thiết yếu. Việc tăng giá VND hiện nay, theo tôi, là
hợp xu thế chung của thế giới, khi mà USD ngày càng mất giá, sẽ không ảnh hưởng
lớn đến thị phần xuất khẩu ở VN.
Bên cạnh đó, dù linh hoạt chính sách tỷ giá, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết nền
kinh tế. VN cần thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm giảm bớt tác
dụng phụ của chính sách tỷ giá hối đoái. Mặt khác, khi tỷ giá hối đoái giảm, các ngân
hàng cần mở thêm dịch vụ mua vàng trực tiếp bằng USD đối với các nhà đầu tư trong
nước, tạo điều kiện thu hút lượng USD trong dân chúng, giảm bớt nhu cầu VND.
Điều này sẽ làm giảm bớt áp lực lạm phát và tính bất ổn cho nền kinh tế.
Trong thời điểm lạm phát cao như hiện nay, theo tôi, nên có biện pháp kiểm soát
chặt hơn và hạn chế nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt là của các quỹ
đầu tư rủi ro. Trong điều kiện nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả đồng vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài thì nên đặt ưu tiên số một là khôi phục ổn định vĩ mô của nền kinh tế,
đảm bảo cho sự tăng trưởng dài hạn.

II.

GIAI ĐOẠN 2: TRONG SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU



Suy thoái kinh tế toàn cầu 2008–2012 là cuộc suy thoái kinh tế và suy giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế diễn ra đồng thời ở nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới. Nó có
nguồn gốc từ suy thoái kinh tế Hoa Kỳ cuối thập niên 2000 và khủng hoảng tài chính
2007-2010. Mức độ và quy mô của đợt suy thoái này lớn đến mức nhiều người gọi nó
Đại Suy Thoái. Và nó cũng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam, bắt buộc
Nhà Nước phải có những chính sách tỷ giá hối đoái cấp thiết và kịp thời để đưa nền
kinh tế qua thời kỳ khủng hoảng.
1. Các giải pháp điều hành chính sách tỉ giá trong khủng hoảng.

Diễn biến, tác động dây chuyền và hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa
Kì hầu như đã vượt qua tất cả mọi dự báo ban đầu. Cuộc khủng hoảng tài chính và
suy giảm kinh tế toàn cầu có những ảnh hưởng lớn đến kinh tế Việt Nam. Trong hoàn
cảnh đó, Việt Nam đã có những điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và
đồng đô la Mỹ cũng như các ngoại tệ khác.Việc nới lỏng biên độ dao động tỷ giá giữa
tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường đã được thực hiện. Đặc biệt là lần đầu tiên điều
chỉnh tỷ giá theo hướng giảm nhẹ giá trị của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ vào năm
2010 trong điều kiện thị trường có chiều hướng ổn định với 1 USD= 19.100 VNĐ để
tỉ giá chính thức sát hơn với tỉ giá thị trường 1USD= 19.420 VND .Việc điều chỉnh
này đã triệt tiêu dần khoảng cách giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá được hình thành tự do
trên thị trường để hạn chế những biến động của tỉ giá hoặc nạn đầu cơ dựa vào tỉ giá
Năm 2008, sáu tháng đầu năm vẫn là mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trước hậu quả
to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra đối với nền kinh tế thế giới,
cùng những tác động bất lợi đến kinh tế trong nước, Chính phủ đã chuyển hướng mục
tiêu từ kiểm soát lạm phát sang ngăn ngừa suy giảm kinh tế vào 6 tháng cuối năm.
Năm 2009 và 2010, vẫn tiếp tục mục tiêu phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bền vững
Tóm lược chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2008 – 2010
Thời gian


