Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Nguyên lý tảng băng trôi của hemingway với các nhà nghiên cứu việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.71 KB, 7 trang )

Nguyên lý tảng băng trôi của Hemingway với các nhà nghiên
cứu Việt Nam
Thứ năm, 03 Tháng 11 2011 08:13 Quản trị viên
TS. Bùi Thị Kim Hạnh

Nguyên lý Tảng băng trôi của Hemingway là một trong những vấn đề cơ bản trong sáng tác của
Hemingway được các nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm. Lý thuyết này đã được các tác giả
cảm nhận ở những khía cạnh khác nhau và đi đến phân tích tác phẩm cũng khác nhau. Trong bài
viết này, trên cơ sở lược thuật, hệ thống ý kiến của các nhà nghiên cứu về nguyên lý Tảng băng
trôi ở góc độ lý thuyết cũng như thực tế phân tích tác phẩm, chúng tôi trình bày quan điểm của
mình về vấn đề này, góp phần làm sáng tỏ thực tế tiếp nhận lý thuyetá Tảng băng trôi trong giới
nghiên cứu Việt Nam.
1. Nhận thức nguyên lý
1.1 Hemingway đã dùng hình ảnh Tảng băng trôi để nói về mục đích và yêu cầu sáng tạo của
mình. Oâng luôn cố gắng đạt tới điều đó bằng cách sử dụng tất cả những biện pháp nghệ thuật có
thể. Trả lời phỏng vấn Plimpton của Hemingway về nguyên lý này như sau: Nếu nhà văn ngừng
quan sát, đối với anh ta như thế là hết. Nhưng anh ta không cần phải quan sát với ý thức nó sẽ
được sử dụng như thế nào. Có lẽ lúc đầu điều đó đúng. Nhưng về sau mọi cái anh ta nhìn thấy sẽ
đi vào cái kho dự trữ lớn các sự việc anh ta biết hoặc đã thấy. Nếu biết điều đó dùng được làm gì
thì tôi vẫn luôn luôn viết theo nguyên lý Tảng băng trôi. Bảy phần tám của tảng băng chìm dưới
nước chỉ có một phần tám là nổi lên. Mọi điều anh biết anh có thể loại bỏ nó đi và nó chỉ củng cố
thêm cho tảng băng của anh. Đó là phần không nổi lên. Nếu nhà văn bỏ sót một cái gì đấy bởi vì
anh ta không biết thì sẽ có một lỗ hổng trong truyện.
1.2 Lời phát biểu trên được các nhà nghiên cứu cắt nghĩa theo nhiều cách:
1.2.1- Tảng băng trôi là hình ảnh chỉ mối quan hệ giữa vốn liếng phong phú của nhà văn và sự
thể hiện một phần vốn trên trang viết:“Hemingway đưa ra lý thuyết Tảng băng trôi nổi tiếng. Đó
là nhà văn phải có được một số “vốn” ( sống, hiểu biết, tài năng, kỹû xảo…) nhưng khi viết ra
chỉ cần huy động một phần tám số mình có thể cung cấp cho bạn đọc. Còn bảy phần tám điều
cần biết, nhà văn để người đọc tự tìm hiểu lấy. Như tảng băng trôi trên đại dương bao giờ cũng
chỉ nổi một phần tám trên mặt nước. Khối lượng mà nhà văn có lớn bao nhiêu thì một phần tám
viết ra càng lớn bấy nhiêu và phần còn lại dành cho bạn đọc cũng lớn theo tỷ lệ thuận”.[1]


“Có lẽ phải hiểu phần nổi Tảng băng trôi là những trang sách Hemingway viết ra, còn phần chìm
là toàn bộ cái kho dự trữ, tích luỹ vốn hiểu biết của ông về thế giới xung quanh”. [2
1.2.2- Tảng băng trôi còn là hình ảnh diễn tả một tác phẩm hàm súc, đa nghĩa:
“Hình ảnh ấy (Tảng băng trôi) chẳng đã minh hoạ cho phong cách Hemingway mà nó đã tóm tắt
yêu cầu đối với một áng văn chương thực sự có giá trị, đặc biệt đối với độc giả của thế kỷ XX…
Truyện đòi hỏi một cách đồng sáng tạo tích cực của người đọc. Mỗi người đọc theo những cấp
độ khác nhau sẽ phát hiện những tầng ngầm của Tảng băng trôi – tác phẩm văn chươn”. [3]
“Trong thiên truyện của Hemingway cuộc đụng độ nảy lửa diễn ra ngoài văn bản. Đó chính là
phần chìm Tảng băng trôi và nó được trí tưởng tượng của người đọc tiếp tục cuộc khám phá của
trí tuệ để hiểu sâu hơn cuộc đời và thế giới”. [4]
“Như vậy trong một chừng mực nào đó, có thể nói những gì còn ở dạng thông tin ngầm trong thế


