Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TSCĐ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY LẮP ĐIỆN I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.35 KB, 52 trang )


PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH VÀ PHÂN TÍCH HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
I.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
TRONG DOANH NGHIỆP
I.1.1. Khái niệm tài sản cố định ( TSCĐ)
TSCĐ là bộ phận chủ yếu trong cơ sở vật chất - kỹ thuật của một doanh
nghiệp để thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh khác nhau. TSCĐ bao
gồm rất nhiều loại và được biểu hiện ở nhiều dạng khác nhau. Xét một cách
tổng quát thì TSCĐ được chia thành hai loại: Loại có hình thái vật chất cụ thể
được gọi là TSCĐ hữu hình, loại chỉ tồn tại dưới hình thái giá trị được gọi là
TSCĐ vô hình.
Để được xem là TSCĐ thì bản thân tài sản phải thực hiện được một hoặc
một số chức năng nhất định đối với quá trình hoạt động của doanh nghiệp; có
giá trị lớn đạt đến mức qui định; nếu tồn tại dưới hình thái vật chất cụ thể thì
hình thái này sẽ giữ nguyên trong suốt quá trình sử dụng; có thời gian sử dụng
dài nên phương thức luân chuyển là chuyển dần giá trị của mình vào chi phí của
các đối tượng sử dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất.
Các tài sản được ghi nhận là TSCĐ phải thỏa mãn đồng thời tất cả bốn (4)
tiêu chuẩn ghi nhận sau:
• Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài
sản đó.
• Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy.
• Thời gian sử dụng ước tính trên 1 năm.
• Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành. Hiện nay theo quy
định là từ 10 triệu đồng trở lên
I.1.2 Đặc điểm TSCĐ
TSCĐ có các đặc điểm chính sau:



1

- Tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kinh doanh mà không
thay
đổi hình dạng vật chất ban đầu.
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh giá trị sử dụng của TSCĐ bị
hao mòn và dịch chuyển dần dần từng phần vào chi phí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. TSCĐ cũng là một loại hàng hoá có giá trị sử
dụng và giá trị. Nó là sản phẩm của lao động và được mua bán trao đổi
trên thị trường tư liệu sản xuất .
- Đối với TSCĐ vô hình, khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh thì cũng bị hao mòn do tiến bộ khoa học kỹ thuật.
I.1.3 Phân loại tài sản cố định trong doanh nghiệp.
Việc quản lý TSCĐ là công việc phức tạp và khó khăn, nhất là ở các doanh
nghiệp có tỷ trọng tài sản lớn, phương tiện kĩ thuật tiên tiến. Trong thực tế
TSCĐ được sắp xếp phân loại theo những tiêu thức khác nhau nhằm phục vụ
công tác quản lý, bảo dưỡng tài sản, đánh giá hiệu quả sử dụng của từng loại,
từng nhóm tài sản.
a/ Phân loại tài sản theo hình thái biểu hiện gồm :
- TSCĐ hữu hình
Là những tư liệu có hình thái vật chất cụ thể, có đủ tiêu chuẩn, giá trị, thời
gian sử dụng do doanh nghiệp nắm giũ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh
doanh phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình.
TSCĐ hữu hình gồm :
- Nhà cửa, vật kiến trúc : Phản ánh giá trị TSCĐ hữu hình của doanh nghiệp là
các loại nhà xưởng, kho tàng văn phòng và các công trình kiến trúc trong doanh
nghiệp.
- Máy móc thiết bị : Phản ánh giá trị TSCĐ hữu hình là các thiết bị phục vụ
cho sản xuất kinh doanh.
- Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn : Phản ánh giá trị TSCĐ hữu hình

là các phương tiện vận tải đường thuỷ, đường bộ, đường hàng không và các
phương tiện truyền dẫn như đường điện, đường nước, đường dẫn thông tin .


2

- Thiết bị, dụng cụ quản lý: Phản ánh giá trị TSCĐ là các loại thiết bị và
dụng cụ sử dụng trong quản lý, kinh doanh, quản lý hành chính ( máy tính điện
tử, quạt trần, quạt bàn, bàn ghế, thiết bị dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng,
máy hút ẩm, hút bụi, chống mối mọt ... )
- Cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm: Phản ánh giá trị TSCĐ là
các loại cây lây năm ( cà phê, chè, cao su, vườn cây ăn quả ... ) súc vật làm việc
( voi, bò, ngựa cày kéo) và súc vật nuôi để lấy sản phẩm như bò sữa, súc vật
sinh sản.
- TSCĐ hữu hình khác : Là toàn bộ TSCĐ chưa phản ánh ở trên .
TSCĐ hữu hình thường là bộ phận chủ yếu trong tổng số tài sản và đóng vai
trò quan trọng trong việc thể hiện tình hình tài chính của doanh nghiệp, vì vậy,
việc xác định một tài sản có được ghi nhận là TSCĐ hữu hình hay là một khoản
chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi xác định tiêu chuẩn thứ nhất của mỗi TSCĐ hữu hình, doanh nghiệp
phải xác định mức độ chắc chắn của việc thu được lợi ích kinh tế trong tương lai,
dựa trên các bằng chứng hiện có tại thời điểm ghi nhận ban đầu và phải chịu mọi
rủi ro liên quan.
Những tài sản sử dụng cho mục đích đảm bảo an toàn sản xuất, kinh doanh
hoặc bảo vệ môi trường mặc dù không trực tiếp đem lại lợi ích kinh tế như các
TSCĐ khác nhưng chúng lại cần thiết cho doanh nghiệp trong việc đạt được các
lợi ích kinh tế nhiều hơn từ các tài sản khác. Tuy nhiên, các tài sản này chỉ được
ghi nhận là TSCĐ hữu hình nếu nguyên giá của chúng và các tài sản có liên quan
không vượt quá tổng giá trị có thể thu hồi từ các tài sản đó và các tài sản khác có

