Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đề tài tình yêu nam nữ trong kinh 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.94 KB, 20 trang )

Đề tài tình yêu nam nữ trong Kinh Thi
05 Tháng 12 2011 Để lại phản hồi
by phongtauhu in Lớp DH11NV, Văn học Trung Quốc

Ngày hội đạp thanh. Nguồn: tiengtrung,com
Lớp DH11NV là lứa sinh viên đầu tiên học môn văn học Trung Quốc mà tôi trực tiếp đứng
lớp giảng dạy, nói nào ngay trước đây tôi cũng từng dạy qua một vài bài trong học phần
này nhưng chỉ với vai trò trợ giảng cho thầy Phùng Hoài Ngọc. Năm nay thầy bắt đầu về
hưu, tôi chính thức thay thầy đảm nhiệm môn học này. Môn học kết thúc bằng một bài tiểu
luận nho nhỏ với mục đích rèn luyện cho các em SV tinh thần tự học và sáng tạo, biết tập
hợp tài liệu, viết bài báo cáo khoa học để truyền bá, chia sẻ kiến thức với tất cả mọi người.
Đó là tinh thần đóng góp xây dựng vô cùng quan trọng của một trí thức trẻ trong tương lai.
Từ bài này trở đi, được sự đồng ý của các em, tôi xin được đăng trên Blog này những bài
tiểu luận có chất lượng khá tốt, một mặt để vinh danh và ngợi khen tinh thần học tập của
các em, một mặt để xây dựng kho tư liệu bổ ích giúp các em sau này ra trường, cũng như
bạn đọc gần xa, có điều kiện học tập, tham khảo trong hoàn cảnh tài liệu tham khảo nơi
này nơi kia còn nhiều thiếu thốn.
Thanh Phong
Đề tài tình yêu nam nữ trong Kinh Thi
Nguyễn Minh Sang – SV lớp DH11NV, ĐHAG
I- Dẫn nhập:


Kinh Thi là tổng tập thi ca đầu tiên của Trung Quốc. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch
sử, nó vẫn còn giữ nguyên giá trị, vững bền với thời gian và trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều học giả. Kinh Thi là tấm gương phản chiếu cuộc sống hiện thực của xã hội nhà Chu với
bao mảng màu sáng tối đan xen. Tập thơ không chỉ nổi tiếng bởi nội dung hay nghệ thuật hết sức
độc đáo mà còn bởi vì tính “chân thật”, và khó có tác phẩm đời sau nào sánh kịp. Trong Kinh
Thi, đề tài tình yêu nam nữ chiếm quá nửa, đủ để thấy số lượng cũng như những đặc sắc về nhiều
mặt phong phú như thế nào. Đó là tiếng lòng thật sự của những con người yêu nhau, ở đấy có nỗi
khắc khoải chờ mong, niềm hạnh phúc bình dị khi hai con tim được hòa hợp, và cả sự xót xa khi


tình yêu tan vỡ. Phản ánh một cách tự nhiên, lời lẽ thẳng thắn, mạnh bạo là những gì mà đề tài
tình yêu nam nữ mang lại cho Kinh Thi, điều đó góp phần đưa Kinh Thi trở thành tài sản vô giá
của Trung Quốc nói riêng và của nhân loại nói chung. Nghiên cứu về đề tài này, giúp chúng ta
hiểu được nhân sinh quan của con người trong giai đoạn trước, bên cạnh đó còn có thể biết được
hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh xã hội chi phối con người thời bấy giờ như thế nào. Cũng như thấy
được những nét độc đáo và sự ảnh hưởng của Kinh Thi đối với các tác phẩm giai đoạn sau trong
nền văn học Trung Quốc và đối với các nước đồng văn, trong đó có Việt Nam. Muốn đạt được
kết quả như trên cần có những cơ sở về mặt kiến thức, đó là các bài thơ viết về tình yêu trong
Kinh Thi như: Quan thư, Tĩnh nữ, Phiến hữu mai, Manh, Cốc phong,… Và một số tài liệu liên
quan đến nền văn học cổ Trung Quốc, chẳng hạn: Thơ văn cổ Trung Hoa, Tư tưởng văn học cổ
Trung Quốc,…của nhiều tác giả. Ngoài ra, còn là những bài thơ, bài ca dao Việt Nam để thấy
được sự so sánh đối chiếu giữa hai nền văn học cũng như sự ảnh hưởng từ đề tài này đối với thơ
ca Việt Nam. Chắc chắn nếu muốn hoàn thành tốt việc nghiên cứu này, đương nhiên cần những
phương pháp thông dụng như: so sánh, phân tích, liệt kê,… Đề tài tình yêu nam nữ trong Kinh
Thi là sự mẫu mực cho sáng tác văn chương, đó còn là nguồn thi hứng vô tận qua việc mượn đề
tài, tứ thơ để diễn đạt tình cảm khi sáng tác, lại cũng là kho điển cố mà các nhà thơ Trung Quốc,
Việt Nam lấy đó để giải thích chứng minh cho một ý tưởng, một lập luận. Và còn nhiều sự đóng
góp khác nữa cho nền văn học nghệ thuật nhân loại.
II- Nội dung:
1. Giới thiệu chung về Kinh Thi:
Kinh Thi là tập thơ cổ của nhân dân miền Bắc Trung Quốc, lấy lưu vực sông Hoàng Hà
làm trung tâm, bao gồm bốn tỉnh: Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Đông, Sơn Tây ngày nay. Kinh Thi
được sáng tác trong khoảng thời gian hơn năm trăm năm, đến thế kỉ thứ 6 – TCN góp lại được ba
trăm bài và được soạn thành tập. Về sau Khổng Tử biên soạn thành sách được gọi là “Kinh Thi”
dùng làm sách giáo khoa trong bộ “Ngũ Kinh”. Bởi Ông coi trọng việc học thơ nhằm tạo cho lời
nói thêm hoa mĩ, Ông nói “Không học Kinh thi thì không biết nói”. Theo truyền thuyết lúc đầu
Kinh Thi có ba ngàn bài, sau rơi rụng dần.
Phần Công Mạnh trong sách Mặc Tử có nói: “Tụng Thi 300, Huyền Thi 300, Ca Thi 300,
Vũ Thi 300”. Ý muốn nói “Thi” có hơn 300 bài đều có thể đọc, ngâm, dùng nhạc khí diễn tấu, ca
hát, vừa hát vừa nhảy múa, điều này cho ta thấy, Kinh Thi vào thời cổ có mối quan hệ mật thiết

với vũ đạo và âm nhạc.
Khổng Tử thấy được tác dụng to lớn của nó đối với thơ ca nhưng lại gắn bó với “ tam
cương”: “Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán; nhĩ chi sư phụ, viễn chi sự


quân, đa thức ư điểu thú, thảo mộc chi danh” (Thơ có thể làm phấn khởi ý chí, có thể giúp quan
sát phong tục, có thể hòa hợp với mọi người, bày tỏ nỗi sầu oán; gần thì thờ cha, xa thì thờ vua;
lại biết được nhiều tên chim muông cây cỏ).
Kinh Thi là sáng tác của nhiều người (đa số là của nhân dân, một số ít là của quý tộc và
của sĩ đại phu). Chế độ xã hội trong thời kỳ hình thành Kinh Thi là chế độ nô lệ. Nói đúng hơn là
cuối nô lệ đầu phong kiến. Đây là giai đoạn đầu phong kiến, chủ yếu là áp bức bóc lột kiểu nô lệ,
lễ giáo phong kiến chưa ăn sâu vào đời sống xã hội như sau này.


Biên soạn, phân loại:
o

1.