Mục tiêu của chính sách

Phân loại chế độ tỉ giá của
IMF

Năm 2008
6 tháng đầu năm

Kiểm soát lạm phát

6 tháng cuối năm

Ngăn chặn suy giảm kinh
tế

Năm 2009 và 2010

Ngăn chặn suy giảm kinh

Chế dộ tỉ giá cố định thông
thường,biên độ giao dịch ±
1%
Chế độ tỉ giá cố định thông
thường, biên độ giao dịch ±
2% sau đó nâng lên ± 3%
Chế độ tỷ giá cố định thông


tế và kiềm chế lạm phát


thường với biên độ dao
động ±5%, sau đó giảm
xuống ±3 %

Để thực hiện mục tiêu của mình ngoài việc can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng
dự trữ chính thức, Chính phủ còn sử dụng một loạt các công cụ pháp lý khác như:
+ Dự trữ bắt buộc
Từ nửa đầu năm 2008, ngân hàng nhà nước đã 2 lần điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với ngoại tệ từ 8% lên 10% tháng 7 năm 2007 và 10% lên 11% tháng 2
năm 2008. Đây đều là những thời điểm mà chỉ số giá tiêu dùng trong nước tăng mạnh,
nhập siêu lớn và dòng vốn FDI cũng như kiều hối đổ về nước nhiều.
Quyết định điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ của
NHNN đã làm giảm nguồn cung ngoại tệ của các NHTM ra thị trường. Mặt khác, tăng
dự trữ bắt buộc cũng góp phần làm tăng chi phí đầu vào của các NHTM kéo theo sự
gia tăng lãi suất cho vay ngoại tệ qua đó tác động làm giảm cầu vốn ngoại tệ trên thị
trường. Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ cao hơn so
với nội tệ cũng khuyến khách hàng vay vốn bằng VND. Đồng thời, việc duy trì hoặc
hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ sẽ có tác dụng tích cực hơn
trong việc chống lạm phát.
Tháng 3 năm 2009, NHNN quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ
xuống còn 7%. Trong bối cảnh thị trường ngoại tệ đang căng thẳng, quyết định giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã tạo điều kiện cho các Ngân hàng giảm lãi suất cho vay USD
qua đó khuyến khích khách hàng vay bằng USD.
Tuy nhiên, việc NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ lớn hơn nội
tệ (7% và 5%) làm cho lãi suất vay VND vẫn hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp.
Từ đó có thể thấy quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc không có tác dụng nhiều trong
việc điều hòa cung cầu ngoại tệ trên thị trường.

+ Quy định biên độ xác định tỷ giá kinh doanh
Việc liên tiếp tăng biên độ giao dịch tỷ giá trong bối cảnh VND tăng giá so với

USD và USD rớt giá so với các ngoại tệ khác trên thế giới đã làm cho tỷ giá
VND/USD chịu thêm áp lực tăng giá. Trên thực tế từ tháng 12 năm 2007 đến đầu
tháng 4 năm 2008 VND trên thị trường tự do và thị trường liên ngân hàng đều tăng