liên quan. Ví dụ, một nhà máy hóa chất có thể phải lắp đặt các thiết bị và thực
hiện quy trình chứa và bảo quản hóa chất mới để tuân thủ yêu cầu về bảo vệ môi
trường đối với việc sản xuất và lưu trữ hóa chất độc. Các tài sản lắp đặt liên quan


3

đi kèm chỉ được hạch toán là TSCĐ hữu hình nếu không có chúng doanh nghiệp
sẽ không thể hoạt động và bán sản phẩm hóa chất của mình.
Tiêu chuẩn thứ hai cho việc ghi nhận TSCĐ hữu hình thường đã được thỏa
mãn vì nguyên giá tài sản được xác định thông qua mua sắm, trao đổi, hoặc tự
xây dựng.
Khi xác định các bộ phận cấu thành TSCĐ hữu hình, doanh nghiệp phải áp
dụng các tiêu chuẩn TSCĐ hữu hình cho từng trường hợp cụ thể. Doanh nghiệp
có thể hợp nhất các bộ phận riêng biệt không chủ yếu, như khuôn đúc, công cụ,
khuôn dập và áp dụng các tiêu chuẩn TSCĐ hữu hình vào tổng giá trị đó. Các
phụ tùng và thiết bị phụ trợ thường được coi là tài sản lưu động và được hạch
toán vào chi phí khi sử dụng. Các phụ tùng chủ yếu và các thiết bị bảo trì được
xác định là TSCĐ hữu hình khi doanh nghiệp ước tính thời gian sử dụng chúng
nhiều hơn một năm. Nếu phụ tùng và thiết bị bảo trì chỉ được dùng gắn liền với
TSCĐ hữu hình và việc sử dụng chúng là không thường xuyên thì chúng được
hạch toán là TSCĐ hữu hình riêng biệt và được khấu hao trong thời gian ít hơn
thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình liên quan.
Trong từng trường hợp cụ thể, có thể phân bổ tổng chi phí của tài sản cho
các bộ phận cấu thành của nó và hạch toán riêng biệt cho mỗi bộ phận cấu thành.
Trường hợp này được áp dụng khi từng bộ phận cấu thành tài sản có thời gian sử
dụng hữu ích khác nhau, hoặc góp phần tạo ra lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp
theo những tiêu chuẩn quy định khác nhau nên được sử dụng các tỷ lệ và các
phương pháp khấu hao khác nhau. Ví dụ, một thân máy bay và động cơ của nó
cần được hạch toán thành hai TSCĐ hữu hình riêng biệt, có tỷ lệ khấu hao khác

nhau, nếu chúng có thời gian sử dụng hữu ích khác nhau.
- TSCĐ vô hình
Là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do
doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ


4

hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô
hình.
TSCĐ vô hình gồm:
- Quyền sử dụng đất : Là bao gồm các chi phí thực tế đã chi ra có liên quan
trực tiếp tới đất sử dụng bao gồm : tiền chi ra để có quyền sử dụng đất ( cả tiền
thuế đất hay tiền sử dụng đất trả một lần nếu có, lệ phí trước bạ) nhưng không
bao gồm các chi phí chi ra để xây dựng các công trình trên đất.
Nguyên giá TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất có thời hạn khi được giao
đất hoặc số tiền trả khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp từ
người khác, hoặc giá trị quyền sử dụng đất nhận góp vốn liên doanh.
Trường hợp quyền sử dụng đất được chuyển nhượng cùng với mua nhà
cửa, vật kiến trúc trên đất thì giá trị của nhà cửa, vật kiến trúc phải được xác định
riêng biệt và ghi nhận là TSCĐ hữu hình.
- Chi phí nghiên cứu phát triển : Là toàn bộ các chi phí thực tế mà doanh
nghiệp đã chi ra để thực hiện các công tác nghiên cứu, thăm dò, xây dựng các
kế hoạch đầu tư dài hạn nhằm đem lại lợi ích đầu tư lâu dài cho doanh nghiệp.
- Bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả: Là toàn bộ các chi phí mà
doanh nghiệp đã chi ra cho các công trình nghiên cứu ( bao gồm chi phí thử
nghiệm, chi phí cho công tác kiểm nghiệm, nghiệm thu của nhà nước) được nhà
nước cấp bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả, bản quyền nhãn hiệu, mà
các chi phí này có tác dụng phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.

