Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiếng đàn trên sông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.52 KB, 35 trang )

Tiếng Đàn Trên Sông
(Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị)
Nhạc Phẩm Tỳ Bà Hành (Thơ Vương Ngọc Long - Nhạc Mai Đức Vinh)

Hải Đà sưu tập và biên soạn (Phần 1)

Tranh: Thu Huệ

Bạch Cư Dị , tự Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn Cư Sĩ, người Thiểm Tây , có bản chất thông minh
từ nhỏ, năm 6 tuổi đã bắt đầu học làm thơ . Ông đã lớn lên trong một bối cảnh lịch sử triền
miên khói lửa binh đao, nên ông gần gũi và thông cảm với nỗi khốn khổ, nghèo khó và cảnh
cơ hàn cay đắng của tầng lớp lao động do vương triều phong kiến gây ra, cũng như ông đã
đồng tình với niềm ước vọng và phẫn uất của người dân lao động. Những sự cảm thụ đó đã
ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp thi ca của ông. Bạch Cư Dị đỗ tiến sĩ năm 20 tuổi, được
bổ làm quan trong triều đình giữ chức Tả thập di . Ông đã sống trong một thời kỳ đen tối,
lúc mà xã hội Trung Quốc đang trên con đường suy thoái, những mâu thuẫn của các phe
cánh thống trị trong triều đình khó hàn gắn được . Với bản tính trung thực dám nói thẳng (dù
với tinh thần tôn quân), ông đã dám phê phán gay gắt và can đảm đấu tranh cho chính
nghĩa, nên ông đã làm mất lòng vua và các quan đại thần. Nhiều kẻ nịnh thần căm ghét,
dèm pha, và hạch tội ông . Ông bị giáng chức làm tư mã Giang Châu (815-818) , là một chức
vị nhàn rỗi, không có công việc gì làm, mang một tâm sự buồn bã chán ngán thế thái nhân
tình . Trong thời gian nầy ông sống trong một mái nhà tranh bên ngôi chùa, và dành nhiều
thì giờ để tu tiên học đạo . Bài thơ nổi tiếng Tỳ Bà Hành của ông đã được sáng tác trong giai


đoạn nầy, được phổ biến rộng rãi trong quần chúng bình dân và được xã hội đón tiếp thưởng
thức quí trọng. Đó là bài thơ mang khía cạnh nhân sinh, xã hội, hiện thực đã được truyền
tụng trong nhân gian, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ . Trên bước đường phiêu bạt, ông đã
thấy nhiều khách thập phương yêu thơ ông đã ghi chép lại những bài thơ trên bờ tường của
trường làng, chùa chiền, quán trọ, quán rượu, cũng như dán trên mui thuyền và những hội
quán thi phú, tập văn của các nho sinh . Ông rất vui sướng, lạc quan tin rằng thơ ông gần


gũi với dân chúng và được nhiều người quí trọng và ưa thích. Bạch Cư Dị đại diện cho dòng
thơ hiện thực phê phán vì khi ông đã phải sống qua một giai đoạn lịch sử đen tối của chế độ
quan liêu phong kiến đồi trụy, Bạch Cư Dị đã dùng thi ca với những lời lẽ giản dị thành thực
để mạnh dạn đấu tranh và tố cáo những hành vi áp bức, những bất công trong xã hội, cũng
như sự bóc lột của bọn quan lại quý tộc. Thơ của ông phản ảnh được nỗi lòng uất nghẹn và
nỗi trầm luân thống khổ của dân chúng trước thế sự thời cuộc ba chìm bảy nổi..
Bạch Cư Dị chủ trương đổi mới thi ca, ông muốn thi ca phải gắn bó với đời sống, phản ảnh
hiện thực xã hội, tràn đầy tư tưởng nhân đạo, nhân văn . Bạch Cư Dị đã nói “ Làm văn phải
vì thời thế mà làm, làm thơ phải vì thực tại mà viết “ (Văn chương hợp vi thời nhi trước, thi
ca hợp vi sự nhi tác ). Thơ Bạch Cư Dị phù hợp chủ nghĩa hiện thực theo con đường “phục cổ
để cách tân”, muốn nói lên những thảm cảnh đen tối, xấu xa ngăn cản bước tiến của xã hội
và đất nước. Bài Trường Hận Ca của ông diễn tả mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và
Dương Quí Phi, nhưng cũng có những ý tưởng sâu sắc thầm kín mỉa mai …
Bài Tỳ Bà Hành của ông có tình tiết mạch lạc, khúc chiết và sinh động, theo lối “ thuật hoài”
(miêu tả), cảm ngộ, để gửi gắm tâm sự, nỗi buồn riêng tư thầm kín của tác giả như một
người mang số phận hẩm hiu , để mà thông cảm xót thương như người ca nữ trong câu
truyện, gặp nhiều cảnh éo le, không may mắn trên đường đời . Bài thơ ngân vang một cảm
xúc ngậm ngùi, một nỗi buồn thắm thía …Ông đã nói “ sự việc dẫn dắt ở ngoài, tình lý rung
động bên trong, theo cảm xúc mà diễn đạt ra lời ngâm vịnh …” Đó là những lời bộc bạch
chân tình, nói lên cái tâm huyết của một người trí thức muốn bày tỏ tấm lòng ưu thời mẫn
thế, cũng như nỗi bi phẫn của tác giả bị chèn ép, bạc đãi trong một xã hội phong kiến đầy
dẫy bất công. Bài thơ giàu chất trí tuệ, sâu sắc cảm động đã gióng lên tiếng chuông cảnh
cáo một chế độ phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm, tình cảm, hạnh phúc, và quyền sống
của người phụ nữ . Nhà thơ đã tìm thấy một tâm hồn đồng điệu, một tương thức tri âm qua
người kỹ nữ gặp trên sông Tầm Dương. Bài thơ có những giao động của nhịp điệu, cái trữ
tình của ngữ điệu, và cái xao xuyến của nhạc điệu, tạo nên một phong cách đặc biệt, thể
hiện cái phong cốt và thần thái của người nghệ sĩ tài hoa, cũng như quan niệm và thái độ
của tác giả về đời sống. Bạch Cư Dị trong một lá thư gửi người bạn đã nói lên những suy
nghĩ sâu sắc về thi ca : “ Cái cảm hóa được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm,
chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý

nghĩa . Với thơ gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa “


(Nguyễn Khắc Phi dịch) . Bài thơ Tỳ Bà Hành đã tạo nên một phong cách mỹ thuật, tư duy
thâm thúy bằng cách kết hợp đầy đủ các yếu tố : tình cảm, ngôn ngữ, âm thanh và ý nghĩa .