giá qua đó góp phần giảm bớt giá trị nhập siêu. Tuy nhiên đi kèm với việc nới rộng
biên độ tỷ giá, như đã đề cập ở phần dự trữ bắt buộc, NHNN cũng tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ trong thời gian này.
Tháng 2 tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tháng 3 tăng biên độ tỷ giá cho thấy sự
thiếu nhất quán của các công cụ tiền tệ. Cụ thể, tháng 2 năm 2008 NHNN tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ thêm 1% làm giảm sức ép lên giá của VND
và việc tiếp tục điều chỉnh biên độ tỷ giá lên +/-1% nhằm gia tăng áp lực cho VND
giảm giá. Nhưng trong bối cảnh USD có xu hướng giảm từ cuối năm 2007 đến thời
điểm này thì việc tăng biên độ giao dịch chỉ có tác dụng làm tăng giá VND nhanh
hơn. Ngược lại nếu NHNN tăng biên độ tỷ giá để tạo cơ hội cho VND tăng giá nhằm
giảm bớt áp lực nhập siêu thì giữa công cụ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá đã có
mâu thuẫn.
Đầu năm 2008, biến động tỷ giá lại tương tự như những tháng đầu năm 2007.
NHNN đã 3 lần điều chỉnh biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.75% lên +/1%, +/-2% rồi +/-3%. Tuy nhiên tỷ giá vẫn luôn bị cứng nhắc. Quý 1 năm 2008, trước
tình hình VND tăng giá so với USD, NHNN đã phải điều chỉnh giảm tỷ giá bình quân
liên ngân hàng, tỷ giá vào cuối tháng 3/2008 là 15.960 VND/USD so với mức 16091
VND/USD vào cùng kỳ tháng 1/2008, đồng thời nâng biên độ giao dịch lên mức
±1%. Lúc này, hấu hết NHTM phải mua bán tại mức giá sàn, thậm chí tỷ giá tại thị
trường tự do thấp hơn giá giao dịch tại thị trường chính thức. Tỷ giá giảm một lần nữa
tác động xấu đến cán cân thương mại. Sang quý 2 năm 2008, tỷ giá bình quân liên
ngân hàng tăng lên 16541 VND/USD vào cuối tháng 6/2008, tỷ giá giao dịch tại các
NHTM lại đụng trần, tỷ giá trên thị trường tự do tăng tới mức 19,400 VND/USD
(giữa tháng 6/2008), khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen
lên tới trên 2000 đồng.
Để khắc phục tình trạng căng thẳng ngoại tệ như đã nói trên, ngày 24 tháng 3 năm

2009 Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán
USD từ +/-3% lên mức +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Sau khi biên độ
giao dịch tỷ giá được điều chỉnh lên mức +/-5%, các NHTM đã điều chỉnh tỷ giá lên
mức kịch trần, thu hẹp được khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và thị
trường qua đó thu hút được một lượng khách hàng bán lại USD cho mình và hạn chế
tình trạng chảy máu ngoại tệ ra khỏi ngân hàng, khắc phục một phần nào tình trạng
thiếu cung ngoại tệ.Với một loạt các điều chỉnh về biên độ cũng như lãi suất ngoại tệ
phối hợp cùng các biện pháp khác, thị trường ngoại tệ đã bắt đầu có dấu hiệu bình ổn.
Tuy nhiên vào những tháng cuối năm tình trạng căng thẳng ngoại tệ lại bùng lên.


Những diễn biến kinh tế tiêu cực này đã làm cho thị trường ngoại tệ căng thẳng trở lại
bất chấp những nỗ lực từ đầu năm của Chính phủ.
Trước tình hình này, ngày 26 tháng 11năm 2009, NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá
công bố lên 17961VND/USD,đồng thời cũng thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống
còn +/-3%. Lãi suất cơ bản tăng từ 7% lên 8%. Lãi suất chiết khấu tăng từ 5 lên 6%.
Các biện pháp này được áp dụng nhằm giảm lượng tín dụng lưu thông trên thị trường,
hướng tới ổn định đồng bạc Việt Nam.Đây là một sự can thiệp mạnh của NHNN vào
tỷ giá với kỳ vọng có thể thu hẹp khoảng cách tỷ giá chính thức và tự do, qua đó bình
ổn thị trường. Tuy nhiên các biện pháp này được đưa ra quá muộn và trong hoàn cảnh
các ngân hàng vẫn thiếu nguồn cung USD buộc một số doanh nghiệp phải mua USD
ngoài thị trường tự do nên các điều chỉnh trên vẫn chưa có tác dụng hạ nhiệt thị
trường ngoại tệ trong năm 2009.
Năm 2009, thị trường ngoại tệ diễn biến hết sức căng thẳng. Nguyên nhân của
hiện tượng này trước hết là dòng vốn nước ngoài như FDI, FII, ODA, kiều hối đều
giảm do nền kinh tế toàn cầu suy giảm vì cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Một
nguyên nhân góp phần đáng kể căng thẳng USD trong giai đoạn này là tác động tiêu
cực của gói kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ. Với chính sách này,
lãi suất vay VND giảm một cách tương đối so với vay USD. Các doanh nghiệp nhập
khẩu thay vì vay USD đã tăng cường vay VND sau đó mua USD thanh toán hàng