- Quyền khai thác : Là khoản chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để mua
đặc quyền thực hiện khai thác các nghiệp vụ quan trọng hoặc độc quyền sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm theo các hợp đồng đã ký với nhà nước hoặc một đơn vị
cùng với các chi phí liên quan đến việc tiếp nhận đặc quyền.
- Nhãn hiệu: Bao gồm các chi phí mà doanh nghiệp phải trả để có được
nhãn hiệu nào đó.


5

TSCĐ vô hình của doanh nghiệp, tuy không có hình thái cụ thể nhưng có thể
chứng minh sự tồ tại của chúng nhờ những vật hữu hình như: giấy chứng nhận,
giao kèo, hay các văn bản có liên quan.
Trên thực tế tài sản cố định vô hình có chiều hướng ngày càng gia tăng.
Nhưng việc đánh giá các tài sản cố định vô hình rất phức tạp. Đối với tài sản cố
định hữu hình thì có thể tha khảo giá trên thị trường một cách khách quan, trong
khi đó đối với tài sản cố định vô hình thường khó khăn hơn nhiều và thường
mang tính chủ quan. Cách phân loại này cho ta một cách tổng quát các hình thái
của tài sản cố định, từ đó có các biện pháp quản lý thích hợp.
b/ Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng gồm :
- TSCĐ đang sử dụng
Đây là những tài sản đang trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình
SXKD tạo ra sản phẩm. Trong doanh nghiệp, tỷ trọng TSCĐ đã đưa vào sử
dụng so với toàn bộ TSCĐ hiện có càng lớn thì hiệu quả sử dụng TSCĐ càng
cao.
- TSCĐ chưa sử dụng
Đây là những tài sản do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan chưa
thể đưa vào sử dụng như : tài sản dự trữ, tài sản mua sắm, xây dựng thiết kế
chưa đồng bộ, tài sản trong giai đoạn lắp ráp chạy thử .
- TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý

Đây là những tài sản hư hỏng không sử dụng được hay còn sử dụng được
nhưng lạc hậu về mặt kĩ thuật đang chờ đợi để giải quyết. Như vậy có thể thấy
rằng cách phân loại này giúp người quản lý tổng quát tình hình về khả năng sử
dụng tài sản, thực trạng tài sản trong doanh nghiệp.
c/ Phân loại tài cố định sản theo tính chất công dụng kinh tế
- Tài sản cố định dùng trong sản xuất : Là những tài sản cố định do doanh
nghiệp sử dụng nhằm phục trực tiếp cho hoạt động sản xuất của mình. Loại này
bao gồm nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị động lực, truyền dẫn, máy móc sản xuất.


6

- Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất : Là các tài sản sản dùng cho hoạt
động phù trợ của doanh nghiệp và những tài sản không mang tính chất sản xuất.
Bao gồm: Nhà cửa và các thiết bị tiếp khách, các công trình phúc lợi và tài sản
cố định cho thuê.
Phân loại tài sản cố định theo công dụng kinh tế sẽ giúp người quản lý
thấy được kết cấu tài sản , nắm được trình độ trang bị kỹ thuật của đơn vị, từ đó
có các giả pháp hợp lý trong công tác quản lý tài sản cố định tài sản cố định. Vì
thế phương pháp này được thực hiện rộng rãi trong công tác quản lý tài chính.
Tuy vậy thì phương pháp này chưa phản ánh dược tình hình sử dụng tài sản cố
định của đơn vị.
Bên cạnh các cách phân loại trên, người ta còn phân loại theo kết cấu tài
sản cố định. Kết cấu tài sản cố định là tỷ trọng về nguyên giá của một loại tài
sản cố định nào đó trong tông nguyên giá tài sản cố định.
Kết cấu tài sản cố định giữa các ngành sản xuất hay ngay giữa các doanh
nghiệp trong một ngành không giống nhau. Sự khác nhau hay sự biến động về
kết cấu tài sản cố định của mỗi doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ tuỳ thuộc vào
các nhân tố sau: Khả nưng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, khả năng thu hút
vốn đầu tư, phương hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh, trình độ trang bị kỹ

thuật, quy mô sản xuất… Ở các nước có nề kinh tế thị trường dã phát triển
thường có thông tin chuẩn xác về kết cấu tài sản cố định trong từng ngành.dựa
vào đó các doanh nghiệp có thể điều chỉnh kết cấu tài sản cố định của đơn vị
mình Cổ phần Xây Lắp Điện I phù hợp nhằm phát huy tối đa công dụng của tài
sản cố định.
Việc phân loại tài sản cố định và phân tích tình hình kết cấu của chúng là
một căn cứ quan trọng để xem xét quyết định đầu tư cũng như giúp cho việc
tính toán chính xác khấu hao tài sản cố định và điều chỉnh nguồn vốn thích hợp
trong doanh nghiệp.
Nói chung tuỳ theo yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp, doanh nghiệp
tự phân loại chi tiết hơn TSCĐ của theo từng nhóm cho phù hợp .
d/. Phân loại tài sản cố định theo nguồn.
- Tài sản cố định tự có