Năm Nguyên Hòa thứ 10 (815) Bạch Cư Dị bị giáng chức và đổi đi làm Tư Mã Giang Châu, và
ông cũng đã trút niềm tâm sự u uẩn nầy qua bài thơ:
Chu Trung Dạ Vũ
Giang vân ám du du
Giang phong lãnh tu tu
Dạ vũ trích thuyền bối
Dạ lãng đả thuyền đầu
Thuyền trung hữu bệnh khách
Tả giáng hướng Giang Châu
Bạch Cư Dị
Trong Thuyền Đêm Mưa
Mây đen nghịt, nước sông trôi
Gió sông lạnh ngắt bồi hồi khách thơ
Mui thuyền thánh thót hạt mưa
Bập bềnh sóng vỗ đong đưa mái thuyền
Trong khoang khách bệnh nằm yên
Chẳng may giáng chức về miền Giang Châu
Hải Đà
Bài Tỳ Bà Hành được viết vào thời gian nầy (lúc Bạch Cư Dị bị giáng chức làm Tư mã Giang
Châu), bài thơ gồm 616 chữ được sáng tác ngay trên thuyền . Giang Châu có núi Khuông Lư,
bến Tầm Dương đều là nơi danh lam thắng cảnh . Một bữa xuống thuyền thong dong dạo
chơi, trong một đêm trăng thu vằng vặc, sóng nước bập bềnh, ông nghe một tiếng đàn
thánh thót văng vẳng, lúc biến hóa lâm ly, lúc dạt dào xúc động xao xuyến, lúc ngưng bặt
luyến tiếc từ một chiếc thuyền lơ lửng trôi gần đó . Ông ghé thuyền, và gặp người kỹ nữ

đang gảy đàn tỳ bà. Bạch Cư Dị đã cảm thấy mình đồng cảnh ngộ với người kỹ nữ lưu lạc
trên bến sông đêm thanh vắng .Cô đào đã gảy cho Bạch Cư Dị nghe những khúc đàn tuyệt
hảo, trầm bổng xao động người nghe .Sau đó người kỹ nữ sụt sùi thương tiếc số phận hồng
nhan đa truân và đã bộc bạch thổ lộ tâm tình riêng tư của mình cho ông nghe . Cảnh và tình
hòa hợp . Âm đàn và tâm trạng chan hoà cảm xúc, cảnh ngộ . Mỗi tiếng đàn ngân lên như


nỗi niềm nuối tiếc xốn xang của người ca nữ hòa mình với nhịp đập bồi hồi thổn thức của
con tim người thơ . Chợt có mối đồng cảm, đồng tình giữa người thơ long đong trên bước
đường sự nghiệp công danh với cuộc đời trôi dạt, bị bỏ rơi quên lãng của người ca nữ đáng
thương. Giữa nguồn cảm xúc lai láng tuôn tràn, Bạch Cư Dị đã tài hoa sáng tác một mạch
bài Tỳ Bà Hành đầy nhừng hình ảnh tâm trạng thực và sinh động, và ông ngâm bài thơ luôn
cho cô nghe. Xúc động trước chân tình tha thiết của nhà thơ, người nghệ sĩ lại đưa những
ngón tay mềm mại lên phím đàn để tạ ơn người viễn khách trên sông. Trăng vẫn sáng trên
sao, sóng nước vẫn bập bềnh, sương khói lãng đãng che phủ khoan thuyền . Trời không lất
phất những hạt mưa .. nhưng sao mưa vẫn rơi thánh thót gieo vang những âm điệu buồn
vời vợi trong lòng ai ?
”Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh “

Tỳ Bà Hành
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Túy bất thành hoan, thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phát
Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy ?

Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu, tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức, thanh bình tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tục tục đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự


Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi “Nghê thường”, hậu “Lục yêu”
Đại huyền tao tao như cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ
Tao tao thiết thiết thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt
U yết tuyền lưu thủy há than
Thủy tiền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết
Biệt hữu u tình ám hận sinh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
Ngân bình sạ phá thủy tương bỉnh
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn

Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung
Tự ngôn: “Bản thị kinh thành nữ
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú
Thập tam học đắc tỳ bà hành
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ
Khúc bãi tằng giao Thiện Tài phục
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số
Điền đầu ngân tì kích tiết toái
Huyết sắc la quần phiên tửu ố
Kim niên hoan tiếu phục minh niên
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tòng quân, a di tử
Mộ khứ, triêu lai nhan sắc cố
Môn tiền lãnh lạc xa mã hí


Lão đại giá tác thương nhân phụ
Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ ?
Khứ lại giang khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền nguyệt minh, giang thủy hàn
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ hồng lan can “
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân

Tương phùng hà tất tằng tương thức
”Ngã tòng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành
Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn Giang địa đê thấp
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh
Kỳ gian đán mộ văn hà vật
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch
Ẩu á trào triết nan vi thính
Kim dạ văn quân Tỳ bà ngữ
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc
Vị quân phiên tác tỳ bà hành “
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
Khước tọa xúc huyền, huyền chuyển cấp
Thê thê bất tự hướng tiền thanh
Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa ?
Giang Châu tư mã thanh sam thấp
Bạch Cư Dị


Xem Nguyên Tác Bài Thơ Chữ Hán
Bản dịch thơ của Phan Huy Vịnh:
Tỳ Bà Hành
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách

Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti
Say những luống ngại khi chia rẽ
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
Đàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ khuây khỏa lại khách dùng dằng xuôi
Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá ?
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh
Dời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui
Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc, tình đà thoảng hay
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bay lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê thường sau thoắt Lục Yêu:
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ



Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lựa, lưạ vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây lạnh ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong
Áo xiêm khép nép hầu mong dãi nhời
Rằng: “Xưa vốn là người kẻ chợ
Cồn Hà Mô trú ở lân la
Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên
Gã Thiện tài sợ phen dừng khúc
Ả Thu nương ghen lúc điểm tô
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn
Vành lược bạc gãy tan dịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi
Năn năm lần lữa vui cười
Mải trăng gió chẳng đoái hoài xuân thu
Buồn em trảy, lại lo dì thác
Sầu hôm mai đổi khác hình dung
Cửa ngoài xe ngựa vắng không
Thân già mới kết duyên cùng khách thương
Khách trọng lợi khinh thường ly cách
Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi
Thuyền không, đậu bến mặc ai

Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng
Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen
Nghe đàn ta đã trạnh buồn
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy nhời :
” Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau


Từ xa kinh khuyết bấy lâu
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm
Sông Bồn gần chốn cát lầm
Lau vàng, trúc võ, âm thầm, quanh hiên
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sầu, vượn nói nỉ non
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
Há chẳng có ca rừng, địch nội ?
Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai
Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca“
Đứng lâu dường cảm lời ta
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây
Nghe não nuột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người ?

Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh
Phan Huy Vịnh dịch

Bản dịch Tỳ Bà Hành của Phan-Huy-Vịnh được nhiều người công nhận là bản dịch xuất sắc
nhất . Bài thơ nguyên tác chữ Hán gồm 88 câu 7 chữ hay 616 chữ. Phan Huy Vịnh dịch Nôm
theo thể song thất lục bát (7-7-6-8), thành 22 đoạn, giữ nguyên số lượng (616) chữ .Theo tác
giả Trần Thị Băng Thanh (Từ Điển Văn Học – nxb Khoa Học Xã Hội) : “ … cho đến nay, những
người yêu thích văn chương biết đến Phan Huy Vịnh là nhờ bản dịch của bài Tỳ Bà Hành …
nguyên tác là của Bạch Cư Dị . Tỳ Bà Hành miêu tả tâm trạng quan Tư Mã Giang Châu họ
Bạch trong đêm nghe người ca nữ đã luống tuổi ở bến Tầm Dương, đánh đàn tỳ bà và kể
chuyện cuộc đời chìm nổi của mình . Bản dịch gồm 22 khổ thơ song thất lục bát … Đóng góp
lớn nhất của Phan Huy Vịnh là sử dụng tiếng Việt . Cũng là những từ ngữ thông thường,
những thủ pháp tu từ quen thuộc, nhưng sự chọn lọc tinh tế và sắp đặt sáng tạo, đã làm cho
tác phẩm có sức truyền cảm đặc biệt và đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật dịch . Từ lâu bản
dịch Tỳ Bà Hành đã được phổ cập rộng rãi và coi là một tác phẩm văn học xuất sắc, có đời


sống độc lập với nguyên tác. Nó đã chứng minh khả năng diễn đạt và nhạc tính phong phú
của ngôn ngữ Việt Nam “ (TTB)
Cũng theo tác giả Ngô Văn Phú : “Riêng bản dịch Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, sau này là
một bài rất thịnh hành để hát ca trù, được các nhà nho, các quan viên hát ả đào (kể cả thời
Tây học) rất yêu thích . Năm 1986, trong một cuộc tuyển chọn những điệu hát đặc sắc của
các quốc gia của UNESCO thuộc Liên hợp quốc, bài Tỳ Bà Hành (bản dịch) , được nghệ sĩ
Quách thị Hồ thể hiện bằng thể hát nói, đã được tặng giải thưởng cao . Đó cũng là sự phát
triễn, kết hợp tài tình giữa bản dịch thơ (lời) và âm nhạc “.
Tỳ Bà Hành là một bài thơ cổ kính, súc tích, lồng vào một câu chuyện thi vị, tạo ra một âm
hưởng nhạc thơ nhẹ nhàng, tha thiết làm xao động lòng người. Cái thân phận bèo bọt của
người thiếu phụ đã dùng tiếng đàn để bộc lộ nỗi than oán và uất hận của mình. Bạch Cư Dị
là nhà thơ đã mạnh dạn đề cập đến giá trị của người phụ nữ, cái bất công của xã hội phong
kiến đối với vai trò của người phụ nữ. Những âm thanh của tiếng đàn được diễn tả rất tài

hoa, những uẩn khúc thầm kín riêng tư của nỗi lòng, những ưu tư dằn vặt thăm thẳm đáy
lòng như đã tuôn trào ra để hòa nhịp cùng với những âm thanh của tiếng mưa rào rạt, tiếng
oanh ríu rít, tiếng nước tuôn róc rách, tiếng dao xô xát, tiếng lụa xé kêu vang .. lúc trầm lúc
bổng, những giây phút ngừng lại im bật, thì lại bỗng rung lên những tiếng tơ lạnh ngắt run
rẫy, lối diễn tả thật tuyệt vời . Những đợt sóng cảm xúc cứ dạt dào tuôn trào ra, tạo nên
những chấn động dư ba, làm nao lòng, ủ rũ người nghe. Những tiếng rung luyến láy chuyển
nhịp theo từng ngón tay mềm mại nõn nà của người thiếu nữ, như muốn níu kéo lại âm vang
của một thời niên thiếu ngây thơ, như muốn thở ra những tiếng não nuột của một tâm trạng
chán chường, như buồn thương nuối tiếc một dĩ vãng vàng son đã mất hút tự hôm nào .
Bỗng tiếng đàn tắt lịm, hụt hẫng như tiếng khóc khô không lệ , buồn tủi tiếc thương cho một
thiên đàn ước vọng đã xụp đổ tan tành … Người thơ đã dùng những ước lệ, ẩn dụ, những cái
đẹp trữ tình lãng mạn của thi ảnh qua những ngôn từ chắt lọc tinh tế tạo thành nhừng hình
tượng tinh túy khơi động cảm xúc lòng người, làm trái tim rung động bần thần, làm tâm hồn
xao xuyến , man mác bâng khuâng . Đó là thanh âm rung vang của tiếng đàn Tỳ Bà ….
Em bước xuống từ trong tranh
Cây Tỳ Bà nức nở
Ngón đàn em trăn trở
Vần thơ em buông lửng lơ
Bỏ lại vầng trăng quạnh hiu
Bỏ lại sau lưng khoảng không nham nhở
Em bước xuống vẫn ôm cây Tỳ Bà nức nở
Lang thang cuối đất cùng trời