nhập khẩu. Điều này làm tăng cầu vốn bằng VND và làm khan hiếm USD trong nền
kinh tế. Trong khi đó, nguồn cung USD từ các doanh nghiệp xuất khẩu lại hạn chế.
Do kỳ vọng USD tăng giá nên các nhà xuất khẩu găm giữ USD trên tài khoản. Cung
USD giảm, cầu USD tạo áp lực tăng tỷ giá. Trước tình thế này, NHNN quyết định
nâng biên độ giao dịch lên mức ±5% (24/3/2009) và sau đó giảm xuống ± 3%
(26/11/2009). Tỷ giá mua bán niêm yết tại các NHTM luôn trong tình trạng bằng nhau
và tăng kịch trần biên độ cho phép. Tỷ giá BQLNH trong suốt 9 tháng đầu năm 2009
được NHNN giữ gần như là cố định, tỷ giá BQLNH cuối tháng 9/2009 chỉ tăng 0.08%
so với cuối tháng 1/2009. Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường tự do liên tục tăng mạnh,
ba tháng cuối năm 2009, hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do nóng nhất
từ trước tới nay, thời điểm giữa tháng 11, tỷ giá được điều chỉnh hàng giờ. Khoảng
cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen trong thời gian này lớn, trung
bình khoảng 1,500 VND/USD.
Năm 2010, USD lại tiếp tục căng thẳng, giá mua bán USD tại các NHTM luôn
chạm trần. Sau một thời gian dài không điều chỉnh tỷ giá BQLNH, ngày 11/2/2010,
NHNN đã bất ngờ tăng giá USD 3%. Mặc dù tăng tỷ giá nhưng áp lực về cầu USD
vẫn không giảm. Tình trạng găm giữ ngoại tệ vẫn không suy giảm. Nhiều NHTM


không cân đối được nguồn ngoại tệ đã buộc phải thương lượng giá với bên cung rồi
cộng thêm khoản phí vào giá bán USD cho người có nhu cầu mua ngoại tệ. Tỷ giá bị
chèn ép. Ngày 17.8.2010, lần thứ hai trong năm, NHNN điều chỉnh USD tăng 2%. Tỷ
giá bình quân liên ngân hàng từ 18.544 đã tăng lên 18.932 VND/USD. Các NHTM
được phép mua bán USD ở mức giá 19500 VND/USD, tăng 400VND/USD so với
ngày 17.8.10. Việc tỷ giá được điều chỉnh một cách bất ngờ và nhát ngừng đã thành
viên thị trường thêm hoang mang, và không làm “giảm nhiệt” thị trường ngoại tệ.
Cuối năm 2010, khi các thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô không khả quan như gia
tăng tỷ lệ lạm phát, nợ nược ngoài, nợ công, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại hối
quốc gia suy giảm, cũng như việc tăng giá vàng trên thị trường Thế giới đã tạo áp lực
lên tỷ giá. Hiện tượng các doanh nghiệp tự thỏa thuận giá mua bán ngoại tệ vượt mức

trần cho phép đã trở thành phổ biến. Tỷ giá thị trường tự do có thời điểm đạt trên
21.500 VND/USD, lệch 2.000 VND/USD so với tỷ giá chính thức.
Số liệu thống kê cho thấy, từ tháng 6/2008 đến cuối 2010, Ngân hàng Nhà nước
đã 5 lần điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng
- Ngày 11/6/2008, điều chỉnh lên 16.461 VND/USD (+1,99%).
- Ngày 25/12/2008, điều chỉnh lên 16.989 VND/USD(+ 3%) .
- Ngày 26/12/2009, điều chỉnh lên 17.961 VND/USD (+ 5,44%).
- Ngày 11/2/2010, điều chỉnh lên 18.544 VND/USD (+ 3,36%).
- Ngày 18/8/2010, điều chỉnh lên 18.932 VND/USD (+ 2,09%).