Biên soạn có ba thuyết:

Khổng Tử biên soạn, sách “Sử ký” viết: từ 3000 bài Kinh Thi, Khổng Tử soạn thành 300
bài để dạy học trò. Thực ra trước Khổng Tử đã có quyển Kinh Thi 305 bài. Khổng Tử chỉ
làm công việc san định và giải thích mà thôi. Nhưng ông cũng bỏ rất nhiều công lao của
mình vào tổng tập thi ca này. Sách “Luận Ngữ” có chép lời nói của Khổng Tử: “Ta từ Vệ
trở về Lỗ, mới chỉnh lý Nhã Chính, Nhã Tụng, cho thứ nào ra thứ ấy”. Khổng Tử đã dùng
Kinh Thi để giáo dục học trò của mình, hàng ngày thường cùng thảo luận với họ về vấn
đề của Kinh Thi, lại cùng diễn tấu ca múa với họ nữa.

2. Các quan “thái thi” (chọn thơ) đời Chu chọn lựa thơ trong dân gian để dâng vua – có một


phần, nhưng không phải tất cả.
3. Công lao chính là của các nhạc quan (quan coi âm nhạc) thu thập âm nhạc vì nghề

nghiệp.
Đến đời nhà Tần, Kinh Thi bị tiêu hủy, đời sau tìm lại được ba bản. Bản của chúng ta dùng là
Mao Thi của Mao Hanh.


Phân loại: Kinh Thi thường chia làm ba phần: Phong, Nhã, Tụng. Tiêu chuẩn phân loại
là nhạc điệu.

Phong: còn gọi là quốc phong có một trăm sáu mươi bài. Đó là ca dao, dân ca của mười lăm
nước nhỏ. Và là tác phẩm của miền bắc gồm lưu vực sông Hoàng Hà, Trường Giang, trung tâm
văn hóa của Trung Quốc thời bấy giờ.
Nhã: còn gọi là Tiểu nhã và Đại nhã, còn gọi là Nhị Nhã, có một trăm lẻ năm bài. Đó là thơ ca
của giới qúy tộc đại phu làm trong những việc triều hội, yến tiệc nói về quan hệ tốt đẹp của vua
tôi và các nghi thức tiếp tân giữa chủ và khách. Nhã có nghĩa đối lập với tục, có nghĩa tao nhã,
cao sang, gương mẫu.
Tụng: là các bài tán tụng, ca ngợi dùng lúc tế thần linh, thái miếu, giống như văn tế sau này.
Tụng gồm có Chu Tụng, Lỗ tụng và Thương tụng sáng tác ở ba nước Chu, Lỗ, Thương.


Nội dung tư tưởng:




Cuộc sống bị áp bức bóc lột và tinh thần phản kháng của nhân dân lao động:


Kinh Thi là bức tranh còn nguyên vẹn của nhân dân lao động dưới chế độ nô lệ. Đa số nô lệ đã
làm quần quật suốt ngày đêm để nuôi béo một thiểu số chủ nô. Cuộc sống quanh năm đầu tắt mặt
tối, vô cùng khổ cực.


Nỗi cay đắng vì phu phen tạp dịch:

Vua chúa bắt nhân dân đi đào sông, đắp đường, xây thành trong khi gia đình họ tan nát, cha mẹ
già không ai nuôi dưỡng, vợ con không nơi nương tựa. Nỗi đau đớn càng ngày càng thêm chồng
chất.


Lòng oán hờn phẫn nộ và tinh thần phản kháng:
– Trước hết là cảnh lao động khổ sai của nô lệ:

Người lao động làm việc ngày một nặng hơn khi triền miên từ tháng này sang tháng khác như:
đẵn gỗ, kéo ra sông, làm trục xe rồi làm bánh xe… như trong bài “Phạt đàn”. Sự bất công, ngang
trái dâng lên làm cho tinh thần phản kháng của họ trỗi dậy bằng những lời cảnh báo chất vấn bọn
thống trị.
- Phản đối chiến tranh bành trướng thế lực, thôn tính đất đai của giai cấp thống trị:
Từ thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, đã có hàng nghìn cuộc đấu tranh, nhân dân phải bỏ cày
cuốc mặc áo lính, đày đọa nơi chiến trường, họ phải chịu cảnh cô đơn thấp thỏm, họ ra đi biết
đâu ngày trở về, và có thể bỏ xác nơi chiến trường, khi may mắn được trở về thì biết bao thương
tâm hờn tủi và cả đe dọa ở trước mắt.


Tình yêu và hôn nhân trong Kinh Thi:

Là một chủ đề chiếm phần lớn trong Kinh Thi, nói lên những mối tình thật đẹp, mang cảm giác
hồn hậu, chất phác, bình dị, không khoa trương. Khi đã thấp thoáng những quy tắc của lễ giáo

phong kiến, thì tình cảm của họ còn mang cả sự trắc trở. Hay còn là hình ảnh của đôi vợ chồng
hạnh phúc, gia đình hòa thuận, nhưng bên cạnh đó cũng nhốm màu chia ly khi cách xa.
2. Tình yêu nam nữ trong Kinh thi:
2.1 Tình yêu nam nữ trong lao động:
Đây là những bài thơ trong sáng nhất, đẹp đẽ nhất trong Kinh Thi, với lời lẽ thẳng thắn,
mạnh bạo, biểu lộ tình cảm chân thật, sôi nổi, chất phác. Nó phản ánh nhân sinh quan lành mạnh
của người lao động. Tình yêu của người bình dân hồi ấy thật trong sáng, ngây thơ. Mùa xuân trai
gái vui chơi bên bờ sông hái cỏ thơm tặng nhau, tỏ tình. Con gái tỏ tình bằng cách mời anh nhảy
múa. Những cuộc hò hẹn, cô gái đến trước, nấp một nơi để chứng kiến nỗi bứt rứt đau khổ của
người yêu.


Mở đầu Kinh Thi ta gặp bài “Quan thư” nổi tiếng – Bài thơ là bài ca dao, thuộc vùng Chu
Công cai quản, nay thuộc Thiểm Tây. Khổng Tử từng khen: “Quan thư vui mà không sa đà,
buồn mà không thảm thương”, nghĩa là đúng mức, hợp đạo trung dung. Khổng Tử bảo con là
Khổng Lý: “Mày có đọc Chu Nam, Thiệu Nam không? Người không đọc nó thì như quay mặt
vào tường”. Đó là cách đánh giá của Khổng Tử. “Quan thư” hay vì nó thể hiện một tình yệu
trong sáng, thiết tha và lành mạnh, một thứ tình yêu trong lao động.
Bài thơ là hình ảnh của một chàng trai theo đuổi một cô gái trẻ đẹp. Mở đầu là âm thanh của
tiếng chim “thư cưu”, một loài chim mà lúc nào con trống và con mái cũng có đôi có cặp bên
nhau. Nghe tiếng chim kêu gọi nhau, anh ta mơ màng nghĩ đến cô gái hái rau hạnh, rồi nhớ
thương, rồi trằn trọc, đêm đối với anh sao dài thế. Rồi tưởng tượng ra ngày cưới, anh mong ước
được gặp mặt, mong ước được trao duyên… Ở đây tình yêu biểu lộ rất chân thành và tha thiết:
Nhớ cô dằng dặc cơn sầu
Cho ta trằn trọc dễ hầu ngủ yên
Người con gái dịu dàng xinh đẹp
Ta hằng mong ước
Mong ước chẳng được
Đêm ngủ không yên
Đêm dài sao, dài sao