7

+ TSCĐ hữu hình mua sắm
Nguyên giá TSCĐ hữu hình mua sắm bao gồm giá mua (trừ (-) các khoản
được chiết khấu thương mại hoặc giảm giá), các khoản thuế (không bao gồm các
khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản
vào trạng thái sẵn sàng sử dụng, như: Chi phí chuẩn bị mặt bằng; Chi phí vận
chuyển và bốc xếp ban đầu; Chi phí lắp đặt, chạy thử (trừ (-) các khoản thu hồi
về sản phẩm, phế liệu do chạy thử); Chi phí chuyên gia và các chi phí liên quan
trực tiếp khác.
Đối với TSCĐ hữu hình hình thành do đầu tư xây dựng theo phương thức
giao thầu, nguyên giá là giá quyết toán công trình đầu tư xây dựng, các chi phí
liên quan trực tiếp khác và lệ phí trước bạ (nếu có).
Trường hợp mua TSCĐ hữu hình là nhà cửa, vật kiến trúc gắn liền với
quyền sử dụng đất thì giá trị quyền sử dụng đất phải được xác định riêng biệt và

ghi nhận là TSCĐ vô hình.
Trường hợp TSCĐ hữu hình mua sắm được thanh toán theo phương thức
trả chậm, nguyên giá TSCĐ đó được phản ánh theo giá mua trả ngay tại thời
điểm mua. Khoản chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán và giá mua trả
ngay được hạch toán vào chi phí theo kỳ hạn thanh toán, trừ khi số chênh lệch đó
được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình (vốn hóa) theo quy định của chuẩn
mực kế toán “Chi phí đi vay”.
Các khoản chi phí phát sinh, như: Chi phí quản lý hành chính, chi phí sản
xuất chung, chi phí chạy thử và các chi phí khác... nếu không liên quan trực tiếp
đến việc mua sắm và đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng thì không được
tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình. Các khoản lỗ ban đầu do máy móc không
hoạt động đúng như dự tính được hạch toán vào chi phí sản xuất, kinh doanh
trong kỳ.
+ TSCĐ hữu hình tự xây dựng hoặc tự chế
Nguyên giá TSCĐ hữu hình tự xây dựng hoặc tự chế là giá thành thực tế
của TSCĐ tự xây dựng, hoặc tự chế cộng (+) chi phí lắp đặt, chạy thử. Trường
hợp doanh nghiệp dùng sản phẩm do mình sản xuất ra để chuyển thành TSCĐ thì
nguyên giá là chi phí sản xuất sản phẩm đó cộng (+) các chi phí trực tiếp liên


8

quan đến việc đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Trong các trường hợp
trên, mọi khoản lãi nội bộ không được tính vào nguyên giá của các tài sản đó.
Các chi phí không hợp lý, như nguyên liệu, vật liệu lãng phí, lao động hoặc các
khoản chi phí khác sử dụng vượt quá mức bình thường trong quá trình tự xây
dựng hoặc tự chế không được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình.
- Tài sản cố định thuê tài chính
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua
việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác

trên cơ sở hợp đồng giữa bên thuê và bên cho thuê. Bên cho thuê cam kết mua
máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu
của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng
tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã thoả thuận. Khi
kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục
thuê..
I.1.4. Vai trò của Tài sản cố định.
Tài sản cố định (TSCĐ) là một trong những bộ phận cơ bản tạo nên cơ sở
vật chất kĩ thuật của nền kinh tế nói chung, đồng thời là một bộ phận quan trọng
nhất và cơ bản của vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. TSCĐ là yếu tố quyết
định đến năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong
nền cơ chế thị trường khi khoa học kĩ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
thì TSCĐ là yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh đối với các doanh nghiệp,
doanh nghiệp nào sử dụng TSCĐ có trình độ khoa học kĩ thuật cao, công nghệ
càng hiện đại thì càng có điều kiện thành công trong hoạt sản xuất kinh doanh.
Vì vậy vấn đề quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ là một yêu cầu cần
thiết đối với mọi doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho việc sử dụng một cách
đầy đủ, hợp lý công suất TSCĐ.
Trong nhiều doanh nghiệp, nhất là trong các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, Tài sản cố định có một vị trí vô cùng


9

quan trọng, là phương tiện chính giúp doanh nghiệp thực hiện chức năng của
mình. Bởi trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp có nhiều công đoạn đòi hỏi
bắt buộc phải có các phương tiện máy móc hay vận tải tham gia do yêu cầu về
độ chính xác cao, hay do công việc vượt quá khả năng sinh lý của con người.
Đối với những doanh nghiệp này, Tài sản cố định là một yếu tố quyết định tới
việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó bất kỳ có một sự biến động