giới nghệ thuật Hemingway, nghĩa là cái mà người đọc phải góp phần giải mã, chính là một biểu
hiện của phần chìm tảng băng”. [5
1.2.3- Tảng băng trôi liên quan đến môät loạt vấn đề về nghệ thuật. Chẳng hạn như kết cấu:
“Tảng băng trôi chính là nghệ thuật tổ chức tác phẩm từ các đơn vị cấu thành tác phẩm như một
chỉnh thể sẽ xuất hiện “ý tại ngôn ngoại”, sẽ tạo ra một mạch ngầm văn bản, một dòng chảy
ngầm đa nghĩa dưới bề mặt văn bản ngôn từ “.[6]
“Thực ra khi nêu khái niệm Tảng băng trôi, Hemingway nhấn mạnh cách tổ chức văn bản”. [7]
như cách cảm nhận hiện thực, các yếu tố kỹ thuật:
“Hiện tượng khoảng trắng trong đối thoại và độc thoại, hiện tượng lắp ghép, lặp lại, phiến đoạn,
trong kết cấu ở nhiều cấp độ, hiện tượng phi cốt truyện hay cốt truyện bên trong cốt
truyện,hiệntượng liên văn bản… những biểu hiện như vậy đều gắn bó với hình thức cảm nhận
hiện thực, con người: Tảng băng trôi bảy chìm một nổi”. [8]
“Theo tôi các yếu tố tấn kịch ngôn từ và sự kiện kiểu Hemingway chính là phương tiện nghệ
thuật để thực hiện điều mà Hemingway gọi là nguyên lý Tảng băng trôi”. [9]
Những cách hiểu về Tảng băng trôi của Hemingway như đã nêu, cho thấy tuyên ngôn nghệ thuật
của nhà văn thật rõ ràng mà hàm ẩn. Mỗi nhà nghiên cứu tiếp nhận nghiên cứu này theo cách
riêng và có những lý giải hợp lý. Tuy nhiên với số đông người Việt Nam, nói tới nguyên lý Tảng

băng trôi là nói tới tính hàm súc đa nghĩa của tác phẩm. Các cách tiếp cận khác chỉ ở phương
diện lý thuyết. Đó là một thực tế được chính các nhà nghiên cứu thừa nhận:
“Có thể hiểu là theo Hemingway phải có vốn sống mới viết được tác phẩm có sức nặng, dù điều
viết ra chỉ là một phần nhỏ bé, văn chương phải hàm súc, ý tại ngôn ngoại, tiềm ẩn… Lý giải
hình ảnh độc đáo Tảng băng trôi như vậy thật ra không hoàn toàn trúng ý Hemingway”. [10]
“Ở Việt Nam, giới học sinh, sinh viên đã quen thuộc với thuật ngữ này đến mức hầu như ai cũng
biết đấy là lời phát biểu của Hemingway mà thực chất muốn ngụ ý đến tầng ngầm hay mạch
ngầm văn bản. Hiểu theo cách ấy chúng ta thiên về nội dung (điều này không sai)”. [11]
Khai thác phân tích tác phẩm Hemingway chủ yếu được triển khai theo chiều hướng trên. Nêu
lên biện pháp kỹ thuật này, chỉ ra biện pháp kỹ thuật kia của nhà văn, điều độc giả nghiên cứu
hướng tới là tìm hiểu phần nổi phần chìm của Tảng băng trôi, hay nói cách khác là đi tìm từng
lớp nghĩa tác phẩm. Về điểm này, chúng tôi không tán đồng với ý kiến của Huy Liên, khi ông
nhận xét: “ Một số tác giả thường nói kích thước và quy mô to lớn của cái phần chìm và hình ảnh
Tảng băng trôi trong tác phẩm Hemingway. Nhưng chưa có tác giả nào phân tích cụ thể liên hệ
giữa phần chìm và phần nổi trong các Tảng băng trôi ấy” [12]. Dưới đây chúng tôi xin đề cử một
số tác phẩm tiêu biểu được bàn luận dưới ánh sáng của lý thuyết Tảng băng trôi, xuất hiện hầu
hết trong các công trình nghiên cứu. Những kiến giải về phần nổi, phần chìm tác phẩm khá
phong phú và hấp dẫn. Những phát hiện đôi khi khác nhau nhưng không đối chọi loại trừ nhau
mà cộng hưởng tạo nên những vang ngân ý nghĩa.
2. Phân tích tác phẩm - Tảng băng trôi
2.1 Oâng già và biển cả (OGVBC)
OGVBC là tác phẩm trong tầm ngắm của tuyệt đại đa số các nhà nghiên cứu. Có thể khẳng định
không ai nghiên cứu Hemingway mà lại bỏ qua OGVBC. Câu chuyện về ông già Santiago đi
biển đã nói lên điều gì?
Theo nhà nghiên cứu Phong Lê “ Vấn đề đặt ra chủ yếu của thiên truyện là vấn đề đấu tranh giữa
con người với thiên nhiên” [13]. Nhà văn Huy Phương lại thấy “ Với một nội dung tưởng chừng
như đơn giản, thiên tiểu thuyết đã nêu lên được những nét rất sâu sắc và cảm động về sức mạnh
và khát vọng của con người” [14]. Nhà nghiên cứu Phùng Văn Tửu cũng chỉ rõ: “Tác phẩm miêu
tả cuộc vật lộn gay gắt của con người với thiên nhiên đầy chân thực, từ đó nâng lên tầng ý nghĩa