Ta trằn trọc trăn trở .
(Dịch thơ)
Phiên âm Hán Việt:
Yểu điệu thục nữ,
Ngộ mị cầu chi.
Cầu chi bất đắc,
Ngộ mị tư phục.
Du tai du tai,
Triển chuyển phản trắc.
Ca dao Việt Nam có câu:


- Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Chỉ mong trời sáng ra đường gặp nhau
- Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Nhà thơ chân quê – Nguyễn Bính với bài “Tương tư”, cũng với nỗi lòng không biết tỏ cùng ai:
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Một lần nữa lòng ước mong kết đôi được nhắc đến, nhưng ở đây là âm thanh của tiếng “đàn
cầm”, “đàn sắt”, tiếng “chiêng”, “trống” – những thứ nhạc cụ mà nhạc điệu hòa huyện với nhau
rất hay. Thiện Sĩ trong vở chèo “Quan Âm thị Kính” cũng ngâm bài “Quan thư”, đủ để thấy bài
thơ có sức ảnh hưởng ra sao.
Từ yêu đến mong kết duyên – chung thủy. Cái gọi là tính chân thật của ca dao dân ca là ở
đó. Nó nói thẳng lòng mình không quanh co giấu diếm. Ngoài ra, hai cặp câu đầu tạo thành khổ
thơ ở đây như không có vẻ gì gắn kết với nhau, trước mắt ta là hai lớp màu riêng biệt, các sự vật
dường như rời rạc với nhau, bỗng dưng gần gũi kết hợp cùng nhau, đấy là cái đặc sắc của bài
thơ.
Quan trọng hơn, cái để xác định “Quan thư” là bài tình ca dân gian không phải như Khổng
Tử nói là: “Đúng đạo, vui mà không sa đà, buồn mà không thảm thương” mà là ở chỗ: cái đẹp

cái uyển chuyển của cô gái, ở đây là cái đẹp, cái uyển chuyển trong lao động. Nói cách khác tình
yêu ở đây bắt nguồn từ lao động, nó mộc mạc, chân chất, không phấn son, không tô vẽ, nó tiêu
biểu cho tình yêu trong Kinh Thi. “Quan thư” hay còn vì cách tỉ, khi mượn đôi chim “thư cưu”
để nói về mình và người con gái mà chàng trai yêu. Tác giả đã từ xa đến gần, từ vật đến người,
làm cho ta nhớ đến bài “Hôm qua tát nước đầu đình” (bỏ quên cái áo, cái áo sứt chỉ đường tà vì
mẹ già chưa khâu và đương nhiên chưa có ai khâu hộ). Ở bài này, hai chữ “Quan quan” hình
dung nên tiếng kêu của một loài chim, “yểu điệu” thể hiện nét đẹp của một thục nữ. “Triển
chuyển” để khắc họa tình trạng do tương tư không ngủ được, vừa có âm thanh hài hòa, lại có
hình tượng sinh động. Bài “Quan thư” còn có một đặc điểm nghệ thuật nữa là ở thủ pháp
“Hứng”, tức là khêu gợi mượn sự vật bên ngoài (tiếng chim) để khêu gợi tình cảm bên trong
nhằm mục đích nói lên tiếng lòng của mình. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, “Hứng” là cách
dùng mang ý nghĩa như tỷ dụ, tượng trưng, làm nổi bật… Nhưng bởi “Hứng” nguyên là một tư
duy bay bổng, do tình cảm và liên tưởng sản sinh ra, cho nên dù ý nghĩa khá hiện thực đi nữa, nó
vẫn không cứng nhắc, cố định mà là bóng gió, tế nhị. Ở bài thơ “Quan thư” bằng việc mở đầu
bằng hai câu: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu” nguyên là do khi mượn cảnh vật trước mắt
để “hứng khởi” cho đoạn văn sau: “Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”. Nhưng tiếng gáy hòa
nhau của đôi chim cũng có thể so với sự tìm lứa đôi giữa nam nữ, hoặc sự ân ái giữa trai gái. Chỉ
có điều là ngụ ý so sánh của nó không xác định rõ ràng, ví dụ như bài “ Đào yêu”, mở đầu bằng
hai câu “Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa” miêu tả hoa đào nở vào mùa xuân hết sức tươi


đẹp, vậy có thể nói đó là bút pháp tả thực, nhưng cũng có thể hiểu nó muốn nói lên diện mạo
xinh đẹp của cô dâu, cũng có thể nói đây là hai câu làm nổi bật không khí rộn ràng của ngày kết
hôn. Bài “Quan thư”, còn sử dụng lối “trùng chương điệp cú”, với mỗi lần lặp lại thì tính chất
lại cao hơn sâu hơn.
Trong thời đại của Kinh Thi, ở một số đại khu, đối với việc hạn chế tiếp xúc giữa nam nữ
chưa nghiêm khắc như sau này, nên chúng ta thấy được những chàng trai và cô gái trẻ tự do hẹn
hò, gặp gỡ nhau để nói chuyện tình yêu, bày tỏ tâm sự của mình.Với chủ đề đó, có thể kể bài
“Tĩnh nữ” (Cô gái dịu hiền) – ca dao nước Bội. Đó là tâm trạng rạo rực của một chàng trai trong
cuộc hẹn hò với cô gái, thứ tình cảm chất phác, thật thà tự nhiên. Khi yêu có lúc bối rối vì chờ

đợi, và hạnh phúc khi hai con tim tìm thấy nhau:
Con người vừa nhã vừa xinh,
Hẹn anh ra ở góc thành đợi nhau.
Yêu mình chẳng thấy mình đâu,
Để anh luống những vò đầu bâng khuâng.
(Dịch thơ)
“Tĩnh nữ” so với “Quan thư” đã tiến thêm một bước trong cung bậc tình yêu. Ở “Quan thư”
là sự nhớ mong (một bên). Còn ở “Tĩnh nữ” là một đôi tình nhân hẹn nhau gặp ở góc thành,
nhưng khi người con trai đến thì người con gái cố tình trốn kín, khiến chàng trai lúng túng, gãi
đầu do dự. Khổng Tử thì lại không đề cao vì người con gái chủ động.
Vò đầu chứ không phải xoa đầu. Cô gái trốn đi hay anh chàng đến quá sớm? Chỉ vài nét,
không miêu tả tâm lý nhưng ta thấy được cái rạo rực sôi nổi của một anh chàng si tình. Sau đó cô
gái đến tặng anh chàng một “ống tiêu sơn đỏ” rồi một nhành cỏ non, vật tặng không đáng giá,
nhưng anh ta thấy đẹp lạ lùng, hiện nay cái “ống tiêu sơn đỏ” đó là gì không ai biết rõ, nhưng
chắc chắn nó có ý nghĩa về tình yêu, nên chàng trai không khỏi vui mừng và kinh ngạc, vì là của
người mình yêu tặng.
Hay còn là bài “Tang trung” (Trong vườn dâu) nói lên cái hồ hởi vui tươi trong cuộc sống
yêu đương của nam nữ thanh niên, bài thơ là khúc nhạc trữ tình của đôi lứa yêu nhau, đặc biệt là
người con trai đang nhớ thương ước nguyện sánh duyên cùng người con gái mình yêu, tình yêu ở
đây cũng gắn với lao động như bài “Quan thư” chẳng hạn hái “rau đường”, “rau phong”,…
mang đến một vẻ đẹp chân chất, hồn hậu, không màu mè, phù phiếm. Bài “Dã hữu tử quân”
(Ngoài rừng có con hoẵng chết) nói đến một chàng trai đi săn bắn, gặp một cô gái đẹp như ngọc,
nên đã lên tiếng dỗ dành. Cô gái khuyên chàng trai đừng có thái độ lỗ mãng, đừng làm cho con
chó giật mình. Thực ra cô gái vừa vui thích lại vừa sợ, thái độ thật là tế nhị. Tình yêu thật chất
phác thật thà, trong sáng, mộc mạc, mà lại rất hồn nhiên.
Hoẵng chết ngoài rừng, phủ bằng cỏ tranh, cô gái mơn mởn, anh dỗ anh dành.