nào về quy mô hay cơ cấu của Tài sản cố định cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả
sản xuất của doanh nghiệp.
I.2. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QỦA TSCĐ VÀ CÁCH XÁC ĐỊNH
I.2.1. Phân tích tình hình trang bị tài sản cố định:
a/ Phân tích biến động cơ cấu tài sản cố định:
Cơ cấu TSCĐ là mối quan hệ tỷ trọng từng loại TSCĐ trong toàn bộ
TSCĐ xét về mặt giá trị.
Phân tích cơ cấu TSCĐ là xem xét, đánh giá tính hợp lý về sự biến động
tỷ trọng của từng loại TSCĐ trên cơ sở đó có hướng đầu tư xây dựng TSCĐ một
cách hợp lý.
Xu hướng chung, cơ cấu TSCĐ biến động được đánh giá là hợp lý khi:
+ Xét trong mối quan hệ giữa TSCĐ đang dùng và TSCĐ chưa cần dùng,
không cần dùng và chờ thanh lý thì TSCĐ đang dùng chiếm tỷ trọng lớn và có
xu hướng tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn số tỷ trọng, TSCĐ chưa cần dùng,
không cần dùng, chờ thanh lý phải chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm cả
về số tuyệt đối lẫn số tỷ trọng.
+ Xét trong mối quan hệ giữa TSCĐ đang dùng vào sản xuất kinh doanh và
dùng ngoài sản xuất kinh doanh thì TSCĐ đang dùng vào sản xuất kinh doanh
chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn số tỷ trọng, còn
TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm
về số tỷ trọng.
+ Xét trong mối quan hệ giữa các loại TSCĐ dùng trong sản xuất: trong đó
TSCĐ dùng trong sản xuất bao gồm: nhà cửa vật kiến trúc, thiết bị sản xuất, thiết
bị động lực, hệ thống truyền dẫn, dụng cụ đo lường và dụng cụ làm việc, phương
tiện vận tải...Trong TSCĐ chung thì có loại trực tiếp tham gia sản xuất được gọi


10

là các phương tiện kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật bao gồm: thiết bị sản xuất,

thiết bị động lực, hệ thống truyền dẫn, dụng cụ đo lường và làm việc. Đối với đa
số các xí nghiệp công nghiệp máy móc thiết bị sản xuất phải chiếm tỷ trọng lớn
và có xu hướng tăng lên, có như vậy mới tăng được năng lực sản xuất của xí
nghiệp. Các loại TSCĐ khác phải tăng theo quan hệ cân đối với máy móc thiết bị
sản xuất.
+ Xét trong mối quan hệ giữa các loại TSCĐ dùng ngoài sản xuất, bao gồm:
TSCĐ bán hàng (tiêu thụ sản phẩm); TSCĐ quản lý chung.
• TSCĐ bán hàng: bao gồm các loại TSCĐ phục vụ cho quá trình
tiêu thụ sản phẩm, cụ thể là: kho chứa thành phẩm; hàng hóa, cửa hàng, phương
tiện vận tải, các công cụ; dụng cụ bán hàng, tiếp thị…
• TSCĐ quản lý là TSCĐ phục vụ cho hoạt động quản lý chung của
doanh nghiệp, cụ thể: văn phòng và phương tiện làm việc của các phòng ban
chức năng, dụng cụ, công cụ và các phương tiện kỹ thuật…
b/ Phân tích tình hình trang bị tài sản cố định:
Việc trang bị kỹ thuật cho lao động nhiều hay ít sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến năng suất lao động, đến khả năng tăng sản lượng. Để phân tích những vấn đề
này thường dùng các chỉ tiêu sau:

+ Hệ số trang bị chung TSCĐ phản ánh một công nhân sản xuất bình quân
được trang bị bao nhiêu đồng TSCĐ (nguyên giá hoặc giá trị còn lại). Hệ số càng
lớn chứng tỏ trang bị chung càng cao và ngược lại.


+ Hệ số trang bị kỹ thuật cho công nhân phản ánh một công nhân sản xuất
bình quân được trang bị bao nhiêu đồng của các phương tiện kỹ thuật (nguyên


11
Giá tr TSC
S CNSX bình quân

=
Hệ số trang bị chung TSCĐ
Hệ số trang bị kỹ thuật cho CN
Giá tr TSC (c a ph  ng ti n k thu t)
S CNSX bình quân
=

giá hoặc giá trị còn lại). Hệ số trang bị kỹ thuật càng lớn chứng tỏ tình hình trang
bị trực tiếp cho công nhân càng cao và ngược lại.
+ Xu hướng chung là tốc độ tăng của hệ số trang bị kỹ thuật phải nhanh hơn
tốc độ tăng của hệ số trang bị chung, có như vậy mới thực sự tăng được năng lực
sản xuất, tạo điều kiện tăng nhanh năng suất lao động.
Việc trang bị TSCĐ bán hàng nhiều hay ít có ảnh hưởng đến năng suất lao
động của công nhân viên bán hàng, đến khả năng tăng doanh thu tiêu thụ hàng
hoá. Do đó khi phân tích biến động của TSCĐ bán hàng phải được xem xét trong
mối quan hệ với năng suất lao động của nhân viên bán hàng và doanh thu tiêu
thụ.
Việc trang bị TSCĐ quản lý có ảnh hưởng đến năng suất lao động của các
nhân viên phòng ban nghiệp vụ, đến kết quả điều hành hoạt động chung của toàn
doanh nghiệp.
c/ Phân tích tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định:
Trong quá trình sử dụng, TSCĐ hao mòn dần đến một lúc nào đó sẽ
không còn sử dụng được nữa. Nhận biết, đánh giá đúng mức độ hao mòn TSCĐ,
xem xét TSCĐ còn mới hay cũ là vấn đề rất quan trọng nhằm đề ra những biện
pháp đúng đắn để tái sản xuất TSCĐ. Để nhận biết TSCĐ còn mới hay cũ cần
thiết phải phân tích tình trạng kỹ thuật của TSCĐ.
Chỉ tiêu dùng để phân tích: . Hệ số hao mòn TSCĐ
- Nếu hệ số hao mòn TSCĐ càng tiến dần về 1 chứng tỏ TSCĐ càng cũ và
doanh nghiệp chưa chú trọng đến việc đầu tư xây dựng, mua sắm mới TSCĐ,
hiện đại hoá TSCĐ.