Tiếng Tỳ Bà gõ cửa
Tiếng Tỳ Bà đòi nợ cho nàng Kiều
Kiếp đoạn trường muôn thuở
Đàn trăn trở thơ buông lửng lơ
Hồn Tỳ Bà ( nhạc sĩ: Ngọc Khuê)
Câu chuyện trong bài thơ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị đã thầm nói lên một triết lý nhân sinh,

cái chua xót ngậm ngùi của cảnh đời dâu bể, ba chìm bảy nổi, cảnh đoạn trường hưng phế
của tạo hóa, mà con người chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi, bất lực trước cuộc đời hư ảo như
bóng câu bên cửa sổ, như thoáng mây bay cuối trời . Chung cái tâm sự hận sầu ray rức
được diễn đạt qua cung điệu đàn, lời ca, tiếng hát đó là bài Long Thành Cầm Giả Ca của
Nguyễn Du . Nguyễn Du trong một bài ca về người gãy đàn đất Long Thành (Long Thành
Cầm Giả Ca), có kể rằng vào tuổi thiếu niên, ông đến kinh đô để thăm người anh, và có dịp
được dự một hội nữ nhạc, trong đó có một thiếu nữ đất Long Thành, gảy đàn Nguyễn ( tức là
đàn Nguyệt, do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế ), rất điêu
luyện, đã gảy những khúc đàn hay nhất trời đất (tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất
thanh) tài danh lừng lẫy, lại hát hay và ăn nói duyên dáng quyến rũ vô cùng . Sau đó
Nguyễn Du trở vào Nam , mãi một thời gian sau ông phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tạt
ngang Long Thành, bạn bè mở tiệc, khoản đãi ông và có gọi đoàn nữ nhạc đến giúp vui, mà
ông không quen mặt biết tên , và bất chợt gặp lại người kỹ nữ đó . Sau đây trích một đoạn
trong lời tiểu dẫn của Nguyễn Du (Quách Tấn dịch) : “ …Tiệc khởi múa hát . Kế tiếng đàn
trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc . Lòng tôi kinh dị . Nhìn
người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thần khô, mặt đen, sắc trong như quỷ, áo quần toàn vải
thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười,
hình trạng thật khó coi . Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen,
nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp . Than ôi ! Người
ấy sao đến nỗi thế nầy ! Cuối ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn .
Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật không sao lường được ! Sau khi từ
biệt , trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gởi hứng : Người Đẹp Đất
Long Thành – Long Thành Giai Nhân “ (Nguyễn Du)
Xin trích dịch một đoạn cuối của bài ca lúc Nguyễn Du gặp lại người ca kỹ này trong bữa tiệc
do bạn bè đãi ông ở dinh Tuyên Phủ):

…Trong yến tiệc các nàng đều son trẻ
Duy một người ca kỹ tóc hoa râm
Sắc thần khô gầy guộc đứng âm thầm
Chẳng điểm phấn tô son nhìn hốc hác



Ai biết nàng một thời danh tiếng nhất
Khúc đàn ngân, ta mắt lệ tuôn tràn
Lắng tai nghe mà đau đớn vô vàn
Hai mươi năm vẫn hoài thương nhớ tiếc
Hồ Gươm xưa tưng bừng đêm yến tiệc
Đời phế hưng thành quách đã thay dời
Bãi nương dâu hóa biển sóng trùng khơi
Cả cơ nghiệp Tây Sơn đều suy thoái
Làng ca múa một người còn sót lại
Đời trăm năm một nháy mắt trôi qua
Nhớ chuyện xưa mà áo thấm lệ nhòa
Từ Nam về đầu ta đầy tóc bạc
Trách chi nàng đã tàn phai nhan sắc
Kể chuyện xưa hai mắt xót thương sầu
Giáp mặt nhau mà chẳng nhận ra nhau ….
(trích Long Thành Giai Nhân của Nguyễn Du Hải Đà phỏng dịch)
Đời Đường âm nhạc đã được phát triễn rõ rệt, nhờ hấp thu nhiều giai điệu của ngoại quốc
nhập vào . Ngoài những dụng cụ nhạc cũ tạo âm thanh bằng cách thổi như tiêu, sáo, kèn,
còi v.v.. hoặc gãy như huyền cầm ,thập lục, thất huyền .. hoặc bằng cách gõ như chiêng,
trống, phách, ngọc thạch, mã não. Để làm phong phú cho dàn nhạc cũ này thì có những
nhạc cụ khác Tì bà, Hồ già, Giốc lật, Khương địch. Bát âm của âm nhạc thời Đường là dựa
trên chất liệu của nhạc khí làm tiêu biểu như : Ti (đàn), Thạch (khánh), Kim (chuông), Trúc
(sáo), Mộc ( mõ gỗ), Thô (trống đất), Bào (vỏ bầu), Cách (trống da) .. Ngũ âm của họ là Cung
(như vua), Thương, Giốc, Chủy (như việc), Vũ (như vật) … Trong những loại đàn cổ xưa của
Trung Quốc phải kể đến đàn sắt và đàn cầm gồm 50 dây (ngũ thập huyền) .
Theo truyền thuyết, theo lệnh vua Phục Hy, Tố Nữ gẩy đàn sắt (gồm 50 dây) tế trời . Nhưng
Phục Hy không bằng lòng và ngăn cấm xử dụng vì nghe tiếng đàn quá tê tái , não nuột bi ai
thảm thiết. Vì thấy dân chúng vẫn lén lút xử dụng nên Phục Hy đành phải ra lệnh sửa đổi

đàn sắt chỉ còn lại 25 dây . Đàn tranh của âm nhạc truyền thống Việt Nam, nhiều người cho
rằng xuất xứ từ cây đàn sắt của Trung Quốc nhưng chỉ gồm có 16 dây thôi (còn gọi là đàn
Thập Lục), giống như 16 tiếng chim nhạn, âm nhạc Việt Nam là ngũ cung (mỗi âm giai có
tên Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ , so sánh với Hò, Xự, Xàng, Xê, Cống. 15 nốt chính tạo từ 3
âm giai (mỗi 5 giai là 5 tiếng đàn Hò Xự xàng Xê Cống), cọng thêm một nốt chúa đàn, nên
có tất cả là 16 dây .