Rừng có gỗ phách, đồng có nai chết, trói bằng cỏ tranh, gái đẹp như ngọc.
Thong thả chớ khinh mạn, đừng giặt khăn tay em, đừng để cho sủa đấy.

(Dịch nghĩa).
Đó còn là bài “Hoàn” (Lanh lợi) với hơi thở nhanh, mạnh, trong một không khí khẩn trương
của buổi gặp gỡ trong lao động. Đúng là một bài tình ca thời cổ khi mà Khổng giáo chưa thống
trị con người.
Hoặc trong bài “Giáo đồng”, thể hiện sự chủ động của người phụ nữ, trong việc bày tỏ tình
cảm, cô tươi vươi, dí dỏm tinh nghịch khi gọi người yêu là “chú bé kháu khỉnh”. Thường thì
chúng ta thấy người con trai chủ động thổ lộ tình cảm của mình với người mà bản thân thầm
thương trộm nhớ. Nhưng qua bài thơ này, thì người con gái lại hết sức mạnh dạn, khi đã thổ lộ
tâm sự nhớ nhung của bản thân một cách tự nhiên, không gò bó.
Hỡi anh chàng ngông
Sao không trò chuyện?
Cũng bởi vì chàng
Mà em quên ăn
… Cũng bởi vì chàng
Mà em mất ngủ.
(Dịch thơ)
Từ đó làm ta nhớ đến nữ thi sĩ Xuân Quỳnh với bài thơ “Sóng”, cũng diễn tả nỗi khắc khoải
trong tình yêu:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Những con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Hoặc là hành động rủ người yêu đi trẩy hội, tặng hoa thược dược cho người yêu dưới ánh
nắng xuân trong “Trăn vĩ”.
“Ra lệnh” cho người yêu ca hát giữa đất trời cỏ cây xao động ở bài “Thác hề” – Ca dao
nước Trịnh:


Chàng ơi hãy cất lời ca
Hãy mau cất tiếng cho ta hát cùng

(Dịch thơ)
Bài “Nguyệt xuất” diễn tả niềm mong nhớ của chàng trai đối với người con gái mình yêu,
anh lúc nào cũng tương tư ngóng chờ.
“Nguyệt xuất giảo hề, giảo nhân liêu hề, thư yểu kiểu hề, lao tâm thiểu hề! (Trăng mọc sáng
trưng, người đẹp xinh ghê, thong dong yểu điệu, thương nhớ thiết tha)
Ngoài ra, ở bài Phiến hữu mai” (Quả mai rụng) – Ca dao thuộc vùng Thiệu Công cai quản,
thuộc Hà Nam ngày nay, bài thơ đã phản ánh tâm trạng bồn chồn của người con gái đến độ yêu
đương nhưng tình yêu chưa đến. Trong bài thơ người con gái đang mong chờ một tình yêu thật
sự, và muồn tiến đến hôn nhân. Cô gái thật khéo léo khi mượn hình ảnh “quả mai rụng”, từ
mười, còn bảy, còn ba và cuối cùng không còn nữa, điều này mang đến sự tự nhiên chân thật khi
nói về tâm trạng của một cô gái. Bài thơ còn sử dụng lối “trùng chương điệp cú”, để mỗi lần lặp
lại thì mức độ lại cao hơn, mạnh mẽ hơn. Như từ “ai muốn lấy ta, nên kịp ngày tốt” và cuối cùng
là “ai muốn lấy ta, chỉ cần nói với nhau một lời, lấy nhau ngay cũng được”.
Cây mai đã có quả rụng, mười phần chỉ còn bảy
Ai muốn lấy ta nên kịp ngày lành
Cây mai đã có quả rụng, mười phần chỉ còn ba
Ai muốn lấy ta, hôm nay đến xin làm lễ cưới đi thôi.
(Tản Đà dịch)
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du viết:
Quả mai ba bảy đang vừa
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì
Đây tuyệt đối không phải là nỗi buồn bực của người con gái “già kén kẹn hom”. Đây là tâm
trạng rạo rực của người con gái trong khi chờ đợi tình yêu. Khác nhau ở cách nhìn: đối với tác
giả bài thơ, tình yêu là hạnh phúc, là cái cần phải giành được và giành được cho trọn vẹn (Khổng
giáo cho rằng người con gái 14 tuổi phải được người con trai đến nhìn mặt, 16 tuổi vấn tóc cài
trâm, 18 tuổi thì phải lấy chồng). Cho nên sự khắc khoải lo âu ở đây vẫn xa lạ với tư tưởng bi
quan, vẫn phản ánh nhân sinh quan lành mạnh trong sáng của người lao động. Phong cách và
nghệ thuật của thi ca không phải hình thành một cách không có nguyên nhân. Phong cách trong
sáng sôi nổi chính là sản phẩm của tình cảm tự do hào phóng.



2.2. Tình yêu bắt đầu chịu sự ảnh hưởng từ lễ giáo phong kiến:
Thơ tình yêu cũng đã lên tiếng oán trách, hoặc phản đối luân lý, lễ giáo, luật lệ khắc nghiệt
thời cổ đại. Từ khi yêu đương đến cuộc hôn nhân và đời sống gia đình, người phụ nữ thường bị
hạn chế, chịu thiệt thòi suốt đời. Họ viết những vần thơ cảm động, ai oán.
Đấy là những lúc người con gái lo âu thật sự, thậm chí buồn tủi, chán ngán. Khi mà quan hệ
tình yêu đã thấp thoáng bóng dáng trong quan niệm trọng nam, khinh nữ, của tư tưởng nam
quyền và nói chung là của lễ giáo phong kiến. Lễ giáo phong kiến đã dần dần hình thành một
bức tường vững chắc ngăn trở những con người yêu nhau.
Ví như người con gái trong “Tương Trọng Tử” (Nhớ anh Trọng Tử):
Xin anh hai ơi, đừng vượt rào đến xóm em, đừng làm gãy cây khởi em trồng, nào dám tiếc chi vì
sợ cha mẹ.
Em có thể nhớ anh hai, nhưng lời cha mẹ cùng cũng phải sợ kia mà.
Dịch nghĩa)
“Trọng Tử” là người tình mà cô gái yêu, nhưng cô ta không dám tự ý gặp gỡ riêng với người
tình, và cũng không cho anh ta trèo rào vượt tường. Người con gái rạo rực mong chờ người yêu
mà lo đủ thứ: lo cha mẹ rầy la, lo họ hàng quở trách, lo dư luận xì xào. Người con gái vừa yêu,
lại vừa sợ, vừa muốn gặp mặt người yêu, lại lo nhiều điều vì những rào cản trước mắt. Tâm trạng
của cô rối bới, cô cảm thấy mệt mỏi, vì giờ đây hạnh phúc sao khó nắm lấy. Có rất nhiều thế lực
“đáng sợ” như thế, thử hỏi những cặp tình nhân phải làm sao đây? Cái hay của bài thơ này là ở
chỗ lời nói quẩn quanh lúng túng đã phản ánh tâm trạng mâu thuẫn giữa sự lôi cuốn mạnh mẽ
của tình yêu và sự kìm chế không kém phần mạnh mẽ của gia đình và xã hội (vừa mong muốn
người yêu đến chỗ hẹn, vừa lo).
Đến với bài “Cốc phong” (Gió đông), “Manh” (Chàng trai), “Bách chu” (Chiếc thuyền gỗ
bách) đã cho ta thấy rõ quan niệm trọng nam khinh nữ, quan niệm hôn nhân bao biện, xã hội
cho phép người đàn ông ruồng bỏ vợ, xuất hiện nạn đa thê. “Cốc phong”, là bài thơ nói lên tiếng
lòng của người vợ khi bị chồng hắt hủi, bỏ rơi, là lời kể lể và tiếng khóc đau thương của một
người đàn bà lương thiện, yếu đuối vì chồng không còn yêu mình nữa và đã có người khác. Cô
muốn sống cuộc sống hòa thuận, hạnh phúc, cô muốn giữ gìn mái ấm gia đình như từ ngày mới
về nhà chồng đến nay vẫn vậy, nhưng cũng đành ngậm ngùi thất vọng vì giờ đây người chồng đã