- Nếu hệ số hao mòn TSCĐ càng tiến dần về 0, chứng tỏ TSCĐ được đổi
mới, doanh nghiệp có chú ý đầu tư xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị và
TSCĐ khác của doanh nghiệp.


12
Số đã khấu hao TSCĐ
Nguyên giá TSCĐ
0 < Hệ số hao mòn TSCĐ
=
< 1

I.2.3. Phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định:
a/ Phân tích hiệu suất sử dụng tài sản cố định:
Đối với kỹ thuật, thì chỉ tiêu số lượng là toàn bộ giá trị thiết bị máy móc,
chỉ tiêu chất lượng chính là hiệu suất của thiết bị máy móc. Như vậy chỉ tiêu
tổng hợp phản ánh chung tình hình sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp là chỉ tiêu
hiệu suất sử dụng TSCĐ.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ biểu hiện 1 đồng giá trị đã sử dụng bình quân
của TSCĐ tham gia vào quá trình sản xuất đem lại bao nhiêu đồng giá trị sản
lượng. Hiệu suất càng cao chứng tỏ chất lượng công tác quản lý và sử dụng
TSCĐ ở doanh nghiệp càng nhiều tiến bộ và ngược lại.

b/ Phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định .
- Phân tích tình hình sử dụng thời gian làm việc của MMTB:
Sử dụng tốt thời gian của máy móc thiết bị là vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa
lớn trong việc tăng khối lượng sản phẩm sản xuất, tăng khối lượng công việc
hoàn thành. Bởi vì trong điều kiện vốn đầu tư còn hạn hẹp với số lượng máy
móc thiết bị và công suất nhất định nếu sử dụng triệt để thời gian của máy móc
sẽ nâng cao kết quả sản xuất của doanh nghiệp. Vì thế cần thiết phải đánh giá,

phân tích tình hình sử dụng thời gian của máy móc thiết bị để có biện pháp sử
dụng có hiệu quả.
Trong doanh nghiệp có nhiều loại máy móc thiết bị khác nhau, tùy theo
đặc điểm, loại hình doanh nghiệp, tùy theo đặc tính kỹ thuật của từng loại máy
móc thiết bị mà chỉ tiêu dùng để phân tích sẽ khác nhau.
Ta sử dụng các chỉ tiêu sau:


13
 s gi máy làm vi c theo ch  
s gi máy làm vi c theo l chΣ ố ờ ệ ị
=
Hệ số giữa giờ máy làm việc theo chế
độ và giờ máy làm việc theo lịch
Hi u su t s d ng TSC
=
Giá tr s n l  ng
Nguyên giá bình quân TSC

Trong đó:
+ Tổng số giờ máy theo lịch: là thời gian tính theo dương lịch (T1).
+ Tổng số giờ máy nghỉ theo chế độ: là số giờ máy nghỉ vào ngày lễ, chủ nhật,
nghỉ ngoài ca theo quy định (T2).
+ Tổng số giờ máy theo chế độ (T3): T3= T1- T2.
+ Tổng số giờ máy nghỉ thực tế: là tổng số giờ máy nghỉ để sửa chữa lớn thực tế,
nghỉ vì lý do cúp điện, thiếu nguyên vật liệu…(T4).
+ Tổng số giờ máy làm thêm: là số giờ máy làm thêm vào ngày lễ, ngày chủ
nhật, làm thêm ngoài ca theo quy định (T5).
+ Tổng số giờ máy làm có hiệu lực thực tế (T6): T6= T3+ T5– T4.
• Hệ số giữa giờ máy theo chế độ và giờ máy theo lịch phản ánh tình hình tăng

ca để tăng thêm thời gian làm việc của máy móc thiết bị, bởi vì thời gian nghỉ
vào lễ và chủ nhật cố định, nếu doanh nghiệp tăng ca thì thời gian làm việc theo
chế độ tăng lên và hệ số giữa giờ máy theo chế độ và giờ máy theo lịch cũng
tăng. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển nhanh thì đây là biện pháp
giảm hao mòn vô hình TSCĐ.
• Hệ số sử dụng thời gian chế độ phản ánh tình hình tận dụng quỹ thời gian chế
độ. Nếu chỉ tiêu này tăng lên do doanh nghiệp giảm thời gian ngừng máy vì thiếu
điện, thiếu nguyên vật liệu, do máy hỏng… thì đánh giá tích cực, ngược lại tăng
lên do tận dụng, bố trí thêm giờ, thêm ca cho công nhân vào ngày lễ và chủ nhật
là biểu hiện không tốt. Nếu chỉ tiêu này giảm chứng tỏ thời gian ngừng máy tăng
là biểu hiện không tốt cần tìm biện pháp khắc phục.
- Phân tích tình hình sử dụng năng lực của MMTB:
Tận dụng tối đa, năng lực của máy móc thiết bị là một biện pháp quan trọng khác
để nâng cao sản lượng, tăng khối lượng công việc hoàn thành và hạ giá thành sản