GIAI ĐOẠN 3:GIAI ĐOẠN SAU SUY THOÁI VÀ NỀN KINH TẾ BẮT
ĐẦU PHỤC HỒI.
1. Giai Đoạn Sau Khủng Hoảng Kinh Tế
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ giữa năm 2008, năm 2009 và những
tháng đầu năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Nền
kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy thoái, nhưng những khó khăn vẫn còn đang ở
phía trước và những mất cân đối mới đang phát sinh. Trong bối cảnh kinh tế thế
III.


giới được dự báo tăng trưởng chậm hơn, giá cả hàng hóa tăng cao hơn năm 2010,
khủng hoảng nợ công trong khu vực đồng Euro có nguy cơ lan rộng, USD bị giảm
giá, giá vàng tăng, làm thay đổi các kênh đầu tư, gây biến động lớn thị trường tài
chính quốc tế. Để tiếp tục duy trì mức tăng trưởng và ổn định nền kinh tế, NHNN
nên tiếp tụp điều chỉnh tỷ giá theo hướng linh hoạt nhằm ổn định giá trị đồng tiền,
kiểm soát lạm phát và giảm suy thoái kinh tế.
a. Điều hành linh hoạt tỷ giá cơ bản do NHNN công bố
Xung quanh vấn đề tỷ giá, trong quản lý vĩ mô tồn tại quan điểm cho rằng giá trị
đồng tiền Việt Nam đã bị đánh giá quá cao so với ngoại tệ. Điều này làm ảnh hưởng
xấu đến đến hoạt động xuất nhập khẩu; đặc biệt khi Trung quốc thực hiện chính sách

bán phá giá hàng hoá. Vì vậy, theo quan điểm này, Chính phủ phải tiến hành phá đồng
tiền Việt Nam ở mức độ cao bằng cách gia tăng tốc độ điều chỉnh tỷ giá.
Thừa nhận rằng, tỷ giá là một nhân tố hết sức quan trọng đối với hoạt động xuất
nhập khẩu. Tuy nhiên, nó không phải là yếu tố duy nhất. Thật vậy, tình trạng hàng
Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế hiện nay chủ yếu là do chất
lượng hàng chưa cao, cơ cấu hàng xuất chưa đa dạng và chưa bắt kịp thị hiếu người
tiêu dùng, năng suất sản xuất kém v.v.. Như vậy, liệu việc phá giá đồng Việt Nam có
làm thay đổi được thực trang này hay không? Hay nó sẽ tạo áp lực lớn lên lạm phát,
gây tâm lý bất ổn trong dân cư, làm mất lòng tin của dân chúng vào chính sách tiền tệ
của Chính phủ nói chung và giá trị đồng Việt Nam nói riêng. Ngoài ra, phá giá tiền tệ
trước mắt có thể khuyến khích xuất khẩu, nhưng trong dài hạn, giá cao của nguyên
liệu nhập sẽ chuyển vào giá thành hàng xuất làm hàng xuất mất đi lợi thế do đồng tiền
mất giá mang lại.
Trong lĩnh vực đầu tư, đồng tiền không ổn định không những không khuyến khích
các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn ra kinh doanh, mà còn khó thu hút nguồn vốn đầu
tư nước ngoài. Thêm nữa, trong điều kiện hiện nay của nền kinh tế, việc phá giá đồng
Việt Nam sẽ tạo nên tâm lý sùng bái USD hoặc vàng, làm tăng cầu ngoại hối một cách
giả tạo. Các yếu tố trên chứng tỏ rằng việc phá giá mạnh đồng Việt Nam hiện nay là
không phù hợp và có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế.
b. Cần có sự phối hợp hài hoà giữa chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất.

