Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

CẢM THỨC THẨM mỹ TRONG THƠ HAIKƯ NHẬT bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.28 KB, 11 trang )

CẢM THỨC THẨM MỸ TRONG THƠ HAIKƯ NHẬT
BẢN

Đến với xứ sở hoa anh đào, xứ sở phù tang chúng ta tìm thấy ở đất nước
này mộtnét văn hóa đã đi vào tiềm thức đó là thể thơ Haikư, một thể thơ
đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Chính những nhà thơ thiền
sư đã đưa chất thiền vào thơ. Họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng
bằng tâm hồn của người nghệ sĩ. Đối với họ, thơ với đời, đời với thiên
nhiên là một, trong sự gắn kết mật thiết. Đó là điểm xuất phát để giải
thích vì sao thơ haiku thấm đẫm chất thiền. Những cảm thức thẩm mỹ
được thể hiện ở thể thơ haikưnhư cái nhìn của các thi sĩ haiku trước
hiện thực mang đậm màu sắc Thiền tông gắn với thiên nhiên và con
người. Trong thơ haiku chứa đựng những cảm thức thẩm mỹ như sabi,
wabi, aware và karumi.
1. Cảm thức Sabi Sabi là cảm thức nổi trội của thơ haiku và thể hiện tập
trung nhất tư tưởng của Thiền tông. Sabi là linh hồn của tịnh liêu, là
cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật, là cảm thức hùng tráng chứ
không phải là cô đơn cá nhân, không mang tính bi lụy. Nó là sự tĩnh
mịch không có giới hạn. Sabi là niềm cô tịnh vô ngã.
Ôi tiếng ve kêu/ Thấm xuyên vào đá /Trong cõi quạnh hiu. (Basho)
Một khung cảnh buồn, đìu hiu bởi tiếng ve kêu khắc khoải rơi vào “cõi
quạnh hiu”. Tiếng ve thể hiện niềm cô tịch vô ngã của thiên nhiên đến
nỗi đá núi tưởng như mềm ra và trở nên vô ngại. Trong tiếng ve kêu, ta
bước vào cõi thâm u, nơi mọi vật dung chứa lẫn nhau. Niềm cô tịch
được gió đưa đi xa hơn tiếng ve, tiếng chim cu gáy có tan biến về một
nơi nào đó trong không gian vô định thì trong biển thiền lắng động đó
vẫn có sự xao động. Chính những âm thanh nhỏ nhoi đó làm cho sự cô
liêu càng thêm cô liêu: Gió mùa thu/ Bóng dài của núi /Rung lên mơ hồ.
(Issa)
Nửa đêm thăm thẳm/ Dòng sông Ngân hà /Rời đổi chỗ nằm. (Ransetsu)
Nửa đêm thức giấc nhìn lên trời, thi sĩ thấy dải Ngân hà không còn nằm


ở chỗ cũ mà dời sang nơi khác. Đó là sự vận động của các vì tinh tú
trong vũ trụ. Nhưng đặt nhà thơ dưới đất đang nhìn lên Ngân hà ở vũ
trụ, tác giả tạo nên một cảnh cô tịnh đến huy hoàng. Trong đêm thanh
vắng, con người và sự vật đều chìm vào khoảng không gian bao la vô
định của vũ trụ, chìm vào cái sâu thẳm của bể đêm.Nhà thơ đẩy cảm
thức sabi đạt đến đỉnh điểm trong một bài haiku nổi tiếng:
Cánh quạ ô/ Trên cây héo hắt/ Chiều thu. (Basho)
Thi sĩ Basho đã vẽ nên một bức tranh mùa thu mang tính điển hình cao
độ: tiêu điều, xơ xác. Sự im lìm của cánh quạ đen, sự héo hắt của cành
cây khô và sự tĩnh mịch của chiều thu là hiện thực tạo thành cái sâu
thẳm, vô hạn của cảm thức sabi.


2. Cảm thức Wabi
Wabi là gần gũi với các sự vật bình thường hơn. Wabi là một khái niệm
của Phật giáo Thiền tông nói đến sự trải nghiệm về sự thanh bần an lạc,
sự dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và sự vật. Cũng
mang ý nghĩa cô đơn nhưng nếu sabi nghiêng về cảm xúc thẩm mỹ thì
wabi lại nhằm ám chỉ đến điều kiện sống và tình cảm của con người và
sự vật hơn. Theo D.T.Suzuki: “Sabi nghiêng về đồ vật cá nhân, trong
khi wabi là sống cuộc đời bình thường trong sự thanh bần hay tri túc,
thiểu dục. Do đó, sabi quy về cảnh vật có tính khách quan hơn còn wabi
thì thiên về cá tính chủ quan hơn” Mái lều im/ Một con chim gõ kiến/
Gõ ngoài trụ hiên. (Basho)
Wabi nói đến sự thiếu thốn, nghèo nàn về vật chất và các phương tiện
sống, nhưng chứa đựng trong đó là một cái gì đó thanh cao, phóng
khoáng và lành mạnh. Một đêm lạnh trở mình tỉnh giấc vì gió rét,
Basho viết một bài thơ haiku:
Sương giá nửa đêm/ Không ngủ được/ Tôi mượn áo bù nhìn. (Basho)
Một cảm xúc rất chân thành tự nhiên: Lạnh không ngủ được thì thức