14
s gi máy làm vi c có hi u l cΣ ố ờ ệ ệ ự
s gi máy làm vi c theo ch Σ ố ờ ệ ế độ
=
Hệ số sử dụng thời gian chế độ

phẩm, vì thế cần phải phân tích tình hình sử dụng năng lực của máy móc, thiết bị
để đánh giá trình độ sử dụng máy móc thiết bị của doanh nghiệp.
Tùy theo đặc điểm tính chất sản xuất của ngành và đặc tính kỹ thuật của từng
loại
TSCĐ ta sử dụng chỉ tiêu phân tích thích hợp.
Đối với các loại công cụ:
I.2.4.Phân tích hiệu quả sử dụngTSCĐ.
Để phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ ta sử dụng hai chỉ tiêu sau:

I.2.5. Phương hướng cải thiện các chỉ tiêu đánh giá.
Cải tiến tình hình sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan
trọng. Trước hết cải tiến tình hình sử dụng TSCĐ có thể khiến cho cùng một
máy móc thiết bị như nhau, nhưng phục vụ cho khối lượng công việc lớn hơn, từ
đó mà có thể tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Ngoài ra cải tiến tình hình sử
dụng TSCĐ còn có thể hạ thấp được giá thành sản phẩm và chi phí lưu thông.
Phương hướng cải tiến tình hình sử dụng TSCĐ nói chung bao gồm các mặt sau
đây:


15
S n l  ng bình quân 1 gi
máy
=
S n l  ng trong k
S gi làm vi c trong k c a MMTB
Sức sản xuất của TSCĐ
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Doanh thu thuần
=
Sức sinh lời của TSCĐ
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Lợi nhuận trước thuế
=

Về tỷ trọng các nhóm Tài sản cố định
- Trong điều kiện đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường, cần
ra sức giảm bớt tỷ trọng TSCĐ không dùng trong sản xuất kinh doanh, thanh lý
những TSCĐ không cần dùng, giảm bớt TSCĐ chưa sử dụng, dự trữ, khiến cho
số TSCĐ hiện có phát huy hết tác dụng của nó.

- Triệt để sử dụng diện tích hiện có của nhà cửa, vật kiến trúc, giảm bớt
diện tích dùng vào quản lý hành chính và các bộ phận phục vụ khác để tương
ứng mở rộng diện tích sản xuất kinh doanh, bố trí máy móc thiết bị hợp lý để
giảm bớt diện tích chiếm dùng, tăng thêm thiết bị vận chuyển trên không, điều
chỉnh hợp lý số lượng và chiều rộng thường đi lại dưới đất… tất cả các biện pháp
đó đều khiến cho doanh nghiệp không cần phải tăng thêm nhà cửa, vật kiến trúc
mà vẫn có thể tăng thêm diện tích sản xuất kinh doanh, tăng thêm thiết bị sản
xuất.
Cải tiến tình hình sử dụng thiết bị sản xuất: Đây là khâu cơ bản có tính chất
quyết định trong việc cải tiến tình hình sử dụng toàn bộ TSCĐ.
Muốn cải tiến tình hình sử dụng thiết bị sản xuất phải từ hai mặt sau:
- Tăng thêm thời gian sử dụng thiết bị sản xuất. Ở đây then chốt
là tăng thêm thời gian làm việc thực tế của nó. Biện pháp thực tế chủ yếu là:
nâng cao hiệu suất và chất lượng sửa chữa, thực hiện chế độ làm việc hai hoặc ba
ca trong ngày, khắc phục tính chất thời vụ trong sản xuất, đảm bảo thiết bị sản
xuất làm việc đều đặn trong cả năm.
- Nâng cao năng lực sử dụng thiết bị sản xuất. Ở đây then chốt là
tăng cường độ sử dụng trong mỗi đơn vị thời gian và hiệu suất sản xuất khi làm
việc của thiết bị. Biện pháp chủ yếu là áp dụng những biện pháp kỹ thuật mới và
cải tiến quy trình công nghệ, tổ chức sản xuất theo lối dây chuyền và chuyên
môn hoá thiết bị sản xuất, cải tiến chất lượng nguyên vật liệu. Ngoài ra nâng cao
trình độ kỹ thuật của công nhân và áp dụng phổ biến những kinh nghiệm tiên
tiến cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Cả hai mặt: tăng thêm thời gian sử dụng và
nâng cao năng lực sử dụng của thiết bị sản xuất đều coi trọng như nhau. Bởi vì,
nếu xem nhẹ bất cứ mặt nào cũng sẽ đưa đến tình trạng sử dụng thiết bị sản xuất
không tốt, không đầy đủ.