thứ hai, nêu bật cái quyết liệt, tàn bạo của đời sống và khả năng chống trả của con người” [15] và
“ không loại trừ khả năng nhà văn muốn viết một tác phẩm để thử thách xem nghệ thuật độc
thoại nội tâm dưới ngòi bút của mình có thể tung hoành tới đâu… Từ đó ông đi tới với OGVBC”
[16]. Lê Huy Bắc cho rằng trong OGVBC “ còn có thể tìm thấy là triết lý bi đát của nhà hiện
sinh” … “ cuộc chiến chống lại số phận của con người” [17].
Tác giả Lê Đình Cúc có một trường liên tưởng khác:
“OGVBC làm cho người đọc liên hệ nhiều đến con người với số phận của nó trong vũ trụ và lịch
sử. Từ cái mõm nhọn, đầy răng nhọn của lũ cá mập đến biển hài hoà xanh ngắt với những con
chim én nhỏ nhắn với giọng hót buồn buồn và thanh. Trong suy nghĩ của ông lão luôn hiện về
những cảnh xa xưa, thời trẻ tuổi ông đi săn, ông được thấy những con sư tử ở bãi biển châu Phi.
Tất cả đều gợi cho ta cảnh hoang sơ, thanh bạch, giản dị của con người trong buổi khai thiên lập
địa”. [18]
Và gần đây nhất (1999), ông vẫn tiếp tục phát hiện những lớp nghĩa mới khá bất ngờ, táo bạo từ
tác phẩm này: Santiago và tôn giáo, kinh thánh; Santiago và chiến tranh; Santiago và vấn đề sinh
thái môi trường.
Xem OGVBC như một cuộc thể nghiệm nghệ thuật độc thoại nội tâm của Hemingway, tác giả
Phùng Văn Tửu phân tích sự chuẩn bị kỹ càng của nhà văn khi tạo ra hoàn cảnh cho nhân vật, để
có thể phát huy đến tận cùng bút lực của mình, Trong nhiều yếu tố của hoàn cảnh có cái cô đơn
và cái cô đơn được coi là phương tiện thể hiện nhân vật. Nhưng chúng tôi lại đọc thấy cái cô đơn
– một mô típ quen thuộc trong văn chương hiện đại. Một nhà nghiên cứu đã thống kê OGVBC có
tám nhân vật nhưng thực ra trong tác phẩm chỉ có một nhân vật xuất hiện từ trang đầu cho đến
trang cuối, đó là Santiago, nhân vật quyết định sức sống lâu bền cho tác phẩm.
Oâng già giống như nhiều ông già đi biển ta từng gặp trong đời – vóc dáng gầy guộc, gương mặt
hằn sâu những vết cắt thời gian, đôi mắt sáng trải đời, trải nghề… Oâng có những suy nghĩ về
con người về thế giới độc đáo đến kỳ lạ để có thể tự mình xua tan bớt cô đơn. Sống với biển gần
trọn đời, ông biết biển không chỉ thuộc về ông mà còn thuộc về chim cá, về những người dân
chài… và mọi người, ai cũng có phần mình trong biển. Một mình trước biển khơi, trước cái bao
la vô cùng vô tận của trời của nước, người ta dễ có cảm giác rợn ngợp, bỗng thấy mình bé nhỏ,
không thể hoà đồng. Vậy mà Santiago lại cảm nhận được “ ở đời không ai phải cô đơn nơi biển