giấc. Nhưng ý thơ chuyển sang đột ngột và bỗng kết thúc với câu “tôi
mượn áo bù nhìn”. Một thực cảnh đến đau lòng cho thi sĩ, nghèo đến
mức mùa đông không đủ áo để mặc, không đủ chăn ấm. Nhưng biết làm
sao bây giờ?. Phải đành “mượn áo bù nhìn” vậy. Áo “bù nhìn” thay áo
người để bớt lạnh - Một ý tưởng nghịch lý, trớ trêu nhưng mang tính
chất ngang tàng, phóng khoáng.
3. Cảm thức Aware.
Cảm thức aware là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học xuất hiện khá
sớm liên quan đến quan niệm của Phật giáo được văn chương Nhật sử
dụng khá rộng rãi. Ngay từ thế kỷ XI, trong thơ cổ và trong tiểu thuyết
Truyện Genji (Murasaki). Aware (bi ai) là niềm bi cảm, xao xuyến trước
mọi vẻ đẹp não lòng của sự vật. Nó tương tự như một âm vang vọng lại
khi những gì đã qua, sắp qua sẽ tác động vào thế giới hiện hữu bằng
một âm thanh nào đó. Nhưng nó không nghiêng về cái bi lụy ngông
cuồng của lãng mạn hay nỗi bi tráng ngây ngất của bi kịch mà aware là
một bi cảm thâm trầm.
Trước cái chết của một người bạn, Basho viết: Trăng rụng rồi/ Bốn góc
bàn quen thuộc/ Còn lại mà thôi.
Ở đây, sự mất mát đối với thi nhân quá lớn nhưng tác giả không hề nói
đến từ “chết” mà dùng những sự vật quen thuộc thường ngày để diễn tả
sự ra đi của bạn. Như vậy, đây là bài ca bi ai về cái chết của một người
bạn. Trăng rụng là nói đến cái chết ấy. Nhưng bốn góc bàn, nơi người
ấy thường ngồi vẫn còn lại như tất cả những cái khác vẫn còn tồn tại
trên cõi đời. Đây không phải nói đến cái bi kịch của con người mà là sự
cảm nhận của thi sĩ về sự sống và cái chết cũng đơn giản, bình dị như
bốn góc bàn ấy. Trong cuộc đời, mất và còn, khoảnh khắc này và
khoảnh khắc khác, con người ra đi còn sự vật gần gũi thì ở lại... tất cả là
niềm bi cảm của con người.
Một tiếng kêu thảng thốt của con chim nhạn đang đi tìm chỗ trú giữa



mùa đông thâm u gợi lên cảm thức phù du của trần thế và một niềm
thương cảm ở người thi sĩ: Kêu chi, nhạn ơi/ Đi đâu cũng thế/ Cõi phù
thế thôi. (Issa)
4. Cảm thức Karumi
Karumi bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thoát. Nó
dung hợp giữa tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế trong
nội dung. Karumi được nói đến như một phong thái ung dung, tự tại.
Chính tâm thế đó đã tạo nên ở các thi sĩ haiku có cái nhìn rất hiện thực
khi phản ánh cuộc sống và thấy được vẻ đẹp của con người và sự vật
dẫu cho nó bé nhỏ và tưởng chừng như bị quên lãng. Một đoá phù dung
cũng đủ góp phần tạo nên hương sắc của mùa: Mưa mù sương/ Phù
dung một đoá/ Làm mùa lên hương. (Basho)
Những cánh hoa anh đào vương vãi khắp nơi theo làn gió, “đọng” vào
bữa ăn khiến cho cả người và thức ăn đều thấm một màu hồng của anh
đào: Dưới cây lao xao/ Chén canh, đĩa cá/ Đều vương anh đào. (Basho)
Thi sĩ đã mô tả một bức tranh đơn sơ, mộc mạc và thanh bần của một
bữa cơm đạm bạc nhưng chính những cánh anh đào vương vào chén
canh, đĩa cá làm cho “bữa tiệc hoa” trở nên thú vị, nên thơ.
Phát hiện từ trong những cái bình thường, cái đẹp bình dị, e ấp thể hiện
ý nghĩa nhân sinh cao thượng cũng là một cảm thức mang tính karumi.
Con người phải biết chiêm ngưỡng cái đẹp để vơi đi những khổ đau
nhọc nhằn của cuộc sống phức tạp, bề bộn thường ngày. Đến các loài
chim muông, ong bướm cũng không lãng quên cái đẹp:
Bươm bướm nào biết đâu/ Một bông hoa mới nở/Bên trời mùa thu.
(Basho)
Karumi thường mang đến cho người đọc những cảm thức nhẹ nhàng,
thanh thoát thông qua những khám phá xung quanh đời thường. Qua
cánh cổng con/ Hoa đào ta gặp/ Cả trong lẫn ngoài.
Từ cảm thức về sự cô tịch (sabi) đến nhận ra cái đẹp ở sự bình dị, thanh

thoát (wabi) và khẳng định cái thanh cao, ung dung (karumi) trong con
người và sự vật là những biểu hiện của sắc thái thẩm mỹ mang dấu ấn
Thiền tông trong thơ haiku nói chung, đặc biệt trong thơ haiku của
Basho.