Đàn Tỳ Bà (pipa) là loại đàn “luýt” (lute) , nhạc cụ dây, thân có hình trái lê, chơi bằng cách
gảy ngón tay , và gồm có 4 dây (four-stringed lute), được gảy bằng 2 ngón tay . Đời nhà Hán
(206-220), đàn Tỳ Bà có 4 dây và 12 phím đàn . Tuyên Phủ (đời Tấn ) đã viết “ Đàn Tỳ Bà
xuất hiện, được dùng nhiều vào cuối đời Tần (222-207), khi dân chúng bị triều đại phong
kiến bắt đi lao động khổ sai để xây dựng Vạn Lý Trường Thành và họ đã gảy đàn Tỳ Bà để
dùng tiếng đàn thê lương ảo não nói lên sự than oán uất nghẹn trong lòng mà họ không
được quyền nói ra bằng lời “.
Cái kỹ thuật của đàn Tỳ Bà được diễn tả đòi hỏi khéo léo bằng những ngón tay và trình độ
điêu luyện của người nghệ sĩ. Những âm thanh rung lên kéo dài tạo tiếng vang rền , hòa lẫn
với các đọan nhạc bật (pizzicato), tiếng vỗ nhịp bằng tay, thêm vào phần hòa âm rung động,
với những tiếng động hoặc âm thanh chát chúa của vũ khí thêm vào âm điệu của bài thơ
diễn tả những cảnh chiến trường như những trận đánh nổi tiếng trong thế kỷ thứ hai BC giữa
Sở (Hạng Võ) và Hán (Lưu Bang) như bài “Thập Diện Mai Phục” .
Tiếng đàn tỳ bà đó cũng thấy trong những bài thơ tả cảnh biên tái, chiến trường thê lương,
diễn tả những cảm xúc hùng tráng hiên ngang của người chiến binh lên đường, cũng như
những tư duy ngậm ngùi thầm kín chấp nhận cho số phận an bài trước cảnh chia ly não
nùng :
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Lương Châu Từ (Vương Hàn)

Rượu ngon thơm ngát chén ngà
Ly chưa cạn, tiếng tỳ bà giục đi
Sa trường say, mỉa làm chi
Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về
(Hải Đà phỏng dịch)
Hãn hải lan can bách trượng băng
Sầu vân thảm đạm vạn lý ngưng
Trung quân trí tửu ấm quy khách
Hồ cầm tì bà dữ Khương địch
(trích Bạch Tuyết – Sầm Tham)


Biển cát làn băng trắng vạn phương
Mây sầu muôn hướng phủ thê lương
Trại quân bày rượu nâng ly tiễn
Tiếng nhạc Hồ, Tì quyện sáo Khương
(Hải Đà phỏng dịch)
Tỳ Bà cũng là một nhạc cụ được dùng trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam, thuộc loại “ họ
dây” (chordophone) . Những loại đàn cùng họ này như : đàn nguyệt, đàn tranh, đàn nhị, đàn
bầu, đàn đáy, đàn hồ v.v..
” Tỳ Bà tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người Việt. Nhiều tài liệu đã cho biết, Tỳ Bà xuất
hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi PiPa, rồi ở Nhật Bản với tên gọi BiWa.Người ta chế tác
Tỳ Bà bằng gỗ Ngô Đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi.
Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi
là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc thủ đàn) cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là hình chữ thọ, khi
là hình con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây.
Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 - 100 cm. Phần cần đàn có gắn 4 miếng ngà
voi cong vòm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần
mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong
cho mịn, ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây nilon. Đàn có 4 dây lên theo 2 quãng 4,

mỗi quãng 4 cách nhau một quãng 2: Đồ - Fa - Sol - Đô1 hoặc Sol -Đô1 - Rê1 - Sol1. Khi chơi
đàn nghệ nhân gẩy đàn bằng miếng đồi mồi hoặc miếng nhựa .Ở Việt Nam đàn Tỳ Bà có
mặt trong các dàn nhạc: Nhã nhạc, Thi nhạc của cung đình, Thiền nhạc của phật giáo, ban
Nhạc tài tử, Phường bát âm, Dàn nhạc dân tộc tổng hợp. Mặc dù đàn Tỳ Bà có xuất xứ từ các
nước khác, nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa và trở thành cây đàn
của Việt Nam, thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt
Nam trong lĩnh vực khí nhạc.
( )
Tiếng đàn Tỳ Bà đã tạo nên những âm thanh huyền diệu, ăm ắp nhạc tính, tràn trề nhịp điệu
trong một một số thi ca Việt Nam . Bài Tỳ Bà của Bích Khê, lời thơ dạt dào chất nhạc, thơ là
nhạc, nhạc là thơ. Bài thơ đầy thanh bằng đã tạo nên những nhịp rung êm ái nhẹ nhàng du
dương làm chùng lòng người nghe . Hàn Mạc Tử đã nhận định về thơ Bích Khê : “ Thi sĩ Bích
Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành
chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu …” . Cái huyền diệu đó
đã làm tuôn trào những cảm xúc lãng mạn xao xuyến, đã mỹ hóa những ngôn từ tha thiết ,
chất ngất thanh âm quyến rũ, chất thơ ướt đẫm nhạc qua những tiếng tỳ bà rung nhẹ đã
“gây đê mê” , làm người “chơi vơi” , cho tình “du dương” , cho hồn “phiêu diêu”, giữa một


khung trời “thu mênh mông” chất ngất, mơ hồ và huyền ảo và lúc đó không còn phân biệt
hư thực, mà chỉ còn biết : “ Cây đàn yêu đương làm bằng thơ , Cây đàn yêu đương run trong
mơ …” và tiếng đàn du dương theo bàn tay êm ái của màn đêm đang giăng mềm trên
muôn phím tơ vàng …
Tỳ Bà (Bích Khê )
Nàng ơi ! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây

Ôi ! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Cây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
Tôi qua tìm nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu


Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi ! vàng rơi: Thu mênh mông
Bích Khê
Trong bài thơ thi vị chan chứa nhạc điệu một cách đặc biệt mà người đọc khi đọc lên có cảm
giác lành lạnh xen lấn vào tận xương tủy, phải nói đến bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu . Bài
thơ đã tạo nên những làn sóng âm thanh rung động muôn chiều, những tiết tấu nghệ thuật
mỹ cảm đa dạng, đã truyền đạt quyến rũ dẫn dắt người nghe lâng lâng đi vào quỹ đạo vô
hình , xa vời hiện thực, ở đó lấp lánh lung linh sáng chói những vì sao siêu linh biểu tượng

hồn nhạc trầm buồn man mác trong những vần thơ hoài cảm xao xuyến , thấm thía khi lặng
yên “Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê “
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân …
Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình,
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi !
Long lanh tiếng hận vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người .
Bốn bề ánh nhạc, biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
(Xuân Diệu 1944 – Nguyệt Cầm )