cả” và mãi mãi với ông biển đẹp, biển là Lamar, không thể xa rời. Oâng say mê nghề nghiệp –
điều đó cũng thường thấy ở những người trạc tuổi ông, trong hoàn cảnh sống như ông khi nghề
nghiệp là cơm áo, là sự tồn tại. Bởi vậy, ông phải gắng gỏi, phải hết mình. Đồng nghiệp thân
thiết cũng là người bạn thân nhất với ông là chú bé Manolin và ông chỉ có thể nhận được sự
chăm chút đỡ đần từ người bạn nhò duy nhất ấy. Những phút cô đơn, những khi hiểm nghèo ông
chỉ gọi Manolin, trong khi làng chài thật rộng, người làng chài thật đông… thế mới biết quan hệ
giữa con người với con người trong xã hội hiện đại bị thu hẹp đến chừng nào. Tuy vậy, ông vẫn
giữ mối liên hệ với cộng đồng, vẫn ý thức mình “ là một mảnh của toàn thể”. Oâng nhắc đến
Pedrico, đến người chủ quán, đến dân làng chài, khi tỉnh giấc sau ba ngày đi biển, ba ngày cách
xa họ.
Trong tâm trí Santiago đôi khi chập chờn chợt hiện những hồi ức về quá khứ ( khi câu được cá,
khi trở thành nhà vô địch) về thần tượng thời trai trẻ Di Maggio, về những giấc mơ bao giờ cũng
có bãi cát vàng và những con sư tử… Đó là những biểu tượng của sức mạnh, là sự nuối tiếc khát
khao về sức mạnh của ông, do việc kiếm sống của ông cần sức mạnh.
Nhớ lại một thời oanh liệt để an ủi lòng mình, để có thêm sức chịu đựng và để sống cho xứng
đáng với quá khứ cũng là cách để thoát ra cái cô đơn, tuyệt vọng. Đành rằng khó ai có thể thoát
được cái cô đơn! Santiago ở góc độ nào đó là con người cô đơn chống lại cái cô đơn ( tất nhiên


như thế nhân vật càng cô đơn hơn). Nhưng con người cô đơn này có một nghị lực sống phi
thường, một khát vọng sống lớn lao, biết vượt lên hoàn cảnh. Chính vì vậy mà nhân vật xứng
đáng được ca ngợi, được trân trọng. Điều đó xác định khoảng cách giữa nhân vật và hình tượng
con người cô đơn thường gặp trong văn chương phương Tây hiện đại.
2.2 Khu trại người da đỏ
Trong Khu trại người da đỏ, các tác giả nghiên cứu đều thống nhất cốt lõi câu chuyện là nhận
thức của Nick, nhưng nội dung nhận thức, điều nhân vật nhận thức thì lại có những nhìn nhận
khác nhau.
“Chàng thiếu niên Nick từ chỗ là người chứng kiến đã trở thành người phát hiện ra cái thế giới
trong đó vừa có kẻ tàn nhẫn lại vừa có kẻ hèn nhát”. [19]
“Toàn bộ những chi tiết trong Khu trại người da đỏ là môi trường giúp Nick nhận thức nỗi đau