Đề bài : Cam thức tham my trong thơ Haikư.
Bài làm:
Nhật Bản đi sâu vào trí nhớ của con người bởi màu hồng của hoa anh đào, bởi ngọn núi Phú Sỹ hùng vĩ
mà không kém phần tuyệt đẹp. Ngoài những gì mà tạo hóa ban tặng cho đất nước này thì nền văn học ở
đây cũng là một phần đáng để người đời suy ngẫm và chiêm nghiệm về cái hay, cái đẹp của nó.Mà cảm
thức thẩm mỹ trong thơ Haikư là một trong những khía cạnh lột tả tương đối rõ nét vẻ đẹp của nền văn
học Nhật Bản. Vẻ đẹp ấy đã được hầu hết các nhà thơ Nhật Bản như Basho, Buson..... khai thác một cách
triệt để thông qua những hình tượng nghệ thuật trong sáng tác của mình.


Khi đặt chân đến đất nước Nhật Bản, mỗi người sẽ rất ngỡ ngàng bởi những quần đảo xung quanh đất
nước này mà có lẽ đối với những người dân nơi đây là một điều rất đỗi quen thuộc. Bởi nó bao gồm
40000 hải đảo lớn nhỏ nằm trải theo hình cung dọc bờ biển phía đông lục địa châu Á. Nhật Bản vừa có
khoảng cách với mọi lục địa lại vừa tiếp nhận được nhiều ảnh hưởng văn hóa đại lục nên đã góp phần
tạo nên tính hai mặt trong bản sắc văn hóa độc đáo của Nhật Bản. Nó vừa giữ gìn được truyền thống lâu
dài vừa có những yếu tố cách tân mới lạ. Nhật Bản còn được xem là một quần đảo thường xuyên xảy ra
động đất và núi lửa phun trào.
Chính những khó khăn khắc nghiệt của tự nhiên đã hun đút nên tính nhạy cảm trong tính cách, tâm hồn
con người Nhật Bản và nó cũng là yếu tố có tác động không nhỏ vào trong sáng tác của các nhà thơ. Do
phải sống chung với cái khổ, hằng ngày phải đối mặt với nguy hiểm cuộc sống tưởng chừng đứng giữa
ranh giới của sự sống và cái chết.Bởi thế con người Nhật Bản luôn coi trọng mọi thứ thuộc về bản thân
kể cả những gì nhỏ nhặt nhất.
Chính vì vậy mà thơ ca Nhật Bàn nói chung và thơ Haikư nói riêng luôn thấp thoáng những sự vật nhỏ bé
đơn sơ mà tràn đầy ý nghĩa.Đây cũng là nguyên nhân cơ bản làm cho Nhật Bản có nền văn chương rất
độc đáo.

Nằm trong khu văn hóa đồng văn do hình thể địa lí, do quá trình lịch sử mà Nhật Bản đã tạo cho mình
một
Nền văn học đậm đà bản sắc dân tộc mà cũng rất đỗi hiện đại với những giá trị riêng chung mang tính
chất bền vững.
Đối với tôn giáo, văn hóa Nhật Bản cũng có nhiều vẻ mê hoặc và ta có thể nhận thấy điều này qua
những biểu hiện tinh tế nhất ở thơ văn.Mới tiếp xúc với văn chương Nhật Bản nhất là những tác phẩm
có tính chất cổ điển ta sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ví như thơ lại cực ngắn chỉ từ 5 đến
7 từ, tiểu thuyết tâm lí lại dài dằng dặc đến hàng nghìn trang có truyền thống tới 10 thế kỉ, còn sân khấu
thì im lặng nhiều hơn nói, mặt nạ và mặt người đều bất động.
Một dòng văn học mà con người Nhật có vẻ lạnh lùng nhưng bên trong lại cực kì nhạy cảm,Và những tác
giả vĩ đại nhất của nền văn học Nhật Bản lúc bấy giờ thường là phụ nữ và thiền sư.Văn học Nhật Bản còn
được biết đến như là một nền văn học lớn ,độc đáo trên thế giới. Tính lớn và độc đáo này đã được thể
hiện trên những phương diện như là thành tựu về thể loại, đôị ngũ sáng tác, ngôn từ và sự lan tỏa của
nó ra thế giới cũng như tính cách độc đáo mà chỉ có Nhật Bản mới có.
Những nhà quan tâm đến vă học Nhật đều thấy rằng văn học Nhật Bản không có giới hạn về mặt thể loại
tại xứ sở văn chương kì diệu này ta có thể tiếp xúc từ những thể loại ngắn nhất như thơ Haikư chỉ có 3
câu với 17 âm tiết đến những bộ truyện thiên tiên tiến dài nhất mà ít có nền văn hóa đương thời nào
được như “Chuyện chàng Gennjv” đến vài ngàn trang của nữ sĩ MaraluJshihibu.
Từ những phân tích trên cho thấy thể loại văn chương Nhật Bản qua các thời kì rất phong phú.Hàng loạt
các thể thơ được các nhà thơ Nhật Bản thể hiện rất thành công. Mà tiêu biểu là Tanka (đoản ca) thường
gần 31 âm tiết chia làm năm dòng, Ranta (liên ca-nhiều người sáng tác một đề tài chung). Và thể thơ