Mường tượng đến tiếng đàn xưa, nghĩ đến cái tâm tình hoàn cảnh éo le của người kỳ nữ trên
bến nước Tầm Dương đã tạo nên mối cảm hoài bâng khuâng, cho người thơ liên tưởng đến
cái buồn ray rức tiếc nuối , một cái buồn rười rượi, một cảm giác khắc khoải nao lòng, để
người thơ phải trở gối thao thức suốt đêm trường lúc nào không hay :
Nghe Hát (Vũ Hoàng Chương)
Phách ngọt, đàn say, nệm khói êm
Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm
”Canh khuya đưa khách …” . Lời reo ngọc .
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm

Ai lạ nghìn thu, xa tám cõi ,
Sen vàng như động phía châu liêm
Nao nao khói biếc hài thương nữ ;
Trở gối, hoa lê rụng trắng thềm .
Vũ Hoàng Chương (Thơ Say)
Âm nhạc và nhịp điệu man mác tình tứ, chan chứa những giọng điệu buồn bã thương cảm và
lưu luyến của người kỹ nữ trên bến sông Tầm Giang . Giọng điệu thơ chan hòa màu sắc tha
thiết, mong mỏi tìm sự chia sẻ, cảm thông một nỗi buồn sâu thẳm từ một khung trời dĩ vãng
xa xăm nào đó, khi nỗi nhớ gọi về …
Nguyệt chẳng phải tỳ không càng không cầm với sắt
Tai dẫu nghe mà lạ tiếng tre
Cung Sế lẫn cung Hồ dìu dặt
Mình tơ réo rắt
Hồn trúc đê mê
Những thanh âm nhạc điệu chửa từng nghe
Như đưa vẳng tự vô cùng xanh ngắt
Tiếng đàn trên sông trong đêm khuya khoắt, ôi não nùng làm sao … nỉ non, đê mê, nức nở..
Đó là “tiếng ngậm-ngùi muôn thủa của thời-gian”, âm vang còn rơi rớt đọng lại như nhắc
nhở “Thiên tình sử não nùng xưa” . Người thơ đã có những cảm giác vướng víu, phân vân,
trống trải, cô đơn, lạnh lẽo trong hoài niệm bâng khuâng về một thoáng tình đã trôi qua, sự
đợi chờ mòn mỏi vô định … Phải chăng nhà thơ có con tim cùng chung nhịp điệu với người
kỹ nữ trên bến Tầm Dương ….
Đàn Nguyệt (Thế Lữ )


(Trên sông Hương một đêm trăng)
Lòng ta hỡi! Thôi đừng lên tiếng nữa!
Lặng mà nghe đờn nẩy khúc sầu thương.
Ngón tay rung, rung động cả đêm sương.
Khiến trăng nước đắm mơ hồ ly-biệt,

Khiến trong gió ngưng đọng niềm thống-thiết
Của bao nhiêu người đẹp khát tình duyên
Ôm nhớ nhung còn nức nở bên đèn.
Đêm khuya vắng thêm gợi thời xa vắng,
Tiếng bi-ai như vẽ hình cay đắng
Của chia-phôi, cùng thương tiếc đợi chờ
Trong bao thiên tình sử não nùng xưa.
Thấy chăng ai? trên sông khuya im sóng
Bâng-khuâng trôi một con thuyền mơ mộng,
Thuyền lênh đênh gieo giữa cõi sương tan
Tiếng ngậm-ngùi muôn thủa của thời-gian.
Biết chăng ai? bao nhiêu điều cực-khổ
Với bao nỗi hờn oan trong vũ-trụ
Cùng hẹn-hò thu lại một đêm nay,
Đương nỉ non thánh thót ở trên giây,
Theo ngón đê-mê của bàn tay nghệ-sĩ.
Thuốc độc êm đềm, ôi! giọng đàn kiều-mị,
Bởi vì đâu gieo xuống mãi lòng ta
Những giọt nồng tê-tái vị say xưa?
Hàn Mạc Tử cũng đã có lần đi thuyền trên sông trăng , và cũng đã được nghe một tiếng đàn
ai oán của một người ca nữ nào đó và cũng có lẽ cũng đã thăm hỏi … Câu hỏi sững sờ của
Hàn Mạc Tử cũng là câu trả lời đơn giản nói lên cái tâm trạng chua xót của người mang kiếp
cầm ca trên bến sông .. trong cơn mê hay tỉnh, nào ai hay biết, chỉ biết trầm mình vào
những phím đàn nỉ non tê tái cho thân phận mình , để tìm quên , mê mệt trong “Mười khúc
đoạn trường say chửa tỉnh ..”


Đàn Nguyệt (Hàn Mặc Tử )
Hỏi chơ mấy tuổi? Đáp mười lăm
Non nước từng phen nổi tiếng tăm

Bạc mạng đàn chơi đau nửa kiếp
Đồng tâm tơ buộc chặt quanh năm
Chường mình trước án trông đầy đặn
Nép mặt trông hoa nói thỉ thầm
Mười khúc đoạn trường say chửa tỉnh
Thuyền ai thấp thỏm muốn ôm cầm.
Chàng Tư Mã Giang Châu đã gặp người kỹ nữ như là tri âm tri kỷ, như Tử Kỳ-Bá Nha “đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” vẫn mãi là giai thoại đẹp muôn đời . ”Một đêm đàn
lạnh trên sông Huế . Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh” .. một vạt áo xanh đã đẫm ướt không
phải vì sương lạnh hay những giọt mưa đêm lất phất, mà chính là những giọt lệ sầu tê tái
muôn thuở .. Hình ảnh của người kỹ nữ trên sông có thể chỉ là một ẩn dụ, mà cây đàn là biểu
tượng để nói lên tiếng lòng của người thơ .. “Này em hát khúc tương tư nhé “ …”Sao đàn u
hoài gì mùa thu ? “ Người thơ đã sống thực của đời thường hay đã đắm chìm trong cõi mộng
ảo lúc nào chẳng hay, để mà âm thầm luyến tiếc những giây phút thơ mộng một thời yêu
dấu đã đi vào dĩ vãng ..
Văn Cao là một nhạc sĩ thì khỏi phải nói những ý nghĩ và tứ thơ của ông phong phú, tràn trề
nhạc tính, và man mác không gian Đường Thi …“Tà tà trăng lặn hiu hiu gió …Ánh lửa chài
xa thấp thoáng trôi …Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương “ … làm người đọc liên tưởng đến
một bến sông thu ở Phong Kiều Dạ Bạc “ Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt mờ, Cầu phong
đốm lửa giấc sầu mơ …” mà thay vì tiếng chuông làm sững sờ khách thơ, mà lại là tiếng đàn
lạnh trên sông Huế làm ngơ ngẩn thuyền khách … quyến luyến một chút gì hoa lệ vàng son
đã khuất xa … chỉ còn là bóng sao mờ dần.. “Em cạn lời thôi anh dứt nhạc …Biệt ly đôi
phách ngó đàn tranh …” . Con thuyền ấy đã đưa khách về đâu ? đã chở tiếng đàn ấy về
đâu ? phải chăng về một khung trời vạn cổ xa xăm nào đó …
Một Đêm Đàn Lạnh Trên Sông Huế (Văn Cao )
Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi
Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi
Này em hát khúc tương tư nhé
Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời



Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Tri âm nghe thử dây đồng vọng
Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru
Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha
Em nghe anh dạo khúc thu xa
Thuyền xuôi về bến mô thuyền bỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà
Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
Từng canh trời điểm một sao rơi
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi
Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương
Hò ngân cung Bắc lướt cung Thương
Đầy nhớ thương tha thiết gọi ta về
(Tối Tân Hôn – Vũ Hoàng Chương)
Dòng Tiêu Kim Thủy gà xao xác
Ngẩng thấy kinh kỳ khói vấn vương
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh
Văn Cao
Cái tâm trạng của người kỹ nữ với chiếc đàn tỳ bà trên bến nước Tầm Dương có lẽ cũng
ngậm ngùi đau đớn, chua xót không kém gì cô gái mang kiếp cầm ca trong bài thơ “Lời Kỹ
Nữ “ của Xuân Diệu . Cái nội tâm dày vò, dằn vặt, thương xót và tủi nghẹn cho cái thân phận
không may mắn trong cuộc đời thật là lớn lao .. ”Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn (XD) . Cái
tuyệt vọng của cô đơn, cái nỗi chán chường xót xa, càng thấm thía buốt nhói như “Trời đầy
trăng lạnh lẽo suốt xương da” (XD) … Và khi lời ca, âm nhạc, tiếng đàn chấm dứt , khi những

hình ảnh chập chờn xa dần của “ Trăng từ viễn xứ .. đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn “ ..
cũng là lúc mắt lệ rưng rưng , lòng buồn vời vợi, nỗi cô đơn trống vắng, tê điếng rụng rời,


chan hòa với cái lạnh giá lan tỏa của vầng trăng mộng mị, trên sóng nước chập chùng trôi
xa về một bến bờ triền miên vô định :
”Xao xác tiếng gà . Trăng ngà lạnh buốt
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi
Du khách đi – Du khách đã đi rồi … “
Lời Kỹ Nữ (Xuân Diệu)
Thử xem Bạch Cư Dị đã diễn tả tiếng đàn như thế nào? một cách say sưa, có ma lực ám ảnh
trí tưởng tượng và chiếm lĩnh trái tim của người đọc dù chưa nghe qua tiếng đàn . Tiếng đàn
đã thay đổi theo từng biến chuyển từng giây từng phút, lúc thì như tiếng mưa tỉ tê thánh
thót làm lòng người muốn tê tái ủ rũ, lúc thì ào ào như suối đổ, chung hưởng cái ngây ngất
mừng reo vui sướng, lúc não nùng réo rắt như vỡ tuôn dòng nước, lúc thì ân hận buồn bực
vỡ oà lên khi tiếng tơ lạnh ngắt, và đủ âm thanh cung bực đẫn dắt người nghe giao động bồi
hồi hoang mang lạc lẫm từ cảm giác nầy qua cảm giác khác khó lòng mà gỡ rối tìm đường ra

“Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao

Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lựa, lưạ vào bốn dây”
Phan Huy Vịnh dịch
Tiếng đàn đã chấm dứt, nhưng Bạch Cư Dị đã dùng đôi mắt nghệ sĩ tinh tế của mình từ
khung cảnh thiên nhiên mênh mông vô tận để chắt lọc những nét chấm phá thủy mạc tiêu
biểu nhất hầu ghi nhận lại những âm thanh huyền diệu lắng đọng hình như còn lãng đãng
rơi rớt đâu đây :


Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
(Thuyền bè đông tây lặng im không một tiếng nói
Thấy giữa lòng sông một vầng trăng thu vằng vặc)
Bàn về tiếng đàn trong truyện Kiều , Nguyễn Du đã dùng những ý tưởng sinh động và gợi
cảm của bài Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn để miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều khi hội ngộ
cùng Kim Trọng , nhưng tiếng đàn ở đây không ảo não ai oán thê thiết như người kỹ nữ trên
bến Tầm Dương, nhưng ta thấy những tiếng đàn mà Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe
không thấm đượm vẽ lâm ly, ai oán não nùng vì đây là nỗi mừng vui của hội ngộ đoàn viên
với người tình xưa Kim Trọng . Tưởng cũng nên nhắc lại “cẩm sắt” thường được dịch là đàn
gấm hay đàn sắt, là loại đàn lớn, làm bằng gỗ cây ngô đồng có chạm trổ. Tiếng đàn của
Thúy Kiều biểu lộ sự sung sướng, thỏa mãn như “đầm ấm dương hòa”, “êm ái xuân tình”,
“ấm sao hạt ngọc” … nhưng tại sao lại có sự đối chọi “tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao
“… Phải chăng Nguyễn Du muốn ám chỉ : “ vui là vui gượng kẻo là”
” Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh ?
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên ?
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên

Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông !
Lọt tai nghe suốt năm cung
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao .”
Nguyễn Du (Truyện Kiều)
Tưởng cũng ghi lại lại đây bài thơ nguyên tác Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn để tìm sự liên hệ
đồng cảm về ý tưởng mà Nguyễn Du mà muốn vay mượn để diễn tả tiếng đàn của Thúy Kiều
gảy cho Kim Trọng nghe sau mười lăm năm ly cách :
Cẩm Sắt
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,


Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.
Thưng hải nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.
Thử tình khả đãi thành truy ức,
Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên.
Lý Thương Ẩn

Đàn Gấm
Đàn gấm vì sao năm chục dây
Mỗi dây thầm nhớ tuổi hoa bay
Sớm mơ hóa bướm Trang sinh đó
Xuân mộng lời quyên Vọng đế nầy
Trăng biển long lanh hàng lệ biếc
Ngọc Lam nồng ấm khói vờn mây
Tình xưa gợi nhớ trang hoài niệm
Duyên cũ chơi vơi luống đọa đày
Hải Đà phỏng dịch


