Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

BÀN THÊM về SÁNG tạo của NGUYỄN DU TRONG TRUYỆN KIỀU QUA đoạn TRÍCH TRAO DUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.27 KB, 5 trang )

BÀN THÊM VỀ SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DU TRONG TRUYỆN KIỀU QUA
ĐOẠN TRÍCH TRAO DUYÊN
[ 08-04-2011 06:00:12 am ] - View: 1995

1
BÀN THÊM VỀ SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DU
TRONG TRUYỆN KIỀU QUA ĐOẠN TRÍCH TRAO DUYÊN
Mối liên hệ giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân phản ánh qui luật phát triển chung của các nền văn học trung đại trên thế giới. Điều đặc
biệt là, từ nguồn chất liệu vay mượn của một tác phẩm “không lấy gì làm xuất sắc”(B.L.Riptin),
thiên tài Nguyễn Du đã tạo nen một kiệt tác. Ở đây, chúng tôi muốn bàn thêm về vấn đề này qua
Trao duyên - một trong những trích đoạn tiêu biểu nhất cho thành tựu tư tưởng và nghệ thuật của
Truyện Kiều.
Trong Truyện Kiều, sự kiện Thuý Kiều trao duyên cho Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả trong
một tình huống mới, khác hẳn so với Kim Vân Kiều truyện. Thanh Tâm Tài Nhân để cho việc
trao duyên diễn ra ngay sau quyết định bán mình, đan xen cùng nhiều sự kiện khác và kéo dài
trong suốt ba hồi (trên tổng số 20 hồi). Khi đó, Vương ông và Vương Quan vẫn bị bọn công sai
đưa đi; Vương bà phải theo chúng để biết lối mang cơm nước. Còn lại hai chị em, Thuý Kiều lập
tức bày tỏ nỗi lòng với Thuý Vân; mời em ngồi lên lạy tạ “nhờ em đền bồi thay chị” và gắng
vượt qua nỗi đau khổ để viết thư từ biệt Kim Trọng. Bởi vì nàng liệu trước được cảnh ngộ của
mình: “Mẹ trở về, mụ mối tất cũng đến. Việc này liên quan đến chuyện trộm cướp, chắc rằng
trong vùng không ai dám lấy chị, nhất định phải là người xa. Họ cưới rồi tất giục đi ngay. Lúc
bấy giờ ruột gan rối bời, dù muốn viết để lại nửa chữ cũng không thể viết”(tr 52). Dẫu nhiều lúc
khóc gọi Kim Trọng; mấy lần đau đớn đến ngất đi nhưng khi tỉnh lại Thuý Kiều vẫn bình tĩnh,
chủ động, can trường như một đấng nam nhi. Mụ mối đưa Mã Giám Sinh tới, nàng tự đứng ra
mặc cả bán mình, thu xếp các thủ tục mua bán, tự viết hôn thư. Nàng nhận bạc còn đem cân lại,
thấy thiếu năm lạng, bắt họ Mã phải “bù thêm cho đủ số”... Quan sát những hành động đó, người
đọc tất nhiên thán phục trước “cái tài nhìn đời sáng suốt, làm việc quyết đoán” song không khỏi
cảm thấy sự khiên cưỡng của tác giả trong cách miêu tả hành động, tâm lí nhân vật. Nó không
thực sự phù hợp với một cô gái trẻ sinh ra, lớn lên trong khung cảnh “Êm đềm trướng rủ màn
che” lần đầu tiên phải đối mặt với những biến cố dữ dội, kinh hoàng. Hơn nữa, ngay trong lúc


mọi việc còn ngổn ngang, rối bời, còn phải lo lắng cho số phận của cha và em như thế, thật khó
có thể nghĩ và tính toán chu toàn cho mình, cho người yêu...
Khác với Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du không chủ tâm tạo dựng hình tượng Thuý Kiều như
một “tay hào kiệt trong bạn quần thoa”(tr 45). Người thiếu nữ được nuôi dưỡng trong cảnh
phong lưu ấy khi phải đối mặt với tai họa cũng rất cứng cỏi, giàu nghị lực. Nhưng lời lẽ, cách
ứng xử... vẫn toát lên vẻ dịu hiền, đằm thắm; có cả nét thơ ngây, trong sáng của một cô gái mười
lăm, mười sáu tuổi. Kể từ giây phút quyết tình “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”, Thuý
Kiều không một lần nghĩ đến Kim Trọng, như thể chỉ cần một kỉ niệm tình yêu thức dậy là sẽ lấy
đi của nàng tất cả sức lực và lòng can đảm. Phải đến khi “Việc nhà đã tạm thong dong”, cha và
em đã thoát khỏi gông cùm và sáng hôm sau Mã Giám Sinh sẽ đến lấy người - nàng mới dám