Haikư (gồm 3 câu 17 am tiết) là một thể thơ cũng đã góp mặt và làm nên danh tiếng cấ thi tuyển kinh
điển Nhật Bản.
Thơ Haikư Nhật Bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hóa đất nước phù tang. Nó là
một thể thơ rất đặc biệt trong thơ cổ của Nhật Bản.Phần lớn các nhà thơ Haikư đều là các thiền sư.
Chính những nhà thơ thiền sư này đã đua thienf vào thơ.Vì họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng
tâm hồn của một người nghệ sĩ. Bởi thế đề tài thơ Haikư ưa chuộng những sự vật bé nhỏ đa dạng với
những rung cả chân thành,giản dị , hồn nhiên mang sắc thái rất Nhật Bản.Đề tài thơ Haikư là thế giới tự

nó trong khoảnh khắc mang tính gợi cảm.Haikư rất giống loại tranh thủy mạc mà người Nhật ưa
chuộng.Nó là một vẻ đẹp bất chợt hướng về thiên nhiên bốn mùa phản ảnh vẻ đẹp và cảm xúc nội tâm
của con người thường được gọi chung là Quý đề.
Haikư là loại thơ có vẻ không trọng lời bên ngoài mà hướng vào cái bản chất bên trong.Ngôn ngữ dường
như tự nhiên, không dụng công theo tinh thần “trực chỉ nhân tâm”.Ngôn ngữ Haikư là loại tín hiệu ngôn
ngữ phổ biến trong đời sống xung quanh được lọc qua những tâm hồn tinh khiết nên mang tín hiệu
hằng sâu có sẵn trong tâm thức.
Từ những đặc điểm rất khác so với các thể loại thơ khác, với các nhà sư, thơ đối với đời, đối với thiên
nhiên, thơ Hai- cư có một sự gắn bó mật thiết.Đây là điểm xuất phát để giải thích vì sao thơ Hai-cư thấm
đẫm tính Thiền .Do ảnh hưởng của tư tưởng thiền tông trong nhận thức cuộc sống nên nó thể hiện
những cảm thức thẩm mỹ khác nhau.Chính điều này góp phần tạo nên tính đặc sắc thơ Hai-cư và khiến
nó trở thành thể thơ độc đáo.Nhiều người cho rằng: phát hiện và khẳng định những cái đẹp hiện hữu
trong những sự vật bình thường của đời sống là một trong những nguyên lý thẫm mỹ của thơ Hai-cư.Đó
là nét đặc biệt mà chỉ khi đi khám phá, tìm hiểu một cách sâu rộng, người đọc mới thấy được cái hay của
thể thơ này.Nó không miêu tả một cách tràn lan các vấn đề trong đời sống cũng như tự nhiên mà chỉ
diễn đạt lại một cach ngắn gọn.Chính sự ngăn gọn trong thể thơ Haikư đaã làm cho những dòng thơ ấy
như một dòng trôi chảy hững hờ, như một bức tranh đơn giản mà lại là một sự phá cách độc đáo cua các
nhà thơ.
Những thức cảm thẩm mỹ này thể hiện cách nhìn của các thi sĩ Haikư trước hiện thực mang đậm màu
sắc thiền tông gắn với thiên nhiên và con người.Trong thơ Haikư các cảm thức thẩm mỹ như Sabi, Wabi,
Awara và Karami được thể hiện rất rõ nhằm diễn đạt những yếu tố tâm linh.
Đạo Phật nói chung mà cái chất thiền tông trong đạo Phật nói riêng nó đã thấm sâu vào máu thịt của các
nhà sư. Chính điều đó đã ảnh hưởng rất lớn trong sáng tác của họ.Hầu hết các nhà sư đều đưa “ thiền”
vào trong sáng tác của mình như một thứ tất yếu. Cái “thiền” ấy làm cho bài thơ trở nên mờ ảo thoáng
chút tâm limh, nhịp điệu của bài thơ cũng được đơn giản hóa.Nó nhẹ nhàng chứ không ồn ào, vội vã rát
giản di thanh thoát không chút cầu kì xa lạ. Tuy vậy nhưng nó không làm ý nghĩa của câu thơ bị hạn chế
mà người đọc có ngẫm mới thấy được sự đa dạng về mặt ngữ nghĩa của nó hay đó cũng chính là vẻ đẹp
của” thiền “ mà cũng là vẻ đep của tôn giáo Nhật Bản.
Để thấy được cảm thức thẩm mỹ trong thơ Haikư,chúng ta sẽ lần lượt điểm qua các cảm thức Sabi,
Wabi, Awara và Krami một trong những bộ phận cấu thành và làm nên sự đa dạng phonh phú cho cảm