Tỷ giá và lãi suất là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các công cụ hữu
hiệu của chính sách tiền tệ. Tỷ giá và lãi suất luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạt động của nền kinh tế. Sự khập
khểnh giữa chính sách lãi suất và tỷ giá có thể gây ra những hậu quá bất lợi nhý: bản
tệ bị mất giá gây nguy cõ lạm phát, “chảy máu” ngoại tệ, ðầu cõ tiền tệ, hạn chế


nguồn vốn ðầu tý nýớc ngoài v.v.. Vì vậy, trong quản lý vĩ mô, chính sách lãi suất và
tỷ giá phải được xử lý một cách đồng bộ và phù hợp với thực trạng của nền kinh tế

trong từng thời kỳ nhất định.
Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, việc
ban hành và thực hiện các chính sách này còn bất cập gây nhiều thiệt hại cho nền kinh
tế. Chẳng hạn, vào cuối năm 2009, NHNN thực hiện chính sách sách hỗ trợ lãi suất
4% đối với các khoản vay VND, trong khi lãi suất tiền gửi USD tại các các NHTM
không thay đổi. Kết quả là nhà xuất khẩu găm giữ USD trên tài khoản và tăng cường
vay VND để được hưởng ưu đãi từ chính sách hỗ trợ lãi suất. Nhà nhập khẩu thay vì
vay USD họ đã vay VND và mua USD để thanh toán hàng nhập. Cầu vốn VND và
cầu USD tăng đột biến, tạo tạo áp lực tăng tỷ giá VND/USD và khan hiếm vốn VND
trong nền kinh tế.
Nếu lúc này, NHNN buộc các NHTM giảm lãi suất tiền gửi nói chung đặc biệt là
tiền gởi thanh toán bằng USD xuống mức thấp nhất, thì trong ngắn hạn, điều này sẽ
làm các nhà xuất khẩu dịch chuyển tiền gởi bằng USD sang VND làm giảm áp lực với
tỷ giá và bớt canh thẳng về nguồn vốn tín dụng. Nói cách khác, các nhà hoạch định
chính sách cần lưu ý mối quan hệ này trong việc hoạch định các chính sách tiền tệ,
được như vậy thị trường tiền tệ Việt Nam sẽ hoạt động hiệu quả hơn, tạo điều kiện
cho hoạt động sản xuất, thương mại, đầu tư phát triển mạnh hơn.
Cụ thể, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận và hạn chế dần sự
can thiệp trực tiếp vào tỷ giá. Khi nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, theo học thuyết
ngang giá lãi suất, chính sách tự do hoá lãi suất đòi hỏi cơ chế tỷ giá cũng phải được
thiếp lập trên quan hệ cung cầu tiền tệ.
Nói cách khác, chế độ tỷ giá thả nổi được kiểm soát bằng các giải pháp kinh tế và
chính sách tự do hoá lãi suất là giải pháp lâu dài mà NHNN cần thực hiện để điều
hành chính sách tiền tệ trong tương lai
c. Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở ngọai tệ một cách thận trọng

Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ của chính sách tiền tệ. Bằng việc mua bán
các giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương có thể nhanh chóng và chủ động trong việc
đưa hoặc thu hồi tiền từ lưu thông. Với công cụ này, ngân hàng trung ương có thể đảm
bảo nhu cầu vốn trong nền kinh tế và kiểm soát được giá trị đồng tiền. NHNN có thể

điều tiết lượng USD trong nền kinh tế bằng việc mua bán các giấy tờ có giá bằng
ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng. Bằng cách này, NHNN có thể điều tiết tỷ giá
một cách hiệu quả, nhanh chóng.


