Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Hình tượng người nông dân trong bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.9 KB, 2 trang )

Hình tượng người nông dân trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc ( 45')
" Văn tế nghĩa sĩ CG" là 1 trong những tác phẩm tiêu biểu của thi sĩ mù NĐC
vào thế kỉ 19. Điểm nổi bậc nhất ở tác phẩm này chính là sư xuất hiện lần đầu
tiên của người nông dân trong văn học, những hình ảnh của họ rất bi tráng và
hào hùng vô cùng.
Như bao người nông dân khác, những nông dân nghĩa sĩ này vốn có 1 cuộc sống
rất bình yên :
"Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó"
Chỉ 1 câu thơ, cụ Đồ Chiểu đã vẽ lên vòng đời lẩn quẩn của người nông dân Nam
Bộ lúc bấy giờ : bắt đầu với cui cút, vật lộn để làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc
trong nghèo khó. Họ chỉ là những người quanh năm khoát lên mình chiếc áo
màu nâu của đát6, lam lũ kiêm sống. Họ sinh ra đâu phải để làm chàng Thánh
Gióng vô song hay Quang Trung thiên tài đâu mà lại phải sống trong 1 khung
cảnh đầy bão táp của thời đại :
"Hỡi ôi !
Súng giặc đất rền ; lòng dân trời tỏ "
Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ rền trời đất và quê hương xứ sở. Trước bối cảnh
thực dân Pháp xâm lược, người nông dân Nam Bộ đã có những thay đổi lớn.
Cuộc sống quanh quẩn trong làng xóm, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa
đã làm cho họ càng thêm yêu quê hương, càng thêm gắn bó nơi quê cha đất tổ
hơn. "Lòng dân" sáng rực lên trong lửa đạn và âm vang của chiến tranh. Những
nông dân hiền lành này tuy "chưa quen cung ngựa, chưa tới trường nhung", "
tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó" nhưng vẫn đứng lên
theo tiếng gọi của lòng yêu nước. Họ đánh giặc với 1 tình yêu quê hương rất sâu
sắc. Sự căm thù giặc cao độ của hộ đã được cụ Đồ Chiểu thể hiện rất giản dị mà
vô cùng chắc nịch qua câu : "Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ ".
Khi kẻ thù xuất hiện, lòng căm thù của họ càng tăng thêm bội phần :
"Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy
đen sì, muốn ra cắn cổ".
Những "dân ấp, dân lân" này đã đứng lên "mến nghĩa làm quân chiêu mộ" từ


trước, họ không cần "trông tin quan như trời hạn trông mưa" nữa. Khi ý chí
chiến đấu đã đạt đến cực điểm, những nghĩa sĩ kiên cường này quyết "ra sức
đoạn kình" và "ra tay bộ hổ" cái lũ Pháp "treo dê bán chó" bất lương, mượn
việc khai sáng tri thức cho dân An Nam mà đi xâm lược. Lòng yêu Tổ quốc tha
thiết xuất phát từ trái tim đã khiến họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh. Dòng máu Lạc
Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu
hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng


bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, măc việc "đợi tập rèn" ban võ nghệ,
"bày bố" binh thư, không màng tới trên mình chỉ có "1 manh áo vải" và "1 ngọn
tầm vông". Các chàng Gióng thế kỉ 19 đã đến, "đốt xong nhà dạy đạo kia", "đạp
rào lướt tới", "chém rớt đầu quan hai nọ", " ôi giặc cũng như không".
Hỡi ôi ! Lấy 1 chọi 10, "1 manh áo vải", "1 ngọn tầm vông", chỉ có "lưỡi dao
phay", "rơm con cúi" liệu có thắng được "tàu sắt, tàu đồng", "đạn nhỏ đạn to"
hay không ? Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của
thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải
chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca cất lên tiếng nấc trong lòng mỗi người chúng
ta ? Dù cho họ đã hi sinh nhưng cái chết của họ là bất tử, "tiếng vang như mỏ"
Ở nơi quê nhà, câu chuyện về họ đã trở thành 1 truyền thuyết anh hùng nhưng
họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng người Việt Nam, đồng
thời họ cũng để lại cho đời sau 1 triết lí sống bất hủ :
" Thác mà dặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ
đầu Tây, ở với man di rất khổ"
Tinh thần ấy, ý chí ấy vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu
nô lệ, tay sai của Tây thì thà 1 lần chiến đấu hết mình, mang vinh quang về cho
cả 1 dân tộc, 1 đất nước quê hương anh hùng.
Hùng tráng mà bi thương, ở phần ai vãn của tác phẩm có những tiếng khóc
khiến chúng ta đau đến quặn lòng : "Ôi thôi thôi !", "Đau đớn bấy !". Đối với
gia đình của người nghĩa sĩ, nổi đau đã làm cho người thân của họ đau khổ đến

tận tim, "mẹ già ngồi khóc trẻ", "vợ yếu chạy tìm chồng". Gia đình của họ như
đã mất đi tất cả sau khi "dật dờ trước ngõ" mong chờ họ từng giây, từng phút.
Mai đây họ sẽ ra sau khi cái nghèo còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong ?
Đối với tác giả, họ chính là niềm tin, là chuẩn mực cho tất cả người Việt Nam noi
theo :
" Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp
nguyện được trả thù kia"
Nói tóm lại, hình ảnh hào hùng của người nông dân trong bài Văn tế đã cho ta
cái nhìn về cả thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé mà vẫn hiên ngang
chống lại bọn Đế quốc khổng lồ tàn bạo. Họ sẽ mãi mãi là những vị anh hùng bất
tử của dân tộc trong mọi thời đại.



×