thứctrong thơ Haikư cũng như cho văn chương Nhật Bảnl lúc bấy giờ.


Trước hết cảm thức Sabi ( hay còn gọi là tịch). Nó là cảm thứ nổi trội của thơ Haikư và thể hiện tập trung
nhất của tư tưởng thiền tông.
Sabi là linh hồncuar tịch liên là cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật, nhìn thấy chúng tự bộc lộ
những điều kì diệu. Sabi là sự cô đơn mang tính chất tao nhã, trầm lặng, u buồn nhưng nó lại là “ niềm
cô đơn huy hoàng”, là cảm thứ hùng tráng chứ không phải là cô đơn cá nhân, không mang tính chất bi
lụy. Sabi bắt nguồn từ văn hóa truyền thống của Nhật, thực chất là yếu tố Thiền trong Thiền học.
Nó là sự tĩnh mịch không có giới hạn, là một hình thức trầm tư, chiêm nghiệm để đưa tâm hồn con
người vào chốn hư không, vắng lặng để giải thoát tâm linh khi con người và sự vật ở trong cảnh cô liêu
tĩnh lặng sâu xa chính là lúc tất cả mọi thứ đã chìm sâu vào hư vô, thoát khỏi bản ngã để tiến vào trạng
thái vô ngã. Và như vậy Sabi là niềm cô tịch vô ngã.
Theo kinh nghiệm thiền giáo của các nhà sư, khi lắng vào sự tĩnh lặng.Đó không phải là sự ngừng lại của
hoạy động sống thường ngày để tim một khoảng lặng nhất định mà sự tĩnh lặng trong thiền sẽ giúp con
người nghe được sự chuyển động của vạn vật đó là sự tĩnh lặng của tâm thức:
“Ôi tiếng ve kêu
Thâm xuyên vào đá
Trong cõi quạnh hiu”
(Basho)
Đọc bài thơ, nổi bật là những hình ảnh rất thực đó là tiếng ve, là đá. Thể hiện một khung cảnh rơi vào
“cõi quạnh hiu”. Những âm thanh tưởng chừng bé nhỏ giữa khoảng không này mà lại mạnh mẽ và sắc
bén của tiếng ve thể hiện niềm cô tịch vô ngã của thiên nhiên đến nỗi đá núi mềm ra và trở nên vô ngại
để cho những tiếng ve lấn át đâm “xuyên vào đá”. Đây là một cái nhìn phá cách của nhà thơ cũng là sự
đối lập rất độc đáo lấy cái bé nhỏ để chống chọi với cái vô tri vô giác của tạo hóa. Nghe tiêng ve kêu ta
như bước vào cõi thâm u, nơi mọi vật vẫn cư hiện hữu, tồn tại hằng ngày, vẫn là tiếng ve như ngày nào ,
vẫn là đá núi và trái tim con người vẫn rộn ràng với nhịp đập ngày thường của nó nhưng không phải ở
chốn ồn ào, sôi động mà là trong cõi tâm thức, trong cõi tịch liêu.
Niềm cô tịch được gió đưa gió đi xa hơn tiếng ve, nó có thể tan biến về một nơi nào đó trong không gian
vô định thì sâu bên trong sự lắng động đó vẫn có sự xao động. Chính những âm thanh nhỏ nhoi đó làm

cho sự cô liêu càng thêm cô liêu:
“Gió mùa thu
Bóng dài của núi
Rung lên mơ hồ”
(ISSA)