thay lòng đổi dạ quên lời thề xưa. Bài thơ đã ví điều đó như “hái rau phong, rau phi mà lại bỏ
gốc đi”. Thành ngữ có câu “Tào khang chi thê, bất khả hạ đường, bần tiện chi giao, bất khả
vong” (Người vợ cùng mình trải qua những khó khăn thì không bỏ người ấy, người có mối quan
hệ lúc mình còn nghèo khổ thì không thể quên). Người chồng trong “Cốc phong” lại đành lòng
phụ bạc, vứt bỏ tình xưa, những ngày tháng gian khổ khi về nhà chồng, người vợ đã chèo gánh
hết, hiện tại những gì mà cô hy sinh, cô bỏ ra vì gia đình chồng chỉ còn là bọt bèo mây nước, bài
thơ đã sử dụng hình ảnh “gặp khúc sông sâu thì dùng thuyền bè để sang, gặp lúc sông cạn lội
sang, bơi sang”, để nhấn mạnh việc trong nhà có gì người vợ đều lo hết. Bây giờ gia đình khá
hơn, thì chồng lại có người khác, nhẫn tâm thẳng tay đuổi vợ mình không thương tiếc. “Rau tễ


đắng còn ngọt hơn lòng ta”, nói lên nỗi chua cay mặn đắng trong lòng không gì có thể bì được.
Người đàn bà trong bài thơ chính là những người phụ nữ hiền thục điển hình ở Trung Quốc.
Người phụ nữ đã cố nhịn, chồng giận thì vợ làm lành, nhưng chồng đuổi thì phải ôm áo ra về, xã
hội cho phép người đàn ông “có mới nới cũ”. Đó là biểu hiện ban đầu của lễ giáo phong kiến
trong lĩnh vực tình yêu.
“Manh” (là cách gọi khinh bỉ) cũng như tâm trạng của người phụ nữ trong bài “Cốc phong”,
bài thơ mô tả quá trình từ ngày một cô gái bắt đầu yêu đến cưới nhau, lúc ấy cô còn trẻ đẹp “cây
dâu lá còn xanh mượt”, được chồng yêu thương, quý trọng. Rồi đau khổ khi trước vốn được yêu,
nay bị chồng ruồng bỏ vì chồng nỡ ăn ở hai lòng. Kiểm điểm lại ba năm làm dâu, nàng thấy
không có lỗi lầm gì, chính lễ giáo cho phép người đàn ông năm thê bảy thiếp. Câu chuyện bắt
đầu rồi kết thúc thật mạch lạc, rõ ràng. Trước tiên là một người đàn ông tươi cười đến mua tơ, rồi
mượn khung cửi để dệt. Sau đó nàng bằng lòng với cuộc hôn nhân này khi anh hỏi cưới, và lúc
chờ đợi ngày kết hôn, nàng thường leo lên bức tường thấp để trông ngóng chàng. Nhưng sau khi
thành gia lập thất được mấy năm, thì người chồng lại bỏ rơi nàng. Nàng tức giận chỉ trích người
chồng: “Sỉ nhị kỳ hành”, “Sỉ giả cương cực, nhị tam kỳ đức” (Chàng ăn ở hai lòng, phản phúc
vô thường không biết chung thủy). Nàng rút ra một kết luận đau xót: làm thân con gái thì chớ
yêu đương, cảnh báo trước những người phụ nữ khác đừng nhẹ dạ cả tin vào đàn ông: “Vu giai
nữ hề, vô dữ sĩ đam. Sĩ chi đam hề, do khả thuyết dã. Nữ chi đam hề, bất khả thoát dã!” ( Hỡi ơi
phận gái, không nên đam mê đàn ông. Đàn ông đam mê, họ có thể tự giải thoát. Còn đàn bà đam

mê thì không thể tự giải thoát được). Đây cũng là tâm lý chân thực, đồng thời cũng mang ít nhiều
ý nghĩa răn dạy về đạo đức. Không chỉ vậy, nàng còn oán giận mình sao lại vì quá yêu mà buổi
đầu chấp nhận lấy người ấy, để rồi cuối cùng gánh nỗi chua xót. Trong bài thơ đã dùng sự thay
đổi từ sum suê xinh tốt đến điêu tàn cằn cỗi để tỷ dụ sự thịnh suy của tình yêu. Rõ ràng ở đấy đã
thấy bóng dáng của tình trạng bất bình đẳng nam nữ vì như Ăng ghen nói: bất bình đẳng nam nữ
là hiện tượng xã hội xuất hiện đồng thời với áp bức giai cấp
Một biểu hiện khác liên quan đến tình trạng bất bình đẳng nam nữ là quan niệm “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy” tức cái gọi là hôn nhân bao biện, nghĩa là hôn nhân do cha mẹ quyết định. Nói
là hôn nhân nhưng ở đây chủ yếu là nói thân phận người con gái. Họ không được biết về tình
yêu, yêu đương là sai lầm, hôn nhân phải môn đăng hộ đối.
Bài “Bách chu” (Chiếc thuyền gỗ bách) xưa nay bị nhà Nho xuyên tạc (chủ yếu là Hán Nho)
là lời thủ tiết của một quả phụ, kì thực là lời nguyền rủa của hôn nhân bao biện, là khát vọng hôn
nhân tự chủ. Cho nên, Hồ Xuân Hương mới lấy tứ này để nói đến thân phận phụ nữ (Chiếc bánh
buồn về phận nổi nênh, giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh). Thơ Hồ Xuân Hương là thơ nổi
loạn, là sự bùng nổ sức sống bị kìm hãm, nếu ca ngợi sự thủ tiết thì chắc không cảm động được
nhà thơ. Ở bài “Đại xa” thì nói về đôi nam nữ sợ pháp luật và người có quyền thế ngăn cấm mà
không dám đến với nhau.
Tất cả họp lại thành bản ca buồn và từ đó cho chúng ta thấy một xã hội Trung Hoa đang dần
dần hình thành một bức tường thật sự ngăn chặn tình yêu chân chính của con người, cũng như
đem đến nỗi sầu thương cho những ai đang phải trực tiếp gánh chịu, mà trước hết là những người
phụ nữ yếu đuối. Qua đó, cũng lên án chế độ phong kiến kìm hãm quyền hạnh phúc đáng có của
con người.