sống với nỗi đau khổ của mình. Nguyễn Du đã dành riêng cho nỗi đau này một đêm khuya thanh
vắng “Một mình nàng ngọn đèn khuya/ Áo đầm giọt lệ tóc se mái sầu”. Đối diện với lòng mình,
Thuý Kiều chấp nhận số phận éo le, bất hạnh nhưng không nguôi được nỗi day dứt, đau đớn vì
phải phụ lời thề ước sâu nặng, thiêng liêng; phải để lại cho người yêu nỗi đau dang dở: Lỗi thề
thôi đã phũ phàng với hoa; Vì ta khăng khít cho người dở dang; Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà tự
tôi... Không thể tròn vẹn chữ tình, nàng chỉ còn biết đắm chìm trong đau khổ: “Nỗi riêng riêng
những bàn hoàn/ Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”. Đúng lúc ấy, Thuý Vân cất lên lời hỏi
han, chia sẻ ân cần và chuyện trao duyên đến bất ngờ, thuận theo diễn biến tự nhiên của tâm
trạng nhân vật chứ không phải là chủ ý được tính trước.
Như vậy, sáng tạo của Nguyễn Du không đơn giản chỉ là lược bỏ nhiều chi tiết, sắp xếp, tổ chức
lại các sự kiện, xây dựng tình huống mới... mà chủ yếu là biến đổi tính cách nhân vật và sử dụng
những phương thức biểu đạt của riêng mình. Ngòi bút của cụ Nguyễn Tiên Điền đã “khai sinh”
một Thuý Kiều mới với “chất Việt Nam thuần tuý và nồng hậu”(M.Durant). Cô Kiều của Thanh
Tâm Tài Nhân thiên về lí trí và luôn có ý thức nêu cao tấm gương liệt nữ nên hay thuyết giáo về
chuyện đạo lí. (Cô thuyết phục cha: “Con nay gặp cảnh nước vỗ đầu ghềnh này, cần đứng chân
cho vững để làm một việc bất hủ, lưu lại cho đời sau truyền tụng, tuy là không may mà thực là
rất may.... làm cho con được cái danh thơm hiếu nữ, há chẳng phải việc rất hay rất đẹp đó
ư?”(tr67)). Lúc trao duyên cho Thuý Vân cũng vậy, Thuý Kiều khẳng định mình đã dũng cảm

nhận lấy sự hi sinh lớn nhất: “Em là người lương thần hiếu thờ cha mẹ, chị là người trung thần
sát thân thành nhâni”(tr50)... Vì thế, lời nàng dặn dò em có chút trịch thượng của người ban ơn:
“Chị sợ người tài tình như chàng Kim, khó lòng mà gặp, chị cùng chàng thề thốt bao nhiêu, tất cả
phải nhờ em giữ cho trọn vẹn. Sau này chồng quí vợ vinh, đừng có quên chị!”(tt 51). Cách nói đó
chỉ phù hợp với một Thuý Vân từng có ý định cùng chị chung mối duyên tình. (Ngay sau cuộc
gặp gỡ bên mộ Đạm Tiên, cô Vân của Thanh Tâm Tài Nhân đã “xui giục” chị: “Chị đã coi chàng
vừa ý, sao không gá nghĩa cùng chàng rồi dắt díu em đây cũng được phong quang đôi chút”(tr
18). Có thể chính cô Vân ấy mới khiến người đời sau hạ bút viết những câu thơ này chăng:
“Chắp duyên nếu là người hôm nọ/ Chẳng lạy thì em cũng nhận lời!”?).
Trong khi đó, nàng Kiều của Nguyễn Du lại nặng về tình cảm, nghĩ nhiều đến bổn phận tự nhiên
với những người ruột thịt: “Thà rằng liều một thân con/ Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây”. Nàng
không coi việc bán mình là hành động phi thường của liệt nữ, hiếu nữ mà là lẽ thường của người
làm con, làm chị. (Tinh thần vị tha cao cả mà giản dị, thầm lặng đó toát lên từ nhiều hình tượng
nhân vật nữ của văn học Việt Nam – từ cổ tích, ca dao, truyện Nôm... đến các tác phẩm hiện đại.)
Cho nên, lời Thuý Kiều nhờ cậy, dặn dò lúc trao duyên chứa đựng không chỉ tình nghĩa với Kim
Trọng mà cả tấm lòng yêu thương, trân trọng và biết ơn dành cho Thuý Vân “Ngày xuân em hãy
còn dài/ Xót tình máu mủ thay lời nước non”. Nàng nghĩ em còn trẻ, còn nhiều cơ hội để có được
tình yêu, hạnh phúc của riêng mình. Hơn nữa với Thuý Vân lúc đó, chàng Kim dẫu có hào hoa
phong nhã nhưng mới chỉ là một “người dưng”! Nàng thấu hiểu rằng, em gái cũng phải thiệt
thòi, cũng có công ơn to lớn khi “chịu lời” ủy thác này. Để Thuý Kiều nói những lời như thế
trong cảnh trao duyên, Nguyễn Du còn “phục bút” cho bi kịch Thúy Vân và cảnh đoàn viên
nhiều ngậm ngùi của mười lăm năm sau...
Đoạn trích Trao duyên cũng là bằng chứng tiêu biểu cho giá trị riêng của phương thức tái hiện
đời sống mà Nguyễn Du lựa chọn. Nếu Thanh Tâm Tài Nhân tận dụng được thế mạnh của tự sự
và ngôn ngữ văn xuôi thì Nguyễn Du lại đặc biệt thành công trong nghệ thuật trữ tình. Tác giả
Kim Vân Kiều truyện đan cài sự kiện trao duyên giữa rất nhiều sự kiện khác, khéo léo cuốn
người đọc vào cái hiện thực đời thường ngồn ngộn chất sống, làm nổi bật lên một Thuý Kiều với
bản lĩnh khác xa người thường. Song ở đây, tính cách Thuý Kiều chủ yếu vẫn được bộc lộ qua