làm mẹ, sự yếu đuối của người chồng và rút ra mục đích sống cho mình là phải can đảm chịu
đựng, không bao giờ hành động như người chồng ấy”. [20]
Chúng tôi không nghĩ đến sự phát hiện ra thế giới với những kẻ tàn nhẫn, những kẻ hèn nhát của
Nick. Chúng tôi cũng không cho rằng Nick chỉ nhận thức ra nỗi đau của người mẹ và rút ra bài
học cho mình. Aùm ảnh sâu sắc của chúng tôi về Khu trại người da đỏ là khả năng chịu đựng của
con người nói chung, trong đó có Nick trước sự sống và cái chết.
Tiếng gào thét của người đàn bà sắp sinh không cho ai được yên ổn “cánh đàn ông rời nhà, ra
đường hút thuốc trong bóng tối mãi tận đằng kia để khỏi phải nghe”, người chồng “phì phèo
chiếc tẩu” ở lại trong nhà cũng là buộc phải chứng kiến – phần vì đó là vợ anh, phần vì anh
không thể đi được “chiếc rìu đã chặt phải bàn chân rất sâu, còn Nick thì thực sự choáng váng “
Oâi ba, ba không thể làm gì để cô ấy đừng kêu thét nữa sao”. Lúc cuộc phẫu thuật diễn ra Nick
không còn đủ can đảm nữa “sự hiếu kỳ của cậu đã tan biến từ lâu”. Ba lần cha Nick giảng giải
nhưng cả ba lần Nick đều trả lời cho qua chuyện và “không dám nhìn”. Đối mặt với sự kiện ấy
chỉ có ba Nick là điềm tĩnh, là thấy “tiếng thét của cô ấy không quan trọng”. Kinh nghiệm nghề
nghiệp đã rèn giũa cho ông phẩm chất ấy, chứ đâu phải ông vô tâm tàn nhẫn (quy tắc loại bỏ của
Hemingway thể hiện ở chi tiết này). Vẫn biết tiếng gào thét kia là quy luật mà loài người phải
chấp nhận nhưng chứng kiến nó thì chẳng dễ dàng chút nào. Cũng vì thế anh chồng đã không đủ
sức chịu đựng. Nỗi đau thể xác của bản thân anh ta cộng với nỗi đau của người bạn đời đang
vượt cạn đập vào anh, tạo nên sự căng thẳng tột độ, giày vò khiến anh mất hết tự chủ, tìm đến cái
chết. Cha Nick bảo, trong cuộc đời khi không thể chịu đựng được mọi chuyện, một số đàn ông
cũng như đàn bà đã chết, nhưng với Nick như vậy thì vô nghĩa quá. Để giành lại sự sống, để cho
một con người ra đời, cha anh, người đàn bà kia và bao nhiêu người khác nữa phải chịu đựng
biết bao vất vả, đau đớn, vậy mà sao người chồng ấy lại coi thường mạng sống của mình. Quan
sát nỗi đau sinh tử của những người trong cuộc, Nick rút ra bài học cho mình “sẽ chẳng bao giờ
chết”. Và bài học ấy được mang theo suốt trong hành trang cuộc đời Nick. Dẫu sống trong thế
giới của chiến tranh, của bạo lực, của những đổ vỡ, bị ám ảnh bởi cái chết, nỗi cô đơn… nhưng
Nick không bao giờ có ý định muốn chia tay với cuộc sống này, biết cách chịu đựng nó để hoàn
thành sứ mệnh một con người.
2.3
Cuộc

đời
hạnh
phúc
ngắn
ngủi
của
Francis
Macomber
Ở truyện này, chỉ viên đạn Margot bắn vào Macomber đã có những ý kiến trái ngược. Người thì
bảo nàng cố tình giết chồng, “Rồi đây Macomber có thể sẽ kiếm một cô vợ khác bởi vì nàng tuy
còn đẹp nhưng không thể như xưa nữa. Thế là nhằm khi ngồi trên xe nhắm bắn trâu rừng, nàng
đã cố tình bắn chết chồng” [21]. Người thì cho rằng nàng lỡ tay sơ ý, “Tiếng khóc của Margot
vừa thể hiện sự bất lực vì không chọn được sự tìm kiếm tinh thần nào hơn ngoài việc đối mặt với


thú dữ, vừa thể hiện sự bất tài vì khả năng bắn của bà ta cũng xoàng, và vừa thể hiện sự bất hạnh
của
con
người

đơn”
[22].
Các tác giả Phùng Văn Tửu, Đặng Văn Đào, Phan Thu Hiền, Lê Huy Bắc đồng quan điểm hai
khả năng trên đều có thể xảy ra. Xin đơn cử ý kiến của GS. Phùng Văn Tửu, “Ta có đủ lí do để
chứng minh rằng Margot cố ý bắn chồng, ta cũng có đủ lí lẽ đầy đủ thuyết phục không kém
Margot muốn cứu chồng, nhưng không ngờ phát đạn nhằm vào trâu rừng lại trúng phải
Macomber”
[23]
Chúng tôi thấy ý kiến trên là thỏa đáng. Dù hiểu thế nào chi tiết ấy cũng không ảnh hưởng gì đến
chủ đề của tác phẩm đượcnên bật ngay trên nhan đề truyện – Cuộc đời hạnh phúc ngắn ngủi của