Còn thêm một tiếng đàn khác với muôn vàn cung điệu được diễn tả một cách rất tài tình bởi
một thi sĩ đời Đường mà thiên hạ thường gọi là Thi Quỷ Lý Hạ, là một thiên tài đã bị lãng
quên. Lý Hạ là một hiện tượng kỳ dị trong nền thi ca Trung Quốc, thơ của ông được truyền
tụng là “Thi trung hữu quỷ “ (trong thơ có quỷ ), nghe thật là quái đãng làm sao! Thơ của
ông ảo não, ai oán, bi hận, vương vấn cõi âm mờ mịt, gây ấn tượng kỳ lạ trong lòng người
đọc … Ông đã lận đận trên đường công danh sự nghiệp, bị người đương thời ti tiện dèm pha
ganh ghét … như Lý Hạ đã từng uất hận thổ lộ tâm tình “ hai mươi tuổi mà chưa hề đắc ý ,
tấm lòng sầu tựa cánh lan khô “ (Ngã đương nhị thập bất đắc ý , Nhất tâm sầu tạ như khô
lan ) . Bài thơ cảm hứng từ lời ca tiếng nhạc của Lý Hạ được nhiều người biết đến là bài “ Lý
Bằng Không Hầu Dẫn “ – bài ca về tiếng đàn “không hầu” của Lý Bằng , là loại đàn xưa gồm
25 dây dùng ngón tay búng mà phát ra âm thanh . Theo tác giả Huỳnh Ngọc Chiến tuyển
dịch và bình chú :“ Chơi đàn là một nghệ thuật, nghe đàn lại là một nghệ thuật khác không
kém . Thơ ca Trung Quốc và Việt Nam thường có nhiều bài thơ nói về tiếng đàn. Nghe nhạc
đến mức như Lý Hạ đã là bậc thượng thừa . Nhà thơ phải nhờ vào những cái tượng hình để


diễn tả thanh âm, phải thác vào những cái không phải nhạc để nói lên nhạc, nên bài thơ dễ
trở thành sáo rỗng . Nhưng những thi sĩ chân tài khi đem cái tài hoa của mình để trộn lẫn
vào cái sáo rỗng thì cái sáo rỗng cũng trở nên bay bướm thanh tao . Thử hỏi tiếng ngọc vỡ
hay tiếng phượng hoàng hót thì nói được gì về âm nhạc ? Giả sử có kẻ tài tử nào đó trong
đời đem tiền muôn bạc vạn mua ngọc về đập vỡ để nghe được tiếng ngọc tan, vì thói cuồng
ngông một thuở , thì cái đó cũng chỉ được trong muôn một . Nào phù dung khóc sương mai,
nào hương lan hé nụ, nào những dư ba vang động đến chín tầng trời … cũng đều là sự biểu
hiệu của tâm hồn trong một tiếng tơ “(HNC – Lý Hạ Quỷ Tài Quỷ Thi)
Lý Bằng Không Hầu Dẫn
Ngô ti Thục đồng trường cao thu
Không sơn ngưng vân đồi bất lưu
Nữ Oa đề trúc, Tố Nữ khấp
Lý Bằng Trung Quốc đàn không hầu

Côn Sơn ngọc toái phượng hoàng khiếu
Phù dung khấp lộ hương lan tiếu
Nhị thập môn tiền dung lãnh quang
Nhị thập tam ti động Tử hoàng
Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ
Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ
Mộng nhập thần sơn giáo Thần ẩu
Lão ngư khiêu ba sấu giao vũ
Ngô Chất bất miên ỷ quải thọ
Lộ cước tà phi thấp hàn thố
Lý Hạ (789-816)
Tiếng Đàn Không Hầu của Lý Bằng
Tơ Ngô gỗ Thục cung đàn
Mây thu đứng lặng, núi ngàn quạnh hiu
Tiếng ai khóc trúc tiêu điều
Lý Bằng dạo khúc cô liêu ngỡ ngàng
Tiếng như phượng hót ca vang
Xót xa ngọc vỡ núi ngàn mênh mang
Phù dung nức nở sương tàn


Tiếng đưa hương ngát hoa lan mỉm cười..
Cổng đình rực sáng reo vui
Hăm ba dây động tơ trời chơi vơi
Tiếng như luyện đá vá trời
Mưa thu ngưng đọng rã rời thanh âm
Tiếng đàn ru giấc mộng thần
Giao long nhảy múa rập rờn cá bay
Người xưa thức trắng đêm dài
Trăng khuya thấm ướt gót hài đẫm sương

Hải Đà phỏng dịch
(bài thơ có nhiều điển cố nên tác giả chỉ xin phỏng dịch)
Tiếng đàn đã biểu lộ những tình cảm biến thiên của con người, nhưng tiếng đàn cũng cảm
hóa lòng người, mang sự thanh thoát nhẹ nhàng để khai ngộ, như một bài thơ của Lý Bạch
hàm chứa một triết lý sâu xa về cuộc đời khi diễn tả tiếng đàn của Thục Tăng Tuấn, một ẩn
sĩ thiền tu ở núi Nga My .. Tiếng đàn ngân vang khi ráng chiều buông phủ, sương trắng mờ
ẩn hiện ...nghe như tùng reo vang trong khe suối, như tiếng nước chảy róc rách rửa sạch mọi
ưu phiền tục lụy trong cuộc sống đời thường, với tiếng chuông văng vẳng đâu đây để người
thơ thấu suốt sự lý, liễu ngộ trần tục .. Tiếng đàn của Thục Tăng đã đem đem lại sự vi diệu
của trí huệ, triển khai cuộc sống con người đến thế giới lâng lâng siêu thoát của thiền thi và
đạo pháp.
Thính Thục Tăng Tuấn Đàn Cầm
Thục tăng bão lục ỷ
Tây hạ Nga My phong
Vị ngã nhất huy thủ
Như thính vạn hác tùng
Khách tâm tẩy lưu thủy
Dư hưởng nhập sương chung
Bất giác bích sơn mộ
Thu vân ám kỷ trùng
Lý Bạch
Nghe Sư Thục Gảy Đàn Cầm
Thục Tăng ôm chiếc đàn cầm


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×