lời nói, cử chỉ, hành động - kiểu nhân vật ngoại hiện quen thuộc của tiểu thuyết chương hồi.
Nguyễn Du lại tách riêng cuộc trao duyên, tập trung miêu tả diễn biến nội tâm của Thuý Kiều,
mang đến cho người đọc cái thế giới phong phú, phức tạp, bí ẩn không cùng của trái tim tình
yêu. Ngôn ngữ nhân vật với các hình thức đối thoại, độc thoại... được tác giả sử dụng như một
phương tiện đắc lực để khám phá, khắc hoạ “con người bên trong”. Lời Thuý Kiều nhờ cậy em
vừa trang trọng (cậy, chịu lời, lạy, thưa) vừa gần gũi (chắp mối tơ thừa, mặc em) nói lên được cả
tính chất hệ trọng của việc trao duyên, cả sự trông chờ, tin cậy của tình ruột thịt. Lời kể ngắn gọn
mà vẫn đủ để Thuý Vân hiểu mối tình sâu nặng (khi gặp, khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề);
lời thuyết phục thấm đượm ân tình khiến Thuý Vân không thể và không nỡ chối từ (xin em hãy
vì xót tình máu mủ mà thay lời nước non chứ không phải vì chàng Kim là người tài tình khó
lòng mà gặp)... Lời lẽ tinh tế, giọng điệu điềm tĩnh tưởng chừng Thuý Kiều đã vượt qua được nỗi
đau nhưng đến lúc trao kỉ vật, thì tâm trạng nhân vật lập tức thay đổi. Lời dặn dò em bây giờ đầy
những mâu thuẫn, xót xa, tiếc nuối. Đã thiết tha cầu khẩn Thuý Vân chắp mối tơ thừa nhưng lại
nói về sự gắn bó giữa em và chàng Kim như một giả thiết bất đắc dĩ: Dù em nên vợ nên chồng;
Mai sau dù có bao giờ... Vừa mới khẳng định rằng, chỉ cần trọn nghĩa cùng Kim Trọng thì dẫu
phải chết cũng ngậm cười nơi chín suối đã lại hình dung trong tương lai bi thảm mình sẽ hiện về
như một hồn ma oan trái: “Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”. Kiều
vẫn đang trò chuyện cùng Vân mà luôn nói như mình đã thuộc về cõi khác: mất người, người
mệnh bạc, người thác oan... Để rồi cuối cùng, nàng lại phải trở về với những day dứt, đau khổ
lúc ban đầu “Ôi Kim lang hỡi Kim lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”... Chỉ trong một
đoạn thơ ngắn, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh tâm trạng với rất nhiều cung bậc, trạng thái
cảm xúc, nhiều biến động tinh tế. Phan Ngọc đã không hề nói quá khi ông gọi Truyện Kiều là
“quyển sách của một ngàn tâm trạng”.
Nguyễn Du không chỉ khám phá, tái hiện một quá trình diễn biến tâm lí phong phú, phức tạp mà
còn lí giải sự vận động của quá trình ấy bằng “phép biện chứng tâm hồn”. Mở đầu cảnh trao
duyên, Thuý Kiều nói năng bình tĩnh, sáng suốt vì nàng ngỡ đã tìm được cách chu toàn khi cậy
nhờ em hoàn thành lời nguyện ước. Vậy mà chỉ cần nhìn thấy những kỉ vật, là tiếng nói của trái
tim đã lấn át lí trí. Kỉ vật gọi về kỉ niệm, kỉ niệm đánh thức tình yêu, tình yêu trào dâng mãnh liệt
cuốn đi tất cả những ảo tưởng về chuyện chắp mối tơ thừa, thay lời nước non, ngậm cười chín
suối! Nó buộc nàng phải trở về với thực tại chia lìa, đổ vỡ không thể hàn gắn, không gì bù đắp