Francis Macomber. Cuộc đời hạnh phúc ngắn ngủi của con người, đó là niềm hạnh phúc nghiệt
ngã được đo bằng giây lát, nó chợt đến vụt đi như một tia chớp loé lên rồi tắt hẳn. Vừa lúc chạm
tới hạnh phúc, vừa có cảm giác về hạnh phúc thì con người không còn khả năng để tận hưởng
hạnh
phúc.
Macomber,Margot đều không đi chệch khỏi nhân vật Hemingway. Dù không phải là những con
người hoàn hảo nhưng họ biết chịu đựng, biết tìm kiếm vươn lên theo kiểu riêng mình. Mười
một năm chung sống cả hai người đều không có hạnh phúc, mỗi người đã tìn những lí do riêng
để duy trì hình thức gia đình. Nhưng rồi họ cũng không bằng lòng với cuộc sống giả tạo. Người
đàn ba øtrong Margot không nguôi mong ước về phẩm chất mạnh mẽ sẽ có nơi Macomber và
người đàn ông trong Macomber luôn bị hành hạ bởi sự lang chạ của vợ mình, mà nguyên nhân
của thói xấu ấy, nằm ở sự hèn nhát của ông. Họ đã nhiều lần tìm cách hàn gắn, khắc phục nhưng
đều thất bại và chuyến đi là lần thử thách cuối cùng để lấy lại thế cân bằng trong đời sống vợ
chồng. Cả hai đều rất chân thành, rất quyết tâm. Nghe tiếng sư tử gầm Macomber sợ hãi như cả
phần đời đã qua, ông vốn hay sợ hãi. Mục đích chuyến đi làm ông phải hồi tỉnh: “Anh phải giết
cái đồ thối tha ấy” – Macomber khổ sở nói. Margot lập tức kịp thời cổ vũ ông:
“Đúng,
đấy


do
để
anh
đến
đây
phải
không?”
- “Anh sẽ khử nó một cách ngoạn mục… Em biết anh làm được. Em háo hức xem điều đo”ù
Nhưng trong cuộc săn, đứng trước sư tử ông đã bỏ chạy, khiến nàng cảm thấy bị sỉ nhục và hơn
hết là tuyệt vọng. Cơ hội cứu vãn cuộc sống gia đình dường như đang khép lại. Hai lần nhắc đến

chuyện săn sư tử là hai lần nàng khóc. Lúc nàng bỏ đi với Wilson, Macomber đã chất vấn nàng:
“Cô đã bảo nếu bọn ta đi chuyến này thì chuyện đó sẽ không tái diễn, cô đã hứa”.
Nàng
đáp
lại:
“Em đã rất muốn như thế. Nhưng chuyến đi hỏng bét từ hôm qua”.
Một lần nữa Macomber ý thức rất rõ lỗi của mình, sự thất hứa bắt đầu từ phía mình. Oâng tự dằn
vặt

hiểu
thấu
nỗi
đau
của
vợ.
Macomber tiếp tục đề nghị đi săn trâu rừng. Tia hy vọng lại loé lên trong Margot. Nàng lại dõi
theo chờ đợi theo kiểu “còn nước còn tát” và phút nhiệm màu đã đến. Ở loạt bắn thứ nhất,
Macomber như thấy mình được lột xác, như tìm thấy khối tài sản lớn trong tâm hồn, “Trong đời
hắn chưa bao giờ cảm thấy vui vẻõ như thế”, còn Margot bị xúc động mạnh đến ngỡ ngàng.
Nàng khen ngợi “Anh thật tuyệt vời đấy, anh yêu… Một cuộc săn đuổi ra trò” mà vẫn lo sợ hoài
nghi – có đúng là Macomber đã thay đổi? Chỉ khi bắn con trâu rừng cuối cùng trong khoảng
cách “thân hình con trâu như chồm lên người, Macomber mới tự khẳng định mình, hoàn toàn
phục hồi danh dự. Còn lại là những sai lầm không sao sửa chữa nổi của Margot. Tác phẩm kết
thúc bằng tiếng khóc của người đàn ba øđã giết chồng có thể gây cho bạn đọc hoặïc là niềm cảm
thông chia sẻ, hoạc là nỗi bất bình công phẫn, nhưng chắc chắn đằng sau tiếng khóc ấy còn ẩn
chứa thái độ của một con người dám chịu trách nhiệm về mình, cô đơn đối đầu với thất bại. Hạnh
phúc ngắn ngủi của Macomber cũng còn là hạnh phúc ngắn ngủi của Margot nữa.