Tuy nhiên, vận dụng nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ ảnh hưởng rất nhiều đến
hiệu lực của chính sách tiền tệ.
+ Nghiệp vụ thị trường mở chỉ có thể ứng dụng khi nó có đủ lượng hàng hóa đúng
chuẩn. Đó là các giấy nợ của ngân hàng trung ương, của chính phủ như: tín phiếu
NHNN, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc v.v….
+ Trong thị trường mở ngoại tệ, các giấy nợ này phải định giá bằng USD. Tại Việt
Nam, nếu NHNN phát hành giấy nợ bằng USD, NHNN sẽ bị rủi ro tỷ giá khi USD
tăng giá. Đối phó vời việc USD tăng giá là một việc làm phức tạp vì giá trị USD trên
thị trường.
Tóm lại, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ hiệu quả trong việc bình ổn giá trị
VND, kiểm soát lạm phát; nhưng trong điều hành tỷ giá, tác động của nó rất hạn chế.
Do vậy, như đã phân tích ở trên, NHNN không nên hoặc rất thận trọng trong việc sử
dụng nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ trong điều hành tỷ giá tại Việt Nam
2. Chính Sách Tỷ Giá Hối Đoái Trong Giai Đoạn Hiện Nay.

* Phản ứng chính sách linh hoạt về tỷ giá trong những tình huống cụ thể và cần
có định hướng rõ ràng về tỷ giá trong dài hạn làm căn cứ cho các điều chỉnh ngắn
hạn.
- Cần có cơ chế giám sát và theo dõi chặt chẽ sự biến động của tỷ giá cả thị trường
trong nước và thị trường nước ngoài để nhận dạng xu hướng vận động của tỷ giá hối
đoái đặc biệt giữa các đồng tiền đại diện cho các trung tâm kinh tế thế giới và toàn
cầu như đồng đô la, đồng EUR...
- Việt Nam đưa ra các phản ứng chính sách cần căn cứ vào các phản ứng chính
sách của các đối tác thương mại lớn hoặc các trung tâm kinh tê thế giới.
- Các kịch bản về các tình huống biến động tỷ giá hối đoái nên được xây

dựng và có thể tiến hành mô phỏng chúng để lựa chọn kịch bản tối ưu nhất. Đây là
việc tạo thế chủ động trong điều chỉnh tỷ giá hối đoái trước tính bất định của thị
trường ngoại hối trong và ngoài nước.
* Khai thác triệt để vai trò của các chính phủ thông qua các cơ quan chuyên trách
về tiền tệ trong việc xây dựng một chế độ tỷ giá hối đoái có lợi cho thương mại chứ
không nhất thiết phải thực thi chế độ tỷ giá sát với tỷ giá thị trường.
- Chính phủ cần thực hiện các điều chỉnh tỷ giá vào thời điểm nào được coi là phù
hợp nhằm tạo lợi thế thương mại tốt nhất cho doanh nghiệp hoặc những “khe hở” nào
mà thị trường chưa thể vận hành tốt nhất.


- Ngày 11/2/2011, Ngân hàng Nhà nước quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân
liên ngân hàng từ 18.932 VND/USD lên 20.693 VND/USD, đồng thời thu hẹp biên độ
tỷ giá từ 3% xuống 1%. Từ Tháng 11/2009 đến nay, đây là lần thứ tư Việt Nam phá
giá đồng nội tệ vì khó khăn thanh khoản trong thị trường ngọai hối. Giá biểu hối suất
chính thức lên xuống do Ngân Hàng Nhà Nước ấn định bị khống chế chặt chẽ hơn
trước sau khi đã phá giá.
* Cần tạo những khoảng cách nhất định giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế
sao cho có lợi cho hoạt động xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với từng loại thị trường
và từng loại mặt hàng trong từng giai đoạn.
- Việc triệt tiêu khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do
có thể làm giảm lợi nhuận cục bộ của doanh nghiệp và có thể làm giảm tác động cần
có của chính sách tỷ giá hối đoái.
- Khi có sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái, những khác biệt về lợi thế thương mại ngắn
hạn có thể mất đi hoặc hình thành dưới hình thức khác.
- Vai trò của chính phủ cần được thể hiện rõ nét trong việc đưa ra chính sách tỷ giá
phù hợp nhằm thay vì việc tự điều chỉnh các mất thằng bằng trong lợi thế thương mại
bằng tín hiệu của thị trường bằng việc “khử” tình trạng mất thăng bằng bằng chính
sách của chính phủ. Tức là có thể sử dụng cơ chế điều tiết của chính phủ để thay thế
cho cơ chế tự điều chỉnh của thị trường nhằm thực hiện những mục tiêu như thúc đẩy

xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, bảo hộ hoặc phát triển những ngành đang có lợi thế so
sánh. Một chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn gần như vô hiệu hoá hoàn toàn chính sách
tỷ giá hối đoái của chính phủ.
* Cần có chiến lược định vị đồng tiền Việt Nam trong hệ thống tiền tệ quốc tế
- Cần nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam nhằm tạo cơ sở cho các điều chỉnh cục
bộ hoặc điều chỉnh ngắn hạn và cũng như hình thành được định hướng dài hạn của
chính sách tỷ giá hối đoái.
- Cần chỉ rõ vị trí, vai trò và tác động của nền kinh tế Việt Nam trong các quan hệ
thương mại hoặc trong hệ thống thương mại khu vực như trong khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA)...trong dài hạn để định hướng vận hành chính sách điều chỉnh tỷ
giá.
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về tỷ giá ở Việt Nam cho thấy, tỷ giá hối đoái là một công cụ hữu
hiệu, linh hoạt trong quản lý và điều hành chính sách tiền tệ. Đây là nhân tố vô cùng


nhạy cảm, có tác động sâu rộng đến các mặt đời sống kinh tế - xã hội của một quốc
gia, tỷ giá cũng được xem là chiếc cầu nối quan trọng giữa kinh tế trong nước với nền
kinh tế khu vực và trên thế giới thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư và tài
chính quốc tế; do đó, việc đi sâu nghiên cứu để có cơ sở vững chắc nhằm định hướng
chính sách và các đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái là vấn
đề quan trọng hiện nay.
Trong xu hướng hội nhập, chính sách tỷ giá phải không ngừng được hoàn thiện
nhằm phù hợp với những biến động của nền kinh tế. Việc điều hành tỷ giá cần phải có
sự thận trọng nhất định và việc thực hiện các biện pháp quản lý cần phải đặt trong mối
quan hệ hữu cơ hình thành nên hệ thống đan xen và hỗ trợ lẫn nhau để có được sự kết
hợp linh hoạt, đồng bộ nhằm khai thác thế mạnh và hạn chế nhược điểm của từng biện
pháp. Nước ta mới chỉ đang đi những bước đầu tiên trong tiến trình hội nhập vào nền
kinh tế thế giới, do đó không tránh khỏi những yếu kém và sai xót khi lựa chọn chế độ
và điều hành chính sách tỷ giá hối đoái. Chính sách tỷ giá chỉ có thể đạt được những

hiệu quả nhất định nào đó khi nó được phối hợp chặt chẽ với chính sách tài chính –
tiền tệ và các chính sách kinh tế khác, đặc biệt là chính sách lãi suất, chính sách quản
lý ngoại hối, chính sách đầu tư, chính sách chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu và cơ
cấu kinh tế.
Trong giai đoạn vừa qua, ngân hàng nhà nước đã phát huy vai trò của mình trong
việc điều chỉnh tỷ giá thả nổi có kiểm soát và đã đạt được những kết quả khả quan. Sự
kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ, tài khóa cũng là một yếu
tố làm nên những thành công trong công cuộc ổn định kinh tế. Chúng ta hy vọng rằng,
trong những năm tới, ngân hàng trung ương sẽ có những chính sách thích hợp để phát
triển nền kinh tế, khẳng định vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế



×