nổi: đứt gánh tương tư, trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi, thiếp đã phụ chàng... Nàng có thể
trao hết cho em chiếc thoa, tờ mây, phím đàn, mảnh hương nhưng làm sao dứt khỏi lòng mình
một tình yêu nồng thắm, sâu sắc tự buổi đầu gặp gỡ? Cuộc trao duyên kết thúc trong đỉnh điểm
của nỗi đau: “Cạn lời hồn ngất máu say/ Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”. Thuý Kiều bất lực
trước trái tim yêu thương tha thiết mãnh liệt của chính mình! Và khối tình vẫn còn nguyên vẹn
ấy, nàng sẽ phải mang theo trên suốt hành trình đằng đẵng của mười lăm năm đoạn trường: Thấy
trăng mà thẹn những lời non sông; Tấm son gột rửa bao giờ cho phai; Nhớ lời nguyện ước ba
sinh; Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng...
Bàn về sáng tạo của Nguyễn Du, không thể không nói đến nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Tôi vẫn
nghĩ đây là bình diện so sánh quan trọng nhất. Nó sẽ mang đến câu trả lời thích đáng cho câu hỏi
vì sao một tác phẩm có nguồn gốc “ngoại lai” lại chiếm giữ vị trí đặc biệt như thế trong đời sống
văn học, văn hoá của nhân dân Việt Nam. Truyện Kiều đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nhưng có
lẽ không thể có một bản dịch nào chuyển tải hết được cái linh diệu của thứ ngôn ngữ mà Nguyễn
Du dùng để tạo nên công trình tuyệt mĩ này. Phải đọc Truyện Kiều bằng Tiếng Việt; phải đặt
từng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu... của mấy ngàn câu thơ lục bát uyển chuyển kia trong bầu khí
quyển của văn hoá và tâm hồn Việt, mới cảm nhận hết được sáng tạo thiên tài của Nguyễn Du...


Chỉ cần lướt qua vài yếu tố ngôn ngữ trong đoạn trích Trao duyên, cũng đã thấy được phần nào
thành tựu nghệ thuật vĩ đại đó.
Đọc Kim Vân Kiều truyện, có thể dễ dàng nhận thấy thế mạnh của Thanh Tâm Tài Nhân trong
việc tạo dựng cốt truyện hấp dẫn với hệ thống chi tiết phong phú, có khả năng phản ánh hiện
thực rộng lớn. Có lẽ đây cũng là lí do khiến Nguyễn Du mượn tác phẩm này làm cái bình để rót
vào đó những suy ngẫm, trăn trở, khát khao, ước vọng... của riêng mình. Khi thực hiện mục đích
đó, Nguyễn Du đã tìm đến một thế mạnh khác – sức mạnh của ngôn ngữ thơ, sự giàu có của
tiếng mẹ đẻ. Ông lược bỏ cái thô nhám của ngôn ngữ văn xuôi, dùng khả năng biểu đạt, tính biểu
cảm cao độ của từ ngữ thay cho nhiều chi tiết. Chẳng hạn, Thuý Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân
lúc bắt đầu trao duyên đã vừa khóc vừa nói (có Thuý Vân trước mặt): “Chàng Kim! Chàng Kim!
Trước đây thiếp cố giữ vẹn tấm thân, không chiều ý chàng là sợ trong đêm hợp cẩn, không lấy gì
làm tin. Nếu sớm biết có biến ngày nay như thế này thì lúc ấy còn giữ làm chi”(tr 52). Thật khó