2.4

Những
tên
giết
người
Truyện Những tên giết người ấn tượng đầu tiên khơi gợi nơi bạn đọc khá tập trung: “ Xã hội
Găngxtơ” (Đặng Anh Đào), “Thế giới của tội lỗi” (Lê Huy Bắc), “Sự lộng hành của cái ác” (Trần
Thị Thuận), “Tình huống căng thẳng dưới áp lực của khủng bố” (Huy Liên)… Nhưng nhận định
về
nhân
vật,
giữa
các
tác
giả
lại
không

điểm
chung.
Huy Liên cảm nhận “Không một chút nào hoảng hốt, Andreson một thân một mình kìm nén nỗi
tuyệt vọng căng thẳng và sẵn sàng đón nhận cái chết… George đồng cảm với số phận của
Andreson… Nick không chỉ đồng cảm với kẻ bất hạnh mà còn sẵn sàng cứu giúp” [24].
Lê Huy Bắc kết luận: “Trong số sáu nhân vật…, trừ Nick, năm người còn lại ít nhiều đã biểu lộ
tội lỗi của mình: hai kẻ giết người, một kẻ quay lưng trước tính mạng của đồng loại, một người
muốn cứu nhưng không tự mình hành động, và một người phó mặc mạng sống của mình cho lũ
sát
nhân. Trong
mắt
Nick, Andreson


người
tệ
hại
nhất”
[25].
Trần Thị Thuận đánh giá phải chăng hơn: “Andreson bất lực… Nick nhận thức được thực trạng
bạo
lực
một
cách
sâu
sắc”.
Nhìn toàn cục tác phẩm, chúng tôi có chung cảm nhận với các tác giả nghiên cứu trên. Quả là đối
thoại giữa các nhân vật, sự sắp đặt các chi tiết truyện đã hé mở tầng ngầm thứ nhất của tảng băng
trôi – phản ánh tình trạng bạo lực xã hội, sự thống trị của cái ác. Nhưng có lẽ điều nhà văn muốn
thể hiện nhiều hơn là thái độ, là phản ứng của con người trước cái ác – cũng là tầng ý nghĩa thứ
hai của tác phẩm – liệu con người có khả năng diệt trừ cái ác hay không? Lý giải điều này sẽ làm
sáng
tỏ
về
từng
nhân
vật.
Andreson bị săn đuổi cùng đường đã mệt mỏi tuyệt vọng, chờ chết, mong được chết. Anh ta như
có nỗi đau phải sống. Lê Huy Bắc rất có lý khi liên tưởng nhân vật này với Jozef K trong Vụ án
của Kafka. Sam, George, Nick – những người làm trong quán ăn thì mỗi người một ý. Sam,
George lớn tuổi hơn Nick, từng trải hơn Nick, xem ra có kinh nghiệm hơn Nick – nhúng tay vào
những vụ thế này chỉ chuốc lấy thất bại và sự bất lợi, do vậy hai nhân vật này kẻ sợ hãi, người
ngại ngùng đều đã đứng ngoài cuộc. Họ mặc nhiên chấp nhận cái ác, chung sống cùng cái ác,
miễn sao cái ác không xâm hại mình, phó mặc cho sự rủi may của số phận. Nick cứu người

nhưng bị chính nạn nhân khước từ. Thái độ của Sam, George làm cậu thêm khó chịu. Nick không
chấp nhận lối sống cam chịu, thờ ơ trước số phận mình cũng như đồng loại nhưng Nick không
thể cải tạo được nó nên quyết định bỏ đi – chọn cách chạy trốn để giữ mình trong sạch như Alfret
trong Anh chàng ghét đời của Moliere đã làm. Nick đã bất lực. Xây dựng những nhân vật như
thế, phải chăng Hemingway đã linh cảm thấy sự hoành hành của cái ác là vô phương cứu chữa?
Nghe như trong từng trang truyện có tiếng thở dài của nhà văn trước một hiện thực buồn…
Những tên giết người còn có một tầng nghĩa nữa, một chức năng nữa – ghi lại một phần đời của
Nick, góp phần hoàn thiện bức chân dung về Nick mà Hemingway dày công khắc hoạ trực tiếp
trong
hơn
một
chục
tác
phẩm
của
ông.
2.5
Một
nơi
sạch
sẽ

sáng
sủa
Theo Trần Phong Giao, Một nơi sạch sẽ và sáng sủa là “truyện diễn tả rõ ràng cái tín điều hư vô
chủ nghĩa, là điều đã ám ảnh Hemingway từ khi ông khởi đầu cuộc sống cũng như văn nghiệp
của
ông”
[26].
Nhà nghiên cứu Hoàng Nhân lại thấy ở đây một tâm trạng buồn đến não ruột, buông trôi: Truyện