16


Lập kế hoạch đầu tư, mua sắm, tăng, giảm và khấu hao tài sản cố định hàng
năm
Căn cứ vào kế hoạch và nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh của năm, Công ty
phải lập kế hoạch đầu tư, mua sắm, đổi mới, tăng, giảm và khấu hao tài sản cố
định. Kế hoạch này phải xác định rõ các nguồn vốn đầu tư tài sản cố định, xác
định danh mục, số lượng, giá trị từng thứ tài sản cố định tăng, giảm trong năm,
phân tích cụ thể tài sản cố định do Công ty đầu tư, mua sắm hoặc điều chuyển.
Công ty căn cứ vào đặc điểm, tính chất mỗi đối tượng tài sản cố định hiện có và
tăng, giảm trong năm để lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp với từng loại
tài sản cố định: phương pháp khấu hao đường thẳng; phương pháp khấu hao theo
số từ giảm dần có điều chỉnh; phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng
sản phẩm.Đi đôi với kế hoạch khấu hao tài sản cố định, Công ty cần lập kế
hoạch sửa chữa lớn định kỳ và kế hoạch duy tu, bảo dưỡng thường xuyên tài sản
cố định.
Cải thiện hơn nữa quy chế quản lý, sử dụng tài sản cố định .
Quy chế này phải quy định một cách rành mạch, cụ thể nhiệm vụ, trách
nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận và từng cá nhân có liên quan trong việc quản
lý, sử dụng tài sản cố định. Từ việc đầu tư, mua sắm đến việc khấu hao, sửa chữa
lớn, sửa chữa thường xuyên, trách nhiệm vật chất, chế độ thưởng, phạt trong việc
quản lý, sử dụng tài sản cố định. Quy chế quản lý, sử dụng tài sản cố định của
Công ty cần quy định chi tiết việc phân loại tài sản cố định hữu hình, tài sản cố
định vô hình, tài sản cố định thuê tài chính; nguyên tắc xác định nguyên giá tài
sản cố định; nguyên tắc và phương pháp khấu hao tài sản cố định; nguyên tắc
mua sắm, thanh lý, nhượng bán, thế chấp, cầm cố, trao đổi tài sản cố định; chế
độ kiểm kê, kiểm soát và tổ chức sổ sách, hồ sơ quản lý tài sản cố định một cách
an toàn và có hiệu quả cao.
Phải định kỳ phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản cố định .
Cuối mỗi quý và năm, mỗi Công ty cần kiểm điểm, phân tích, đánh giá tình
hình thực hiện quy chế quản lý, sử dụng tài sản cố định, nhằm phát huy những



17

điểm mạnh, việc làm tốt; khắc phục những điểm yếu kém, sửa chữa những sai
sót trong quản lý và sử dụng, đó là biện pháp thiết thực nhất, có hiệu quả nhất để
tăng cường việc quản lý và sử dụng tài sản cố định. Khi phân tích, đánh giá hiệu
quả sử dụng tài sản cố định, mỗi Công ty cần so sánh các chỉ tiêu hiệu quả trong
kỳ báo cáo với kỳ báo cáo trước để biết được động thái sử dụng tài sản cố định.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định là tỉ suất giữa doanh thu thuần trong kỳ với
nguyên giá bình quân trong kỳ của tài sản cố định. Tỷ suất này phản ánh 1 đồng
nguyên giá tài sản cố định làm ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Tỷ suất này
càng lớn hơn 1 càng tốt. Hoặc, hiệu suất sử dụng vốn cố định bình quân trong kỳ
của tài sản cố định là tỷ suất giữa doanh thu thuần trong kỳ với số dư bình quân
vốn cố định trong kỳ. Tỷ suất này phản ánh 1 đồng vốn cố định bình quân trong
kỳ làm ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Hoặc, hiệu suất sử dụng vốn cố định
trong kỳ là tỷ suất giữa lợi nhuận thuần trong kỳ với số dư bình quân vốn cố định
trong kỳ. Tỷ suất này phản ánh 1 đồng vốn cố định bình quân trong kỳ làm ra
Bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Mỗi DN tiến hành việc phân tích, đánh giá tình
hình quản lý, sử dụng tài sản cố định một cách đều đặn theo định kỳ, chắc chắn
sẽ rút ra nhiều điều bổ ích. Các biện pháp nêu trên có mối quan hệ hữu cơ, Công
ty cần tiến hành đồng bộ, liên tục mới phát huy được tác dụng tăng cường quản
lý, sử dụng tài sản cố định của Công ty .


18

Phần II
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TSCĐ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
XÂY LẮP ĐIỆN I
II.1 KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY LẮP ĐIỆN I

II.1.1Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Công ty cổ phần Xây Lắp Điện I được ra đời từ năm 1996 thuộc bộ công
nghiệp, đến ngày10/11/1988 Công ty Xây Lắp Điện I được thành lập do sự hợp
nhất giữa hai Công ty : Công ty Xây lắp đường dây và Trạm I với Công ty xây
lắp đương dây và Trạm khu vực Hà Nội với tên giao dịch quốc tế là Power
Construction Company I viết tắt là PCCI. Đến ngày 19/6/1993 Công ty Xây Lắp
Điện I được thành lập theo quyết định số 346-NL/TCCBBLD (Tổ chức cán bộ
liên doanh ) trực thuộc bộ năng lượng. Ngày 21/7/1995 Chính Phủ ban hành nghị
định số 14/CP về việc thành lập Tổng Công ty điện lực Việt Nam hoạt động theo
mô hình Tổng Công ty 91 với nhiều thành viên thực hiện theo chế độ hạch toán
-->