2.3. Tình yêu gắn liền với hôn nhân:
Tiêu biểu với bài “Nữ viết kê minh” (Vợ bảo gà gáy rồi) nói lên tình cảm quyến luyến không
muốn rời xa của đôi vợ chồng, họ thật khắng khít, bền chặt, cứ như đôi uyên ương không muốn
xa cách:
Vợ bảo gà gáy rồi
Chồng rằng “chưa sáng”

Mình dậy xem kìa
Sao mai gần lặn…
(Dịch thơ)
Trong bài “Bá hề” là dùng lời của một người vợ mà diễn tả. Người vợ này cảm thấy kiêu
hãnh đối với chồng mình, vì chồng mình là “anh kiệt của nước”, có thể “đi đầu vì vua”, nhưng
lại vì chồng đi xa, cuộc sống gia đình trở nên hết sức kham khổ. Nhưng dù sao vẫn không có
chồng bên cạnh, người phụ nữ cảm thấy cô đơn, đến nỗi sinh thành bệnh. Niềm mong nhớ, lòng
khát khao gặp gỡ mỗi lúc một tăng, ngày trở về đoàn tụ không biết sẽ là khi nào. Người vợ vẫn
cố cam chịu và vượt qua khó khăn tất cả. Nguyên nhân chính làm cho vợ chồng phải xa cách thời
ấy là do chiến tranh. Mạnh Tử nói: “Xuân Thu không có chiến tranh chính nghĩa” nên chiến sự
liên miên, trai tráng đều bị bắt đi lính.
Tình cảm mà bài thơ diễn đạt, vừa được kềm hãm, nhưng cũng vừa hết sức chân thật.
Chồng tôi oai thật, anh kiệt của nước. Chồng tôi cầm giáo, đi đầu vì vua.
Từ ngày chồng đi, đầu tôi rối bù. Không phải không gội, làm đẹp cho ai
Mong mưa mong mưa, mặt trời sáng ngời. Tôi mong nhớ chồng, đầu nhức cũng cam …
( Dịch nghĩa)
Ngoài ra, còn có bài Đễ đỗ (Tiểu nhã) nói đến người chinh phu đi thú lâu ngày, hết hạn vẫn
không được về quê, vừa tả người chinh phụ ở nhà nhớ chồng mình bèn bấm đốt tay tính ngày
tháng, cứ ngỡ người chồng vẫn gần đâu đây. Bài Hà thảo bất hoàng (Tiểu nhã) đề cập tời việc
binh sĩ oán trách phải đi khắp đó đây, không được nghỉ ngơi, lại trách than vợ chồng xa cách
không được gần nhau, rồi hỏi phẫn nộ “Bọn binh sĩ chúng ta thật tội nghiệp, há không phải là
người hay sau?”.
Trong bài “Cát Xuân” (Đường Phong), một người đàn bà khi chồng chết đã thổ lộ như sau:
“Hạ chi nhật, đông chi dạ, bá tuế chi hậu, quy ư kỳ cư”. (Ngày hè, đêm đông, trăm năm về sau,
sẽ về nơi ở của chàng). Cảnh ngộ của người đàn bà này khiến ai ai cũng đồng tình. Nhưng cũng


có những người đàn ông lại vội vàng bỏ rơi vợ mình. Trong thời đại mà người phụ nữ hoàn toàn
không có địa vị, số phận của người đàn bà bị bỏ rơi lại càng làm cho chúng ta cảm thông hơn.
3. Nghệ thuật trong Kinh Thi (đề tài tình yêu):

Nổi bật là phú, tỷ, hứng
Phú là phô bày, diễn tả, nói về người nào, vật nào thì nói ngay người ấy, vật ấy, nghĩ thế nào
thì nói thế ấy.
Tỷ là so sánh, mượn cái này nói cái kia, mượn cái cụ thể nói cái trừu tượng, chẳng hạn
“nhánh cỏ non” ví với “bàn tay đẹp”,… “Tỷ” cũng gần với biện pháp tượng trưng.
Hứng là khêu gợi, mượn sự vật bên ngoài để khêu gợi tình cảm bên trong, có khi có liên
quan, có khi chỉ gợi âm thanh, gợi vần.
Ví dụ tả cảnh “chim gù nhau” để nói chuyện trai gái tìm lứa đôi, nói “quả mai rụng” để chỉ
việc năm tháng trôi qua, tuổi xuân sắp hết, nói “thuyền trôi nổi giữa dòng sông” để dẫn đến
chuyện mối tình dang dở. Đến ngày nay ba cách ấy đã thông dụng. Kinh Thi là tập thơ đầu tiên
của Trung Quốc đã sử dụng thành thạo nên ta phải kể đó là đặc sắc nghệ thuật của họ. Người làm
thơ quả là có cái nhìn mới mẻ, óc tưởng tượng dồi dào, sự liên tưởng đột ngột rất nên thơ. Có khi
cả ba biện pháp tu từ đó dùng trong một bài, như bài “Quan thư” gồm năm đoạn. Đoạn đầu có
thể hứng và tỷ, đoạn hai theo thể hứng, đoạn ba theo thể hứng, đoạn bốn năm lại theo thể hứng.
Biện pháp trùng điệp trong các bài thơ Kinh Thi thường theo cách “trùng chương điệp cú”,
Kinh Thi thường chia thành nhiều chương, các chương thường lặp lại. Lặp lại nhưng cao hơn sâu
sắc hơn do thay đổi một số chữ. Kiểu kết cấu trùng điệp làm tăng tính chất trữ tình. Như bài
Tang Trung, chương đầu kể chuyện chàng trai hái “rau đường” rồi nhớ đến nàng Mạnh Khương,
các chương sau đổi thành hái “lúa mạch”, hái “rau phong”, tên người con gái cũng thay đổi
nhưng chỉ đổi vần để tiện cho việc hát, làm tính chất trữ tình tăng thêm.
Kết cấu xướng – họa, đoạn một xướng, đoạn hai họa, thường dùng trong các bài ca lao động
tươi vui kiểu đối đáp của các cô gái hái dâu.
Nhịp điệu rất giàu có trong Kinh Thi, có bài dân ca, có bài thơ được phổ nhạc. Ngày nay,
phần âm nhạc đã mất đi, chỉ còn lời với tiết tấu vần điệu của ngôn ngữ nghe vẫn im tai, dễ nghe.
Lời trong bài được chọn lọc, tinh xảo. Khi sưu tầm lời thơ có thể được nhuận sắc cho hay hơn,
dễ nhớ hơn. Do đó, về sau trong ngôn ngữ giao tiếp người ta hay chêm một câu Kinh Thi như
một dạng tục ngữ, thành ngữ, hoặc trong văn học đời sau ngừơi ta sử dụng Kinh Thi như điển
tích văn học.
Lê Quý Đôn (Văn đài loại ngữ) nói: “Thơ phát khởi trong lòng người ta. Ba trăm bài thơ
trong Kinh Thi phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra mà có những bài văn sĩ đời sau

không theo kịp, như thế là vì nó chân thực”.