“thể hiện ít nhiều tính chất hư vô chủ nghĩa, bộc lộ “một nỗi buồn chán đến thờ ơ với cuộc sống,
buông
xuôi
phó
mặc
cho
dòng
đời…

đành
chấp
nhận”
[27].
Với Trần Thị Thuận, Một nơi sạch sẽ và sáng sủa mang ý nghĩa tích cực: “Sự khao khát một nơi
ánh sáng đèn của con người bất hạnh đó. Nó chứng tỏ rằng, dù cuộc sống đang là một thử thách
lớn, và ông lão cũng như người bồi lớn tuổi, với sự từng trải của mình, chẳng thể nào không


chiêm nghiệm sâu xa về cái hư vô muôn thủa của đời người, vẫn dũng cảm đương cự với tất cả,
để có thể trong một chừng mực nào đó, vượt lên và tự khẳng định mình” [28].
Lê Huy Bắc một mặt cùng suy nghĩ với Trần Phong Giao ở khía cạnh tác phẩm thể hiện cái hư
vô. Mặt khác lại đưa ra một cách cắt nghĩa, “truyện về con người cô độc” [29].
Với một tác phẩm chưa đầy bảy trang dịch có tới hai mươi hai lần lặp lại từ “hư vôâ” – “Nada”
và bốn lần lặp lại từ “trống rỗng” quả có gợi lên nhiều suy nghĩ trong người đọc. Nếu bảo đây là
chuyện tích cực, con người “vẫn dũng cảm đương đầu với tất cả” thì cũng hơi quá. Hai nguời bồi
và ông lão thường xuyên đến quán , mỗi người một cảnh.Nhưng thế giớt nội tâm của người bồi
lớn tuổi và ông lão có một chút gì đó gần gặn, đồng điệu: họ cô đơn, không thích đi ngủ, thích
những quán sạch sẽ và sáng sủa. Môi trường sạch sẽ và sáng sủa là nhu cầu tất yếu và tự nhiên
của con người, vậy mà hai người kia cứ phải băn khoăn chọn lựa. Nhu cầu ấy ở họ quá lớn như
một nỗi khát khao, vậy thì hẳn là xung quanh họ có nhiều nơi không sạch không sáng. Phản ánh

một hiện thực không tươi sáng, với những con người không có tuổi trẻ, không có niềm tin chính
là thể hiện tư tưởng bi quan của tác giả, có điều bi quan nhưng chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Nhân
vật Hemingway hay cũng chính là ông vẫn muốn tìm một hướng thoát, vẫn mong mỏiõ ánh sáng.
Và dẫu có chưa tìm thấy hướng đi thì vẫn phải biết giữ mình trong sạch.
Một nhà nghiên cứu nào đó đã nói: “Văn học là tôi, khoa học là chúng ta”, chính là muốn khẳng
định yếu tố cá nhân trong sáng tạo văn học. Một khi tác phẩm còn tồn tại, còn có bạn đọc thì ý
nghĩa của nó vẫn chưa đến tận cùng. Cách đọc của mỗi người đã làm nên ý nghĩa.
“Khi đọc tác phẩm, tôi đặt vào sự đọc cái tình huống của tôi… Tình huống luôn thay đổi ấy làm
ra tác phẩm chứ không phải tìm lại được nó. Tác phẩm không phản đối, chống lại các ý nghĩa mà
tôi
gán
cho
nó”
[30].
Và cứ thế “có bao nhiêu độc giả và bao nhiêu sự đọc mới cho cùng một tác phẩm, thì có bấy
nhiêu những thành tựu, những cụ thể hóa tác phẩm”. Theo quan niệm trên, thì những phân tích
các lớp nghĩa trong mỗi văn bản nghệ thuật như đã nêu và trong các tác phẩm khác của
Hemingway chưa phải là tất cả. Các nhà nghiên cứu sẽ còn sáng tạo nữa, sáng tạo mãi để tác
phẩm của ông sống vĩnh viễn, mới vĩnh viễn.



×