hình dung một thiếu nữ được nuôi dạy trong nền nếp nho gia lại dễ dàng nói thẳng một vấn đề
như thế trước mặt người khác, dù đó là em ruột. Mặt khác, có thật hợp lí không khi để cho những
suy nghĩ ấy xuất hiện ngay khi Kiều chưa bán mình xong, chưa phải gánh chịu cái cảnh “Một
cơn mưa gió nặng nề/ Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương”? Nguyễn Du đã đưa câu nói kia
khỏi cảnh trao duyên và chuyển thành ý nghĩ của Thuý Kiều trong tâm trạng nhục nhã, ê chề,
phẫn uất sau khi thất thân với Mã Giám Sinh và diễn đạt bằng những từ ngữ hàm súc, tế nhị:
“Biết thân đến bước lạc loài/ Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”... Hoặc chi tiết Thuý Kiều
trao cho em kỉ vật được tác giả Kim Vân Kiều truyện miêu tả hai lần, lối tả vẫn nặng về kể việc.
Lần đầu Thuý Kiều nói với Thuý Vân: Chị với chàng Kim có một tờ minh ước, một đôi vòng
bạc, xin đưa cả cho em, mong em khéo giữ gìn, để làm mối ăn ở về sau”(tr 51). Lần thứ hai,
nàng viết trong thư gửi lại cho Kim Trọng: “Một cây hồ cầm, một tập oán khúc và một gói
hương trầm để lại. Sau này có lúc chàng cùng em thiếp, vợ chồng đốt hương ngâm vịnh, ca khúc
dạo đàn, nếu thấy gió lạnh hiu hiu, khói hương quanh quất thì ấy là hồn thiếp ở đấy.”(tr83).
Nguyễn Du gộp cả thành lời Thuý Kiều nhắn nhủ em và sáng tạo kiểu ngôn ngữ đối thoại có khả
năng biểu hiện diễn biến tâm trạng: “Chiếc thoa với bức tờ mây/ Duyên này thì giữ, vật này của
chung”. Hai tiếng của chung hàm ẩn bao nhiêu xót xa, tiếc nuối. Duyên trao cho em rồi mà như
vẫn muốn “xí phần” cho mình. Từ ngữ và cấu trúc đối của câu thơ (duyên – thì giữ, vật – của
chung) gợi liên tưởng đến bàn tay ngập ngừng, lưu luyến, không nỡ xa rời những kỉ vật tình yêu.
Tâm trạng ấy càng đậm nét hơn khi Thuý Kiều trao nốt cho Vân kỉ vật của đêm thề nguyền:
“Mai sau dù có bao giờ/ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”. Câu thơ sáu tiếng được ngắt thành ba
nhịp ngắn và không trọn nghĩa khiến ta có cảm giác như nghe thấy tiếng nghẹn ngào, nức nở của
một người muốn nói mà không thốt nổi thành lời. Những từ ngữ bình thường, thậm chí tầm
thường như ấy, này bỗng hoá thành phi thường trong câu thơ của Nguyễn Du. Không có chúng,
phím đàn, mảnh hương chỉ là đồ vật, có thể thay thế, có thể mua được. Có chúng, đồ vật biến
thành kỉ vật thiêng liêng, duy nhất, vô giá... Những từ Hán Việt, những ước lệ, ẩn dụ cổ điển
(tương tư, keo loan, quạt ước, chén thề, bồ liễu, trúc mai, dạ đài, trâm gãy bình tan...) song hành
một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn cùng lời ăn tiếng nói bình dị, dân dã (giữa đường đứt gánh,
chắp mối tơ thừa, mặc em, xót tình máu mủ, vật này của chung, có ngần ấy thôi, bạc như
vôi...)... Vì thế, chẳng cần nhiều chi tiết, nhiều lời, tác giả Truyện Kiều vẫn tái hiện được những
biến động tinh tế, vô hình của nội tâm; mức độ sâu sắc, mãnh liệt của tình yêu và nỗi đau...

Tìm hiểu sơ qua một đoạn trích Trao duyên, đã có thể hiểu vì sao Truyện Kiều của Nguyễn Du
có sức rung động mãnh liệt đối với mọi tầng lớp, mọi thế hệ người Việt trong gần ba thế kỉ qua.
Và nói theo cách của Hoài Thanh, thì một tác phẩm có khả năng đi sâu vào tâm hồn của một nòi
giống cũng sẽ có sức mạnh thấm sâu vào tâm hồn nhân loại.


Nguyễn Thị Nương
Khoa Ngữ Văn ĐHSP Hà Nội.
--------------------------------Tài liệu tham khảo:
1. Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm tài Nhân, Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Khắc Hanh dịch;
Nguyễn Đăng Na hiệu đính và giới thiệu, Nxb ĐHSP, 2008.
2. Truyện Kiều, Nguyễn Du, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải, Nxb Hà Nội, 1999.
3. 200 năm nghiên cứu, bàn luận Truyện Kiều, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn, Nxb GD, 2007.



×