Các tác giả Kinh Thi mà chủ yếu là người lao động đã nói về cuộc sống của chính họ, do đó
lời thơ mộc mạc mà chân thật, giản dị mà thắm thía, không có sự đưa đẩy của thủ pháp nghệ
thuật tinh vi, không thấy cái bóng bẩy của sự tô điểm vẽ vời. Cái trăn trở của anh chàng si tình
“Quan thư”, nỗi lòng rạo rực của cô gái chờ đợi tình yêu “Phiến hữu mai”, tâm trạng xót xa của
người phụ nữ bị chồng ruồng bỏ “Manh”…. Nếu nói đến nghệ thuật trước hết cần chữ “tín” thì
Kinh Thi đã đạt được điều cơ bản đó.
4. Giá trị của Kinh Thi, sự ảnh hưởng của nó (đặc biệt là về đề tài tình yêu) trong thời điểm
bấy giờ, giai đoạn sau ở Trung Quốc và đối với Việt Nam. Sự so sánh Kinh Thi và ca dao
Việt Nam
Kinh Thi đã khai phá một tầm nhìn rộng lớn bao la về đề tài cho văn học Trung Quốc, trong
đó có đề tài tình yêu. Việc học tập Kinh Thi đã trở thành sự tu dưỡng về văn hóa rất cần thiết đối
với nhân sĩ quý tộc. Cách giáo dục đó có tác dụng mỹ hóa ngôn ngữ, đặc biệt là trong trường hợp
ngoại giao, thường cần thiết phải trích dẫn một số câu trong Kinh Thi để bày tỏ ý kiến của mình
một cách khúc chiết. Điều đó được gọi là: “Dùng phú, thi để nói lên chí hướng của mình”.
Khổng Tử có nói: “Đọc Thi 300 bài, trao cho nhiệm vụ cai trị, nhưng không thể làm tốt; sử dụng
vào mọi nơi, nhưng không đáp ứng được, vậy dù nhiều cũng có lợi gì?”. Như thế, đủ thấy việc
học tập Kinh Thi đối với nhân sĩ tầng lớp trên, cũng như nhân sĩ sắp bước vào tầng lớp trên của
xã hội, là có ý nghĩa rất trọng đại. Mặt khác, việc giáo dục Kinh Thi cũng có ý nghĩa chính trị và
đạo đức. Phần “Kinh giải” trong sách “Lễ Ký” trích dẫn lời Khổng Tử nói, là trải qua sự giáo dục
Kinh Thi, thì có thể giúp người ta trở thành một con người “ôn hòa đôn hậu”.
Kinh Thi đã đặt truyền thống trữ tình làm phương hướng cho sự phát triển của văn học Trung
Quốc. Từ đó, trở về sau, thi ca Trung Quốc hầu hết là thi ca trữ tình. Hơn nữa, thi ca lấy trữ tình
làm chính, lại trở thành dạng thức chủ yếu của văn học Trung Quốc. Ngoài ra Kinh Thi không chỉ
mở đường về phong cách nghệ thuật mà còn đối với nghệ thuật khác như âm nhạc…
Theo ý kiến của Khổng tử: “Thi 300 bài, nói một câu tóm lại, nó giúp cho mọi người có tư
tưởng ngay thẳng, không gian tà”. Tức là bao gồm cả những bài thơ viết về tình yêu, chỉ cần
không vượt quá độ hạn định thì vẫn được nhận là “vô tà”, tức là những tình cảm được bộc lộ

một cách chính đáng.
Các nhà thơ đời sau mỗi khi phản đối khuynh hướng hình thức chủ nghĩa trong thơ đều đưa
Kinh Thi ra, ví dụ khi phản đối phong cách thơ diễm lệ phù hoa từ Lục triều trở đi, Trần Tử
Ngang và Lí Bạch đời Đường đã đưa “Phong Nhã” ra làm gương mẫu. Bạch Cư Dị cũng thế…
tức là hô hào làm theo tinh thần hiện thực của Kinh Thi và đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp.
Ảnh hưởng của Kinh Thi (nổi bật là về đề tài tình yêu) với văn hóa Việt Nam ở lĩnh vực văn
học – nghệ thuật chiếm chủ yếu. Kinh Thi được coi là mẫu mực cho sáng tác văn chương của nhà
nho, như Lê Quý Đôn từng ca ngợi “Thơ khởi phát từ trong lòng ta. Ba trăm bài thơ trong Kinh
Thi phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra, mà cũng có những bài các văn sĩ đời sau không
theo kịp được, như thế là vì nó chân thực”.


Trong nghệ thuật, vở chèo “Quan Âm Thị Kính” mở đầu bằng cảnh Thiện Sĩ ngồi học bài,
Thị Kính ngồi khâu. Thiện Sĩ học rất to tiếng và bài học của chàng chính là “Quan thư” (Chu
Nam).
Mặt khác, Kinh Thi là cuốn sách có công dụng “sửa chính tình cảm” theo quan niệm của
Khổng Tử. Như vậy là Kinh Thi là cái lò đào luyện tâm hồn đạo đức Nho gia, đồng thời là cái
thang đưa kẻ sĩ lên đường mây để lập công danh, sự nghiệp. Các học trò ngày xưa học thuộc
lòng Kinh Thi, coi Kinh Thi là kho tàng điển cố phong phú mà họ có thể tùy tài khai thác. Điển
cố vô tận trong Kinh Thi đã được các nho sĩ khai thác theo bốn cách sau đây:
Mượn chữ: Những từ “vu quy”, “gia thất” (nói việc hôn nhân) mượn trong thơ “Đào yêu” ,
Hay trong bài “Quyền nhĩ”, trong việc cầu phúng đám tang mượn “Ta ngã hoài nhân” (Ôi, ta nhớ
người)…
Mượn hình ảnh: Những chữ “đào non”, “đào tơ”, “thơ đào” mượn trong thơ “Đào yêu”.
Câu “quả mai ba bảy đương vừa” (Truyện Kiều) mượn chữ trong bài “Phiến hữu mai”. Chữ
“nhà huyên” (chỉ mẹ) là do tiếng “huyên thảo” (cơ huyên) trong bài “Bá hề”, hay chữ “Cầm sắt”
(chỉ vợ chồng) mượn trong thơ “Quan thư” hay “Nữ viết kê minh”, từ “chiếc bách” (chỉ cuộc đời
vô định) mượn trong “Bách chu”.
Mượn ý: Câu “Gan chẳng đá , khôn đường há chuyển”, trong “Cung oán ngâm khúc” chỉ là
phiên dịch câu “Ngã tâm phỉ thạch, bất khả chuyển dã”, trong thơ “Bách chu”.

Như các nhà thơ Việt Nam thường vận dụng điển cố Kinh Thi một phần do sách giáo khoa
phong kiến quy định nhưng một phần do nó chân thực, sinh động, xứng đáng được dùng làm
điển cố văn học. Như “Chinh Phụ Ngâm” viết:
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai.
Lấy điển cố trong bài “Bá hề”:
Song Đông từ độ chàng đi
Đầu tóc thiếp rối khác chi cỏ bồng
Phấn son nào phải thiếp không
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai
Hay trong “Truyện Kiều” viết:
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi


Lấy từ tích “tang trung bộc thượng” trong Kinh Thi. Các từ ngữ trong Tiếng Việt: yểu điệu thục
nữ, vu quy, cù lao (chín chữ)… đều lấy từ Kinh Thi. Điều dễ nhận thấy là các nhà thơ ta đã Việt
hóa nó và vận dụng rất sáng tạo, không sống sượng.
Việc Khổng Tử đề cao Kinh Thi khiến một số học giả Việt Nam chú ý hơn đến ca dao, dân ca
nước mình, có ý thức học tập ca dao, dân ca nước mình để làm cho lời nói thêm hay. Nguyễn
Trãi mở đường, Nguyễn Bỉnh Khiêm bước tiếp. Rồi đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến, Tú Xương… đều là những nhà thơ đã học tập và vận dụng thành thạo “Kinh Thi Việt
Nam”. Ông cha ta đã sưu tầm và biên soạn những cuốn ca dao dân ca Việt Nam như Nam Thi
Quốc Phong của Nguyễn Đăng Tuyển, Việt Nam phong sử của Nguyễn Văn Mai, Thanh Hoa
quan phong của Vương Duy Trinh. Ca dao Việt Nam của Đào Duy Anh, Tục ngữ ca dao dân ca
Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, Ca dao dân ca Nam Bộ của Lê Giang và Lư Nhất Vũ…
Tiếp theo, để thấy được những nét tương đồng đặc sắc ở Kinh Thi và Ca dao Việt Nam ta hãy
thử vào so sánh một vài mặt về nội dung:
Ví như trong bài “Bá hề” là tâm trạng của người vợ nhớ thương chồng khi chồng mình đi
chinh chiến, trong ca dao Việt Nam chúng ta cũng có câu:

Anh đi lưu thú Bắc Thành
Để em khô héo như nhành mai khô
Phụng hoàng lẻ bạn sầu tư
Em đây lẻ bạn cũng như phụng hoàng
Và còn là nỗi nhớ thương quyến luyến của chàng trai đối với người mình yêu trong bài
“Quan thư”, ở Ca dao Việt Nam thì:
Anh trông em như cóc trông mưa
Ngày trông đêm tưởng như đò đưa sông.
Hoặc:
- Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Chỉ mong trời sáng ra đường gặp nhau
- Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Hay:


Đàn cầm đã bén duyên tơ
Năm canh luống những ngẩn ngơ tiếng đàn
Ở đây xuất hiện âm thanh của tiếng đàn cầm, mà trong bài “Quan thư” của Kinh Thi cũng đã
từng nhắc đến, thể hiện sự hòa hợp, giao hòa giữa đôi uyên ương.
Tóm lại, qua quá trình nghiên cứu, bằng phương pháp so sánh mà ta đã thấy được sự ảnh
hưởng thơ ca Việt Nam đối với Kinh Thi, cùng những nét tương đồng độc đáo về mặt nội dung
giữa Kinh Thi với ca dao Việt Nam. Ngoài ra, với phương pháp thống kê mà ta có thể tập hợp
được những bài thơ viết về tình yêu trong Kinh Thi, với phân tích mà những giá trị trong Kinh
Thi nổi bật được toát lên…
III. Kết luận:
Từ khi ra đời, Kinh Thi được lưu truyền rộng rãi. Các nhà triết học thời Xuân Thu – Chiến
Quốc rất đề cao Kinh Thi song nhìn nhận, sử dụng nó với thái độ quá ư thực dụng, không mấy ai
chỉ ra được cái tinh túy của nó. Nó trở thành vật trang sức, công cụ giao tế, công cụ giáo dục của
giai cấp thống trị. Nhiều bài ca dao rất hay đã bị giải thích xuyên tạc, thậm chí coi là tác phẩm

của ông quan này, bà hoàng nọ. Tuy vậy, tất cả, kể cả ngọn lửa của Tần cũng không dập nổi sức
sống của Kinh Thi. Còn có thể xem Kinh Thi là một loại “Bách khoa toàn thư” mà nghiên cứu
bất cứ mặt nào trong đời sống tinh thần xã hội của Trung Quốc cổ đại đều không thể bỏ qua.
Kinh Thi là một kho tàng nghệ thuật quý giá, không chỉ về tính phong phú của đề tài, tính
chân thực của nội dung mà còn về tính đa dạng của các thủ pháp nghệ thuật. Kinh Thi là tập thơ
đầu nguồn, là dòng suối ở chỗ mới phát nguyên. Nhân dân là nhà thơ đầu tiên, xét về mặt thời
gian cũng như vẻ đẹp của thiên tài. Không phải như các nhà Nho nói: nó minh họa đạo vua…
Khổng Tử cho rằng ba trăm bài thơ của Kinh Thi có thể dùng một câu để tóm tắt: đó là không
suy nghĩ lệch lạc, (Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết “Tư vô tà”).
Về đề tài tình yêu trong Kinh Thi thì đã chiếm quá nửa. Đó là những bài tình ca trong sáng,
tươi mát, khẳng định hạnh phúc cuả tình yêu trong lao động. Nhưng xã hội đã phân chia giai cấp,
bất bình đẳng nam nữ đã xuất hiện, tình yêu và hôn nhân không còn là một quá trình tiếp nối
đương nhiên, đã có những số phận bi kịch trong tình yêu và hôn nhân. Kinh Thi cho chúng ta
thấy rằng lúc này tuy lễ giáo phong kiến chưa ăn sâu, chưa tinh vi phức tạp, nhưng đã là kẻ thù
của tình yêu tự do, của hôn nhân tự chủ. Kinh Thi cũng là tiếng nói oán hờn đối với lễ giáo
phong kiến trên lĩnh vực tình yêu và hôn nhân.
Đề tài tình yêu nam nữ trong Kinh Thi là sự mẫu mực cho sáng tác văn chương, đó còn là
nguồn thi hứng vô tận qua việc mượn đề tài, tứ thơ để diễn đạt tình cảm khi sáng tác. Lại cũng là
kho điển cố các nhà thơ Trung quốc, Việt Nam lấy đó để giải thích chứng minh cho một ý
tưởng, một lập luận. Và còn nhiều sự đóng góp khác từ Kinh Thi cho nền văn học nghê thuật
nhân loại. Qua quá trình tìm hiểu về đề tài tình yêu nam nữ trong Kinh Thi, ta đã thu được
những thành quả như đã đặt ra và đề tài này có thể tiếp tục nghiên cứu, để tìm ra những giá trị
mới, nét đặc sắc mới, như việc so ánh Kinh Thi và Ca dao Việt Nam,…


Hết

Tài liệu tham khảo
1. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh (biên dịch), Văn học sử Trung Quốc, Nxb Phụ nữ,


trang 116.
2. I.X Lixêvích, Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, năm 2000, trang 145.
3. Nguyễn Khắc Phi, Thơ văn cổ Trung Hoa. Mảnh đất quen mà lạ, Nxb Giáo dục, năm

1999.
4. Trần Xuân Đề, Tác giả, tác phẩm văn học phương Đông, Nxb Giáo Dục, trang 12.
5. Phùng hoài Ngọc, Giáo trình văn học Trung Quốc, Trường Đại học An Giang.
6. Gs. Lương Duy Thứ, Giáo trình văn học Trung Quốc, Nxb ĐHQG TP.HCM, TP.HCM,

2007, trang 37.
7. Nguyễn Cừ – Phan Trọng Thưởng – Nguyễn Thị Huế – Trần Thị An, Tuyển tập tục ngữ –

Ca dao Việt Nam, Nxb văn học Hà Nội, Hà Nội, năm 2001.

Share this:


Twitter



Facebook



Like this:
Like
Be the first to like this post.
Previous Mô thức hình thái của “thần thoại ký kỷ” và màu sắc triết học tôn giáo ngoại lai Next
Nhật ký du học tại YZU – Số 1


Gửi phản hồi
Enter your comment here...


Bài viết mới


Đáp án đề thi HKII môn Văn học Châu Á II



108 câu tự tại (Phần IV)



Mã Lai du kí



108 câu tự tại (Phần III)



Hướng dẫn ôn tập thi HKII

Lưu trữ


Tháng Tư 2012




Tháng Ba 2012



Tháng Hai 2012



Tháng Một 2012



Tháng Mười Hai 2011



Tháng Mười Một 2011

Chuyên mục


Bạn bè – Đồng môn



Bình luận xã hội




Kho tư liệu



Lớp DH11NV



Muôn màu cuộc sống



Nghệ thuật giáo dục




Nghiên cứu khoa học



Nhịp cầu Đài Loan



Phê bình văn học




Thơ ca



Thơ Hai-kư



Truyện ngắn



Văn hóa – Lịch sử



Văn học Ấn Độ



Văn học Nhật Bản



Văn học Trung Quốc



Văn học Việt Nam


Meta


Đăng ký



Đăng nhập



Dòng thông tin cho bài viết



Dòng thông tin các phản hồi.



WordPress.com



×