Mô tả khung cảnh của núi rừng và một buổi sáng mùa thu có nhưng cơn gió se lạnh thoáng qua tạo nên
một không gian vắng lặng so với hình dáng bóng núi đổ dài.Ở đây làn gió khẽ “rung lên” làm lay động
cành cây hay trong cảnh sắc thiên nhiên bất giác đã làm ta cảm tưởng mơ hồ như bóng núi đang rung
lên bởi từng cơn gió. Cả bài thơ là một bức tranh thu êm dịu nhưng câu:
“Rung lên mơ hồ”
ở cuối bài làm cho bài thơ bị biến đổi về mặt trạng thái. Nếu ở đấu bài tác giả chỉ giới thiệu về thiên
nhiên là gió và núi là những hình ảnh rất nhẹ nhàng, êm ả thì ở câu thơ cuối từ “rung” đã làm bài thơ
chuyển đổi một cách đột ngột. Nó không phải là một bức tranh tĩnh lặng của mộtmuaf thu buồn mà bên
trong cái im lặng đó cũng có chút xáo động nhẹ nhàng.
Nhà thơ không dừng lại ở đó, ông đẩy cảm thức Sabi trong thơ Haikư đạt đến đỉnh điểm trong một bài
thơ kha nổi tiếng;
“Cánh quạ ô
Trên cây héo hắt
Chiều thu”
Bằng những nết phát thảo rất nhẹ nhàng, đơn giản thi sĩ Basho đã vẽ nên một bức tranh mùa thu mang
tính chất điển hình cao độ.Nó không phải là một mùa thu rộn ràng sắc vàng, tràn đầy sức sống như mùa
thu của Xuân Diệu:
“Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với ánh mơ phai dệt lá vàng”
Mà mùa thu trong thơ Nhật Bản của Basho là một bức tranh thu mang tính chất điển hình rõ rệt:tiêu
điều, xơ xác và buồn tẻ. Cánh quạ đen, sự héo hắt của cành cây khô và sự tĩnh mịch của chiều thu là hiện
thực tạo thành cái sâu thẳm vô hạn của cảm thức Sabi.
Ở đây tác giả diễn tả quang cảnh một đêm thu thật đơn sơ, giản dị và cô tịch bằng một thi pháp mà nhà

nghiên cứu Henderson gọi là “nguyên lý tương quan nội tại’.Trong đó sự tương quan tương đồng được
nhà thơ sử dụng hợp lí cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô và đêm thu có sự đối lập tạo thành một
khung cảnh thật ảm đạm, cô tịch.
Nếu con quạ, cành cây khô là cái hữu hạn thì đối lập với nó là cái vô hạn “ đêm thu”. Bài thơ tạo nên một
nỗi buồn quạnh hiu của một mảng thiên nhiên và biết đâu đó cũng chính là sự xót xa, buồn chán của
Basho trước thế thái nhân tình đầy rẫy những chết chóc bi thương của xã hội đương thời.
Cảm nhận về bài thơ này Henderson cho rằng:” ở đây không chỉ đơn giản là phong cảnh héo úa đậu
xuống một chiều thu giống như hình ảnh của một con quạ. Nó còn là sự tương phản của thân hình đen
muội nhỏ xíu của con quạ với bóng tối bao la vô định của buổi chiều hôm và với nhiều điểm khác nữa tùy
cảm nhân của mỗi người đọc.


Nếu cảm thức Sabbi là tâm điểm gắn với tư tưởng thiền tông có tính chất mờ ảo, mông lung xen lẫn một
nỗi buồn bã tiêu điều của khung cảnh thì Wabi (đà)lại gần gũi với các sự vật bình thường hơn.Wabi là
một khái niệm của Phật giáo thiền tông nói đến sự cảm nghiệm về sự thanh bần an lạc, sự dung dị
nhưng thanh cao của cuộc sống con người váuwj vật cũng mang ý nghĩa cô đơn.
Nếu như Sabi nghiêng cảm xúc thẩm mỹ thì Wabi lại nhằm ám chỉ đời sống và tình cảm của con người,
sự vật hơn. Theo P.Tsuzuki:”Sabi nghiêng về đồ vật cá nhân thì Wabi là sống cuộc đời bình thường trong
sự thanh dần hay tri thức thiểu dục” do đó Sabi quy về cảnh vật có tính khách quan hơn còn Wabi thì
thiên về cá tính chủ quan hơn. Cũng như cảm thức Sabi cản thức Wabitrong thơ Haikư cũng đòi hỏi các
nhà thơ phải biết chọn lọc, mô tả những sự vật đơn sơ,tránh sự chọn lọc rực rỡ mà vẫn mời gọi được
người đọc thả hồn vào trong.Đó còn là sự đơn sơ trong từ ngữ, không khoa trương , phù phiếm mà chát
lọc, gợi cảm.
Đó là những cảm nhận bất ngờ về những cái ”như thế” của sự vật tưởng chừng như rất nhỏ nhoi đó là
con ốc, một chiếc lá rơi,một gạt sủa, con quạ đậu cành khô, con ếch nhảy xuống ao, tiếng ve thâm xuyên
vào đá…… thi sĩ mô tả cảnh con chim kiến đang gõ vào sự cô tịch và nhịp điệu bình thường của sự sống:
“Mái lều im
Một con chim gõ kiến
Gõ ngoài trụ hiên”
(Basho)

Trong sự im lìm của mái lều và cái trụ lều bỗng vang lên tiếng chim gõ kiến đang gõvaof trụ lều hay gõ
vào không gian vắng lặng.Sự hiện diện của loài vật đang hôatj động là một điều tự nhiên được thi sĩ cảm
nhận một cách tinh tế tạo nên cảm thức thẩm mỹ ở người đọc. Một chú ốc bám vào ở khóa cổng là một
việc rất bình thường nhưng nó được thi sĩ Issa miêu tả:
“Trên cổng bụi cây
Nằm thay cho ổ khóa
Chú ốc nhỏ này”
(ISSA)
Wabi nói đến sự thiếu thốn, nghèo nàn về vật chất và các phương tienj sống nhưng chứa đựng trong đó
là cái gì đó thanh cao phóng khoáng và lành mạnh.Hình ảnh con ‘’ốc nhỏ” ‘’nằm thay cho ổ khóa” là một
hình ảnh rất đời thường ai cũng có thể thấy nhưng điểm đặc biệt ở đây là nó đã dược đưa vào thơvaf trở
thành một hình tượng tiêu biểucho cái gjf đó mang tính chất tượng trưng.
Một đêm lạnh trở mình tỉnh giấc vì gió rét Bashovieets một bài thơ Haikư:
“Sương giá nửa đêm


Không ngủ được
Tôi mượn áo bù nhìn”
(Basho)
Qua ngôn từ của bài thơ có thể thấy nhà thơ đã thể hiện một cảm xú rất chân thành tự nhiên:đó là lạnh
không ngủ được thì thức giấc. Nhưng ý thơ chuyển sang đột ngột và bỗng kết thúc bởi câu:
“Tôi mượn áo bù nhìn”
Một thực cảnh đau lòng cho thi sĩ nói riêng mà cả người dân cùng thời nói chung là nghèo đến mức mà
đông không đủ áo để mặt, không có chăn để đủ ấm. Tác giả dường như bất lực trước thực tại. Chỉ thấy
len lỏi đâu đó trong tâm trạnglà một nỗi xót xa, một nỗi buồn tê tái. Chính vì vậy mà tác giả không tìm
được một giải pháp nàođể che lấp bớt sự nghèo khổ thiếu thốn mà không biết làm sao đành mượn áo
bù nhìn. Đay là một ý tưởng nghịch lý trớ trêu nhưng mang tính chất ngang tàng phóng khoáng.
Cùng với con đường làm rõ cảm thức thẩm mỹ của thơ Haikư thì Aware cũng là một khái niệm thuộc
phạm trù mỹ học xuất hiện khá sớm, bắt nguồn từ văn học mĩ lưu thời Heian (75- 1186). Nó liên quan
đếnquan niệm của phật giáo được văn chương Nhật sử dụng khá rộng rãi. Ngay từ thế kỉ XI trong thơ ca

và tiểu thuyết truyện Genji (Musasaki)nhiều tác giả đã nói đến Aware.
Aware (bi ai)là niềm bi cảm , xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não lòng cuả sự vật, là một cảm thức xao
xuyến, rung động trước cảnh sinh li tử biệt. Buồn, đau, thương, tiếc,sầu muộn là những phản ứng thuộc
về nhận thức. Con người nếu biết đón nhận và cảm nhận được nỗi buồn đau thì có thể đánh thức được
sức mạnh bên trong và thăng hoa. Alfretdenusset nhà văn người Pháp từng nói:
“Đau buồn làm con người lớn lên’’
Aware tương tự như âm thanh vang vọng lại khi những gì đã qua, sắp qua sẽ tác động và thời gian hiện
hữu bằng một âm thanh nào đó. Nhưng nó không nghiêng vê cái bi lụy ngông cuồng của lãng mạnhay
nỗi bi tráng ngây ngất của bi lụy mà Aware là một bi cảm thâm trầm.
Trước cái chết của một người bạn Bashô viết:
“ Trăng rụng rồi
Bốn góc bàn quen thuộc
Còn lại mà thôi.”
Ở đây sự mất mác quá lớn đối với thi nhân, quá lớn nhưng tác giả không hề nói “tử” hay “chết” mà tác
giả đã dùng sự vật rất quen thuộc thường ngày để diễn tả sự ra đi của bạn. Cách nói này làm giảm bớt sự
đau thươngtrong lòng tác giả, làm cho cảm xúc được kiềm nén chứ không bộc phát như những thứ tình
cảm bình thường của mọi người. Phải chăng đây là sự mất mác quá lớn, quá đột ngột làm cho tình cảm
của tác giả như chết lặng không thốt nên lời? Đó là biểu tượng cho tình cảm rất đậm đà, sâu sắc mà
không phải ai cũng có được.


Trăng rụng là nói đến cái chết ấy. Nhưng bốn góc bàn của người ấy thường ngồi vẫn còn lại, tất cả những
cái khácvaanx tồn tại yển cõi đời, có hay không chỉ là sự thiếu vắng một bóng hình quen thuộc trong cuộc
đời của tác giả. Đây không phải nói đến bi kịch của con người mà là sự cảm nhận của thi sĩ về sự sốngvaf
cái chét cũng đơn giản bình dị như bốn góc bàn đang tồn tại
Một tiếng kêu thảng thốt của con chim đang đi tìm chỗ trú giữa mùa đông thâm u gợi lên cảm thứ phù
du của trần thếvaf một niềm thương cảm ở người thi sĩ:
“ Kêu chi nhạn ơi
Đi đâu cũng thế
Cõi phù thế thôi”

Kết thúc cảm thức Aware là sự thể hiện góp phần không nhỏ của cảm thức Karami ( khinh). Nó bắt
nguồn từ Karashi nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thoát. Cảm thức Karami dung hợp trong phong cách váuwj
tinh tế trong nội dung.
Karami được nói đến như một phong thái ung dung tự tại. Chính tam thế đó đã tạo nên ở các thi sĩ Haikư
như bi quên lãng. Một đóa phù dung cũng đủ góp phần tạo nên hương sắc của mùa:
“Mùa sương mù
Phù dung một đóa
Lam mùa nên hương”
(Busho)
Đất nước Nhật Bản là một đất nước của loài hoa anh đào. Bởi thế những sáng tác của các nhà thơ có sự
hiện diện của nó cũng là một điều đương nhiên khong có gì lạ lẫm. Tuy nhiên trong bài thơ của Busho đó
không phải là những hoa anh đào còn tỏa sắ trên cây mà đây là những cánh hoa anh đào vương vãi khắp
nơi theo làn gió ”đọng” vào bữa ăn khiến cả người và thức ăn thấm một màu hồng của loài hoa ấy.
“Dưới cây lao xao
Chén canh đũa cá
Đều vương anh đào”
(Busho)
Karami thường mang đến cho người đọc nhũng cảm xúc nhẹ nhàng, thanh thoát thông qua những khám
phá xung quanh đời thường. Trong cuộc sống con người bị cuốn hút vào vòng danh lợi đam mê, danh
vọng mà quên mất những cảm xúc lãng mạn và những phút giây thần tiên, thăng hoa của cuộc đời.
Nhà thơ Basho đã nhắc nhởcho mọi người rằng: phải có những giây phút để tâm hồn lắng động, siêu
thoát thì mới cảm thức được cái đẹp cuả thiên nhiên.


Qua cánh cổng con
Hoa đào ta gặp
Cả tronh lẫn ngoài”
Từ cảm thức về sự cô tịch (Sabi) đến nhận ra cái đẹp về sự bình dị, thanh thoát (Wabi) và khẳng định cái
thanh cao, ung dung (Karami) trong con người sự vật là những biểu hiệncủa sắc thái thấm mỹ mang dấu
ấn Thiền Tông trong thơ Haikư đặc biệt trong thơ Haikư của Basho. Đời sống vă hóa thấm đẫm tính chất

thiền tông. Điều này không chỉ thể hiện tronh văn học nghệ thuật (đặt biệt là trong thơ Haikư) mà cả đời
sống văn hóa tinh thần cua người Nhật từ xưa đến nay.Đặc điểm này góp phần tạo nên nét bản sắc của
văn hóa Nhật Bản trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.Đồng thời sự biến hóa của các cảm thức
Sabi,Wabi,Awaka và Karami làm cho cảm thức thẩm mỹ trong thơ Haikư được bộc lộ một cách rõ nét và
cũng làm cho nền văn học Nhật Bản trở nên đa dạng phong phú về mặt thể loại.
Mọi cảm thức đều mang những đặc trưng riêng cũng chính vì vậy mà con người cũng có cách cảm nhận
rất nhạy cảm, thay đổi từ hình thức này sang hình thức khác (hình thức tiếp nhận ) để phù hợp với sắc
thái của từng cảm thức. Và đó chính là cái hay cái đẹp của cảm thức thơ Haikư_một cảm thức chỉ có ở xứ
sở phù tang.
P.I.S Mit trong cuốn Thiên Niên Nhật từng nói:”cảm xúc về cái đẹp, khuynh hướng chiêm ngưỡng vẻ đẹp
là đặc trưng tiêu biểu cho mọi người Nhật_từ người nông phu cho đến nhà quý tộc. Bất cứ người nông
dân Nhật Bản bình thường nào cũng là một nhà mỹ học, một nghệ sĩ biết cảm thụ cái đẹp từ thiên nhên
“.Và cảm thức thẩm mỹ trong thơ Haikư cũng vậy, nó không giới hạn cho một ai khi đến với nó.Bởi vẻ đẹp
đó lấp lánh trong thơ Haikư không phải tìm hiểu một chốc lát mà cần phải có thời gian để mà suy ngẫm
mà thưởng thức.Tóm lại cảm thức thẩm mỹ của thể thơ này là một cảm thức lạ bao gồm nhiều tầng
nghĩa, nhiều xúc cảm phản ánh nhiều mặt khác nhau của sự sống con người trong xã hội .Vì vậy sự tìm
hiểu về cái hay, cái đẹp của nó là là một việc không thừa nhằm hoàn thiện hơn con mắt thẩm mỹ của
mình trong lĩnh vực văn chương.



×